Liên văn bản trong Những thứ họ mang của Tim O‟Brien
Nguyễn Hoàng Cúc – Cao học Văn K56 Page 1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN HOÀNG CÚC
LIÊN VĂN BẢN TRONG
NHỮNG THỨ HỌ MANG CỦA TIM Ơ BRIEN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Hà Nội - 2014
Liên văn bản trong Những thứ họ mang của Tim O‟Brien
Nguyễn Hoàng Cúc – Cao học Văn K56 Page 2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN HOÀNG CÚC
LIÊN VĂN BẢN TRONG
NHỮNG THỨ HỌ MANG CỦA TIM Ơ BRIEN
Chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài
Mã số: 60 22 02 45
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS Lê Huy Bắc
Hà Nội - 2014
Liên văn bản trong Những thứ họ mang của Tim O‟Brien
Nguyễn Hoàng Cúc – Cao học Văn K56 Page 3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Trong văn học nghệ thuật, nhân loại đã chứng kiến bao sự vận
động phát triển, từ manh nha đến lúc cực thịnh rồi thoái trào của chủ nghĩa
lãng mạn (romanticism) chủ nghĩa cổ điển (classicism)… Chủ nghĩa hiện
đại (modernism) rồi đến hậu hiện đại (postmodernism) vẫn đang tiếp tục là
những giai điệu mạnh mẽ trong bản giao hưởng văn học thế kỉ XX và đầu
thế kỉ XXI. Không chỉ đặt vấn đề xem lại quan niệm về hiện thực đời sống,
quan niệm về con người hậu hiện đại còn góp phần tạo ra những lý thuyết
mới, những hệ thống thi pháp mới, những cách đọc mới. Một trong số đó
chính là Liên văn bản (intertextuality).
Không phải đến hậu hiện đại, khái niệm liên văn bản mới xuất hiện,
nhưng ở hậu hiện đại liên văn bản đã mang diện mạo và nội hàm mới. Nó
trở thành một cách đọc, một phương pháp tiếp cận tác phẩm văn chương
về cả nội dung lẫn nghệ thuật, sâu xa hơn nữa là về lịch sử, thời đại, xã
hội, phông văn hóa của tác giả cũng như vùng miền nơi tác phẩm thuộc về.
Thậm chí, khái niệm liên văn bản còn làm thay đổi cả nội hàm của khái
niệm văn bản: không có một văn bản nào không phải là một liên văn bản
và ngược lại, liên văn bản nào cũng tồn tại như một văn bản.
1.2 Cuộc chiến tranh với quân đội Mỹ đã lùi xa gần bốn mươi năm,
nhưng nỗi đau để lại cho người dân ở cả hai bờ chiến tuyến vẫn hiện hữu
như nó chỉ mới rời đi ngày hôm qua. Những câu chuyện từ “phía bên kia”
kể những truyện chân thực về chiến tranh, về những nỗi ám ảnh, hối hận,
sợ hãi… của người lính Mỹ tham chiến tại Việt Nam đã không còn hiếm
Liên văn bản trong Những thứ họ mang của Tim O‟Brien
Nguyễn Hoàng Cúc – Cao học Văn K56 Page 4
hoi. Trong số đó, The things they carried – Những thứ họ mang của Tim
O‟Brien được đánh giá là một trong những tác phẩm văn chương hậu hiện
đại hay nhất về chiến tranh Việt Nam, được coi là Nỗi buồn chiến tranh
phiên bản Mỹ. Tác giả là một cựu binh từng tham chiến ở Việt Nam và
như lời Thống tướng Douglas Mac Arthur của quân đội Hoa Kỳ: “The
soldier above all other prays for peace, for it is the soldier who must suffer
and bear the deepest wounds and scar of war” – “Người lính là người cầu
nguyện cho hòa bình nhiều hơn bất cứ ai, bởi chính người lính là người
phải chịu đựng và mang những vết thương và sẹo chiến tranh nặng nề
nhất”. Được in hoàn chỉnh năm 1990, nhưng trong số hai mươi hai tác
phẩm của toàn tập truyện, có mười truyện được in rải rác từ năm 1977 đến
năm 1986 và đã đem lại cho Tim O‟Brien rất nhiều giải thưởng quan trọng
về truyện ngắn.
Không đơn giản tái hiện lại không gian cuộc chiến với bao góc khuất,
tường thuật lại những sự thật xảy ra trong chiến tranh, Những thứ họ mang
đưa tới sự mới mẻ với những sáng tạo bút pháp mang tính thẩm mỹ hậu
hiện đại. Văn bản dường như được dệt nên bằng những tấm mạng chằng
chịt, chồng chéo của sự thật, hư cấu, tưởng tượng, đan cài nhiều thể loại.
Người đọc muốn thưởng thức chúng cần có cách đọc hợp lý, và một trong
số đó là áp dụng cách tiếp cận liên văn bản.
Bởi những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề “Liên văn bản trong
Những thứ họ mang của Tim O’Brien” làm đề tài cho luận văn thạc sỹ
của mình. Trên cơ sở lý luận về liên văn bản, chúng tôi mong muốn đóng
góp một cách tiếp cận mới với câu chuyện “đầy sức mạnh, một chứng nhân
gây xúc động về các trải nghiệm của một đại đội bộ binh tại Việt Nam đầy
khơi gợi và ám ảnh”.
Liên văn bản trong Những thứ họ mang của Tim O‟Brien
Nguyễn Hoàng Cúc – Cao học Văn K56 Page 5
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Theo Rjanskaya trong Liên văn bản – sự xuất hiện của lịch sử và
lý thuyết của vấn đề (Ngân Xuyên dịch) thuật ngữ liên văn bản lần đầu tiên
xuất hiện trong một tham luận của Kristeva nói về sáng tác của Bakhtin,
đọc tại hội thảo do R.Barthes chủ trì năm 1966. Mùa xuân năm 1967, tham
luận được công bố dưới dạng một bài báo đăng trên tạp chí Critique (Phê
bình) với nhan đề: Bakhtin, le mot, le dialogue et le roman – Bakhtin, lời
nói, đối thoại và tiểu thuyết.
Theo nghĩa rộng nhất, khái niệm này có thể hiểu là “sự tương tác của
các văn bản”, nhưng tùy vào lập trường nghiên cứu của các nhà khoa học
mà nội dung cụ thể của nó có thể biến đổi, cách hiểu về thuật ngữ này có
thể phân thành ba cách:
Thứ nhất, Liên văn bản như một thủ pháp văn học xác định (trích dẫn,
ám chỉ, bình giải, nhại, vay mượn), cách hiểu này đòi hỏi sự hiện diện của
văn bản gốc đã có trước và xu hướng của tác giả sử dụng văn bản gốc đó.
Nếu hiểu liên văn bản theo cách này, thì liên văn bản đã tồn tại trong văn
học Việt Nam từ thời trung đại, với việc trích dẫn các điển cố, điển tích
trong các tác phẩm, ý nghĩa của các điển cố điển tích này thường không
thay đổi.
Thứ hai, liên văn bản được hiểu như một thuộc tính bản thể của văn
bản. theo Barthes thì mọi văn bản đều là một liên văn bản với một văn bản
khác. Điều đó nghĩa là liên văn bản được nhận định như là sự xóa nhòa
ranh giới giữa các văn bản của tác giả riêng rẽ, giữa văn bản văn học cá
nhân và văn bản vĩ mô truyền thống, giữa các văn bản thuộc các thể loại và
loại hình khác nhau, giữa văn bản và độc giả, giữa văn bản và hiện thực.
Với ý nghĩa này, liên văn bản phản ánh một quy luật khách quan trong sự
Liên văn bản trong Những thứ họ mang của Tim O‟Brien
Nguyễn Hoàng Cúc – Cao học Văn K56 Page 6
tồn tại của văn học. Và cách hiểu này là ý nghĩa cho thuật ngữ liên văn bản
lần đầu tiên xuất hiện trong công trình của Kristeva.
Theo Kristeva, tuy có sự quy chiếu hai chiều trên hệ toạ độ, trục
ngang (horizontal axis) – thể hiện sự liên kết giữa tác giả và người đọc; và
trục dọc (vertical axis) – biểu tượng cho sự liên kết một văn bản này đến
những văn bản khác bà nhấn mạnh rằng, sự minh hoạ chỉ có tính cách
tượng trưng hơn là sự xếp đặt cứng nhắc và máy móc vào một hệ thống
như thế. Theo bà, liên văn bản sẽ là sự toả lan ra mọi chiều không gian và
thời gian, và việc theo đuổi một hướng nào đó là tuỳ thuộc vào sự chọn lựa
của người đọc, của nhà phê bình và của người viết. Theo Nguyễn Minh
Quân trong Liên văn bản – Sự triển hạn đến vô cùng của tác phẩm văn
học, trong lý thuyết của việc đọc theo lối liên văn bản, các lý thuyết gia
hậu hiện đại thường lưu ý đến những khía cạnh sau đây:
● Tính Biến Đổi (alterationality): tính chất biến đổi một sự kiện, một
tư liệu, một văn bản gốc bằng chính ý thức của người viết, sẽ giúp chứng
minh thêm tính tự giác của người viết sử dụng kỹ thuật liên văn bản. Liên
hệ đến tính biến đổi của intertextuality thể hiện bằng cách bắt chước
(pastiche), châm biếm (parody) hay xoáy vặn (twisting), hoặc thuần tuý
sắp xếp lại những chất liệu sẵn có (collage), có thể là tiểu sử cá nhân
(biography). Tính biến đổi càng tinh tế bao nhiêu, ý thức về liên văn bản
của người viết càng sâu sắc bấy nhiêu.
● Tính Phê Bình Trong Sự Nhận Thức (criticality in compre–
hension): Một quá trình đọc theo lối liên văn bản đối với một văn bản được
viết theo lối liên văn bản phải được tiến hành theo bốn giai đoạn, phân
tich, phá vỡ, kiến tạo và diễn dịch. Dĩ nhiên, bước đầu tiên, người đọc phải
nhận diện mức độ liên văn bản hiện diện trong một tác phẩm văn học.
Liên văn bản trong Những thứ họ mang của Tim O‟Brien
Nguyễn Hoàng Cúc – Cao học Văn K56 Page 7
● Mức Độ Tiếp Nhận và Hợp Nhất (scale of adoption and
incorporation): Đây là ý thức về kỹ năng tiếp nhận, đan xen và hợp nhất
các chất liệu từ nhiều nguồn khác nhau vào trong một văn bản. Nhiều khi,
sự kết hợp khéo đến nổi, nếu không chú ý, chúng ta khó mà nhận ra được
tính chất tương liên của những tầng ý nghĩa trong việc xếp đặt các dữ kiện.
Thứ ba, khái niệm liên văn bản được triển khai trong lý thuyết của các
nhà hậu cấu trúc luận (post–structuralist) Pháp (R. Barthes, J. Derrida, J.
Lacan, M. Foucault, J–F. Lyotard, G. Deleuze, F. Guattari) và được các
nhà giải cấu trúc luận (deconstructivist) Mỹ (P. de Man, H. Bloom, J.
Harmann, J. H. Miller) vay mượn với ý nghĩa gần như nghĩa gốc. Theo
quan niệm của họ, thế giới hiện ra với chủ thể trong ngôn ngữ; điều đó
nghĩa là cả thế giới, cả tâm lý của chủ thể đều được cấu trúc theo các quy
luật ngôn ngữ (tâm phân học của J. Lacan); ngôn ngữ bị mất đi chức năng
biểu hiện và không còn là cái biểu đạt siêu nghiệm (J. Derrida), và như
vậy, ý nghĩa nảy sinh không phải trong sự mô phỏng (mimesis), mà trong
ký hiệu (semiosis), tức là trong trò chơi tự do với nghĩa của các văn bản
văn hóa. Nói cách khác, thế giới được hiểu như một văn bản.
Vì vậy, trong hầu hết các tác phẩm (văn bản) hậu hiện đại, người viết
tạo ra càng nhiều yếu tố tự do trong ngôn ngữ bao nhiêu sẽ càng tốt bấy
nhiêu (trò chơi của ngôn ngữ. Trong những trò chơi ngôn ngữ như thế, lằn
ranh của mọi thể loại (genre) bị xoá mờ và biên giới của nhiều lĩnh vực
nghệ thuật dần dần biến mất.
2.2. Tác phẩm The things they carried của Tim O‟Brien được in hoàn
chỉnh ở Mỹ năm 1990, nhưng đến năm 2011, mới được dịch và xuất bản ở
Việt Nam với tên gọi Những thứ họ mang. Tác phẩm đã nhanh chóng
giành được tiếng vang và được đưa vào chương trình giảng dạy trong
Liên văn bản trong Những thứ họ mang của Tim O‟Brien
Nguyễn Hoàng Cúc – Cao học Văn K56 Page 8
trường phổ thông và đại học ở Mỹ. Tác phẩm gồm hai mươi hai truyện
ngắn (hoặc chương truyện) liên kết chặt chẽ với nhau bằng những sự kiện
chung và những nhân vật chung. Sau khi Những thứ họ mang được xuất
bản trên tạp chí Esquire tác phẩm đã nhận được giải National Magazine
Award vào năm 1987 và được in trong tập Những truyện ngắn hay nhất
nước Mỹ do John Updike tuyển chọn cùng năm đó. O‟Brien tiếp tục viết
truyện ngắn cho các tờ Atlantic Monthly, Harper’s và New Yorker, cũng
như cho nhiều nhà xuất bản khác. Các truyện ngắn khác trong tập Những
thứ họ mang được xuất bản trên The Massachusetts Review, Granta,
Gentleman’s Quarterly và Playboy.
Theo tìm hiểu của chúng tôi, hiện nay ở trong nước chưa có bài viết
nào được công bố nghiên cứu về Tim O‟Brien hay Những thứ họ mang.
Trong khi đó, ở nước ngoài, có một số bài viết nghiên cứu về cả tác giả và
Những thứ họ mang bằng tiếng Anh, chủ yếu tập trung vào nội dung cuộc
chiến được phản ánh trong tác phẩm và nghệ thuật kể chuyện hậu hiện đại:
Patrick A.Smith, Trò chuyện với Tim O’Brien (Conversations with
Tim O’Brien), Jackson: University Press of Mississippi, 2012
(), tập hợp mười sáu bài phỏng vấn Tim O‟Brien
về cuộc đời ông, tuổi thơ ở Minnesota, những năm tháng trưởng thành ở
Midwestern và những năm tháng tham chiến ở Việt Nam. Các bài phỏng
vấn cũng tập trung thảo luận về các tác phẩm của Tim O‟Brien, trong đó
có Những thứ họ mang, từ đó cho người đọc thấy ranh giới giữa sự thật, ký
ức và sự tưởng tượng trong văn học, vai trò của chiến tranh trong xã hội và
kỹ thuật viết. O‟Brien tiếp cận mỗi chủ đề với sự thẳng thắn làm hài lòng
độc giả và các nhà phê bình.
Susan Farrell, Cẩm nang phê bình về Tim O’Brien: Tham khảo văn
Liên văn bản trong Những thứ họ mang của Tim O‟Brien
Nguyễn Hoàng Cúc – Cao học Văn K56 Page 9
học về cuộc đời và tác phẩm của ông (Critical companion to Tim O’Brien:
a literary reference to his life and work), New York: Facts on File, 2011,
(), tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của Tim
O‟Brien.
Airami C. Bentz, Từ người lính đến người kể chuyện: Tái hiện về
chiến tranh Việt Nam qua văn xuôi hư cấu của Tim O’Brien, Gustav
Hasford và Larry Heinemann (From soldiers to storytellers: reimaginings
of the Vietnam War through the fiction of Tim O’Brien, Gustav Hasford
and Larry Heinemann), Havard University, 2007, ,
phân tích các sáng tác của Tim O‟Brien, qua đó tái hiện lại cuộc chiến
tranh qua những chi tiết, sự kiện trong tác phẩm đồng thời so sánh hai vai
trò người lính và nhà văn của ông,
Mark A. Heberle, Nghệ sĩ bị chấn thương: Tim O’Brien và văn xuôi
hư cấu về Việt Nam (A trauma artist: Tim O’Brien and the fiction of
Vietnam), Iowa City, IA: University of Iowa Press, 2001,
là những nhận định về các tác phẩm mang chủ đề
chiến tranh của Tim O‟Brien.
Christopher Donovan, Phản tự sự hậu hiện đại: Mỉa mai và người
đọc trong tiểu thuyết của Paul Auster, Don DeLillo, Charles Johnson và
Tim O’Brien (Postmodern counternarratives: irony and audience in the
novels of Paul Auster, Don DeLillo, Charles Johnson, and Tim O’Brien),
New York: Routledge, 2005, , phân tích so sánh
tính hậu hiện đại trong sáng tác của Tim O‟Brien với các nhà văn Paul
Auster, Don DeLillo, Charles Johnson.
Stefania Ciocia, Việt Nam và phía kia: Tim O’Brien và quyền lực kể
chuyện (Vietnam and beyond: Tim O’Brien and the power of storytelling),
Liên văn bản trong Những thứ họ mang của Tim O‟Brien
Nguyễn Hoàng Cúc – Cao học Văn K56 Page 10
Liverpool: Liverpool University Press, 2012. ,
nghiên cứu sâu sắc về các sáng tác của Tim O‟Brien, nhấn mạnh đến vai
trò và trách nhiệm của người kể chuyện trong các tác phẩm.
Alex Vernon, Quân nhân một lần và mãi mãi, Ernest Hemingway,
James Salter, & Tim O’Brien (Soldiers once and still: Ernest Hemingway,
James Salter, & Tim O’Brien), Iowa City: University of Iowa Press,
c2004, , phân tích, so sánh các tác phẩm viết về
chiến tranh của Ernest Hemingway, James Salter và Tim O‟Brien.
Mats Tegmark, Trong giày của một binh sĩ: Thông tin trong tự sự về
Việt Nam của Tim O’Brien (In the shoes of a soldier: communication
in Tim O’Brien’s Vietnam narratives), Uppsala: Ubsaliensis S. Academiae:
Distributor, Uppsala University Library, 1998, ,
nghiên cứu những mô hình quen thuộc trong phần lớn sáng tác của Tim
O‟Brien, từ đó tìm ra mối liên hệ giữa thực tế và hư cấu trong các tác phẩm
của ông.
Ronald Baughman, Nhà văn Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam:
W.D. Ehrhart, Larry Heinemann, Tim O’Brien, Walter McDonald, John
M. Del Vecchio (American writers of the Vietnam War: W.D. Ehrhart,
Larry Heinemann, Tim O’Brien, Walter McDonald, John M. Del Vecchio),
Detroit: Gale Research Inc., c1991, , nghiên cứu
phong cách và sáng tác của các nhà văn viết về chiến tranh Việt Nam:
W.D. Ehrhart, Larry Heinemann, Tim O‟Brien, Walter McDonald, John
M. Del Vecchio.
Tobey C. Herzog, Viết về Việt nam, viết về cuộc đời: Caputo,
Heinemann, O’Brien, Butler (Writing Vietnam, writing life: Caputo,
Heinemann, O’Brien, Butler), Iowa City: University of Iowa Press, c2008,
Liên văn bản trong Những thứ họ mang của Tim O‟Brien
Nguyễn Hoàng Cúc – Cao học Văn K56 Page 11
, tái hiện lại cuộc chiến tranh Việt Nam dưới góc
nhìn từ phía quân đội Mỹ.
Michele Friedlander, Siêu hư cấu và “Hành trang họ mang” của
O’Brien (Metafiction and O’Brien's The Things They Carried), 2000,
nghiên cứu về siêu hư cấu trong Những
thứ họ mang.
Qua lược thuật các công trình nghiên cứu trên, chúng tôi rút ra những
điều sau để làm điểm tựa triển khai đề tài:
Các chi tiết, sự kiện về cuộc đời, sự nghiệp của Tim O‟Brien và các
nghiên cứu về mô hình sáng tác của ông đã cung cấp cho chúng tôi những
thuận lợi trong việc nghiên cứu Chương 2: Liên văn bản từ góc độ tiếp
biến hiện thực và hư cấu.
Việc so sánh bút pháp của Tim O‟Brien với các nhà văn viết về chiến
tranh khác giúp chúng tôi có cái nhìn tổng quan về phong cách và sự phát
triển của dòng văn học chiến tranh trong nền văn học Mỹ, đặc biệt là trong
văn chương hậu hiện đại.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của liên văn bản là đề cao vai trò của người đọc trong tiếp
nhận. Với người đọc hậu hiện đại, đọc không còn là kiểu thưởng thức thụ
động thuần túy mà đọc đồng nghĩa với giải mã và tạo nghĩa cho văn bản.
Bằng việc phân tích, soi chiếu Những thứ họ mang từ góc độ liên văn
bản, chúng tôi mong muốn có thể “bóc tách” tác phẩm, tìm ra được từng
lớp văn bản chồng chéo, đan cài vào nhau cũng như những giao điểm của
các văn bản và các “giải trình ngôn ngữ”.
Liên văn bản trong Những thứ họ mang của Tim O‟Brien
Nguyễn Hoàng Cúc – Cao học Văn K56 Page 12
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi tập trung đi sâu phân tích
vấn đề liên văn bản trong tác phẩm Những thứ họ mang của Tim O‟Brien
do Trần Tiễn Cao Đăng dịch, Nhà xuất bản Văn học in năm 2011.
5. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trong khuôn khổ bài viết này là liên văn bản
trong tập truyện Những thứ họ mang từ góc độ tiếp biến giữa hiện thực với
hư cấu và liên văn bản từ chủ đề
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Xuất phát từ lí thuyết liên văn bản, để thực hiện đề tài này, chúng tôi
sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
– Phương pháp xã hội học
– Phương pháp tiểu sử
– Phương pháp liên ngành
– Phương pháp phân tích, tổng hợp
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục và Danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn sẽ được triển khai trong 3 chương:
Chương 1: Khái niệm liên văn bản
Chương 2: Liên văn bản từ góc độ tiếp biến hiện thực với hư cấu
Chương 3: Liên văn bản từ góc độ thể loại.
Liên văn bản trong Những thứ họ mang của Tim O‟Brien
Nguyễn Hoàng Cúc – Cao học Văn K56 Page 13
CHƢƠNG I
KHÁI NIỆM LIÊN VĂN BẢN
Trước khi giới thuyết khái niệm liên văn bản, chúng tôi khảo sát sơ
lược khái niệm hậu hiện đại và các vấn đề liên quan để làm cơ sở xác định
“Liên văn bản”.
1.1. Khái niệm hậu hiện đại
1.1.1. Cảm quan triết học hậu hiện đại
Thuật ngữ “postmodern” – hậu hiện đại hình thành trong vốn từ vựng
triết học qua việc Jean – François Lyotard công bố tác phẩm La Condition
Postmoderne năm 1979 (tên tiếng Anh: The Postmodern Condition: A
Report on Knowledge, 1984), ông dùng mô hình ngôn ngữ trò chơi của
Wittgenstein và những tư tưởng từ lý thuyết lời nói – hành động (speech
act theory) để giải thích nguyên nhân cái ông gọi là sự biến đổi của nguyên
tắc trò chơi trong khoa học, nghệ thuật và văn học từ cuối thế kỉ XIX. Ông
mô tả văn bản như sư kết hợp hai trò chơi ngôn ngữ của nhà triết học và
nhà văn. Nơi nhà văn biết điều gì anh ta biết và điều gì anh ta không biết,
nhà triết học cũng không biết nhưng lại đặt câu hỏi.
Vì sự mơ hồ này, Lyotard khẳng định cách miêu tả “không cố gắng
làm người khác tin điều gì là nguyên gốc hay thậm chí là sự thật” (“makes
no claims to being original or even true”), và giả thuyết “không nên thống
nhất giá trị tiên đoán với thực tế, nhưng nên thống nhất giá trị chiến lược
với câu hỏi được đặt ra” (“should not be accorded predictive value in
relation to reality, but strategic value in relation to the questions raised”)
[18,7]. Cuốn sách trở thành một cuộc thử nghiệm việc kết hợp trò chơi của
Liên văn bản trong Những thứ họ mang của Tim O‟Brien
Nguyễn Hoàng Cúc – Cao học Văn K56 Page 14
ngôn ngữ hơn việc chỉ là một “báo cáo” khách quan.
Trong ý kiến của Lyotard, kỉ nguyên máy tính đã biến đổi tri thức
thành thông tin, thông điệp được mã hóa trong hệ thống truyền dẫn và liên
lạc. Việc nghiên cứu vấn đề này cần căn cứ vào thực tế về thông tin liên
lạc gần đây như diễn đạt thông điệp, truyền đạt và tiếp nhận tin tức, quan
trọng là phải tuân theo luật pháp để được chấp nhận. Tuy nhiên, như
Lyotard chỉ ra, vị trí, hoàn cảnh của việc đánh giá hay của cơ quan lập
pháp cũng nằm trong ngôn ngữ trò chơi, và điều này đã đặt ra câu hỏi cho
sự hợp pháp cũng như tính chính thống. Ông khẳng định, “có một mối liên
hệ chặt chẽ giữa ngôn ngữ khoa học với ngôn ngữ của đạo đức và ngôn
ngữ chính trị” [18,8], và mối liên hệ này này tạo ra quan điểm văn hóa ở
phương tây. Vì thế khoa học kĩ thuật có vai trò quan trọng trong công tác
của chính phủ, nhất là trong kỉ nguyên thông tin, nơi luôn cần có lượng
máy móc khổng lồ được cài đặt để nghiên cứu và làm việc.
Lyotard chỉ ra rằng khi khoa học cố gắng phân biệt bản thân nó khỏi
việc kể chuyện sử thi và truyền thuyết trong mô hình trí tuệ bộ lạc, triết
học hiện đại tìm kiếm cách kể chuyện chính thống cho khoa học trong mô
hình “biện chứng của tinh thần, chú giải nghĩa của văn bản, sự giải phóng
chủ thể lý trí hay hành động, hoặc việc tạo sản” “the dialectics of Spirit,
the hermeneutics of meaning, the emancipation of the rational or working
subject, or the creation of wealth,” [18, 105]. Tuy nhiên, khoa học lại dùng
ngôn ngữ trò chơi với nghĩa đen để loại trừ những điều khác, và trong khía
cạnh này nó thay thế sự kể chuyện, bao gồm siêu kể chuyện trong triết học.
Điều này một phần do Lyotard đặc trưng hóa sự tăng trưởng khoa học và
kỹ thuật nhanh chóng trong nửa cuối thế kỉ XX, khi con người đã biến máy
móc thành công cụ hoạt động phục vụ mình, nhiều hoạt động chân tay của
Liên văn bản trong Những thứ họ mang của Tim O‟Brien
Nguyễn Hoàng Cúc – Cao học Văn K56 Page 15
con người được máy móc thay thế [18,37]. Điều này đã ăn mòn trò chơi
suy đoán của triết học và thiết lập cho mỗi ngành khoa học sự tự do phát
triển độc lập trên nền tảng của triết học và lối tổ chức có hệ thống. Lyotard
định nghĩa hậu hiện đại là sự ngờ vực về siêu kể chuyện. Kết quả là
phương pháp mới, lai tạp phát triển nhưng không liên quan tới truyền
thống tri thức cũ, nhất là triết học, và điều này nghĩa là khoa học chỉ chơi
trò chơi của riêng nó và không thể phù hợp với những chủ đề khác, như
phong tục tập quán.
Cảm quan hậu hiện đại không “than khóc” cho việc mất tính mạch lạc
trong trần thuật. Tuy nhiên, trần thuật biến mất để lại sự hợp lý cho tiêu
chuẩn thống nhất mới: biểu hiện của hệ thống tạo ra tri thức trong mô hình
tư bản là thông tin. Tính hợp lý của biểu hiện nghĩa là tăng cực đại dòng
chảy thông tin và giảm đến mức tối thiểu sự tĩnh tại (hoạt động không thiết
thực) trong hệ thống, vì vậy bất cứ điều gì không thể truyền đạt giống như
thông tin phải bị loại bỏ. Tiêu chuẩn biểu hiện đe dọa bất cứ điều gì không
đáp ứng được yêu cầu của nó, như trần thuật suy đoán, với sự vô lý và loại
trừ. Tuy nhiên, tư bản cũng yêu cầu việc tái phát minh liên tục cái “mới”
trong những trò chơi ngôn ngữ mới và việc biểu hiện nghĩa trực tiếp, và vì
vậy, lỗi ngộ biện (paralogy) được hệ thống quy định một cách ngược đời.
Về mặt này, sự phát triển hiện đại dưới các quy định được thiết lập đã đưa
đến cho mô hình hậu hiện đại việc phát minh những luật lệ mới và thay đổi
trò chơi.
Lyotard bắt đầu câu hỏi về luật pháp trong Chỉ là trò chơi – Just
Gaming và Sự khác biệt: Lối tranh luận - The Differend: Phrases in
Dispute, nơi ông kết hợp mô hình ngôn ngữ trò chơi với việc phân chia
quan năng của Kant (hiểu biết, tưởng tượng, lý do) cũng như sự phê phán
Liên văn bản trong Những thứ họ mang của Tim O‟Brien
Nguyễn Hoàng Cúc – Cao học Văn K56 Page 16
của Kant (lý thuyết, thực tiễn, mỹ học) để khám phá vấn đề của luật pháp
được trình bày trong Hậu hiện đại - The Postmodern Condition. Tập ba
cuốn Phê bình - Critique của Kant vì vậy cung cấp chất liệu khái niệm cho
việc nghiên cứu của Lyotard, nhất là trong phê bình mỹ học.
Trong Hậu hiện đại là gì xuất hiện như phụ lục bản tiếng Anh của
The Postmodern Condition Lyotard nhấn mạnh tầm quan trọng của nghệ
thuật tiên phong trong mỹ học của cái cao cả. Nghệ thuật hiện đại là biểu
tượng của cảm quan cái cao cả, là cảm quan những điều không hiện hữu
yêu cầu được đặt trong nhận thức bằng giác quan, vì thế đã chôn vùi tất cả
mọi nỗ lực để làm được điều đó. Nhưng khi nghệ thuật hiện đại đưa ra việc
không hiện hữu như một nội dung bị thiếu trong mô hình cái đẹp, như
trong Marcel Proust, nghệ thuật hậu hiện đại được minh họa bởi James
Joyce, nêu ra sự không hiện hữu bằng việc từ bỏ cái đẹp, vì vậy từ chối cái
mà Kant gọi là sự thống nhất của giác quan. Hơn nữa, theo Lyotard, một
tác phẩm có thể trở thành hiện đại chỉ khi nếu nó là hậu hiện đại đầu tiên,
vì chủ nghĩa hậu hiện đại không đánh dấu sự kết thúc của chủ nghĩa hiện
đại mà nằm ở trạng thái non trẻ của chủ nghĩa hiện đại, trong nỗ lực trưng
bày cái không hiện hữu, “và trạng thái này là bất biến” [18,79]. Hậu hiện
đại là sự lặp lại của hiện đại, mang tính chất mới và điều đó nghĩa là mỗi
lần lặp lại yêu cầu sự đổi mới liên tục.
Phương pháp phả hệ của Nietzsche được ứng dụng trong chủ quan
hiện đại, là khía cạnh khác của triết học hậu hiện đại. Michel Foucault ứng
dụng bảng phả hệ tới những thời điểm tạo nên lịch sử hiện đại và những
thử nghiệm của ông với cái chủ quan đặt ông vào những cuộc tranh luận về
hậu hiện đại. Năm 1971, trong bài luận Nietzsche, Phả hệ, Lịch sử,
Foucault chi tiết hóa phóng tác của ông về phương pháp phả hệ trong
Liên văn bản trong Những thứ họ mang của Tim O‟Brien
Nguyễn Hoàng Cúc – Cao học Văn K56 Page 17
nghiên cứu lịch sử. Trên hết, ông nói phả hệ “phản đối tìm kiếm cái
nguyên bản” “opposes itself to the search for “origins”. Bảng phả hệ
nghiên cứu sự tình cờ và tính bất ngờ hội tụ trong những thời khắc quyết
định tạo nên kỷ nguyên mới, khái niệm mới và thể chế mới. Như Foucault
nhấn mạnh: “Điều được tìm thấy trong thời kì mở đầu của lịch sử không
phải là sự giống nhau của mẫu gốc, đó là sự khác nhau của những điều
khác, đó là điều cách biệt” “What is found at the historical beginning of
things is not the inviolable identity of their origin; it is the dissension of
other things. It is disparity” [dẫn theo 18,142]. Nghiên cứu về Nietzsche,
Foucault cho thấy lịch sử được diễn đạt như nguyên gốc và phát triển như
một môn học đặc trưng, ví dụ, “cái hiện đại” mang tính hư cấu bắt nguồn
từ thực tế. Nằm dưới sự hư cấu về cái hiện đại là cảm quan của sự tạm thời
loại trừ những nhân tố cơ hội và tính ngẫu nhiên xuất hiện ở mọi thời
điểm. Tóm lại, lịch sử phát triển không ngừng và che đậy những gián đoạn
đánh dấu những thời điểm nối tiếp nhau trong lịch sử.
Foucault triển khai bảng phả hệ để tạo nên cái ông gọi là “counter–
memory” – “phản kí ức” hay “sự chuyển dịch của lịch sử sang một mô
hình thời gian hoàn toàn khác” [dẫn theo 18,60]. Điều này đòi hỏi xóa đi
đặc tính của chủ thể trong lịch sử bằng việc dùng chất liệu và kĩ thuật của
việc nghiên cứu lịch sử hiện đại, Foucault đòi hỏi các nghiên cứu về phả
hệ sẽ phải dẫn tới việc tan rã của các chủ thể tri thức bởi tính liên tục của
chủ thể sẽ bị phá vỡ bởi các bước gián đoạn và sự tình cờ mà các nghiên
cứu lịch sử đã không phát hiện ra.
Nhà phê bình toàn diện và xuất sắc nhất của triết học hậu hiện đại là
Jürgen Habermas. Trong Diến ngôn triết học hiện đại ông đối diện với chủ
nghĩa hậu hiện đại ở mức độ xã hội và “hoạt động giao tiếp”. Ông không
Liên văn bản trong Những thứ họ mang của Tim O‟Brien
Nguyễn Hoàng Cúc – Cao học Văn K56 Page 18
bênh vực khái niệm chủ thể được quan niệm như ý thức hoặc cái tôi tự trị,
chống lại cuộc công kích của những nhà hậu hiện đại, nhưng ủng hộ những
luận chứng trong sự kết nối liên chủ thể (inter–subjectivity) tương phản
với những kế hoạch thực nghiệm tiên phong. Ví dụ, ông khẳng định
Nietzsche, Heidegger, Derrida và Foucault đưa ra sự mâu thuẫn biểu hiện
trong lối phê bình chủ nghĩa hiện đại bằng các khái niệm và phương pháp
mà chỉ các lý lẽ hiện đại mới đưa ra được.
Ông chỉ trích chủ nghĩa Dionysus – triết lý bi quan của Nietzsche như
một hành động đề bù vào việc mất mát tính thống nhất trong văn hóa
phương Tây ở thời kì tiền hiện đại do tôn giáo gây ra. Cảm quan của
Nietzsche về sự bi quan mới trong nghệ thuật hiện đại hơn nữa dựa vào mỹ
học hiện đại, nghệ thuật đạt được sức mạnh bằng việc tự tách ra khỏi khoa
học và tôn giáo trong thế kỉ Ánh sáng hiện đại, dẫn đến sự biến mất của
tính thống nhất hữu cơ mà Nietzsche cố gắng khôi phục thông qua nghệ
thuật [dẫn theo 21,81–105]. Habermas thấy Heidegger và Derrida là những
người tiếp tục “Lòng tin vào việc cứu rỗi sự bi quan”. Ví dụ, Heidegger
tiên liệu được sự trải nghiệm tồn tại mới được rút lại. Tuy nhiên, Habermas
cho rằng sự rút lui của việc tồn tại là kết quả của triết học bị đảo ngược
trong chủ thể, nơi sự phá hủy chủ thể của Heidegger dẫn tới hi vọng của sự
thống nhất, sự thống nhất của cái vô ngã [dẫn theo 21,160].
Habermas cũng chỉ trích Derrida vì đã không phân rõ ranh giới giữa
triết học và văn học trong văn bản để đem lại những luận cứ hợp lý và
logic vào phạm vi của tu từ học. Trong trường hợp này, Derrida hi vọng
tránh được lỗi logic của việc tự quy chiếu (self–reference) trong phê bình
luận cứ. Tuy nhiên, khi Habermas nhấn mạnh: Bất kì ai đảo lộn hoàn toàn
việc phê bình luận cứ trong phạm vi của tu từ học để làm cùn đi nghịch lý
Liên văn bản trong Những thứ họ mang của Tim O‟Brien
Nguyễn Hoàng Cúc – Cao học Văn K56 Page 19
tự quy chiếu, cũng làm cùn đi thanh gươm trong việc tự phê bình. Ông cho
rằng Foucault không thể giải quyết thỏa đáng những vấn đề còn tồn tại
trong mối quan hệ với cách tiếp cận biểu hiện ở phạm vi khách thể, sự phủ
nhận tự quy chiếu của những khẳng định vững chắc, và sự phê bình mang
tính biện hộ
Phê bình hậu hiện đại của Habermas dựa trên cơ sở mâu thuẫn biểu
hiện và nghịch lý tự quy chiếu đã xếp đặt tinh thần và giới hạn cho cuộc
tranh luận phê bình hiện nay. Trong khi những nhà hậu hiện đại đã loại bỏ
lối phê bình này hoặc đáp lại bằng phản chiến lược tu từ học. Ví dụ,
Lyotard đã loại bỏ khái niệm mối liên hệ liên chủ thể, điều này được các
nhà phê bình hậu hiện đại khác nhất trí, đây được coi là mục tiêu cơ bản
của diễn ngôn. Những nhà hậu hiện đại hưởng ứng với Habermas do thực
tế ông nghiên cứu về chủ nghĩa hậu hiện đại nghiêm túc và không bác bỏ
nó như những nhà phê bình khác. Ông có thể đọc kỹ lưỡng các văn bản
hậu hiện đại và cố gắng làm chúng dễ hiểu hơn, dù những luận chứng đó
nhiều khi còn rời rạc. Ông cũng đồng ý với các nhà hậu hiện đại rằng mục
tiêu của cuộc tranh luận nên tập trung vào cái hiện đại bởi nó được nhận ra
trong thực tiễn và thể chế hiện đại, hơn là trong lý thuyết nhận thức hay chỉ
trong ngôn ngữ học. Trong khía cạnh này, mối quan tâm của Habermas với
mối liên hệ liên chủ thể giúp làm sáng tỏ cơ sở mà các nhà hiện đại – hậu
hiện đại tiếp tục tranh luận.
1.1.2. Hậu hiện đại trong văn học
Chủ nghĩa hậu hiện đại mang đến sự khác biệt cho mọi lĩnh vực của
nghệ thuật và vốn tri thức mà chúng ta hằng biết, trong đó có văn học.
Giống như văn học hiện đại, văn học hậu hiện đại là một phần của sự phát
triển lịch sử và văn hóa – xã hội. Nó được coi là cách đặc trưng để mô tả
Liên văn bản trong Những thứ họ mang của Tim O‟Brien
Nguyễn Hoàng Cúc – Cao học Văn K56 Page 20
đời sống và văn hóa hậu hiện đại. “Bản sắc” của hậu hiện đại trong văn
học có thể tóm lại trong những đặc điểm chính sau:
Trong văn bản văn học hậu hiện đại, ý tưởng về cái nguyên bản và
tính xác thực bị suy yếu dần và bị nhại (parody). Tác phẩm văn học hậu
hiện đại có thể sử dụng những hình thái, thể loại văn học cũ cùng các đoạn
trích dẫn, ám chỉ và các phương thức khác để cấu kết lại ý nghĩa trong
những ngữ cảnh khác nhau để biểu lộ sự khác biệt giữa mô hình quá khứ
và hiện tại như đã được đề cập đến trong Văn học của sự cạn kiệt của John
Barth. Ông chỉ ra toàn bộ những hình thái cũ của nghệ thuật và yêu cầu
khả năng sáng tạo văn học từ những phong cách, hình thái, thể loại văn học
đã tồn tại trước đây.
Tác phẩm nhại là kiểu sáng tác văn học phổ biến trong thời hậu hiện
đại. Đó có thể là kiểu nhại giữa tác phẩm này bao gồm hình tượng nhân
vât, cốt truyện,… với tác phẩm khác, hay nhại trong chính một tác phẩm,
giữa nhân vật này với nhân vật khác, giữa người kể chuyện với các nhân
vật… Những tác phẩm văn học hậu hiện đại mô phỏng các thể loại văn học
phổ biến như trinh thám, kinh dị, thần thoại,… được thay đổi và nhại đi,
mang theo những tầng bậc ý nghĩa khác so với bản gốc (bản được
“parody”). Trong tiểu thuyết Lịch sử thế giới trong 10 ½ chương của nhà
văn Anh Julian Barnes, cuốn Kinh Cựu ước được kể lại từ cái nhìn của một
con gián. Nhại trong văn học có thể được tìm thấy trong tác phẩm của John
Fowles, Angela Carter, A.S. Byatt, John Banville, Tobby Litt, Patrick Mc
Cabe, Donald Barthelme, Robert Coover, Richard Brautigan, Kurt
Vonnegut, Paul Auster, Murray Bail, Michael Wilding, Peter Carey,
Timothy Findley, Margaret Atwood,…
Văn học hậu hiện đại thường đặt câu hỏi về trạng thái hư cấu tới mức
Liên văn bản trong Những thứ họ mang của Tim O‟Brien
Nguyễn Hoàng Cúc – Cao học Văn K56 Page 21
trở thành siêu hư cấu. Siêu hư cấu nghĩa là một tác phẩm văn học ngụ ý
chính nó và nguyên tắc cơ bản của việc tạo dựng siêu hư cấu là các kĩ thuật
và phương thức kể chuyện khác nhau. Thủ pháp siêu hư cấu sẽ phá vỡ
những quy ước và những tham vọng minh họa cho hiện thực. Những tác
phẩm đó “chúng tự xác định như là cái gì đấy khác biệt so với kinh nghiệm
của ta đã nếm trải trong thế giới thực, chứ không chỉ là bản sao của thế
giới thực… con người thích những thế giới trong trí tưởng tượng thuộc
điều bất khả bởi vì chính cái bất khả cũng có nét mê hoặc” [1,46].
Cách hiểu đơn giản nhất về siêu hư cấu là “hư cấu về sự hư cấu”,
nhưng tác phẩm hư cấu hậu hiện đại còn đi xa hơn. Waugh đã định nghĩa
về siêu hư cấu như sau: “Siêu hư cấu là thuật ngữ được dùng trong văn bản
viết hư cấu thu hút sự chú ý tới trạng thái của văn bản một cách có ý thức
và có hệ thống như là một tạo tác để đặt câu hỏi về mối quan hệ giữa thực
tế và hư cấu. Để đưa ra các phương pháp xây dựng lối phê bình này, các
bài viết không chỉ nghiên cứu cấu trúc cơ bản của truyện kể hư cấu, mà
còn khám phá tính hư cấu khả thi của thế giới bên ngoài văn bản. “…a
term given to fictional writing which self–consciously and systematically
draws attention to its status as an artifact in order to pose questions about
the relationship between fiction and reality. In providing a critique of their
own methods of construction, such writings not only examine the
fundamental structures of narrative fiction, they also explore the possible
fictitiousness of the world outside the literary/fictional text” [40, 1]. Bằng
cách dùng những yếu tố siêu hư cấu, các nhà văn hậu hiện đại đã chỉ ra sự
khác biệt giữa thực tế đời sống và sự thực trong văn bản, nhấn mạnh ngôn
ngữ “hoạt động” dựa trên nhiều nguyên tắc khác nhau chứ không chỉ dựa
vào thực tế. Đồng thời, việc dùng các yếu tố siêu hư cấu cũng chỉ ra tính
hư cấu trong tiểu thuyết, truyện ngắn,… liên quan đến cả độc giả trong
Liên văn bản trong Những thứ họ mang của Tim O‟Brien
Nguyễn Hoàng Cúc – Cao học Văn K56 Page 22
việc tạo nghĩa của văn bản, và chỉ ra sự khác biệt giữa nghệ thuật trong quá
khứ và hiện tại, giữa cảm quan quá khứ và cảm quan hiện đại. Siêu hư cấu
có thể được trình bày bằng các cách thức như trích dẫn, ám chỉ, diễn giải,
nhại, châm biếm, liên văn bản,…
Một trong những khía cạnh quan trọng nhất của tác phẩm văn học hậu
hiện đại liên quan chặt chẽ đến siêu hư cấu là liên văn bản. Đây là thuật
ngữ được nhà phê bình Julia Kristeva diễn giải trong mối tương quan giữa
các văn bản thông qua những phương thức và kĩ thuật khác nhau. Tuy
nhiên, mối liên hệ này không chỉ mang tính máy móc riêng lẻ, mà là sự
chuyển đổi sáng tạo của những văn bản được nhắc đến trong những bối
cảnh văn hóa và ngôn ngữ khác nhau. Theo Julia Kristeva, một tác phẩm
văn học không chỉ là sản phẩm của một tác giả đơn lẻ mà là của những mối
quan hệ với các văn bản khác và cấu trúc của ngôn ngữ: Bất cứ văn bản
nào cũng được tạo nên bằng những tấm khảm của trích dẫn, và văn bản
nào cũng là sự hấp thu và biến đổi từ văn bản khác “Any text is
constructed of a mosaic of quotations; any text is the absorption and
transformation of another” (Kristeva, Desire in language: A semiotic
approach to literature and art, Columbia University Press, 1980, 66).
Ý nghĩa của liên văn bản sau đó biến đổi như Silvia Pokrivčáková và
Anton Pokrivčák bình luận chi tiết trong Tìm hiểu về văn học –
Understanding Literature. Lý thuyết liên văn bản của Julia Kristeva bắt
nguồn từ ý tưởng của Bakhtin về “tiểu thuyết đa thanh” có nhiều giọng,
nhiều cách hiểu một văn bản như một phần của văn bản khác. Bà đưa ra
biểu đồ gồm hai trục: trục ngang bao gồm các mối liên kết giữa tác giả và
người đọc, trục đứng bao gồm các mối liên kết giữa văn bản này với những
văn bản khác. Quy chiếu một văn bản lên cả hai trục ta sẽ thấy nguyên tắc
Liên văn bản trong Những thứ họ mang của Tim O‟Brien
Nguyễn Hoàng Cúc – Cao học Văn K56 Page 23
chung: mọi văn bản được viết và đọc đều phải lệ thuộc vào những quy ước
đã hiện diện từ trước. Kristeva gọi đó là những giải trình ngôn ngữ.
Chủ nghĩa hậu hiện đại xem văn bản được viết ra là giao điểm của vô
vàn văn bản: văn bản của quá khứ, của thực tại, của tương lai, của từng
vùng miền. Theo thể loại, đó là văn bản bao gồm truyện, thơ, kịch, theo
loại hình, là văn bản của văn chương, hội họa, kiến trúc,… Mục đích của
liên văn bản là đề cao vai trò của người đọc trong tiếp nhận. Người đọc
không còn thưởng thức thụ động văn bản mà tham gia vào quá trình giải
mã, tạo nghĩa cho văn bản. Nhà văn khi viết phải chú ý đến độc giả và tạo
nên nhiều khoảng trống cho văn bản.
Trong khi văn học hiện đại chú ý đến chiều sâu của văn bản thì văn
học hậu hiện đại lại nhấn mạnh đến bề mặt của văn bản. Theo quan điểm
của Frederic Jameson, vẻ bề ngoài và ý nghĩa trực tiếp – có thể coi là đặc
điểm chính thức quan trọng nhất của tất cả nền chủ nghĩa hậu hiện đại. Các
tác giả hậu hiện đại loại bỏ khả năng tìm và phản ánh chiều sâu ý nghĩa,
đồng thời nhấn mạnh trò chơi tự do của biểu tượng, kí hiệu dẫn tới việc gợi
nên văn bản – đó là ngôn ngữ không được hiểu như việc bộc lộ khách thể
hữu hình hay những sự thật sâu sắc, mà là những kí hiệu.
Theo quan điểm của Anton Pokrivčák, trong diễn ngôn hậu hiện đại
“Sự tạo nghĩa được cho là thiếu nền tảng siêu nghiệm và được chi phối bởi
trò chơi của bề mặt kí hiệu. Tính ngẫu nhiên của trò chơi phơi bày khái
niệm tổng quát phổ biến” – “Meaning–production is supposed to lack any
transcendal grounding and is governed only by the play of „surface‟
signifiers. The randomness of this play discloses the general concept–as–
generalization” (Pokrivčák, Postmodern Being and Text, Žilka, T.(ed.),
1998, 40). Theo ông, điều này dẫn tới việc tạo ra đặc trưng của những trích
Liên văn bản trong Những thứ họ mang của Tim O‟Brien
Nguyễn Hoàng Cúc – Cao học Văn K56 Page 24
dẫn “citational” trong mỗi kí hiệu, thực tế cuộc sống được coi như một văn
bản.
Một ảnh hưởng quan trọng trong việc tạo thành nền văn học hậu hiện
đại và nguồn gốc cho việc tạo ra những kĩ thuật tự sự hậu hiện đại là phá
bỏ dần dần những nguyên tắc bắt chước và sự mô tả hiện thực. Những
khuynh hướng này xuất hiện sớm dù chưa thành hệ thống trong Gargantua
và Pantagruel, Don Quijote, tiểu thuyết Cuộc sống và quan niệm của
Tristam Shandy của Laurence Sterne trong đầu thế kỉ XVIII, hoặc tiểu
thuyết Jacques La Fataliste của tác giả Denis Diderot. Sau đó tính tương
đối trong việc mô tả hiện thực, sự không chắc chắn, chồng chéo trong
những giọng tự sự khác nhau, thực tế và hư cấu, mặc dù được dùng cho
nhiều mục đích khác nhau hơn chỉ là văn học hậu hiện đại, như triết học hư
vô hay triết học duy ngã. Việc loại bỏ hoàn toàn tính hợp lý và nguyên tắc
bắt chước (đã ảnh hưởng rất lớn đến các tác tác giả hậu hiện đại) có thể tìm
thấy trong sáng tác của nhiều nhà văn hiện đại châu Âu như Franz Kafka,
Robert Musil, Marcel Proust, James Joyce, Virginia Woolf, William
Faulkner và các tác giả trong “thế hệ mất mát” của Mỹ.
1.2. Nội hàm khái niệm “liên văn bản”
Theo Rjanskaya trong Liên văn bản – sự xuất hiện của lịch sử và lý
thuyết của vấn đề, thuật ngữ liên văn bản lần đầu tiên xuất hiện trong một
tham luận của Kristeva nói về sáng tác của Bakhtin, đọc tại hội thảo do
R.Barthes chủ trì năm 1966. Mùa xuân năm 1967, tham luận được công bố
dưới dạng một bài báo đăng trên tạp chí Critique (Phê bình) với nhan đề:
Bakhtin, le mot, le dialogue et le roman – Bakhtin, lời nói, đối thoại và tiểu
thuyết.
Theo nghĩa rộng nhất, khái niệm này có thể hiểu là “sự tương tác của
Liên văn bản trong Những thứ họ mang của Tim O‟Brien
Nguyễn Hoàng Cúc – Cao học Văn K56 Page 25
các văn bản”, nhưng tùy vào lập trường nghiên cứu của các nhà khoa học
mà nội dung cụ thể của nó có thể biến đổi, cách hiểu về thuật ngữ này có
thể chia làm ba loại:
Thứ nhất, Liên văn bản như một thủ pháp văn học xác định (trích dẫn,
ám chỉ, bình giải, nhại, vay mượn), cách hiểu này đòi hỏi sự hiện diện của
văn bản gốc đã có trước và xu hướng của tác giả sử dụng văn bản gốc đó.
Nếu hiểu liên văn bản theo cách này, thì liên văn bản đã tồn tại trong văn
học Việt Nam từ thời trung đại, với việc trích dẫn các điển cố, điển tích
trong các tác phẩm, ý nghĩa của các điển cố điển tích này thường không
thay đổi.
Thứ hai, liên văn bản được hiểu như một thuộc tính bản thể của văn
bản. theo Barthes thì mọi văn bản đều là một liên văn bản với một văn bản
khác. Điều đó nghĩa là liên văn bản được nhận định như là sự xóa nhòa
ranh giới giữa các văn bản của tác giả riêng rẽ, giữa văn bản văn học cá
nhân và văn bản vĩ mô truyền thống, giữa các văn bản thuộc các thể loại và
loại hình khác nhau, giữa văn bản và độc giả, giữa văn bản và hiện thực.
Với ý nghĩa này, liên văn bản phản ánh một quy luật khách quan trong sự
tồn tại của văn học. Và cách hiểu này là ý nghĩa cho thuật ngữ liên văn bản
lần đầu tiên xuất hiện trong công trình của Kristeva.
Theo Kristeva, tuy có sự quy chiếu hai chiều trên hệ toạ độ, trục
ngang (horizontal axis) – thể hiện sự liên kết giữa tác giả và người đọc; và
trục dọc (vertical axis) – biểu tượng cho sự liên kết một văn bản này đến
những văn bản khác bà nhấn mạnh rằng, sự minh hoạ chỉ có tính cách
tượng trưng hơn là sự xếp đặt cứng nhắc và máy móc vào một hệ thống
như thế. Theo bà, liên văn bản sẽ là sự toả lan ra mọi chiều không gian và
thời gian, và việc theo đuổi một hướng nào đó là tuỳ thuộc vào sự chọn lựa