ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN 
************* 
 
 
HOÀNG THỊ HẢI YẾN 
 
 
TRAO ĐỔI THÔNG TIN TRÊN MẠNG XÃ HỘI CỦA 
GIỚI TRẺ VIỆT NAM TỪ NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2011 – 
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 
 (KHẢO SÁT MẠNG FACEBOOK, ZING ME VÀ GO.VN) 
 
 
 
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC BÁO CHÍ 
Chuyên ngành: Báo chí học 
 
 
 
 
HÀ NỘI – 2012 
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN 
************* 
 
HOÀNG THỊ HẢI YẾN 
 
 
TRAO ĐỔI THÔNG TIN TRÊN MẠNG XÃ HỘI CỦA 
GIỚI TRẺ VIỆT NAM TỪ NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2011 – 
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 
(KHẢO SÁT MẠNG FACEBOOK, ZING ME, GO.VN)  
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC BÁO CHÍ 
Chuyên ngành: Báo chí học 
Mã số: 60.32.01   
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN THỊ MINH THÁI    
HÀ NỘI – 2012 
MỤC LỤC  
MỞ ĐẦU 1 
1.Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài 1 
2.Lịch sử nghiên cứu đề tài 2 
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4 
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4 
5.Phương pháp nghiên cứu 5 
6.Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn 5 
7. Bố cục Luận văn 6 
Chương 1: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ MẠNG XÃ HỘI VÀ CÔNG CHÚNG 
SỬ DỤNG 7 
1.1.Một số khái niệm Error! Bookmark not defined. 
1.1.1. Khái niệm Xã hội và Mạng xã hội Error! Bookmark not defined. 
1.1.2. Khái niệm Trao đổi thông tin 9 
1.2.Sự ra đời và phát triển Mạng xã hội 9 
1.2.1.Trên thế giới 9 
1.2.2.Tại Việt Nam 12 
1.3.Một số đặc điểm và tính năng của Mạng xã hội…………………………… 16 
1.3.1.Đặc điểm Mạng xã hội 16 
1.3.2.Một số tính năng chính của Mạng xã hội 17 
1.4.Các loại Mạng xã hội phổ biến 20 
1.4.1.Cá nhân làm trung tâm 20 
1.4.2.Mối quan hệ làm trung tâm…………………………………… 20 
1.4.3.Nội dung làm trung tâm 20 
1.5.Mối quan hệ giữa Mạng xã hội và báo chí 20 
1.6.Nhu cầu trao đổi của giới trẻ Việt Nam trên Mạng xã hội 24 
Tiểu kết chương 1 29 
Chương 2: THỰC TRẠNG TRAO ĐỔI THÔNG TIN CỦA GIỚI TRẺ VIỆT 
NAM TRÊN MẠNG XÃ HỘI TỪ NĂM 2010 – 2011 (KHẢO SÁT FACEBOOK, 
ZING ME VÀ GO.VN) 31 
2.1.Giới thiệu chung về Mạng xã hội Facebook, Zing Me và Go.vn 31 
2.1.1.Mạng xã hội Facebook 31 
2.1.2.Mạng xã hội Zing Me 40 
2.1.3.Mạng xã hội Go.vn 47 
2.2.Khảo sát nhu cầu trao đổi thông tin của giới trẻ Việt Nam trên ba Mạng xã hội 
Facebook, Zing Me và Go.vn 54 
2.2.1.Phạm vi, đối tượng khảo sát (điều tra xã hội học) 54 
2.2.2.Phân tích kết quả khảo sát 55 
Tiểu kết chương 2 74 
Chương 3: KINH NGHIỆM, GIẢI PHÁP VÀ MÔ HÌNH QUẢN LÝ GIỚI 
TRẺ VIỆT NAM SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI 75 
3.1.Những mặt tích cực và tiêu cực khi giới trẻ sử dụng Mạng xã hội 75 
3.1.1.Mặt tích cực 75 
3.1.2.Mặt tiêu cực 86 
3.2.Vấn đề quản lý Mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay 100 
3.3.Đề xuất một số giải pháp……………… 102 
3.3.1.Giải pháp về chính sách 102 
3.3.2.Giải pháp với các nhà quản lý Mạng xã hội 104 
3.3.3.Giải pháp về truyền thông 106 
3.3.4.Giải pháp về giáo dục 110 
Tiểu kết chương 3 111 
KẾT LUẬN 113 
TÀI LIỆU THAM KHẢO …… 116 
PHỤ LỤC … 126   
1 
MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài 
Ngày nay trong thời đại công nghệ kỹ thuật số và khi mà thế giới ngày càng 
trở nên “phẳng” (toàn cầu hóa), nhu cầu trao đổi thông tin của con người ngày càng 
cao và khoảng cách giữa con người được rút ngắn lại nhờ những phát minh, thành 
tựu của khoa học công nghệ. Trong bối cảnh đó, Mạng xã hội đã ra đời và không 
ngừng phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu trao đổi thông tin, kết nối của con người, 
đặc biệt là giới trẻ. 
Trên thế giới, Mạng xã hội đã manh nha xuất hiện và phát triển từ sớm, nở rộ 
nhất là đầu những năm thế kỷ XXI, ở Việt Nam phải đến cuối những năm thập niên 
đầu thế kỷ XXI đến những năm đầu thập niên thứ 2 thế kỷ XXI, Mạng xã hội mới 
xuất hiện và phát triển. Ngoài những Mạng xã hội của nước ngoài du nhập vào Việt 
Nam được Việt hóa, thì Việt Nam cũng đã có những mạng dành riêng cho người 
Việt như Tamtay.vn, Clip.vn, Yobanbe.com… Với những tiềm năng dồi dào của nó, 
đến nay, trên thế giới tồn tại hàng trăm Mạng xã hội. Nhiều doanh nghiệp, các hãng 
truyền thông cũng đã tận dụng khả năng lan tỏa thông tin của Mạng xã hội để phục 
vụ cho mục đích quảng bá hoặc đưa tin. 
Giới trẻ là thế hệ nắm bắt nhanh và biết tận dụng sức mạnh của công nghệ. 
Do đó, việc sử dụng Mạng xã hội để trao đổi thông tin và kết nối gần như trở thành 
một nhu cầu thiết yếu, một trào lưu của giới trẻ. Nhiều số liệu điều tra trên thế giới 
và ở Việt Nam cho thấy đa số lượt truy cập và sử dụng Mạng xã hội nằm ở độ tuổi 
còn trẻ. Họ sử dụng Mạng xã hội chủ yếu vào việc trao đổi thông tin cá nhân, kết 
bạn, chia sẻ hình ảnh, chơi game giải trí… cập nhật tất cả những vấn đề, sự kiện họ 
quan tâm và xảy ra trong cuộc sống hàng ngày của họ. 
Tuy nhiên, việc Mạng xã hội đáp ứng một cách nhanh chóng nhu cầu trao 
đổi thông tin, chia sẻ của giới trẻ cũng ẩn chứa những nguy cơ, mối đe dọa đến đời 
sống của chính những người sử dụng Mạng xã hội như việc lộ bí mật đời tư, thông 
tin không được kiểm soát chặt chẽ, những kẻ xấu lợi dụng lan truyền “tin tặc”…  
2 
Nhiều bạn trẻ không ý thức được các mặt trái của nó. Điều đó gây đau đầu cho những 
nhà quản lý và cho cả những bậc làm cha làm mẹ. 
Với những lý do trên, tác giả Luận văn quyết định lựa chọn đề tài “Trao đổi 
thông tin trên Mạng xã hội của giới trẻ Việt Nam từ năm 2010 đến năm 2011 – 
Thực trạng và giải pháp” thông qua kết quả khảo sát ba trang mạng Facebook, 
Zing Me và Go.vn làm Luận văn tốt nghiệp chương trình Thạc sĩ Báo chí của mình. 
Đây là một vấn đề “nóng” trong xã hội hiện đại nhưng chưa thực sự được nghiên 
cứu sâu. 
Chúng tôi chọn khảo sát 3 trang Mạng Facebook, Zing Me và Go.vn với lý 
do: Facebook là trang mạng nước ngoài nổi tiếng trên giới, đang dẫn đầu với số 
người hơn 845 triệu thành viên (năm 2012). Phiên bản tiếng Việt của Facebook 
cũng được giới trẻ Việt Nam sử dụng khá phổ biến, luôn nằm trong top 5 những 
trang Mạng xã hội có người dùng nhiều nhất tại Việt Nam. 
Bên cạnh Mạng Facebook, Zing Me (trực thuộc Vinagame) và Go.vn (Trực 
thuộc VTC) là hai trang Mạng xã hội nội địa tiêu biểu của Việt Nam. Trong đó, 
Go.vn hiện đang dẫn đầu các trang Mạng xã hội Việt Nam về số người dùng với 12 
triệu thành viên còn Zing Me từng được xem là Mạng xã hội quyền lực nhất Việt 
Nam có 7,4 triệu thành viên (năm 2012). Điểm đáng chú ý, cả 3 trang Mạng xã hội 
trên đều thu hút đông đảo đối tượng chính là giới trẻ tham gia và trao đổi thông tin. 
Khảo sát 3 trang Mạng xã hội này sẽ giúp chúng ta làm sáng tỏ được các nội 
dung: Thực tế sử dụng Mạng xã hội của giới trẻ Việt Nam hiện nay như thế nào, tại 
sao Mạng xã hội lại được giới trẻ quan tâm như vậy, Mạng xã hội nước ngoài du 
nhập vào Việt Nam gây ảnh hưởng như thế nào đến giới trẻ… Từ đó nêu kinh 
nghiệm, giải pháp quản lý và định hướng giới trẻ sử dụng Mạng xã hội. 
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài 
Trên thế giới, Mạng xã hội đã được các nhà nghiên cứu, nhà báo, các chuyên 
gia trong lĩnh vực truyền thông phân tích, tìm hiểu khá tỉ mỉ về những khía cạnh 
liên quan đến sự phát triển của Mạng xã hội, nhu cầu trao đổi thông tin của con  
3 
người trên Mạng xã hội nên khá thuận lợi cho người viết tìm những vấn đề lý thuyết 
chung về Mạng xã hội. 
Ở Việt Nam, từ khi Mạng xã hội xuất hiện và phát triển trong vòng 5 năm trở 
lại đây, đã có khá nhiều bài báo quan tâm và viết về lĩnh vực này. Bên cạnh đó, 
cũng có một số tác giả nghiên cứu về Mạng xã hội là các nhà báo, giảng viên… Tuy 
nhiên, các nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở mức độ khái quát. Ở mức độ chuyên 
sâu hơn thì cho đến nay đã có một số Luận văn, Khóa luận đề cập đến Mạng xã hội 
và blog (một loại hình của Mạng xã hội). Ví dụ: Khóa luận tốt nghiệp của sinh viên 
Nguyễn Thị Thu Hương (K48 – Khoa Báo chí, ĐH Quốc gia Hà Nội) với đề tài 
“Blog – Dưới góc nhìn báo chí”; Khóa luận tốt nghiệp của sinh viên Vũ Thị Thúy 
(K48 – Khoa Báo chí, ĐH Quốc Gia Hà Nội) với đề tài “Blog và nhu cầu được 
“làm truyền thông” của giới trẻ Việt Nam hiện nay”; Khóa luận tốt nghiệp của sinh 
viên Nguyễn Thị Xuân Quỳnh (K48 – Khoa Báo chí, ĐH Quốc gia Hà Nội) với đề 
tài “Bước đầu tìm hiểu loại hình báo chí công dân”; Khóa luận tốt nghiệp của sinh 
viên Lê Thu Quỳnh (K48 – Khoa Báo chí, ĐH Quốc gia Hà Nội) với đề tài “Trào 
lưu Mạng xã hội tại Việt Nam”; Đề án tốt nghiệp (năm 2009) của 3 sinh viên Vy 
Tiến Đạt, Trần Minh Mạnh, Nguyễn Anh Hùng (Trường ĐH Công nghiệp 
TP.HCM) với đề tài “Nghiên cứu Mạng xã hội, ứng dụng xây dựng một Mạng xã 
hội ở Việt Nam”; Khóa luận của sinh viên Lê Thị Minh Trà (K49 – Khoa Báo chí, 
ĐH Quốc gia Hà Nội) với đề tài “Một số tác động của blog đến báo chí Việt Nam”; 
Khóa luận của sinh viên Ngô Lan Hương (K51 – Khoa Báo chí, ĐH Quốc gia Hà 
Nội) với đề tài “Mạng xã hội với việc truyền tải thông tin trong lĩnh vực văn hóa-
giải trí”; Luận văn của học viên Lê Minh Thanh (K11 – Khoa Báo chí, ĐH Quốc 
gia Hà Nội) với đề tài “Truyền thông cá nhân trong xu thế bùng nổ thông tin hiện 
nay”… Các Khóa luận và Luận văn này đã có những kết quả nhất định, tuy nhiên 
chủ yếu khai thác đề tài về truyền thông cá nhân, chưa có một đề tài nào đi sâu 
nghiên cứu nhu cầu trao đổi thông tin của giới trẻ Việt Nam trên Mạng xã hội. 
Như vậy, chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu “Trao đổi thông tin trên 
Mạng xã hội của giới trẻ Việt Nam từ năm 2010 đến năm 2011 – Thực trạng và giải  
4 
pháp” với tư cách là công trình đề cập khái quát và đầy đủ nhất về vấn đề này. 
Trong suốt quá trình nghiên cứu, chúng tôi cố gắng kế thừa những ý tưởng khai phá 
của các tác giả đi trước cùng với những vấn đề mới nảy sinh trong thực tế, phát triển 
theo logic khoa học của chúng tôi. 
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 
3.1. Mục đích nghiên cứu 
- Tìm hiểu nhu cầu trao đổi thông tin của giới trẻ Việt Nam trên Mạng xã hội 
để lý giải vì sao Mạng xã hội thu hút mạnh mẽ đến giới trẻ như vậy. 
- Chỉ ra những mặt tích cực và tiêu cực của Mạng xã hội tác động tới giới trẻ. 
- Đưa ra kinh nghiệm, đề xuất giải pháp quản lý và định hướng giới trẻ sử 
dụng Mạng xã hội. 
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 
- Làm rõ những vấn đề lý thuyết chung về Mạng xã hội 
- Khảo sát thông tin và người dùng ở 3 trang Mạng xã hội Facebook, Zing 
Me và Go.vn để phân tích và tìm hiểu nhu cầu trao đổi thông tin của giới trẻ Việt 
Nam trên Mạng xã hội. 
- Làm rõ một số nội dung thông tin mà giới trẻ Việt Nam quan tâm trên 
Mạng xã hội. 
- Chỉ ra được mặt tích cực và tiêu cực khi giới trẻ tham gia vào Mạng xã hội, 
từ đó đề xuất giải pháp và định hướng giới trẻ. 
4. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu 
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề trao đổi thông tin của giới trẻ Việt 
Nam trên Mạng xã hội. 
4.2. Phạm vi nghiên cứu 
- Một số Mạng xã hội trên thế giới và Việt Nam 
- Những thông tin người dùng nói chung và giới trẻ Việt Nam nói riêng trao 
đổi trên Mạng xã hội. 
- Khảo sát các thông tin và người dùng trên 3 trang Mạng xã hội Facebook, 
Zing me và Go.vn từ năm 2010 – năm 2011.  
5 
- Điều tra xã hội học 900 thành viên ngẫu nhiên đang sử dụng một trong 3 
trang Mạng xã hội trên trong độ tuổi 15-30 tuổi, mỗi trang 300 người. 
5. Phương pháp nghiên cứu 
5.1. Phương pháp chung 
Căn cứ vào chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ 
trương, đường lối, chính sách về báo chí của Đảng và Nhà nước. 
5.2. Phương pháp cụ thể 
Luận văn sử dụng những thao thác chủ yếu sau: 
+ Thống kê tình hình phát triển Mạng xã hội trên thế giới và ở Việt Nam, 
thực trạng sử dụng Mạng xã hội tại Việt Nam 
+ Thu thập thông tin về Mạng xã hội trên báo chí Việt Nam và một số tài liệu 
nước ngoài. 
+ Phân tích: Căn cứ vào những nguyên tắc và vấn đề chính, đi sâu tìm hiểu 
những chi tiết cụ thể về lý luận và thực tiễn xoay quanh chủ thể nghiên cứu. 
+ Tổng hợp: Trên cơ sở những thông tin về lý luận cũng như thực tiễn đã thu 
được, tập hợp để rút ra những ý chính, khái quát vấn đề. 
+ So sánh, đối chiếu để tìm ra những điểm tương đồng cũng như khác biệt 
giữa các nhân tố nghiên cứu. 
+ Khảo sát, điều tra xã hội học trên thực tế nhu cầu sử dụng và trao đổi thông 
tin của giới trẻ Việt Nam trên ba Mạng Facebook, Zing Me và Go.vn . 
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn 
6.1. Ý nghĩa khoa học 
- Góp phần hoàn chỉnh hệ thống lý luận về truyền thông trong xã hội hiện 
đại. 
- Khẳng định thêm về mặt lý luận vai trò của Mạng xã hội trong “Thế 
giới phẳng”. 
6.2. Ý nghĩa thực tiễn 
- Làm rõ tầm quan trọng của Mạng xã hội trong việc đáp ứng được nhu cầu 
trao đổi thông tin của giới trẻ.  
6 
- Đề xuất giải pháp quản lý thông tin và định hướng giới trẻ Việt Nam sử 
dụng Mạng xã hội. Từ đó, giúp các nhà lãnh đạo, quản lý tham khảo trong quá trình 
hoạch định chiến lược, giám sát và quản lý những trang thông tin điện tử cá nhân. 
6.3. Cái mới của Luận văn 
Theo tìm hiểu của chúng tôi, trước đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu 
sâu về vấn đề “Trao đổi thông tin trên Mạng xã hội của giới trẻ Việt Nam”. Đây có 
thể được xem là một hướng đi hoàn toàn mới, mang đến bức tranh khái quát về thực 
trạng sử dụng Mạng xã hội của công chúng nói chung và bộ phận giới trẻ Việt Nam 
nói riêng, góp phần vào việc nghiên cứu truyền thông đại chúng hiện nay. 
7. Bố cục Luận văn 
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Tài liệu tham khảo, phần nội dung chính 
của Luận văn được chia làm 3 chương cơ bản: 
Chương 1: Lý thuyết chung về Mạng xã hội và công chúng sử dụng 
Chương 2: Thực trạng trao đổi thông tin của giới trẻ Việt Nam trên Mạng xã 
hội từ năm 2010 – 2011 (khảo sát Facebook, Zing Me và Go.vn) 
Chương 3: Kinh nghiệm, giải pháp và mô hình quản lý giới trẻ Việt Nam 
sử dụng Mạng xã hội          
7 
Chương 1: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ MẠNG XÃ HỘI VÀ CÔNG 
CHÚNG SỬ DỤNG 
1.1. Một số khái niệm 
1.1.1. Khái niệm Xã hội và Mạng xã hội 
Theo Triết học Mác – Lê Nin: “Xã hội là hình thái vận động cao nhất của thế 
giới vật chất. Hình thái vận động này lấy con người và sự tác động lẫn nhau giữa 
người với người làm nền tảng. Xã hội biểu hiện tổng số những mối liên hệ và những 
quan hệ của các cá nhân, là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con 
người”. 
Mạng xã hội hay còn được gọi là Mạng xã hội ảo, Mạng xã hội trực tuyến. 
Tên gọi trong tiếng Anh: Social Network hay Virtual Network. Khái niệm Mạng xã 
hội là một khái niệm rộng lớn. Do đó, đã có rất nhiều tranh luận cũng như định 
nghĩa khác nhau về Mạng xã hội. Dưới đây là một số khái niệm theo các góc nhìn 
khác nhau: 
Theo Nguyễn Thị Lê Uyên
[109]
, Viện Nghiên cứu Phát triển TP.HCM, để 
hiểu được Mạng xã hội ảo là gì? Trước hết, cần làm rõ khái niệm mạng lưới xã hội. 
“Một cách chung nhất, có thể định nghĩa mạng lưới xã hội là một tập hợp các mối 
quan hệ giữa các thực thể xã hội gọi chung là các actor. Các thực thể xã hội này 
không nhất thiết chỉ là các cá nhân mà còn là các nhóm xã hội, các tổ chức, các 
thiết chế, các công ty xí nghiệp và cả các quốc gia.” Khi mạng lưới xã hội này được 
thiết lập và phát triển thông qua phương tiện truyền thông Internet, nó được hiểu là 
Mạng xã hội ảo. Hoặc đơn giản hơn, “Mạng xã hội ảo là một trang web mà nơi đó 
một người có thể kết nối với nhiều người thông qua chia sẻ những sở thích cá nhân, 
nơi ở, đặc điểm học vấn…” 
Theo Từ điển Bách khoa Online Wikipedia
[93]
: “Mạng xã hội (tên đầy đủ là 
Mạng xã hội trực tuyến) là một đại diện tiêu biểu của Web 2.0. Mạng xã hội tạo ra 
một hệ thống trên nền Internet cho phép người dùng chia sẻ thông tin một cách có 
hiệu quả, vượt ra ngoài những giới hạn về địa lý, xây dựng nên một mẫu định danh  
8 
trực tuyến nhằm phục vụ những yêu cầu công cộng chung và những giá trị của xã 
hội.” 
Ông Vũ Kiêm Văn, thành viên sáng lập mạng thehetre.vn định nghĩa đơn 
giản: “Mạng xã hội như một đồ thị trong đó các nút có thể là một cá thể hoặc là 
một tổ chức, còn các liên kết là mô phỏng các quan hệ trong xã hội thực. Mạng xã 
hội khác rất nhiều so với blog vì Mạng xã hội là một khái niệm rộng lớn hơn, Blog 
là một dịch vụ, một loại hình giao tiếp trong Mạng xã hội. Có những Mạng xã hội 
dựa trên nền tảng chính là blog, có những Mạng xã hội không có blog”.
[96] 
Bà Nguyễn Thị Bình, Giám đốc Marketing của Cyworld Việt Nam có góc 
nhìn khác về Mạng xã hội: “Mạng xã hội có rất nhiều chức năng trong đó blog là 
một chức năng trong một Mạng xã hội. Blog có phải là Mạng xã hội hay không thì 
câu trả lời của tôi là không. Vì blog giống như các bạn đã thấy, từ blog đã nói lên 
chức năng của nó. Blog nghiêng về viết về text nhiều hơn”.
[96] 
Như vậy cả hai định 
nghĩa này đều khẳng định Mạng xã hội không phải là blog, blog nên được hiểu như 
một loại hình giao tiếp của Mạng xã hội. 
PGS.TS Nguyễn Minh Hòa (Trưởng Bộ môn Đô thị học Trường ĐH 
KHXH&NV – ĐH QG TP.HCM): “Theo cách hiểu truyền thống thì Mạng xã hội là 
một sự liên kết các cá nhân và cộng đồng lại dưới một kiểu nào đó để thực hiện một 
vài chức năng xã hội. Tương tự nhóm xã hội, người ta có thể liệt kê ra rất nhiều 
loại Mạng xã hội dựa trên đặc tính pháp lý và tổ chức, chẳng hạn như mạng chính 
thức và không chính thức, mạng thực và mạng qui ước, mạng lớn và nhỏ.”
 [31] 
Trong khoản 14 Điều 3 Chương I Nghị định 97/2008/NĐ-CP: “Dịch vụ 
Mạng xã hội trực tuyến là dịch vụ cung cấp cho cộng đồng rộng rãi người sử dụng 
khả năng tương tác, chia sẻ, lưu trữ và trao đổi thông tin với nhau trên môi trường 
Internet, bao gồm dịch vụ tạo nhật ký (blog), diễn đàn (forum), trò chuyện trực 
tuyến (chat) và các hình thức tương tự khác”. Có thể thấy rằng cách hiểu về Mạng 
xã hội được quy định chính thức trong văn bản quy phạm pháp luật của nước ta hẹp 
hơn rất nhiều so với cách hiểu của cộng đồng xã hội khi chỉ khoanh vùng ở blog, 
chat và forum.  
9 
Từ các quan niệm trên, có thể đưa ra định nghĩa về Mạng xã hội như sau: 
“Mạng xã hội là một đại diện tiêu biểu của Web 2.0 mô phỏng các quan hệ trong 
xã hội thực. Mạng xã hội tạo ra một hệ thống trên nền Internet kết nối các thành 
viên cùng sở thích với nhiều mục đích khác nhau không phân biệt thời không 
gian và thời gian qua những tính năng như kết bạn, chat, e-mail, phim ảnh, voice 
chat nhằm phục vụ những yêu cầu công cộng chung và những giá trị của xã hội.” 
1.1.2. Khái niệm Trao đổi thông tin 
Thông tin là sự hiểu biết của con người về một sự kiện, một hiện tượng nào 
đó thu nhận được qua nghiên cứu, trao đổi, nhận xét, học tập, truyền thụ, cảm 
nhận… Con người hiểu được thông tin qua lời nói, chữ viết… và diễn tả thông tin 
thành ngôn ngữ để truyền đạt cho nhau. Thông tin được chuyển tải qua các môi 
trường vật lý khác nhau như ánh sáng, sóng âm, sóng điện từ… Thông tin được ghi 
trên các phương tiện hữu hình như văn bản trên giấy, băng ghi âm hay phim ảnh… 
Trao đổi thông tin là một quá trình giao tiếp để chia sẻ những hiểu biết, kinh 
nghiệm, tình cảm giữa hai hoặc nhiều người nhằm tạo sự liên kết lẫn nhau để dẫn 
tới sự thay đổi trong hành vi và nhận thức. Một quá trình trao đổi thông tin đầy đủ 
gồm các yếu tố: người gửi, người nhận, thông điệp, kênh truyền thông và sự phản 
hồi. Trong truyền thông có sự trao đổi thông tin hai chiều, có sự chuyển đổi vai trò: 
người gửi đồng thời cũng là người nhận. Sự phản hồi trong truyền thông giúp trao 
đổi thông tin được chính xác hơn. 
Về mặt hình thức có hai kiểu trao đổi thông tin: 
- Trực tiếp: được thực hiện giữa người với người, mặt đối mặt 
- Gián tiếp: được thực hiện thông qua các phương tiện truyền thông như sách 
báo, loa, radio, ti vi… 
Như vậy, trao đổi thông tin trên Mạng xã hội có thể được hiểu là một quá 
trình chia sẻ thông tin gián tiếp giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với cộng 
đồng bằng phương tiện truyền thông là Mạng xã hội. 
1.2. Sự ra đời và phát triển Mạng xã hội 
1.2.1. Trên thế giới  
10 
Theo các nhà nghiên cứu, mặc dù mới ra mắt gần đây khi đã hội tụ đầy đủ 
các điều kiện nền tảng nhưng thực chất “tổ tiên” của Mạng xã hội đã xuất hiện từ 
khá lâu. Ở thời tiền sử khi con người mới xuất hiện, Mạng xã hội đơn giản là các 
hoạt động vui chơi, giải trí, giao lưu trong cùng một bầy đàn nho nhỏ. Khi xã hội 
phát triển hơn, Mạng xã hội là các phường hội, các hoạt động văn hóa nghệ thuật, 
giải trí Đến khi mạng Internet ra đời, các hình thức kết nối trở nên đa dạng và 
rộng hơn. Và cho đến ngày nay, khái niệm Social Network đang chính là Facebook, 
MySpace 
Khởi điểm cho thời đại kết nối không giới hạn như ngày nay diễn ra vào 
những năm 70 thế kỉ trước. Năm 1971, thư điện tử đầu tiên được gửi đi giữa hai 
chiếc máy tính… nằm cạnh nhau với thông điệp ngắn gọn gồm dãy kí tự hàng đầu 
từ phía trái trên bàn phím chuẩn hiện nay “Qwertyuiop”. 
Tiếp đến, cùng năm 1978 diễn ra 2 sự kiện quan trọng. Hệ thống trao đổi 
thông tin dữ liệu BBS điện thoại đường dài hoạt động. Ngoài ra, những trình duyệt 
sơ khai thời đầu cũng bắt đầu “lây lan” khắp nơi thông qua Usenet, một trong số 
những nền tảng BBS đầu tiên. Tuy nhiên, cũng phải đến 20 năm sau, trên Internet 
mới bắt đầu hình thành những Mạng xã hội đầu tiên. Tên tuổi tiên phong làm nên 
cuộc hành trình Social Network đầu tiên trong gần 20 năm nay trước khi rơi vào 
quên lãng là Geocites. 
Năm 1994, Geocities được thành lập. Người dùng có thể khởi tạo và phát 
triển những địa chỉ, website cá nhân tại đây. Yahoo đã mua lại Geocities và biến 
trang này thành một địa chỉ quen thuộc với người dùng Yahoo. Tuy nhiên, do công 
nghệ lạc hậu và thiếu linh hoạt trong chiến lược phát triển, Geocities đã buộc phải 
đóng cửa cách đây không lâu, nhường bước cho Facebook, Linkedin, Twitter hay 
MySpace. 
Một năm sau khi Geocites ra đời, Mạng xã hội đáng chú ý thứ hai trong giai 
đoạn này là Theblobe.com hình thành. Trang web cho phép người dùng cơ hội được 
trải nghiệm và xuất bản nội dung bất kì theo ý mình, đồng thời dễ dàng tương tác 
với bạn bè có cùng sở thích. Tuy nhiên, TheGlobe.com đã nhanh chóng tụt dốc thê  
11 
thảm do thiếu các điều kiện thiên thời địa lợi như hiện nay. Chỉ trong ba năm, Mạng 
xã hội này đã “đánh mất” gần như toàn bộ số tiền 850 triệu USD, thu được từ lần 
phát hành cổ phiếu đầu tiên, còn đúng 4 triệu USD. Hiện nay, TheGlobe chỉ còn lại 
một trang index đơn giản. Cùng thời điểm này, trình ứng dụng AOL Instant 
Messenger ra mắt, đồng thời Sixdegrees.com cũng xuất hiện, cho phép người dùng 
tạo profile và thêm bạn bè vào danh sách. 
Cách đây gần 10 năm, trang Mạng xã hội nổi tiếng Friendster xuất hiện. Đây 
được coi là tên tuổi tiên phong hỗ trợ kết nối và chia sẻ trực tuyến giữa những người 
thân sống ở đời thực. Friendster hoạt động dựa vào chính người dùng và có tới 3 
triệu người tham gia sau 3 tháng đầu ra mắt. Trung bình cứ 126 người dùng Internet 
có một người có mặt ở đây. Friendster trở thành một trào lưu mới tại Hoa Kỳ với 
hàng triệu thành viên ghi danh. Sự phát triển quá nhanh này cũng là con dao hai 
lưỡi: server của Friendster thường bị quá tải mỗi ngày, gây bất bình cho rất nhiều 
thành viên. 
Bởi vậy, chỉ một năm sau thì bản sao MySpace ra mắt và nhanh chóng thu 
hút được người dùng Internet. Phiên bản đầu tiên của MySpace chỉ được thiết kế 
trong vòng đúng 10 ngày với các tính năng như phim ảnh (embedded video). Mỗi 
ngày MySpace có hàng chục ngàn thành viên mới, các thành viên cũ của Friendster 
cũng lũ lượt chuyển qua MySpace. Trong vòng một năm, MySpace trở thành Mạng 
xã hội đầu tiên có nhiều lượt xem hơn cả Google và được tập đoàn News 
Corporation mua lại với giá 580 triệu USD. 
Hai Mạng xã hội phát triển nhanh nhất hiện nay có mặt khá muộn. Năm 
2004, Facebook ra mắt. Ban đầu đây là địa chỉ dành cho sinh viên đại học kết nối và 
chia sẻ. Ngay sau khi ra đời tại trụ sở trường đại học danh tiếng Harvard, Facebook 
đã có tới 19.500 sinh viên đăng kí trong tháng đầu tiên. Sự ra đời của Facebook 
đánh dấu bước ngoặt mới cho hệ thống Mạng xã hội trực tuyến với nền tảng lập 
trình “Facebook Platform” cho phép thành viên tạo ra những công cụ mới cho cá 
nhân mình cũng như các thành viên khác dùng. Facebook Platform nhanh chóng gặt 
hái được thành công vượt bậc, mang lại hàng trăm tính năng mới cho Facebook và  
12 
đóng góp không nhỏ cho con số trung bình 19 phút mà các thành viên bỏ ra trên 
trang này mỗi ngày. 
Hai năm sau, Twitter cũng kịp thời ra đời, ghi dấu mốc quan trọng trong quá 
trình phát triển của Mạng xã hội. Tại thời điểm năm 2008, mỗi giây người dùng 
Twitter đăng lên 3.283 thông điệp. Đây cũng là năm Facebook vượt mặt MySpace 
để trở thành Mạng xã hội số một thế giới. Cả hai đều trở nên phổ biến hơn hẳn vượt 
mặt người tiền nhiệm Friendster. 
Thống kê cho thấy, năm 2011 Facebook có tốc độ phát triển chóng mặt, với 
số lượng người dùng đông nhất, vào khoảng 600 triệu, trong khi cả Friendster và 
Myspace đều có dấu hiệu chững lại. Twitter đang yếu thế trước Facebook, nhưng 
cũng đã đã vượt qua Friendster từ lâu và vẫn đang tiếp tục chinh phục Myspace.
[62] 
Hiện nay, trên thế giới có hàng trăm mạng Mạng xã hội khác nhau. Trong đó, 
Twitter, MySpace và Facebook nổi tiếng nhất trong thị trường Bắc Mỹ và Tây Âu, 
Orkut và Hi5 tại Nam Mỹ, Friendster tại Châu Á và các đảo quốc Thái Bình Dương. 
Một số Mạng xã hội khác gặt hái được thành công đáng kể theo từng quốc gia như 
Bebo tại Anh Quốc, CyWorld tại Hàn Quốc, Mixi tại Nhật Bản và Zing Me tại Việt 
Nam. Những cái tên như Facebook, Youtube, Twitter, Linkedin… đã trở nên quen 
thuộc trong thời đại Web 2.0. Đó cũng là các Mạng xã hội thu hút được sự tham gia 
đông đảo của giới trẻ. Theo khảo sát, chúng ta đang được quy tụ bởi các Mạng xã 
hội. 80% người trả lời là họ đã từng ghé qua một trang Mạng xã hội và 59% người 
là thành viên năng động trên các Mạng xã hội.
[111] 
1.2.2. Tại Việt Nam 
Mạng xã hội ở Việt Nam đã phát triển qua nhiều giai đoạn. Giai đoạn 2005 – 
2008, đa số các Mạng xã hội chỉ cung cấp nội dung thông tin đơn giản dưới dạng 
blog và hình ảnh, với đại diện tiêu biểu là Yahoo! 360
0
. Đến 2009, mô hình Mạng 
xã hội thế hệ thứ ba mới bắt đầu bước vào Việt Nam với đại diện “nội địa” tiêu biểu 
là Zing Me, dựa trên việc cập nhật thông tin liên tục trong thời gian thực. Giữa năm 
2010, Mạng xã hội Go.vn của Tổng công ty Truyền thông đa phương tiện VTC ra  
13 
đời, đây là Mạng xã hội đầu tiên do nhà nước đầu tư. Tính đến năm 2011, Zing Me 
thu hút khoảng 6,8 triệu thành viên, Go.vn có khoảng 3 triệu thành viên.
[68] 
Mạng xã hội thế hệ mới đã nhanh chóng chiếm được sự ưa chuộng của giới 
trẻ và phát triển bùng nổ cả về số lượng người dùng cũng như thời lượng sử dụng. 
Năm 2010, tiếp tục xuất hiện thêm một số Mạng xã hội do các công ty Việt Nam 
đầu tư phát triển. Các Mạng xã hội khác đã đi vào thị trường ngách, nhắm tới đối 
tượng người dùng ở diện hẹp hơn, hoặc mang tính chuyên biệt hóa cao hơn với việc 
chỉ phát triển quanh một vài chức năng quan trọng. 
Tính đến hết tháng 09/2011, ở nước ta đã có 130 Mạng xã hội được cơ quan 
có thẩm quyền cấp Giấy xác nhận cung cấp dịch vụ, trong đó có một số mạng nổi 
hơn cả như: ZingMe, Go.vn, Yume, Tamtay, Cyber World… Dưới đây là bảng 
thống kê tỉ lệ người dùng Mạng xã hội ở Việt Nam tháng 12/2010 do Google Ad 
Planner công bố
[103]
:  
Cột xanh là số người sử dụng, dựa trên bảng số liệu thì Zing Me dẫn đầu với 
4.6 triệu. Yahoo, Facebook, và Yume đang bám sát ở khoảng cách không xa. 
Đường đỏ là số phút sử dụng trên mỗi Mạng xã hội mỗi tháng, tính bằng số lượt sử 
dụng nhân với số phút của mỗi lượt. Theo đó, chúng ta có thể thấy ba Mạng xã hội 
thế hệ mới là Zing Me, Facebook, và Go.vn có số phút sử dụng rất cao đối với mỗi 
người dùng, nổi bật là Zing Me với hơn 1 tỉ phút và Facebook với 880 triệu phút.  
14 
Ba Mạng xã hội thế hệ đầu là Yahoo, Yume và TamTay có số phút sử dụng tương 
đối thấp. 
Với hơn 29 triệu người sử dụng Internet (số liệu tháng 6/2011-VNNIC), 
Mạng xã hội ở Việt Nam là một thị trường màu mỡ. Báo cáo NetCitizens Việt Nam 
2011 của hãng nghiên cứu thị trường Cimigo, gần một nửa số người sử dụng 
Internet đã từng ghé thăm blog, diễn đàn và Mạng xã hội, trong đó có đến 36% là 
thành viên của các Mạng xã hội.
[69]
 Bên cạnh đó, so với blog và diễn đàn, Mạng xã 
hội có mức độ sử dụng hàng ngày cao. Theo ước tính của VinaGame (đơn vị chủ 
quản Mạng xã hội Zing Me), đến năm 2014, tỉ lệ sử dụng Mạng xã hội của người 
Việt Nam có thể lên tới 50%.
[119] 
Theo kết quả khảo sát toàn cầu của Regus- Nhà cung cấp hàng đầu thế giới 
về các giải pháp không gian làm việc, Mạng xã hội đã trở thành một công cụ kinh 
doanh chính tại Việt Nam với 62% Doanh nghiệp sử dụng thành công trong việc 
tìm kiếm cơ hội kinh doanh mới. Có 92% người được hỏi ở Việt Nam đã sử dụng 
Mạng xã hội để liên hệ, trong số đó có 46% tìm được công việc thông qua Mạng xã 
hội.
[119] 
Hiện tại Việt Nam có một số Mạng xã hội như iFun Me, Zing Me, Go.vn, 
Tamtay, ViHuni, Yume hoạt động hiệu quả và nhận được sự ủng hộ của cộng đồng 
mạng. Đây là cơ hội cho Mạng xã hội tại Việt Nam phát triển với thị trường giàu 
tiềm năng và hiện đang khá sôi động. 
Sự thành công của một số ít những Mạng xã hội Việt Nam kể trên phần lớn 
phụ thuộc vào cách họ xây dựng “bản sắc” riêng nhắm tới cộng đồng. Ngoài giao 
diện được Việt hóa toàn bộ, dễ sử dụng, Mạng xã hội Việt Nam thường nhắm tới 
những khách hàng nhất định, chẳng hạn Zing Me, Cyworld dành cho giới trẻ teen 
yêu thích giao diện màu sắc vui nhộn chia sẻ ảnh và video, các trò chơi flash vui 
nhộn thì Cyvee, Yume lại hướng đến đối tượng dân văn phòng, chuyên gia và giới 
kinh doanh… Có những Mạng xã hội khác như Vietspace thì hướng phát triển với 
các hoạt động hướng đạo sinh tạo ý nghĩa cộng đồng cao.  
15 
Ưu thế lớn nhất của các Mạng xã hội Việt Nam chính là yếu tố gần gũi, thân 
thiện và đa tiện ích với người dùng. Giao diện hoàn toàn được Việt hóa, đường 
truyền tốt, nhiều chức năng hấp dẫn như blog, photo album, game mini Việt Nam, 
trắc nghiệm… là những ưu điểm thấy rõ của của Mạng xã hội Việt Nam vào thời 
điểm này. 
Tuy nhiên, phải thừa nhận, nhìn chung, những mạng xã hội ở Việt Nam đều 
là “bản sao chưa hoàn chỉnh” của các trang web nổi tiếng như MySpace, Flickr, 
Facebook hay Youtube. YoBanbe bắt chước gần như nguyên vẹn kiểu thiết kế và 
cấu trúc của Yahoo!360
0
 giúp người dùng dễ sử dụng nhưng những ai đã sử dụng 
qua Yahoo!360
0
 cảm giác chán YoBanbe là điều không tránh khỏi. Còn Cyworld, 
mặc dù có phong cách riêng, mang đậm chất Hàn Quốc nhưng chỉ thu hút được 
những ai yêu thích phim Hàn Quốc. Clip.vn có cách thức hoạt động như YouTube 
nhưng hạn chế về bản quyền cũng như số lượng người sử dụng có may quay video. 
Việc sao chép phong cách, tính năng như các blog, Mạng xã hội ảo nổi tiếng 
thế giới khiến cho các Mạng xã hội ảo Việt Nam mất đi bản sắc riêng của mình. 
Thêm vào đó, các tính năng mới cũng như các sự kiện được tổ chức chưa nhiều và 
không mới. Đó là một trong những nguyên nhân tất yếu dẫn đến việc số lượng các 
thành viên tham gia tăng đột biến nhưng sau đó bắt đầu giảm dần. 
Theo các chuyên gia Mạng xã hội, nhìn thấy tiềm năng, nhiều công ty đã tạo 
ra các Mạng xã hội khác nhau theo trào lưu. Nhưng hầu hết còn thiếu trình độ công 
nghệ, thiếu vốn đầu tư dài hơi, thiếu tầm nhìn và chưa hiểu văn hóa, đời sống xã hội 
Việt Nam sâu sắc nên dẫn đến “chết yểu”. “Người dùng ban đầu háo hức tham gia 
nhưng có thể không lưu lại. Song ngay cả khi họ ở lại, thì số lượng đó không giúp 
Mạng xã hội phát triển lên được. Do vậy, Zing Me dậm chân ở mức 500- 600 triệu 
trang xem, Go.vn ở mức 200-300 triệu, Yume ở mức 20- 30 triệu thua xa so với 1 
Facebook hay bị lỗi kỹ thuật, truy cập khó, với hơn 1 tỷ trang xem ở ngay sân nhà 
Việt Nam”, ông Quang Hưng Phó Tổng Giám đốc Công ty VinaGame phân tích.
[95] 
Dẫu sao, Mạng xã hội ở Việt Nam đang trên đà phát triển nhanh chóng. 
Trong xu hướng phát triển mở, phía các nhà cung cấp dịch vụ Mạng xã hội và các  
16 
nhà cung cấp dịch vụ viễn thông cũng đã liên kết chặt chẽ với nhau thay vì nhà 
mạng tự xây dựng Mạng xã hội của riêng mình. 
1.3. Một số đặc điểm và tính năng của Mạng xã hội 
Ưu điểm của Mạng xã hội so với các phương tiện truyền thông trước đây là 
độ tương tác, tính trò chuyện và kết nối cao hơn hẳn, dẫn tới độ tin cậy cao hơn. 
Trong một thế giới tràn ngập thông tin thì độ tin cậy tạo nên ưu thế rất lớn. Ưu thế 
tuyệt đối của mạng dịch vụ này là truyền thông đa phương tiện mà vẫn giữ nguyên 
tính tương tác của blog, có thể xuất bản nội dung, không chỉ ở dạng bài viết mà cả 
ảnh, audio và clip. Chính vì thế, tiềm năng của lĩnh vực này cực kỳ lớn, nhất là đối 
với thị trường trong nước. 
1.3.1. Đặc điểm Mạng xã hội 
1.3.1.1. Tính liên kết cộng đồng 
Mạng xã hội mở ra một thay đổi lớn, đó là mở rộng phạm vi kết nối giữa mọi 
người cả về thời gian và không gian. Không cần phải gặp gỡ trực tiếp để kết bạn, 
người này có thể trở thành bạn của người kia thông qua việc gửi một đường link 
đến hòm thư để kết bạn. Sự liên kết giữa các cá nhân tạo ra một cộng đồng mạng 
với số lượng thành viên tham gia đông đảo. Chẳng hạn ở Mạng xã hội Facebook 
hiện nay, tính liên kết được thể hiện rất rõ, đặc biệt sự liên kết theo nhóm, một cá 
nhân có thể kết bạn với nhiều người khi chỉ cần click vào nút “become fan” của 
những nhóm có chung một sở thích, một lĩnh vực quan tâm. Khi tham gia vào 
những nhóm này, tất cả các thành viên sẽ thường xuyên giao lưu với nhau, chia sẻ 
và kết nối với nhau thông qua việc đưa ra ý kiến của mình. Tính liên kết của Mạng 
xã hội làm nâng cao sự hiểu biết về cộng đồng trong mỗi cá nhân. 
1.3.1.2. Tính đa phương tiện 
Cũng giống như khả năng đa phương tiện của Internet, Mạng xã hội có sự 
kết hợp chặt chẽ, hài hòa các yếu tố chữ viết, âm thanh, hình ảnh, màu sắc, đồ họa, 
hình khối… Mạng xã hội hoạt động dựa trên nguyên lý hoạt động của Web 2.0 với 
rất nhiều ứng dụng và tiện ích. Chỉ cần những thủ tục đăng ký đơn giản, mỗi người 
sử dụng Internet đều có thể sở hữu một khoảng không gian riêng trên Mạng xã  
17 
hội.
[36]
 Ở đó, họ có thể xây dựng một “ngôi nhà” riêng cho mình. Sau đó, người 
dùng có thể chia sẻ thông tin cá nhân cũng như mọi vấn đề mà mình yêu thích và 
quan tâm. Tùy theo tiện ích và dịch vụ mà các website Mạng xã hội cung cấp, người 
dùng có thể chia sẻ những bài hát, những bộ phim, các đoạn video của bản thân 
mình hoặc của người khác tùy vào sở thích cá nhân. 
Tính đa phương tiện của Mạng xã hội còn cho phép người dùng xây dựng 
thư viện ảnh riêng cho mình, có thể gửi tin nhắn và chat với bạn bè, có thể nghe 
nhạc và chơi các trò chơi. Cuối cùng, người sử dụng có thể tạo dựng các mối quan 
hệ mới trong xã hội ảo, bằng cách tìm ra những đặc điểm chung, những người có 
cùng sở thích, cùng các mối quan tâm, qua hệ thống tìm kiếm trên website Mạng xã 
hội. 
1.3.1.3. Tính tương tác 
Mạng xã hội giờ đây trở thành một điều không thể thiếu của mỗi người. 
Mạng xã hội kết nối mọi người với nhau. Việc kết nối giữa mọi người đã tạo ra tính 
tương tác, sự tương tác đó là sự trao đổi ý kiến lẫn nhau của những người cùng 
tham gia Mạng xã hội. Tính tương tác của Mạng xã hội được thể hiện rất rõ thông 
qua việc thông tin được truyền đi và ngay sau đó đã được sự phản hồi từ phía người 
nhận. 
1.3.1.4. Khả năng truyền tải và lưu trữ lượng thông tin khổng lồ 
Tất cả các mạng đều có những ứng dụng gần giống nhau như có thể viết bài, 
tải video, đăng một bức ảnh… Nhưng mỗi một Mạng xã hội đều có khả năng đăng 
tải các ứng dụng này với dung lượng khác nhau. Với Mạng xã hội Facebook, các cá 
nhân thường được thông qua việc cập nhật và đăng tải các clip, các đường link hoặc 
những bức ảnh nhanh và có dung lượng lớn. Tuy nhiên, việc viết bài lại chỉ có dung 
lượng rất ít. 
1.3.2. Một số tính năng chính của Mạng xã hội 
1.3.2.1. Lập hồ sơ cá nhân cho người sử dụng 
Hồ sơ cá nhân chính là phần trung tâm và cơ bản nhất đối với bất cứ ai khi 
tìm đến một trang Mạng xã hội nào đó. Nó là nơi để cá nhân thỏa sức thể hiện mình,  
18 
cái tôi, sở thích, cá tính… đồng thời thống kê và cung cấp số lượng bạn bè hoặc 
khách viếng thăm trang mạng của mình. Vậy nên, dễ dàng nhận thấy hầu hết những 
Mạng xã hội được ưa chuộng đều tập trung vào tính năng này. Làm sao vừa dễ sử 
dụng, đồng thời qua đó giúp người chủ tài khoản có thể khai thác được những tính 
năng cần thiết, và bộc lộ một cách đầy đủ nhất con người, tính cách của mình, luôn 
là điều hết sức được lưu tâm. 
1.3.2.2. Tập trung bạn bè và lập nhóm 
Xu hướng phát triển tất yếu của các Mạng xã hội là dùng để liên lạc và giữ 
liên lạc với những người mà bạn quen biết. Thông qua chức năng tìm kiếm, gửi thư 
mời…, bạn bè (hoặc những người bạn quan tâm) có thể “tìm được nhau”, xác nhận 
là bạn và giữ mối liên lạc thông qua các trang cá nhân của mình. Đồng thời, các 
trang mạng hiện nay đều mang đến rất nhiều sự gợi ý, nhằm đơn giản hóa và khiến 
cho quá trình tìm kiếm cũng như giữ liên lạc trở nên thuận tiện hơn rất nhiều. Nhà 
cung cấp mạng đưa ra những sự gợi ý cần thiết về bạn bè, thông qua hồ sơ cá nhân 
của chính bạn. Đó có thể là sự gợi ý về một người cùng một khu phố, một lớp, một 
trường, hay đơn giản chỉ cùng chung một sở thích nhất định nào đó. Qua đó, chúng 
ta có thể dễ dàng tìm thấy, kết nối, làm bạn bè và giữ mối quan hệ tốt đẹp qua mạng 
lưới của Mạng xã hội ấy. Đây cũng chính là một điều hết sức thú vị mà Mạng xã hội 
mang lại cho mỗi người sử dụng. 
Đáp ứng nhu cầu chia sẻ thông tin của người dùng, hiện tại hầu hết các Mạng 
xã hội đều có tính năng tạo nhóm – những người cùng cơ quan, cùng lớp, cùng 
chung sở thích hay niềm đam mê nào đó có thể kết nối với nhau tại một nhóm. Đó 
có thể là nhóm của những người đam mê đá bóng, nhóm nhân viên cùng công ty, 
hoặc hội đồng hương… Những thông tin bạn chia sẻ trong nhóm sẽ được mọi người 
dễ dàng hiểu và đón nhận nó nhiệt tình hơn. Mục đích chính của chức năng này là 
phân loại người dùng vào nhiều lĩnh vực khác nhau để tiện quản lý. Hiện tại có ba 
loại nhóm chủ yếu trên các Mạng xã hội, đó là nhóm mở, nhóm đóng và nhóm bí 
mật. Thuận tiện khi chia sẻ thông tin, dễ dàng trong các cuộc tranh luận… là những 
lợi ích chỉ khi gia nhập nhóm bạn mới thấy được. Hiện nay tính năng này đang rất  
19 
được người dùng Mạng xã hội ưa chuộng, và trở thành một phần không thể thiếu 
trong cộng đồng mạng.  
1.3.2.3. Tìm kiếm 
Các cá nhân mở một tài khoản và tham gia một Mạng xã hội phần nhiều với 
mục đích để tìm bạn bè và mở rộng các mối quan hệ của mình. Vậy nên, các trang 
Mạng xã hội còn cho phép các thành viên có thể tìm kiếm các thành viên khác trong 
một môi trường an toàn và dễ sử dụng. Chức năng tìm kiếm thông thường bao gồm 
tìm kiếm theo tên, thành phố, trường học và địa chỉ email. Ví như Facebook, muốn 
tìm kiếm một tài khoản nào đó, chỉ cần đánh tên chủ tài khoản, hoặc nhập một địa 
chỉ email có thực của người cần tìm, trang mạng sẽ hiện một loạt danh sách những 
khả năng gần và liên quan, rất dễ dàng và thuận tiện khi sử dụng tính năng này. 
1.3.2.4. An ninh và chế độ bảo mật 
Internet có thể là một nơi không mấy an toàn để đăng tải những thông tin cá 
nhân của một ai đó. Vậy nên, tất cả các Mạng xã hội đều cung cấp các khả năng 
thiết lập cấu hình để người dùng có thể bảo mật những thông tin liên quan đến 
mình, nếu thấy cần thiết. Ngoài ra, các Mạng xã hội hiện nay đều cung cấp tính 
năng báo cáo và ngăn chặn người sử dụng, nếu thấy những dấu hiệu bất thường, 
không hợp lý, ảnh hưởng đến hoạt động của mạng lưới nói chung và cá nhân một 
người sử dụng nào đó nói riêng. 
1.3.2.5. Các tính năng mạng cần thiết khác 
Một Mạng xã hội tốt trước hết cần mang đến những tính năng cơ bản và cần 
thiết nhất, đó là cho phép người sử dụng đăng hồ sơ và cập nhật hình ảnh. Bên cạnh 
đó là một số những tính năng thiết yếu khác như kết bạn, chat, e-mail, phim ảnh, 
voice chat, chia sẻ files, blog, và xã luận. Mạng đổi mới hoàn toàn cách cư dân 
mạng liên kết với nhau và trở thành một phần tất yếu của mỗi ngày cho hàng trăm 
triệu thành viên khắp thế giới. Các dịch vụ này có nhiều phương cách để các thành 
viên tìm kiếm bạn bè, đối tác: dựa theo Groups (ví dụ như tên trường hoặc tên thành 
phố), dựa trên thông tin cá nhân (như địa chỉ e-mail hoặc screen name), hoặc dựa  
20 
trên sở thích cá nhân (như thể thao, phim ảnh, sách báo, hoặc ca nhạc), lĩnh vực 
quan tâm: kinh doanh, mua bán 
1.4. Các loại Mạng xã hội phổ biến 
1.4.1. Cá nhân làm trung tâm (Ego centric): Các hoạt động xã hội sẽ 
xoay quanh bản thân mình, vì thế người ta gọi loại này là Ego centric. Điển hình 
cho dạng này là MySpace, VietSpace và phần nào là Mash của Yahoo, Yahoo!360
0
. 
Đặc điểm là trang chủ càng dễ tùy biến càng tốt, càng nhiều thứ để trưng bày càng 
tốt. 
1.4.2. Mối quan hệ làm trung tâm (Relationship centric): Nó giúp 
người dùng biết được bạn bè đang làm gì, nhóm bạn đang làm gì, cũng như giúp 
bạn bè của họ biết mình đang làm gì. Điển hình cho dạng này là Facebook, Twitter, 
Yahoo!360
0
, Mash. Việt Nam có một số Mạng xã hội loại này đã ra mắt. Đặc điểm 
của mạng này là mối quan hệ càng thật, càng thắt chặt càng tốt, các tính năng phải 
hỗ trợ tối đa các nhu cầu này. 
1.4.3. Nội dung làm trung tâm (Content centric): Đặc điểm chung của 
mạng loại này là nhằm trưng bày nội dung do mình hoặc nhóm của mình tạo ra cho 
bạn bè và công chúng (bài viết, ảnh, video ). Một số trang thuộc dạng này như: 
Opera (phổ biến ở Việt Nam), LiveSpace (phổ biến ở châu Âu), Yahoo!360
0
 (phần 
My Page). Loại này giúp dàn trang dễ dàng, có các tính năng cần thiết giúp người 
dùng chia sẻ mọi loại nội dung, ngoài ra có một phần kết nối bạn bè và giao tiếp. 
Ba dạng mạng trên chỉ là dạng cơ bản, còn rất nhiều loại Mạng xã hội khác là 
sự pha trộn giữa các loại này, cũng như nhắm các mạng chuyên biệt cho từng mảng 
nội dung, công nghệ, đối tượng 
1.5. Mối quan hệ giữa Mạng xã hội và báo chí 
Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, Mạng xã hội là một hiện tượng 
với những đặc trưng cực nhanh, cực rộng và phạm vi tương tác đa chiều không phân 
biệt thời gian và không gian, đang tác động mạnh mẽ tới toàn xã hội, trong đó có 
báo chí. Vấn đề đặt ra là, làm thế nào để Mạng xã hội và báo chí hỗ trợ nhau, phát  
21 
huy tác dụng lẫn nhau, cùng phục vụ đời sống xã hội ngày càng hiệu quả, chất 
lượng hơn. 
Đối với báo chí, bên cạnh những kênh truyền thống, thực tế Mạng xã hội 
đang có vai trò quan trọng: 
Một là, Mạng xã hội đang là nơi cung cấp thông tin, đề tài một cách rộng rãi 
giúp các nhà báo chuyên nghiệp cũng như không chuyên nghiệp nhận diện, phát 
hiện được những vấn đề đang nổi lên, đang diễn ra, sau khi đã thẩm định độ chính 
xác của nó rồi sử dụng cho những bài báo của mình phục vụ công chúng. Ta đã 
thấy, thời gian qua, rất nhiều sự việc tung lên Mạng xã hội, cư dân mạng bàn tán 
xôn xao về những vấn đề này, các cơ quan báo chí kịp thời xác minh và có nhiều 
bài viết phê phán những hành động tiêu cực, động viên khích lệ, biểu dương những 
hành vi tích cực góp phần làm thay đổi hành vi ứng xử giữa con người với con 
người, con người với tự nhiên, con người với xã hội. 
Ví dụ: Những ngày đầu tháng 10/2011, nhiều diễn đàn xôn xao trên các 
Mạng xã hội bàn tán về một bức thư của cha mẹ gửi đến những đứa con thân yêu 
của mình. Báo chí đã tìm hiểu và khai thác nội dung này, đăng tải trên các báo với 
nhiều bài viết như: “Cảm động bức thư cha mẹ gửi con”, hoặc “Cư dân mạng rớt 
nước mắt vì “Thư gửi con”… với nội dung giản dị, có ý nghĩa giáo dục sâu sắc 
khiến những người làm con phải nhìn nhận lại chính mình. 
Từ Mạng xã hội, với những thao tác, kỹ năng nghiệp vụ, các nhà báo nhận 
diện được những tin tức nào, vấn đề nào tạo ra được sự gắn bó với người đọc có 
thời gian tồn tại lâu hơn để tiếp tục cung cấp các tin tức khác liên quan cho độc giả. 
Mới đây, một chuyên gia nước ngoài thống kê, có tới 75% phóng viên thấy blog 
(một loại hình của Mạng xã hội) hữu ích để phát triển ý tưởng, giúp họ nhìn nhận đa 
chiều và sâu sắc hơn, 21% trong số họ bỏ ra mỗi ngày một tiếng để đọc blog và 
16% trong số họ có trang blog riêng.
[53] 
Càng gần hiện nay, công chúng càng thừa nhận sự nhanh nhạy của Mạng xã 
hội và coi nó là người bạn đồng hành của báo chí trong cuộc đua cập nhật thông tin.