ĐAI HỌC Ql ()( (,I \ HÀ NỘI
I KUÒN(. Đ AI IK K KIIO \ ll()( XA MOI \ \ NIIAN YAN
N (ìl VI A THỊ liINH
NÂNG C0O CHẤT LƯỢNG Báo CHÍ
INTERNET TRONG THỜI GI0N TỚI
( 'huyên HỊ>ành: lỉ(K) chi học
Ma so: 504.Ì0
IA ẠN VAN I H u SI KHOA H()( HAO ( HI
Nịiười hiicVn«* dan khoii Ik r :
IS \(,l VÍ \ MINH I \M
llỉi N oi - 2 0 0 6
MỤC LỤC
PHẨN MÕ ĐẨU 4
1. Tính cấp thiết của đổ tài 4
2. Lịch sử nghicn cứu vấn để X
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9
4. Mục đích và nhiệm vụ nghịcn cứu ị0
5. Phương pháp nghiên cứu 10
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ị 1
7. Kết cấu luận văn ] 1
PHẨ N N Ộ I D U N G 12
Chưưniĩ I: Tông quan vê báo chí Internet và tính tưong tác của báo 12
Internet
1.1 Sự ra đời và phát triển Internet ở Việt Nam 12
1.2. Quan niệm về báo chí Internet và báo Internet 17
1.3. Báo Internet trên thế giới và ớ Việt Nam hiện nay 2 1
1.4. Báo Internet trong mối quan hệ với các loại hình báo chí khác 27
1.5. Tính tưưng tác trong tương quan các đặc thù của báo Internet 32
Chương II: Hiện trạng tính tương tác trên báo Internet ỏ Việt Nam 40
(Kháo sát trên báo V/¡Express vcì VietNơmNet từ thán ạ I/2003 đến tliáiií’
1/2005)
2.1. Những đặc trưng của tính tương tác 40
2.2. Tính tương tác trên hai tờ báo VnExpress và VictNamNet 48
2.3. Hiệu quá của tính tương tác 69
2
Ch ươn lĩ III: l\anfỊ cao chất lương tính tương tác cùa báo Internet 79
trong thời gian tói
3 .1. Nâng cao khả nâng tương tác trên báo Internet 79
3.2. Nâng cấp CƯ sớ hạ táng công nghệ thông tin 85
3.3. Nãnu cao nghiệp vụ làm háo Internet ịị-j
3.4. Vân đé đào tạo nhà báo 90
PHẨN K Ế T LU ẬN 92
TÀI L IỆU T H A M K H Ả O G5
PHỤ LỤ C 97
3
PHẨN MỎ ĐẨU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 19/11/1997, Việt Nam chính thức nôi mạng Internet - cơ sứ đáu
tien cho sự ra đời của loại hình háo chí hoàn toàn mới ở nước ta: báo chí điện tứ
trên mạng Internet (và sau này là báo Internet). Cùng gần đày, Đang và Nhà
nước càng chú trọng đến việc ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin
(CNTT), mạng Internet và đã xác định vị trí, vai trò và trách nhiệm to lớn cúa
loại hình báo chí mới mẻ này. Đây là những cơ sở quan trọng cho báo chí
Internet phát triên mạnh mẽ và có ánh hương ngày càng sáu rộng trong đời
sống xã hội ờ nước ta. Bên cạnh đó, xu thế phát triển của mạng Internet và báo
chí Internet trên thô' giới đã góp phần thúc đẩy sự phát triến tất yêu của báo chí
Internet ở Việt Nam.
Đảng và Nhà nước ta đã đánh giá báo chí Internet là loại hình báo chí có
những ưu điểm nổi bật so với báo chí truyền thống, góp phần to lớn thúc đẩy sự
phát triển của nển báo chí nước nhà.
Văn kiện Đại hội Đáng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX trong mục “Phát
triển văn hoá, giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ và môi trường” đã ncu rõ
định hướng, trách nhiệm xã hội và nhiệm vụ cụ thể của báo chí Việt Nam trong
giai đoạn mới, đặc biệt nhấn mạnh đến loại hình báo chí mới trên mạng
Internet. Văn kiện viết: “Phát triển đi đôi với quán lý tốt hệ thốn ạ thông tin dại
CÌIÚHÍỊ, báo chí, xuất bản làm tốt chức năng tuyên truyền thực hiện đườniỊ lối,
chú trương, chính sách của Đảng và Nhci nước, phứt hiện những nhân tố mới
cái hay cái đẹp tronq xã hội giới thiệu gươníỊ người tốt việc tốt, những điển liình
til’ll tiên, pliê plián những hiện tưựni> tiêu cực, uôh nắn những người nhận thức
lệcli lạc, đấu tranh với Iihữìiạ quan điểm sai trái, coi trọng, nânÍỊ cao rinh chân
thật, tính íỊÌáo dục và tính chiên dấu cùa thỏm ’ till. Sử cỉụníỊ Internet dê dấy
mạnli tỉìóiìiỉ tin đối nqoại đồnạ thời hạn chế, ni>ân chặn nliữni> hoạt cỉộiiíỉ tiêu
cực qua mạniỊ. Khắc phục khuynh hướng "thươììiị mại lìóíi" ỉrom> hoạt lỉộnii
bao chí, xuất bán. NíhìiỊ cao bán lĩnh chính trị, tư nràniỊ, V thức trách lìliiệm,
4
¡lililí do Vein liocì và llallí’ nghiệp, phẩm chất dạo (lức (lid dội n^ũ háo ('lii, XIIÚÌ
han .
Tiếp ngay sau Văn kiện Đại hội đại hiếu toàn quốc Đáng CSVN lán thứ
IX, vào ngày 23 thúng 8 năm 2001, Thủ tướng Chính phú Phan Vãn Khái đã ký
Nghị định số 55/200l/NĐ-CP về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet.
Dáy được coi là một bước hiện thực hoá những định hướng chính trị của Đại
hội Đang lần thứ IX nói chung, đồng thời mở ra hướng phát trien của báo chí
Internet ở Việt Nam nói riêng. Bới Nghị định này, ngoài những phán chung mớ
dường cho Internet Việt Nam, đã cụ thể hoá loại hình báo chí trên mạng
Internet: "Dịch vụ thôtiq tin internet lừ một loại hình dịcli vụ ứiìí> dụng Internet
l>ü<) íịồm dịch vụ phát hành báo chí (báo nói, báo /lình, báo diện tử), phát liànli
xuất bàn trên Internet và dịch vụ cnnẹ cấp các loại hình till tức diện tử khác
tren Internet" [31 - Điều 12]. Quan trọng hơn nữa, đó là việc mở rộng cho hoạt
động báo chí trên mạng: “C ơ quan báo chí và nhà xuất bản cỏ giấy phép hoạt
ctộng theo quy định, được thiết lập hệ thống thiết bị tụi cơ sở của mình d ể trực
tiếp tô chức phát hành hoặc uỷ thác cho đơn vị cung cấp dịch vụ thông tin
I liter net phát hành báo và xuất bản phẩm trên Internet "2.
Văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc Đáng CSVN lán thứ IX và Nghị
định số 55/2001/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ là cơ sở quan trọng để các
cơ quan báo chí tiếp tục đẩy mạnh việc đưa các ấn phám báo chí lên mạng
Internet.
Ngày 22/7/2005, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 52-
CT/TW về phát trien và quản lý báo điện tử ở nước ta hiện nay. Chí thị khắng
định: "Báo diện tử ở nước ta phải được phát triển nhanh, vữnạ chắc, có hiệu
quà" và “các cơ quan chú quản báo chí, các cơ quan báo điện từ và các cơ
c/Kcni báo chí có báo điện tử, các đơn vị, tô chức có traniị tlỉỏníỊ tin điện tử cán
có ké hoạcli nâ/ií> cao chất lưựm> nội íltifìí>, hình thức, trình cíộ kỹ thuật của háo
diện tứ".
Van klên Đại hội Đại hiếu toàn quôc lần thứ IX. Nxb Chính tri Quốc gia. Ha Nòi 2001. Iranẹ 16
l'rane web vnnic.com.vn/vân bán pháp luật vé qiuin ly Internet.
Các nhà chuycn môn dự háo sự phát triến thông tin háo chí trên thổ giới
va Việt Nam từ nay đến năm 2010 đã nhận định: "Với sự phát triển của còni>
lì^lir tin liọc, có một loại hình báo (III mới xuất hiện và p h iu triển nhanh cỊìónạ.
Dó là loại /lình báo chí được thực hiện trên mạniỊ máy tính. Loại hình báo chí
này khi mới ra đời phát triển mạnh m ẽ nhưng sau 5 đến 10 năm sẽ Ổn (lịnh íỉíiii
vù khaní> dinh vị trí tronq các loại hình thông tin báo chí hiện có Đê báo chí
internet phát triển một cách đúng hướng và có hiệu quả cần đẩy mạnh sự
nghiên cứu loại hình này trên cả hai mặt lý luận và thực tiễn.
Mạng Internet được Đảng và Nhà nước quan târn phát triển là điều kiện
thuận lợi cho báo chí Internet và báo Internet phát triển nhanh, mạnh hơn nữa
trong thời gian tới.
Khi Việt Nam chính thức nối mạng Internet quốc tế năm 1997, chi có 1
doanh nghiệp cung cấp hệ thống đường trục kết nối cả trong nước và quốc tế
(IXP) là Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt N am hoạt động cùng 4 nhà
cung cấp dịch vụ Internet (ISP) là VNPT, FPT, SPT và Netnam với 1.376 số
thuê bao. Đến nay đã có hơn 7,5 triệu người sử dụng Internet, chiếm 9,1% dân
sô, thuộc hàng cao so với tỷ lệ người dùng Internet ở châu Á. Mức độ tăng
trưởng Internet bình quân là 213%/năm. Trong năm 2004 và 2005, Internet thực
sự khởi sắc bởi giá cước Internet đã giảm dần và có ngày càng nhiều loại hình
dịch vụ mới như ADSL, VoIP, Wi-Fi, Internet công cộng và các dịch vụ trên
mạng khác như video, forum, chat, game online. Trong vòng 12 tháng (5/2004 -
5/2005), số người thuê bao Internet tăng 2,38 lần, số người dùng Internet tăng
1,6 lán3.
Sự phát triển của Internet có liên quan chặt chẽ đến sự phát triển báo chí
Internet. Đó là sự xuất hiện ngày càng nhiều, ngày càng hấp dẫn của các trang
web thông tin bằng tiếng Việt. Trước năm 2000, thông tin trôn mạng Internet
bằng tiếne Việt rất đơn điệu, độc giả vào mạng Internet cũng không có thứ gì
đe đọc. Vài năm trở lại đây, các trang thôníi tin tiếng Việt trcn mạng ngày càng
' Bài phát biếu cùa ổng Lè Trường Tùng - Chú tịch Hội Tin hoc TP HCM tai HỎI tháo trong Tricii lãm ViciNam
Computerworld Hxpo 2005 và toàn cánh Cồng nghè thông ùn - truyền thông Viel Nam.
6
nhiêu, có nội dung thiết thực đôi với công chúng, góp mội phán tích cực thúc
đay mạng Internet phát trien.
Đấu năm 1998, Quê Hương là trang weh thông tin đáu tiên ứ Việt Nam
được dưa lên mạng. Đến nay chính thức có X2 đơn vị được Bộ Vãn hoá - Thông
tin cấp giấy phép ICP (Internet Content Provider - Nhà cung câp thông tin trôn
mạng (ICP). Tuy phần lớn các dơn vị này chưa được cấp phcp là háo Internet
(chi cổ 4 trang thông tin được cấp phép là báo điện tử), nhưng những ICP phát
trien rất mạnh, có vai trò truyền thông ngày càng lớn, đặc biệt trong lĩnh vực
thời sự và đối ngoại4.
Sụ kết hợp giữa Internet và báo chí được coi là sự "hoà nhập" phu hợp với
nhịp thớ và nhu cầu thời đại. Internet đã và đang tạo ra một môi trường báo chí
hoàn toàn mới về nội dung và hình thức, có công chúng riêng, phương thức phút
hành riêng. Do những đặc trưng truyền tải thông tin trên mạng Internet, và với
mong muôn đạt hiệu quá, những tờ báo Internet với đội ngũ phóng viên riêng,
trụ sở riêng đã hình thành và phát triển mạnh tại Việt Nam. Đặc biệt, trang tin
VascOrient là tiền thân của báo VietNamNet đã có đội ngũ phóng viên riêng từ
rất sớm. Ở Việt Nam có các tờ báo internet tiêu biểu VnExpress, VietnamNet,
VDC Media, đang hoạt động sôi nổi.
Hiện nay, có hai nhóm các trang web thông tin chính được đưa lên mạng
Internet ớ Việt Nam:
- Một là nhóm phiên bản của báo giấy được đưa lên mạng Internet của
các cơ quan báo chí với nội dung gần như nguyên xi với bản in tương ứng. Các
toà soạn háo này vốn sẩn có một đội ngũ làm báo; sẵn có thông tin và uy tín
của tờ báo trong xã hội. Tuy nhiên, họ lại yếu kém về công nghệ, đầu tư khó
khăn trong khi cơ chế lại gò bó, hạn hẹp. Nội dung được truyền tải trên Internet
vần lặp lại phần lớn vào nội dung báo in, như một bán "copy" cùa báo in đưa
lên mạnu.
4 Bò trướng Bộ Van hoá - 'ITiòng tin Pham Quang Nghi phái biếu tại lề ky niệm 5 nam ngàv thành lâp háo
Internet VnHxpress.net (26/1/2006).
7
- Hai là nhóm mạng thông tin của các công ty tin học, đứng đầu là các
ICP như FPT, VASC, VDC, Nctnam Các công ty này có san công nghệ, cơ sớ
hạ tầng; đội ngũ chuycn gia tin học đầu ngành; khá năng đầu tư mém deo vù
năng động trong kinh doanh. Nhưng các công ty này lại khổng có sẩn một đội
ngũ làm báo chuyên nghiệp, mà phái xây dựng đội ngũ từ đầu. Các công ty này
xây dựng các trang thông tin - tờ báo Internet có nội dung và hình thức độc lập,
không lệ Ihuộc vào một tờ báo in tương ứng nào. VietNamNet và VNExprcss
có trụ sở riêng, có đội ngũ phóng viên và biên tập viên riêng.
Đến nay, cổ thê khẳng định, sự phát triển của báo chí Internet ớ nước ta
đã diễn ra khá sôi động và có ảnh hưởng ngày một sâu rộng trong xã hội. Sô
lượng độc giá - người truy cập tăng nhanh, nhất là những tờ báo Internet bước
đầu đã có sự chuyên nghiệp như VNExpress và VietNamNet.
Với sự phát triển của CNTT và mạng Internet, báo chí Internet và báo
Internet đã xuất hiện, đang và sẽ phát triển nhanh chóng. Đê nhận định chính
xác xu hướng phát triển của báo Internet trong thời gian 5 năm tới, trước tiên
cán hiểu cặn kẽ những đặc trưng cơ bản của báo Internet so với các loại hình
báo chí khác cũng như khả năng xã hội hóa, và xa hơn là khả năng phối hợp với
xã hội điện tử Nghiên cứu xu hướng phát triển của báo Internet Việt Nam
trong 5 năm tới qua khảo sát hoạt động của cơ quan báo Internet VnExpress và
VietNamNet sẽ là thiết thực.
Tóm lại, đây là đổ tài có ý nghĩa và cần thiết cho hoạt động thực tiễn
cũng như lý luận về báo Internet, góp phần nâng cao chất lượng (tính tương tác)
của báo Internet ở nước ta trong giai đoạn hiện nay và trong thời gian 5 năm tới.
2. Lịch sử nghiên cứu vân đề:
Trong số các luận văn tốt nghiệp và các đề tài nghiên cứu khoa học của
Khoa Báo chí, Trường ĐH KHXH & NV, ĐHQG Hà Nội, trong 5 niên khoá
liên tiếp (năm 2001 đến 2005), chi có các đé tài về báo chí Internet mà chưa có
đe tài nào nghiên cứu riêng về nâng cao chất lượng (về tính tương tác) trong xu
hướng của báo Internet trong 5 năm tới. Các luận văn về báo chí Internet là:
8
luận văn thạc sĩ "Phát thanh trên mạni> Internet" của Nguyền Sơn Minh; "N^ón
Iiiịữ háo chí Internet" của Phạm Thu An. Các khoá luận tót nghiệp "Bước dần
tiếp cận loại liìnli báo chí trực tuyến” của Nguyền Sĩ Hoàng; "Cơ sớ pháp ly va
thực írựniỊ lioạt dộiií’ của báo diện tứ trên mạng Internet à Việt Nam hiện nay"
của Ngô Thị Hồng Minh; "Thê loại tin trên báo trực tuyến" của Nguyẻn Thị
Huyền, “ứ ni’ dim ạ truxên thâni> đa phương tiện trên báo trực tuyến Việt Nam ”
của Nguyên Thuý Bình.
Đề tài "Nâng cao chất lượng báo chí Internet trong thòi gian tới"
(trong đó nhàn mạnh náng cao chất lượng tính tương tác) là một đề tài mới;
tập trung nghiên cứu báo Internet trong hệ thống báo chí nói chung và đặc
trưng, xu hướng của tính tương tác trong 5 năm tới ở Việt Nam.
3. Đối tưựng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Hiện nay, có 82 tờ báo được Bộ Văn hoá - Thông tin cấp phép hoạt động
trên mạng Internet. Bên cạnh đó còn có hàng loạt các website độc lập khác
được thiết kế để cung cấp thông tin, Với mục đích khảo sát, đề xuất các giải
pháp nâng cao chất lượng báo Internet (thông qua tính tương tác), nên tác giả
chí chọn ra 2 website đã được Bộ Văn hoá - Thông tin chính thức công nhận là
2 tờ báo điện tử (báo Internet) để khảo sát. Còn các website khác ở dạng báo
chí được truyền tải trên mạng Internet chỉ được so sánh với 2 tờ báo Internet
trên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đê tài:
Nhằm tập trung khảo sát sâu và để ra những giải pháp cụ thể để nâng cao
chất lượng và hiệu quả hoạt động của báo Internet, chúng tôi chú trọng vào tính
tương tác, vì đây là một đặc điểm rất quan trọng trong số nam đặc trưng cơ bản
cùa báo Internet. Tính tương tác là cầu nối giúp từ báo đến được với độc gia
một cách thân thiện và hiệu quá.
9
Vẽ mặt thời gian, đổ tài sẽ kháo sát 2 tờ háo Internet là VnExprcss và
VietNamNet từ tháng 1/2003 đến tháng 1/2005. Thời điếm chọn dè khao sát
được cân nhác gắn với thời điếm cụ the 2 vvebsite này được Bộ Văn hoá -
Thòng tin công nhận là 2 tờ báo Internet vào tháng 2/2003.
Tuy nhiên, báo Internet là một loại hình báo chí còn mới mỏ ở Việt Nam
vá đang trong giai đoạn điều chinh mạnh mõ. Vì vậy, tác giá vẫn liên tục cập
nhật những thông tin mới về sự thay đổi, phát triển của 2 tờ báo Internet trong
luận văn.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài nhàm đề xuất các giải pháp
nâng cao chất lượng báo Internet, mà tiêu biểu là xu hướng tương tác giữa độc
gia và toà soạn ngày càng mạnh, càng “xích lại gần nhau” hơn. Thông qua khảo
sát thực tiễn hoạt động của 2 tờ báo Internet để đánh giá, chỉ ra những mặt
mạnh - yếu của tính tương tác trên báo Internet so với các loại hình báo chí
khác. Đổng thời, qua đó đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng báo
Internet trong thời gian tới, điển hình là nâng cao chất lượng tương tác. Trên cơ
sở đó, đề xuất các giải pháp và kiến nghị cụ thể nhàm nâng cao hiệu quá hoạt
động và tác động của các tờ báo Internet.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu là các nguycn lý của chủ nghĩa
Mác - Lênin; chủ nghĩa duy vật biện chứng; chủ nghĩa duy vật lịch sử; quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh vé báo chí và công
tác tư tưởng.
Cơ sứ nghiên cứu thực tiễn của luận văn là hoạt động của 2 tờ báo
Internet là VnExpress và VietnamNet trong thời gian từ tháng 1/2003 đến tháng
1/2005.
Đế thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn, chúng tôi sứ dụng các
phương pháp nghiên cứu sau:
10
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết: tra cứu tài liệu nghiên
cứu khoa học vé truyén thông trực tuyên; sách, hồ sơ, văn bán pháp luật
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: phỏng vân, điều tra xã
hội học, thăm dò dư luận trên mạng, kháo sát và phân tích các mạng thống tin
trong và ngoài nước, so sánh, đánh giá theo tiêu chí của đồ tài.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn:
- Đề tài góp phần tổng hợp những quan niệm, những lý luận ban đầu
(hiện chưa có nhiều) về loại hình báo Internet. Đề tài cũng khảo sát hoạt
động thực tế của 2 tờ báo Internet tiêu biểu của nước ta hiện nav, từ đó khái
quát lên những mặt mạnh - yếu cần khắc phục và vai trò, xu hướng của nó
trong sự nghiệp báo chí Việt Nam trong 5 năm tới.
- Qua kết quả nghiên cứu, trên cơ sở lý luận và thực tiễn, để tài cố
găng đưa ra những giải pháp và kiến nghị thiết thực, góp thcm căn cứ khoa
học đê tiếp tục định hướng, nâng cao chất lượng và hiệu quả truyền thông
của báo Internet.
- Để tài hoàn thiện trở thành tài liệu tham khảo cho các công trình
nghiên cứu khoa học có liên quan; tài liệu tham khảo với những người quan
tâm đến Internet và báo Internet.
7. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, phần Danh mục tài liệu tham kháo và
Phụ lục; phần nội dung của luận văn gồm có 3 chương:
Chương I: Tổng quan về báo chí Internet và tính tương tác của báo
Internet.
Chương II: Hiện trạng tính tương tác trên báo Internet ở Việt Nam (khảo
sát tròn báo VnExprcss và VietNamNet từ tháng 1/2003 đến tháng 1/2005).
Chương III: Nâng cao chất lượng tính tương tác cua báo Internet trong
thời gian tới.
11
PHẤN NỘI DUNG
C H Ư Ơ N G I:
TỒNG QUAN VỀ BÁO CHÍ INTERNET
VÀ TÍNH TƯƠNG TÁC CỦA BÁO INT ERNET
1.1 Sự ra đời và phát triển Internet ở Việt Nam:
Ngày 5/3/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định thành lập Ban
điều phối quốc gia mạng Internet ở Việt Nam để điểu hoà, phối hợp việc quản
lý, phát triển mạng và dịch vụ Internet ở Việt Nam. Đồng thời cũng trong ngày
5/3/1997, Chính phủ đã ban hành Nghị định 21/CP kèm theo Quy chế tạm thời
vé quản lý, thiết lập sử dụng mạng Internet ở Việt Nam. Ngay sau khi hán Quy
ché này ra đời, hàng loạt các văn bản pháp lý được ban hành làm cơ sở cho sự
phát triển Internet nói chung và báo điện tử nói riêng như: Thông tư hướng dẫn
cấp phép việc kết nối cung cấp và sử dụng Internet ớ Việt Nam do Liên bộ
Tổng cục Bưu điện, Bộ Nội vụ, Bộ Vãn hoá -Thông tin ban hành ngày
25/4/1997, quyết định về biện pháp và trang thiết bị kiểm tra, kiểm soát, đảm
báo an ninh quốc gia trong hoạt động Internet do Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban
hành ngày 23/10/1997, Quyết định số 679/1997/QĐ-TCBĐ ban hành thể lệ
dịch vụ Internet ở Việt Nam do Tổng Cục trưởng Tổng cục Bưu điện ban hành
ngày 14/11/1997. Quyết định 1110/BC ngày 23/5/1997 của Bộ Văn hoá -
Thông tin ban hành Quy chế việc cung cấp thông tin trên mạng Internet.
Trước sự phát triển của Internet, sự ra đời của loại hình báo chí điện tử,
tháng 6/1999, Quốc hội đã han hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều cua
Luật Báo chí, trong đó quy định báo điện tứ là một loại hình báo chí có vai trò,
VỊ trí, chức năng như những loại hình báo chí truyền thống khác. Điểu 3,
Chương I của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí quy định rõ:
"Báo chí nói tronạ luật nciy là báo chí Việt Nam bao í>ồm: Báo in (báo, tạp chí,
biin tin thời sự, bán tin rlióniỊ tân), báo nói (chương trình phứt thanlì), báo hình
(chươnạ trình tnixên hình, chiúínạ trình ììạhe - nhìn thời sự dược thực hiện
12
hăng các biện pháp kliúc nhau), báo diện tử (dược thực hiện trẽn nụuìiị thông
un máy tín h) bằHíỊ tiêng Việt , tiếtiiị các dàn tộc thiếu sô'Việt Nam, tiờhiỊ nước
Sau khi báo điện tử được chính thức công nhận như một loại hình báo chí
thông thường và đặc biệt là do sự phát triển ngày càng nhanh của Internet, hàng
loạt các tờ báo điện tử, các website thônu tin ra đời trên mạng khiến công tác
quán lý thông tin của các cơ quan chức năng ngày càng khó khăn.
Để khắc phục những hạn chế của những vãn bản pháp lý hiện có và hổ
sung những quy đinh mới phù hợp với hoạt động Internet hiện nay, neày
23/8/2001, Chính phú đã ban hành Nghị định 55/2001/NĐ-CP về quản lý và sứ
dụng dịch vụ Internet, thay thế Nghị định 21/CP ngày 5/3/1997 trước kia. Điểu
2 của Nghị định 55/2001/NĐ-CP quy định rõ: "Internet là một hệ thốnq thôiiiỊ
tin được kết nối với nhau bởi giao thức truyên thông Internet (ỈP) và sử dụng
một hệ thống địa chỉ thống nhất trên phạm vi toàn cầu đ ể cung cấp các dich vụ
và ứng dụng khác nhau với người sử dụng".
Cho đến nay, Internet trên mạng thông tin toàn cầu đã tồn tại được hơn
30 năm (từ năm 1974). Nhưng ớ Việt Nam chỉ bắt đầu nhắc tới Internet và trao
đổi thông tin giữa các nhà khoa học thông qua Internet mới xuất hiện trong
vòng 10 năm trở lại đây. Tuy vậy, sự tác động của nó đối với tất cả các lĩnh vực
đời sống xã hội ngày càng sâu sắc, toàn diện và cũng hết sức phức tạp. Năm
1993, Viện Công nghệ Thông tin, thuộc Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công
níhệ Quốc gia là cơ quan khoa học đầu tiên ở Việt Nam xây dựng thứ nghiệm
một mạng máy tính nối với Internet có tên là Varnet. Varnet chú yêu phục vụ
cho nghiên cứu khoa học, giáo dục và đào tạo. Kỹ sư Trần Thái Bá, tác giả
chính của Varnct cho rằng, Việt Nam cần phải tham gia một cách tích cực vào
Internet thay vì thụ động. Một mặt sử dụng Internet để khai thác kho tàng kiến
thức của thế giới, mặt khác phái sứ dụng Internet như một công cụ để giới
thiệu, tuycn truyền về đất nước, con người và những đối mới của Việt Nam.
Đặc biệt quan trọng lù việc xây dựng các cơ sớ dữ liệu vé Việt Nam như: Thông
tin vè hoạt động khoa học, giáo dục; thông tin về các thành tựu kinh tế xã hội;
13
thông tin vé cơ câu tổ chức chính phủ; vé hiến pháp Việt Nam, vè luật đầu tư,
Thực tẽ thành công của những năm đổi mới cho tháy việc mớ cửa làm tang sự
hiểu biết đối với Việt Nam, đã làm giam bớt những trào lưu tư tướng chống đối
tu' hên ngoài.
Từ năm 1994, một số mạng thông tin vươn ra nước ngoài cũng đã được
tliiết kế. Khởi đầu là mạng Tnct của Trung tâm Kỹ nghệ phần mém CSE nối
vào mạng Internet qua Viện Công nghệ châu Á (AIT) ỏ' Băng Cốc.
Ngày 2/5/1995 Trung tâm Thông tin Khoa học Công nghệ thành phô Hổ
Chí Minh đã chính thức khánh thành "cổng” giao tiếp Internet của mạng thông
tin máv tính Hồ Chí Minh CNET nối vào Internet qua Singgapore.
Để tạo đà cho ngành công nghệ thông tin Việt Nam, Chính phủ đã có
quyết định xây dựng mạng thông tin quốc gia kết nối Internet. Mặc dù tại thời
điểm mới bắt đầu, các nhà kinh doanh dịch vụ trên mạng còn rất e dè đầu tư
vào lĩnh vực này vì thị trường Việt Nam còn nhiều hạn chế. Hạn chế lớn nhất là
thói quen chưa xem sản phẩm trí tuệ là thị trường hàng hoá và chưa có thói
quen mua bán thông tin.
Năm 1996 đánh dấu sự bùng nổ của cách mạng thông tin. Tháng 8 nám
1996, công ty FPT đã chính thức mở rộng mạng dịch vụ thông tin “Trí tuệ Việt
N am ” bằng một đòn chiến lược nặng ký - miễn phí toàn bộ cho tất cả các thuê
bao. Chính điều này đã thu hút được một số lượng lớn khách hàng đang sử dụng
các máy tính 386-486 mà lúc đó còn rất phổ biến ở Việt Nam. Mặt khác, ‘T rí
tuệ Việt N am ” đcm lại cho những người sử dụng một suy nghĩ mới - máy tính
không chi phục vụ công việc mà còn là một kho tàng giải trí, một chiếc cầu nối
hàng nghìn con người trong thông tin.
Nhìn chung sự ra đời và phát triển của dịch vụ Internet Việt Nam đã
hước đầu đáp ứng được nhu cầu thông tin của nền kinh tế xã hội, nhu cầu đổi
mới, hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Thực tiẽn hoạt động thời gian qua
cho thấy, Internet trở thành một công cụ đắc lực trong việc tuyên truyền các
chủ trưưng, chính sách của Đảng và Nhà nước trong nước cũng như ra quốc tế,
14
Internet cũng đã tạo dieu kiện thuận lợi cho người sứ dụng tiếp cận, tra cứu
Ihỏnu tin phục vụ các nhu cáu học tập nghicn cứu, giao lưu văn hóa. các hoạt
đạn« kinh tẽ, thương mại. Điếu này có ý nghĩa hét sức quan trọng trong dieu
kiện Việt Nam đang tích cực chuẩn bị cho hội nhập kinh tế quốc tế.
Ngày 12/7/2003, Hội Tin học TP HCM đã công bỏ thứ hạng cúa CNTT
Việt Nam so với các nước khác trên thế giới.
Vé chi sỏ Xã hội thông tin (ISỈ). Chí số này do IDC (Công ty Phút trien
Thông tin) và Tạp chí World Time xếp hạng (công bố tháng 6/2005) dựa trên
23 yèu tô' liên quan đến 4 nhóm: hạ tầng máy tính, hạ tầng internet, hạ táng
thông tin và xã hội. Đày la năm đầu tiên, Việt Nam được xếp hạng ISI cùng với
5.’ quốc gia khác. Năm 2001, 2002 chưa có tên Việt Nam trong danh sách này.
Năm 2003, trong báo cáo về CNTT toàn cầu, Diễn đàn Kinh tế Thế giới
(World Economic Forum) đã xếp hạng Chí sô sản sàng kết nôi - NRI (82
nước). Việt Nam không nằm trong danh sách 10 quốc gia đứng cuối. Năm
2001-2002, xếp hạng 74/75 với điểm số 2,42. Năm 2002-2003, Việt Nam vượt
qua 10 nước đứng trước mình và xếp thứ 71/82. NRI được đánh giá thông qua
các chỉ tiêu vé sử dụng mạng (mật độ sử dụng Internet, điện thoại di động) và
các yốu tố thổ hiện khá năng (truy cập, chính sách, xã hội mạng và kinh tố
m,mg).
Hiện chỉ sô dung lượng kênh Internet/người dùng Internet Việt Nam
theo cách tính của Tổ chức Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) là 600 Bps
( bỵte/second), cao hơn với Trung Quốc (231 Bps), xấp xỉ Thái Lan và tương
đuơng với mặt bằng chung trong khu vực. Đây là tốc độ tăng trướng cao (200-
2 5 0 ^ /năm).
Cũng trong tháng 6/2003, ITU đánh giá, tốc độ phát triển viễn thòng của
Việt Nam xếp thứ hai trên thế giới (sau Trung Quốc). Việt Nam cũng được
co là quốc gia có hạ tầng viễn thỏnc dựa trên công nghệ hiện đại nhát.
Năm 2004-2005 được đánh giá là hai năm có tốc độ phát trien cực nhanh
tn ng lĩnh vực viễn thông - Internet. Trong vòng 12 tháng (5/2004 - 5/2005), sổ
15
người thuê hao Internet tăng 2,38 lấn, số người dùng Internet tăng 1,6 lần. M ặc
dù vậy, con sô này còn rất thấp (í triệu /80 triệu người). Trong số người này
có 8()%-859r số lượng người ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Điêu này
cho chúng ta thây sự phái triển chưa được đồng đểu. Chất lượng Internet đã
(lược cài thiện nhưng chất lượng đường truyền và tốc độ truy cập chưa cao.
Năm 2005 là năm đánh dấu sự đột phá về số lượng thuê hao ADSL và chất
lượng cũng sụt giảm nghiêm trọng. Viettel gia nhập thị trường Internet hãng
thông rộng với mức giá cước thuc bao rẻ và giành được thị phần từ VNPT và
FPT, hai doanh nghiệp chính cung cấp ADSL truyền thống. FPT và Viettel bắt
đầu chạy đua về giảm giá cước. Trong nửa cuối năm 2005, chất lượng dịch vụ
ADSL sụt giảm rõ rệt do số lượng thuê bao tiếp tục tăng mạnh, còn 3 ISP chính
là VDC, FPT và Viettel chưa có sự cải tiến và nâng cấp hạ tầng mạng kịp thời,
gây nên nhiều bức xúc cho khách hàng.
Ngày 09/9/2005, Thủ tướng Chính phủ đã chính thức ra quyết định số
219/2005/QĐ-TTg, phê duyệt "Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010".
Bản chiến lược nhấn mạnh: “Chiên lược phát triển thông tin ỉà một bộ phận
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tê x ã hội của quốc gia, thông tin lcì
CÒHÍỊ cụ cung cấp tri thức, dự báo sự phái triển và là động lực thúc đẩy sự phát
triển xã hội
Các nội dung lớn như: Xây dựng và tổ chức thực hiện các quy hoạch phát
triển thông tin 5 năm, hàng năm; Xây dựng mô hình đào tạo nghiệp vụ về thông
tin; Xây dựng và thẩm định các dự án phát triển thông tin; Xác định tý lệ ngàn
sách hàng năm cho sự nghiệp phát triển thông tin; Xây dựng kế hoạch phát
triển sự nghiệp báo chí; Thực hiện đảm bảo an ninh thông tin trong nước và đối
ngoại cũng được Chính phủ quy định rõ ràng nhiệm vụ cho từng Bộ, ngành.
Năm 2005 là năm đánh dấu sự phát triển vượt bậc về sự phát triển CNTT-
TT và cá hệ thống luật định quản lý. Khung pháp lý về CNTT đã được cụ thế
hoá với sự kiện, ngày 19/11/2005, Quốc hội đã “bấm nút” thông qua Luật giao
dịch điện tứ và có hiệu lực từ 1/3/2006. Luật gồm 8 chương, 54 điều quy định
vé thông điệp điện tử; chừ ký điện tử và chứng thực chữ ký điện tử; giao kết va
16
thực hiện hợp đổng điện tử; giao dịch điện tứ của cơ quan nhà nước; an ninh, an
(oàn, báo vệ, bao mật trong giao dịch điện tử; giải quyết tranh chấp và xử lý vi
phạm trong giao dịch điện tứ
Ngoài sự phát triển về lĩnh vực viễn thông - Internet, Việt Nam còn phát
tiicn mạnh vé vân đề bảo mật, chống tội phạm mạng Tiêu biểu là việc thành
lập Trung tâm phàn ứng nhanh các sự cố máy tính quốc gia vào đầu năm 2006.
Trung tâm này có chức năng nghiên cứu, cảnh báo nguy cơ, !ỗ hổng báo mật,
virus mới xuất hiện, hiện pháp đề phòng; làm đầu mối trao đổi thông tin trực
tuyến 24/24 với các trung tâm xử lý máy tính quốc gia, quốc tế; đưa ra những
biện pháp đề phòng an ninh và tổ chức khắc phục sự cố xảy ra trên diện rộng.
Vấn đề đào tạo, nâng cao chất lượng báo chí Internet cũng được quan
tâm trong Chỉ thị sô 52-CT/TW do Ban Bí thư Trung ương Đáng ban hành
A'iịùy 22/7/2005 vê phát triển và quản lý báo điện tử. C hỉ thị đ ã đặt ra những
nhiệm vụ cẩn làm ngay đ ể nâng cao chất lượng báo điện tử như vấn đé đào tạo
đội ngũ làm báo, tăng cường quản lý nhà nước, xây dipig đội ngũ, đào tạo
1.2. Quan niệm về báo chí Internet và báo Internet:
Mạng Internet cung cấp cho người sứ dụng nhiều dịch vụ tiện ích. Các
dịch vụ này ngày càng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện không ngừng.
Một số dịch vụ chính của Internet hiện có là: thư điện tử (e-mail); thương mại
điện tử (e-commerce); trao đổi các tệp dữ liệu (file transfer); truy nhập thông
tin từ xa (remote login); Telnet (dịch vụ truy nhập tới các tài nguyên thông tin ở
các máy tính chủ kết nối trên Internet); Usenet hay Internet Newsgroups (thảo
luận thông qua việc gửi các bản tin, bài báo); Internet Relay Chat IRC (trò
chuyện trên Internet); các dịch vụ thông tin đa phương tiện (World Wide Web)
- dịch vụ cho phcp người sử dụng kết hợp văn bản, âm thanh, hình ảnh, hoạt
hình, tạo nên các nguồn thông tin tư liệu,
Sự ra đời và phát triển của báo chí Internet như một trong các dịch vụ
tiện ích đã làm cho mạng Internet ngày càng hấp dẫn, nhất là với giới trò. Từ
17
(láy, Internet tạo ra một môi trường báo chí mới với nội dung mới, hình thức
IIlới, thó loại báo chí mới, độc giá háo chí mới,
Loại hình báo chí mới này được gọi hãng nhiêu ten khác nhau: háo
mạng, báo điện tử, báo trực tuyến, háo chí Internet,
Nếu gọi là báo điện tử, thì phát thanh và truyền hình vốn được gọi là báo
điện tử. Cho nên việc dùng thuật ngữ "báo điện tử" để chỉ loại hình báo chí mới
trên mạng Internet này dẻ gây cảm giác nhầm lẫn, không rũ ràng, không có dặc
trưng khu biệt.
Báo trưc tuyến là thuặt ngừ dược nhữne người làm tin học (chu yếu trong
lĩnh vực mạng Internet), những người nghiên cứu và giảng dạy, học tập về báo
chí, lãnh đạo các cơ quan báo chí có đưa sản phẩm háo chí của mình lcn mạng
Internet bất đầu chuyển sang sử dụng.
Trên thế giới, để chỉ loại hình báo chí này, người ta cũng thường sử dụng
thuật ngữ "online newspaper" (nghĩa là "báo trực tuyến"). Tuy nhiên, trong mối
quan hệ so sánh với thuật ngữ "báo chí Internet", thuật ngữ "báo trực tuyến"
không rõ ràng bằng và cũng không bộc lộ hết nhữne đặc trưng khu biệt của loại
hình báo chí mới dựa trên nền tảng mạng Internet. Từ "trực tuyến" Õ thế hiện
một khía cạnh kỹ thuật điện tử, tin học, chỉ trạng thái tương tác thời gian thực
của các thiết bị với nhau (hai người đang nói chuyện điện thoại, hai đầu cầu
phát thanh, truyền hình trực tiếp, các hệ thống thông tin điện tử đang hoạt động
trực tiếp cũng có thê được coi là trực tuyến).
Thuật ngữ "báo chí Internet" (tiếng Anh là "Internet newspaper" - là tên
gọi chính xác nhất của loại hình báo chí mới này (6). Bới nó cho phép nắm bắt
và hiểu một cách rõ ràng, nhanh chóng về bản chất, đặc trưng cô đọng nhất của
loại hình báo chí mới được hình thành và phát triển gắn chặt với mạng Internet.
Tuy nhicn, hiện nay ứ Việt Nam có 2 nhóm các trang web thông tin chính là:
nhóm phiên hán của báo in được đưa lên mạng Internet và nhóm nguồn thông
tin của các tổ chức khác, chủ yếu là những công tv tin học tự xây dựng những
' Theo Đại tư diên liếng Việt, trang 1736, Nhà xuất bán Van hoá Thông tin. nam 1998.
Theo TS. Thang Đức Thảng. Tổng biên táp báo VnHxpress. bài giáng "Báo chí trực tuyến" cao hoe Khoá 6.
18
trang thông tin có nội dung và phong cách tương đôi độc lập, không lệ thuộc
v;to imuổn tin chính của một tờ háo in tương ứng nào, có trụ sơ riêng, đội ngũ
pliórm viên độc lập và các hài viết riêng. Ticu bicu là hai tờ VnExpress và
VietNamNct. Bới vậy, luận văn này SC sư dụng thuật ngữ "báo Internet” đế ch 1
2 tờ háo VnExpress và VietNamNet là đối tượng nghicn cứu của luận văn, đế
phân biệt với những website là phiên bản của các tờ báo in trên mạng Internet
(gọi chung là báo chí Internet).
Hiện nay có nhiều cách hiểu về báo chí Internet và báo Internet nhưng
chưa có văn bản thể hiện chính xác.
Thứ nhất, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật báo chí năm 1999
có một trong những điểm mới nổi bật là nhấc đến loại hình báo chí mới với tên
ơọi báo điện tử. “Báo chí nói trong Luật này là báo chí Việt Nam, bao gồm: báo
in (báo, tạp chí, bán tin thời sự, bản tin thông tấn), báo nói (chương trình phát
thanh), báo hình (chương trình truyền hình, chương trình nghe - nhìn thời sự
dược thực hiện bàng các phương tiện kĩ thuật khác nhau), báo điện tử (được
thực hiện trên mạng thông tin máy tính) bằng tiếng Việt, tiếng các dân tộc thiểu
sô Việt Nam, tiếng nước ngoài”. (7)
Như vậy, Luật báo chí cho ràng báo chí Internet là loại hình háo chí được
thực hiện trên mạng thông tin máy tính bằng tiếng Việt, tiếng các dân tộc thiếu
sô Việt Nam, tiếng nước ngoài.
Thứ hai, theo cách hiểu thông dụng và đơn giản hiện nay, báo chí
Internet là hình thức phát hành trên mạng Internet của một tờ háo in có sẩn hay
đưa phát thanh, truyền hình lên mạng Internet. Ví dụ như Lao động điện tử,
Nhân dân điện tử, VTV online, v o v online Như vậy, báo chí Internet chí là
một phiên bản, một hình thức thích ứng của báo chí truyền thống trong thời đại
hùng nổ thông tin Internet.
Nghị định 55 của Chính phú về việc quán lý, cung cấp và sử dụng dịch
vụ Internet ban hành ngày 23/8/2001 đề cập đến báo chí Internet như là một
Luật sửa dổi bổ sung một số điều cùa I.uât háo chí nám 1999. Điếu 3: Các loai hình háo chi. Nha xuàt bán
Chinh In Quòc ma. nam 1909.
19
loại hình dịch vụ thông tin Internet nằm trong các loại hình dịch vụ úng dụng
Internet. Báo chí Internet là việc "phát hành háo chí (háo nói, báo hình, háo
tiện tứ)" Iren Internet (x).
Thứ ba, có quan niệm cho rằng, báo chí Internet thực chất là một trang
web (website) trên Internet. Website là cổng thông tin có chứa các siêu liên két
dần đến nội dung thông tin và được đánh địa chi. Tuy nhiên, nếu hiểu theo cách
này thì quá rộng. Vì một tờ báo Internet đúng là một trang web, nhưng không
phái trang web nào cũng là báo Internet.
Thứ tư, có người quan niệm báo chí Internet ỉà một loại hình báo chí có
sư can thiệp của cóng nghệ cao, được chế tác, xuất bán và chạy trên mói trường
diện tử. (9) Một chuyên gia trong lĩnh vực này định nghĩa: "Một từ báo Internet
là một tờ báo thực hiện các chức năng của báo chí bằng phương tiện Internet"
Vậy, như thế nào thì được xác định là báo chí Internet? Trong công trình
nghiên cứu "Newspaper publishing and the World Wide Web" công bô năm
1998, hai tác giả Michel H.Jackson và Nora Paul đã đưa ra những tiêu chí mà
những trang web phạm vào một trong những tiêu chí đó thì không được coi là
một tờ báo Internet:
+ Trang web của một công ty truyền thông hay tổ chức mà không cung
cấp một sán phẩm báo chí riêng biệt để làm báo.
+ Trang web chỉ bao gồm một trang.
+ Trang web chỉ cung cấp khung trang (để mục) mà không có nội dung
đi kèm.
+ Trang web chỉ cung cấp những thông tin rao vặt, quáng cáo
+ Trang web không có bản in tương ứng.
* Khoán 3, điều 12. Nghi định 55/2001/NĐ-CP. ngày 23/8/2001.
l' Theo òng Mai Linh - Trung tám diều hành thông till mạng Internet Viét Nam Bỏ Van hoá Thône im.
Theo TS. Thang Đức Tháng.
20
+ Tran lí web không được cập nhật thông tin trong vòng 15 ngày. ( ")
Hiện nay, trên thố giới đã có nhiéu háo Internet xuất ban độc lập, khổng
phụ thuộc vào bán in tương ứng. Ớ Việt Nam hiện nay, có một số trung web
dược coi la những tờ báo Internet thành công nhất như VnExpress. VietnamNet,
VDC Media cũng không có bản in tương ứng. Cho ncn, quan điếm thứ năm
của hai lác giả trên (trang web không có bản in tương ứng thì không được coi là
háo internet) không còn phù hợp. Các tiêu chí còn lại soi vào thực tiễn báo chí
Internet trên thê giới và Việt Nam hiện nay vẩn còn giá trị.
Nếu cán cứ vào việc cấp phép của Bộ Van hoá Thông tin thì hiện nay
Việt Nam có 4 tờ báo Internet là VnExpress, VietNamNet, VDC Media,
website Đảng cộng sản Việt Nam. Phóng viên của những tờ báo này khi được
cấp mới và làm lại thẻ nhà báo cũng đéu được ghi là phóng viên báo Internet.
Vậy báo Internet là gì?
Dựa vào những phân tích, tác giả xin thử đưa ra một quan niệm về báo
Internet, như sau: “Báo internet ìà một loại hình báo chí mà sản phẩm của nỏ
dược lực lượn» phóng viên riêng rổ chức, xây dựng, xuất bán, phát hành độc lập
dựa trên nên tánq mạng Internet toàn cẩu.
1.3. Báo chí Internet trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay:
Hiện nay, ở Việt Nam cũng như trên thế giới, chưa có tài liệu nghiên cứu
sâu về lí luận cũng như thực tiễn của báo chí Internet.
Kc từ khi Internet bùng nổ và lan toả trên phạm vi toàn cầu vào những
năm 90 của thế kí XX thì cũng là lúc Internet trở thành một kho thông tin
khổng lồ. Bên cạnh những trang thông tin nghiệp dư cá nhân, hàng loạt các nhà
cung cấp thông tin chuyên nghiệp bắt đầu khai phá mánh đất màu mỡ này. Các
hãng thông tấn lớn như Reuters, AFP, AP, ; các tập đoàn truyền thông CNN,
NBC.BBC, MSN, ; báo New York Times, Washington Post, World Street
1 "Báo chí phát hành Iren mang suy nghĩ vé một cái tên" - tác giá Nguyền Sỹ Hoàng. Tạp chí Người làm hao.
số tháng 3-2001.
21
Journal v.v (leu có inòt án hán điện tứ tren Internet và được ü<)i là háo chí
Internet.
Trên thc giới, các hãng thông tấn, các lờ báo, cúc đài phát thanh, truyền
hình ra thêm báo chí Internet với mục đích giới thiệu phiên hán chính, hỗ trợ
cho chính tờ háo, các đài phát thanh, truyền hình là rất phổ biến. Báo chí
Internet cũng là một phương tiện phát hành mới đế phát triển thêm độc gia,
khán thính gia của họ. Một số tờ hoạt động hiệu quá, thu hút lượng người đọc
lớn nghĩ đến việc kinh doanh bằng loại hình báo chí mới này qua việc bán
quáng cáo, tính cước truy nhập Internet hay bán nội dung ĩhông tin.
Việt Nam chính thức hoà mạng Internet vào ngày 19/11/1997. Ngay đầu
nám 1998, tạp chí Quê hương lần đầu tiên ra mát bạn đọc trên mạng Internet,
được đánh dấu là ngày quan trọng trong lịch sử báo chí Internet Việt Nam. Lần
lượt các tờ: Nhân dân, Lao động đến Đài truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng
nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, các trang web như VNExpress, VDC
Media, VASC Orient (sau này lù VietNamNct) xuất bán sản phẩm báo chí
của mình trên mạng Internet. Hai tờ VietNamNet và VnExpress đưực công
nhận là báo Internet đầu tiên ở Việt Nam.
1- VnExpress là tờ báo của Công ty FPT được chính thức đưa lên mạng
ngày 26/01/2001 có địa chỉ: . Ngày 251 ì 112002, tờ
báo này đ ã chính thức được cấp giấy phép hoạt động báo chí, là tờ báo đầu tiên
trên mạng Internet chính thức được cấp phcp hoạt động báo chí. Với mong
muốn trở thành một tờ báo Internet cung cấp thông tin hữu ích cho độc giả,
VnExprcss hoạt động trôn nguyên tắc: thông tin nhanh, trung thực dựa trên tinh
than xây dựng và cầu thị.
Ra mắt trôn Internet ngày 26/2/2001, 6 tháng sau. từ báo đã lcn vị trí đáu
hang trong số các website tiếng Việt trên toàn cầu và chiếm giữ vị trí này cho
đến ngày hôm nay. Sau gần 1 năm hoạt động, \ 'tìExpress đã trờ thành tờ háo
điện tử không bao cấp. Nguồn thu duy nhất để báo hoạt động là từ quáng cáo.
22
Sau 5 năm hoạt động, đốn nay VnExpress đã thu hút được 1,2 triệu lượt
li uy cập/ngày. Năm 2005, sỏ độc giá thường xuyên trong và ngoài nước đạt hơn
x,9 triệu. Lượng độc gia thường xuycn này đã đưa tờ háo trớ thành tờ háo
Internet lớn nhất tại Việt Nam hiện nay. Ngày 21/7/2005, VnExpress xếp thứ
479 tron« danh sách 500 trang web hàng đầu thế giới của Alexa-công cụ theo
dõi lưu lượng truy cập thuộc tập đoàn thương mại trực tuyên lớn nhất thế giới
Amazone.com. Đây là lần đầu tiên một trang web tiếng Việt được góp mật
trong danh sách các “đại gia” Irên Internet. Được xếp hạng trong danh sách
Global Top 500 khône chỉ là thành tựu riêng của VnExprcss mà còn là sự kiện
đánh dấu bước phát triển nội dung Internet ở Việt Nam. Sau đây là biểu đồ
thống kê số lượng độc giả truy cập VnExpress mỗi ngày trên Alexa (ngày
24/8/2005):
1500
1000
500
0
©2 CO
Năm 2002, khi tờ báo chưa đầy 2 tuổi cũng đã lọt vào top các trang web
dan đầu thế giới. Kết quả theo dõi định kỳ gần 1 năm, VnExpress chưa bao giờ
xuống dưới thứ hạng 2.500/hàng triệu triệu địa chỉ web đang có mặt trên mạng
toàn cầu với khoáng 12 triệu lượt truy cập/tháng và 800.000 độc giả thường
xuycn. Ban đầu, tờ báo phần lớn lấy tin tức từ các báo viết khác trong nước như
Lao động, Tuổi trẻ, Thanh niên, Nhân dân và dịch các tin tức thời sự thế giới
của các hãng thông tấn, háo chí nước ngoài.
Hiện nay, ngoài phần tin quốc tê gần như dịch nguycn từ báo chí nước
rmoài, các máng còn lại, chiếm đến 85-90% là các bài viết trực tiếp của phóng
viên toà soạn.
23
Daily Reach (per million)
vnexpf ess.net
Tờ VnExpress được biết (lên trước tờ VietNamNct do hình thành phorm
cách tờ háo điện tử sớm hơn, cập nhật thông tin nhanh và chính xác. Mau sác
tiên các trang háo được bó trí hai hoà. Giao diện của tờ báo này cũng rất gán
nùi, thán thiện với độc giá. Cách bố trí thông tin theo sơ đồ hình cây, rất logic,
khoa học, giúp độc giá tìm kiếm thông tin nhanh và hiệu quá.
Chất lượng thông tin được nâng cao đồng nghĩa với “thương hiệu” cua
VIIExpress càng lớn mạnh.
2- VietNamNet: Ngày 02/9/2001, trang chú http ://www.vnn.vn lần đầu
ticn ra mắt công chúng mang tên Vasc Orient (hiện nay là VietNamNet) phát
triển iheo hướng thời sự, chuyên sâu, công chúng có thể thu nhận thông tin.
thảo luận trao đổi trực tiếp về mọi vấn đề trong và ngoài nước.
Ban đầu cơ quan này có 6 người, trong đó có 3 phóng viên chuycn thực
hiện các bài viết độc lập bên cạnh việc lấy tin từ các báo khác. Đến năm 2003,
khoảng 70% lượng tin bài đã được các phóng viên và cộng tác viên thường
xuyên thực hiện. Tờ báo này phân công trực tiếp mỗi phóng viên theo dõi một
mảng để tài riêng và rất hạn chế lấy thông tin từ các báo khác. Đến nay, ngoài
phần tin quốc tế, các mảng khác có khoảng 85-90% bài viết là của chính phóng
viên của báo thực hiện. Tờ báo này có xu hướng phát triển thành một tập đoàn
báo điện tử trong đó có các tờ báo con theo từng chủ đề: thể thao với trang web
riêng , truyền hình có riêng trang web
, tin tức có riêng trang , thê
giới ánh có trang , đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp
có , ký lục Việt Nam có trang
Ngoài ra còn có các chuyên san như: chuyên san vế quê hương có trang web:
, mốt và thời trang có trang web riêng:
hUp:/'netmode.vietnamnet.vn, âm nhạc lại có trang riêng với địa chi:
hitp:/'giaidieuxanh.vietnarnnet.vn, dành cho đồng bào ở xa tổ quốc cũng có
tranü web riêng với địa chỉ: . Thông tin về
xuất nhập khẩu, VictnamNet cũng có riêng một chuyên san với địa chí:
24
. Tờ báo này đã thu hút được sỏ' lượt người
Iruy cập khá nhanh. Đáu năm 2004, lượng bạn đọc (visitor) chi ớ mức 250.000
thì đến nay, hàng ngày có 1,2 đốn 1.6 triệu lượt hạn đọc truy cập VietNamNet.
Lượng hits cũng tăng từ 10 triệu/ngày lên đến 60-70 triệu/ngày. Nhiẽu hài háo
lạo được độ rung trong dư luận, báo đã có chỗ đứng trong lòng hạn đọc.
Đổng hành với chất lượng thông tin của lờ báo Internet ngày càng cao
cũng như nám bắt được xu hướng ticu thụ báo chí của độc già trong nước vù
nước ngoài đối với háo chí Internet và báo Internet, các doanh nghiệp và các
v õ n g ty chuycn đặt quảng cáo đã đê’ mắt tới quảng há hình Anh thương hiệu của
họ trên loại hình báo chí mới này. Từ xuất phát điểm đăng miễn phí,
VictnamNet đã có doanh thu quáng cáo khá cao, nhất là trong vài năm gần đây.
Dưới đây là biêu đồ thống kê lưu lượng độc giả truy cập VietnamNet mỗi
ngày trên trang web http:www.alexa.com (ngày 24/8/2005):
Daily Reach (p er million)
Vietnam net.vn
Ngoài hai tờ báo Internet hàng đầu của Việt Nam nói trên, còn phái kế
đốn 80 từ báo và tạp chí khác trên mạng Internet như: website Đáng Cộng Sán,
Đài Truycn hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Lao động, Thanh niên,
Tuổi trỏ, Tạp chí xây dựng Đảng, Báo quốc tế, Báo đầu tư, Báo ảnh Việt Nam,
Thời báo kinh tế Việt Nam, Tạp chí truyền hình, Báo Sài gòn Giải phóng,
Về mục đích xây dựng them háo chí Internet bôn cạnh báo chí in hay các
đài phát thanh, truyền hình, các toà soạn báo chí này ở Việt Nam đặt nhiệm vụ
chính trị lén hàng đầu. Đây là một phương tiện thông tin đối ngoại hiệu quá. Sự
bát dấu của háo chí Internet Việt Nam là thông tin đối ngoại. Với thè mạnh
25