BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
Đ ẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÃN VĂN
NGUYỄN THỊ THẠI
KHẢO SÁT YẾT HẬU INCỮ TIÊNG HÁN
(Có lièn hệ vưi yêu tó tương đương trong tiếng Viẹt)
Chuyên ngành : Lí luận ngỗn ngữ
Mã sỗ : 50408
LUẬN VĂN THẠC sĩ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dản khoa học :
(ỉiáo su Tiến sĩ : Hoàng Trọng Phiến
Phán biện 1 : PíỉS.TS Ngu; en Văn khaníí
Phán biện 2 : Tiên sĩ NgPyẻn Hữu Đạt
Hà Nội - Năm 2002
LÒI CẢM ON
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sác tói thày giáo Tiến sĩ Hoàng
Trọng Phiến ngưòi dò tận tâm giúp dỡ huóng dân em hoàn thành
luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn các thày cô giáo, các nhà nghiên cúu
ngôn ngũ đỡ nhiệt tình chỉ bảo cho em trong quá trĩnh học tập và
nghiên cúu.
Nhân dây tôi củng xin bày tỏ lòng cảm ơn chôn thành tới các
bạn dồng nghiệp và cá c em học sinh dỡ ủng hộ giúp dỡ tôi hoàn
thành luận vãn này.
r j*
1
MỤC LỤC
• ■
M ở đầu
1. Mục đích và ý nghĩa của luận văn 5
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
7
3. Nhiệm vụ của luận văn 7
4. Phương pháp nghiên cứ u
7
5. Cấu trúc của luận văn 8
Chương I Những nét khái quát về Yết hậu ngữ của tiếng Hán
1.1 Những ý kiến xung quanh tên gọi Yết hậu ngữ 9
1.2 Khái niệm và đặc trưng của Yết hậu ngữ 17
1.3 Tiêu chí nhận diện Yết hậu ngữ 20
1.3.1 Tiêu chí về hình thức
21
1.3.2 Tiêu chí về quan hệ nội bộ 21
1.3.3 Tiêu chí về kết cấu 22
1.3.4 Tiêu chí về tác dụng tu t ừ
23
1.4 Nguồn gốc của Yết hậu ngữ
24
Tiểu kết 29
Chương II Đặc điểm cấu trúc, chức năng ngữ pháp của Yết hậu ngữ
2.1 Đặc điểm cấu trúc
31
2.1.1 Tính linh hoạt trong cấu trúc 30
2.1.2 Tính đa dạng trong cơ cấu của "Dẫn" và "Chú"
35
2.1.2.1 Cơ câu của "Dẫn" 35
2.1.2.2 Cơ cấu của "Chú"
40
2.1.3 Tính phức tạp trong quan hệ giữa "Dẫn" và "Chú"
48
2.1.3.1 Tính phức tạp trong quan hệ ngữ pháp
48
2.1.3.2 Tính phức tạp trong quan hệ ngữ nghĩa
50
2.2 Chức năng ngữ pháp của Yết hậu ngữ
55
2.2.1 Là một câu hoàn chỉnh
55
2.2.2 Là một phân câu trong câu phức hợp 56
2.2.3 Làm các thành phần câu 58
2.2.3.1 Làm vị ngữ
58
2.2.3.2 Làm tân ngữ 61
2.2.3.3 Làm định ngữ 64
2.2.3.4 Làm trạng ngữ
64
2.2.3.5 Làm bổ n g ữ 65
Tiểu kết 66
Chương III Vai trò tạo lập phát ngôn của Yết hậu ngữ và việc
liên hệ vận dụng vào thực tiễn giảng dạy
3.1 Vai trò tạo lập phát ngôn của Yết hậu ngữ 68
3.1.1 Vị trí của Yết hậu ngữ trong câu
70
3.1.2 Vai trò ngữ dụng trong tạo lập phát ngôn
73
3.1.2.1 Tính hình tượng và nhũng yếu tố cấu thành 73
3.1.2.2 Tính hài hước và châm biếm và những yếu tố cấu thành 78
3.2 Những liên hệ vận dụng vào thức tiễn giảng dạy
84
Tiểu k ế t 91
Kết lu ậ n 93
Tài liệu tham k h ả o 96
4
MỞ ĐẦU
1. M ục đích và ý nghĩa của luận văn
Trong những thập kỉ gần đây,ngành ngôn ngữ học thế giới bước sang
một giai đoạn mới, việc nghiên cứu không chỉ dừng lại ở bản thể ngôn ngữ mà
đã tiến tới nhũng nhân tố bên ngoài ảnh hưởng trực tiếp đến bản thể ngôn ngữ
và mối quan hệ giữa chúng với nhau. Chính vì thế mà xu hướng nghiên cứu
liên ngôn ngữ và xuyên văn hoá đã trở thành bình diện không thể thiếu được
đối với bất cứ thứ tiếng nào trên thế giới trong đó có tiếng Hán.
Kết quả của các công trình nghiên cứu cho thấy tiếng Hán nói chung đã
góp phần tạo nên sự rực rỡ cho nền văn hoá Hán. Thật khó mà tưởng tượng nổi
nển văn hoá Hán lại có thể thiếu được những tác phẩm kinh điến như Tam
Quốc Diễn Nghĩa, Tây Du Kí, Hồng Lâu Mộng hay những áng thơ Đường
bất hủ. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy sở dĩ tiếng Hán có được vai trò to
lớn ấy, không chỉ vì tiếng Hán tinh tế, có kho từ vựng phong phú và lịch sử lâu
đời mà còn bởi vì trong tiếng Hán có nhiều lối nói dân gian, nhiều hình thức
ngôn ngữ mang đậm chất văn hoá Hán. Trong những lối nói dân gian, những
hình thức ngôn ngữ đặc biệt ấy, có một loại Thục ngữ được sử dụng rất rộng
rãi và phổ biến trong giao tiếp đời thường và trong các tác phẩm văn học nghệ
thuật. Hiệu quả mà nó tạo ra cho phát ngôn không chỉ dừng lại ở mặt biểu
nghĩa mà nó còn làm cho phát ngôn trở nên sinh động, hài hước, dí dỏm, tạo
cho người tiếp nhận một cảm giác thú vị mới lạ. Loại Thục ngữ này được gọi
dưới nhiều cái tên khác nhau, song cái tên được nhiều người biết hơn cả là Yết
hậu ngữ . Cho đến nay vẫn có rất nhiều người dân thậm chí giới trí thức Trung
5
quốc nhầm lẫn nó với các hình thức ngôn ngữ khác cùng hệ thống Thục ngữ
như Thành ngữ, Ngạn ngữ
Trước Cách mạng Văn hoá những nghiên cứu về Yết hậu ngữ hầu như
không có gì đáng kể, từ thập kỉ 80 trở lại đây, nó mới được chú ý và nghiên
cứu một cách đúng mức. Mặc dù vậy, những nghiên cứu đó chưa theo một
định hướng thống nhất và hệ thống, chỉ riêng về vấn đề tên gọi đã có rất nhiều
ý kiến tranh luận khác nhau, cho thấy đây một vấn đề đang cần nhiều những
công trình nghiên cún có hệ thống và sâu hơn. Ở khía cạnh sử dụng cũng cho
thấy rằng ngay chính cả người Hán không phải lúc nào cũng dễ dàng và có
được hiệu quả mong muốn khi dùng Yết hậu ngữ, đặc biệt đối với người nước
ngoài học tiếng Hán thì đây càng là trở ngại không nhỏ.
Việt Ham và Trung ậuốc là hai nước láng giềng núi sông liền một dải. Sự
giao lưu giữa hai nước trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá có từ xa
xưa và ngày nay càng được củng cố và mở rộng. Cùng với sự tăng cường của
xu thế hội nhập và toàn cầu hoá, lượng người Việt nam học tiếng Hán ngày
một nhiều hơn. Đối với người Việt Nam thì tiếng Hán là một thứ ngôn ngữ rất
gần gũi về không gian, nguồn gốc cũng như loại hình. Do đó việc phát âm,
nắm các qui tắc ngữ pháp, cách tạo câu không phái là chuyện khó khăn lắm,
song làm sao có thể sử dụng nó thật thuần thục, vận dụng được nhiều lối nói
dân gian để đạt tới hiệu quả giao tiếp ở những cung bậc cao nhất lại là một vấn
đề không hề đơn giản. Bởi ở đây đã có sự can thiệp khá sâu sắc của yếu tố xã
hội, yếu tố văn hoá vào trong ngôn ngữ. Điều này đòi hỏi người học ngoài việc
nấm được những tri thức cơ bản về tiếng Hán còn cần phải có những hiếu biết
nhất định về xã hội, đất nước Trung (|uốc, về nền văn hoá Hán cùng các lối nói
dân gian trong đó có Yết hậu ngữ .
Với mong muốn góp một phần nhỏ vào quá trình nghiên cứu Yết hậu ngữ,
giúp học sinh việt Nam có những hiểu biết nhất định về hiện tượng ngôn ngũ'
này, từ đó khắc phục những trở ngại về ngôn ngữ, văn hoá, sử dụng đúng và có
6
hiệu quả trong mọi tình huống giao tiếp, chúng tôi đã giành nhiều thời gian
nghiên cứu về vấn đề này.
Xuất phát từ mục đích và ý nghĩa kể trên, trong luận văn này chúng tôi
tiến hành khảo sát một cách cơ bản về Yết hậu ngữ tiếng Hán, trong đó tập
trung khảo sát đặc điểm cấu trúc của Yết hậu ngữ và vai trò của Yết hậu ngữ
trong tạo lập phát ngôn, trên cơ sở đó đưa ra một số ý kiến áp dụng vào dạy và
học tiếng Hán.
2. Đôi tượng và phạm vi nghiên cứu.
Với mục đích và ý nghĩa nêu trên, luận văn xác định đối tượng nghiên
cứu là: Yết hậu ngữ tiếng Hán vết cấu trúc, vai trò của nó trong tạo lập phát
ngôn. Tư liệu khảo sát là các Yết hậu ngữ và các câu hội thoại có sử dụng Yết
hậu ngữ . Tư liệu tham khảo là các từ điển Yết hậu ngữ tiếng Hán, các tác
phẩm văn học nghệ thuật và các công trình nghiên cứu về vấn đề này của các
học giả Trung Quốc.
Như vậy, Yết hậu ngữ sẽ được xét đến trên cả hai bình diện Bản thể và
Hành chức trong giao tiếp, tức là cả mặt tĩnh lẫn mặt động cua nó.
3. Nhiệm vụ của luận văn.
Luận văn tập trung thực hiện những nhiệm vụ sau:
(1) Trình bày một số vấn đề lí luận liên quan đến Yết hậu ngữ như: Tên gọi,
khái niệm, đặc trưng, nguồn gốc và tiêu chí nhận diện.
(2) Miêu tả khái quát các đặc điểm cấu trúc của Yết hậu ngữ theo mối quan hệ
giữa hai bộ phận trước và sau cua nó; miêu tá chức năng ngũ' pháp cua Yết
hậu ngữ trong tạo câu.
(3) Phân tích vai trò ngữ dụng của Yết hậu ngữ cùng các yếu tố làm nên vai
trò đó. Trên cơ sớ liên hệ với tiếng Việt rút ra nhũng vận dụng trong giáng
dạy và phiên biên dịch tiếng Hán.
4. Phương pháp nghiên cứu.
1
Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu như diễn dịch,
qui nạp, miêu tả thống kê, phân tích so sánh cụ thể là:
Phân tích và diễn giải các quan điểm nghiên cứu trước đây về vấn đề
này và khái quát thành các luận cứ.
Thống kê miêu tả các đặc điểm cấu trúc của Yết hậu ngữ bằng các Yết
hậu ngữ cụ thể.
Phân tích các câu thoại từ các tác phẩm văn hoá nghệ thuật, khái quát
nên các vai trò của Yết hậu ngũ' trong tạo lập phát ngôn.
Qui nạp các điểm tương đồng và khác biệt của Yết hậu ngữ tiếng Hán
với một số đơn vị ngôn ngữ có chức năng tương đương trong tiếng Việt.
5. Cấu trúc của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và giới thiệu tài liệu tham kháo, luận văn
chia thành ba chương:
Chương một: Những nét khái quát về Yết hậu ngữ .
Chương hai: Đặc điểm cấu trúc và chức năng ngữ pháp của Yết hậu ngữ
trong tiếng Hán.
Chương ba: Vai trò tạo lập phát ngôn của Yết hậu ngữ và việc liên hệ
vận dụng vào thực tiễn giảng dạy.
8
CHƯƠNG I
NHỮNG NÉT GIỚI THIỆU CHUNG VỀ YẾT HẬU NGỮ TIẾNG HÁN
■ •
Là một hình thái ngôn ngữ đặc biệt và đặc thù của tiếng Hán, cũng
giống như các hình thức ngôn ngữ khác, . j Yết hậu ngữ có nguồn gốc,
quá trình diễn biến và phát triển riêng. Những công trình nghiên cứu về Yết
hậu ngữ từ xưa tới nay luôn xoay quanh các vấn đề kể trên. Nhưng xuất phát từ
các góc độ nghiên cứu khác nhau với các nguồn tài liêu khác nhau nên các ý
kiến rút ra về vấn đề này còn nhiểu điểm bất đồng. Ở phần này chúng tôi xin
được bắt đầu từ tên gọi của Yết hậu ngữ.
1.1 N hững ý kiến xung quanh tên gọi "Yết hậu ngữ”
Đơn vị ngôn ngữ này từ xưa đến nay được gọi dưới rất nhiều tên khác
nhau. Có người căn cứ vào việc có thể lược bớt một bộ phận mà gọi nó là Tàng
từ, Súc cước ngữ, Yết hậu ngữ. Có người chú trọng đến mối quan hệ giữa hai
bộ phận trước và sau nên gọi nó là Giải hậu ngữ, Tỷ giải ngữ. Có người lại chú
ý đến nét đặc sắc về mặt tu từ nên gọi nó là Hài tuyết ngữ, Tiếu bì thoại. Theo
các vùng phương ngữ lại có những tên gọi khác nhau, vùng Sơn Đông gọi là
Khảm tử, Hà Nam gọi là Khiếu nhĩ, Giang Nam gọi là Tỉ ngữ, Sơn Tây gọi là
Dương ngữ. Trong các tên gọi đó thì Yết hậu ngữ và Tỉ giải ngữ là hai tên gọi
có tính tiêu biểu nhất và khái quát nhất và được nhiều người sử dụng hơn cả.
Sau đây chúng tôi xin phân tích, luận giải về ưu điểm, nhược điểm của
hai cách gọi tiêu biểu kể trên và lí do chúng tôi sử dụng tên gọi Yết hậu ngữ
cho đơn vị ngôn ngữ này.
(1) Phân tích về tên gọi Tỉ Giải* ngữ.
Năm 1935 trong một bài viết đăng trên bán nguyệt san "Thái bạch"
quyển 2 số tháng 10/1935 đã chủ trương đổi tên gọi Yết hậu ngữ là "Tỉ giái
9
ngữ". Một bài viết khác đăng trên "Đại công báo"năm 1952 cũng cho rằng gọi
Yết hậu ngữ là Tỉ giải ngữ sẽ thiết thực hơn. Tác giả Trần Vọng Đạo trong "Tu
Từ học phát phàm" khi nói về "Tàng từ" cũng đã dùng tên gọi Tỉ giải ngữ.
Căn cứ mà tác giả này đưa ra ý kiến trên là ở chỗ ho đểu cho rằng Yết
hậu ngữ được cấu tạo bởi hai nửa Tỉ và Giái(t'bfp ) (Ví von so sánh và chú
giải). Bộ phận trước là Tỉ đưa ra cái ví von so sánh, bộ phận sau là Giải tức giải
thích cho cái dùng để ví von so sánh ở bộ phận trước.
Trong thực tế quả thực có một số lượng không nhỏ Yết hậu ngữ sau khi
được sử dụng để tạo phát ngôn thì bộ phận trước của nó có vai trò của một Dụ
thể (cái dùng để so sánh), giữa nó và các thành phần khác trong câu xuất hiện
quan hệ Tỉ - Giải. Chẳng hạn:
° fẾ -ừ M & J iiL R j't] M Ỉ 1 A : ± L 'Ả JiM °
(Ninh Kim Sơn vừa nhìn thấy đôi mắt cụp xuống của Mã Toàn thì
tưởng rằng Mã Toàn cáu giận mình. Lòng anh như có hàng chục thùng
nước đang treo, cứ nơm nớp phấp phỏng).
Ở ví dụ trên thì "ÍẾ^ừM" là Bản thế (Cái được so sánh) "Ifc" (giống
như) là Tỉ dụ từ (từ so sánh), ” Ì\7l H líi fỉi ÍT ?jc" (mười lăm thùng gánh
nước) là Dụ thể , " " b i: A T " (phấp phỏng nơm nớp) là sự giải thích đối với
Dụ thể.
Nhưng đó chỉ là một bộ phận nhỏ mà thôi, không phải tất cả các Yết hậu
ngữ khi sử dụng tạo câu đểu như vậy, mà có lúc nó chỉ như một trò chơi chữ,
có lúc lại như vế đố và lời giải, có lúc lại là sự vận dụng thủ pháp song quan.
Hãy quan sát các ví dụ sau:
( D S t ì í Ằ S N = “ 0 Ằ f ” ® Ô H Í • ỉ i í ỉ a i ĩ ỉ n
i t “ r ~ Ị S E Í Ĩ ± A Ấ a — c £ 1 2 ’ f S T M
u w. m ”
* Ti- Giải: so sánh, ví von và giải thích
10
(E rằng có người sẽ hỏi f Bè lũ bốn tên bị lật đổ đã ba năm mà bà
quả phụ Trương vẫn "hai ba, bốn, năm, sáu,bảy tám chín- khuyết một
(cái mặc) thiếu mười (cái) như xưa, quả là khó mà tin nổi) ("— " đổng
âm với "-|J " dồng âm với "lit") (1. Trang 74)
' t m v
ÌÉ * Ể r S X Ằ I M M T - * h m m * :
PE ”
(Hàn Lão Lục lạnh lùng nói với Điển Vạn Thuận:" Cậu cần phải
có bản lĩnh của mình, đừng có nghe lời, tôi, đi gặp đội công tác đã,
chúng ta cưỡi trên mình lừa đi xem hát, đi rồi khắc biết) (5. Tr 19)
m w m $ ỉ ’ ° l i i i i i : “ &
7 ̱ M % — á iM . ”
( Vào bữa, trong cabbát gốm toàn màu cơm vàng rực, thầy hướng
dẫn bảo: "Đây là em trai của gạo- kê") (12. Trang 19)
Trong ví dụ (1) "• ~ — |7E| -f; Á ýj" (hai ba, bốn, năm, sáu,bảy,
tám, chín) đơn thuần là liệt kê số đếm nhằm đế dẫn dắt tới "
(khuyết một thiếu mười), Yêì hậu ngũ' này trên cơ sớ tính toán và vận dụng sự
đổng âm chiết tự đế nói rằng vẫn thiếu đói như cũ." (đi mà nhìn; đi
rồi khắc biết) ở ví dụ (2) là sự vận dụng song quan về mặt ý nghĩa, tầng nổi là:
vừa đi vừa xem nhưng thực tế là muốn nói kết cục của sự việc như thế nào hạ
hổi phân giải. Vế trước "íỳ/íth-L w Ạ (cưỡi trên mình lừa đi xem
hát) không thế coi là một Tỉ dụ vì khỏne nêu ra được đối tượng so sánh (bán
thể) lại không chen các từ so sánh (Tí dụ từ) như (như, giống như)
vào giữa được. Quan hộ giữa hai vế Irirớc và vế sau của ■yết hậu ngũ' được thế
hiện bằng thủ pháp song quan, ớ ví du (3) vế trước" 7|t (em trai cua
gạo) như một vế đố, vế sau " /^ 7^" (kê) như lời giai đố, quan hệ giữa chúng là
quan hệ giũa vế đố và giái đố. về quan hệ nghĩa, haivế cùng phạm trù "mễ"
(lương thực).
Chính vì mối quan hệ Tỉ giải không thể phản ánh được đặc trưng cơ bản
của mối quan hệ nội tại của Yết hậu ngũ' nên tên gọi "Tỉ giải ngữ" không thể
đứng vững được.
(2)Phân tích về tên gọi "Yết hậu ngữ
Do người xưa khi đặt tên không nói rõ, người đời sau khi nghiên cứu về
vấn đề này đã giải thích theo hai xu hướng.
Một: nói rằng đơn vị ngôn ngữ này"do hai bộ phận cấu thành, khi nói có
sự ngừng khá lâu giữa hai bộ phận vì thế mà có tên gọi Yết hậu ngữ
Hai: cho rằng đơn vị ngôn ngữ này là "Bán Tiệt Thoại"(4^H o i) nửa
sau nói hoặc không nói không quan trọng, trong nhiều trường hợp thường là
không nói. Do nửa sau "thường không nói ra cho nên gọi là Yết hậu ngữ
Cách giải thích đầu khó đứng vững, khó được chấp nhận. Bới có nhiều
câu Thành ngữ, Ngạn ngữ cũng do hai bộ phận cấu thành và giữa chúng có sự
ngừng ngắt khi nói, nhưng không vì thế mà gọi chúng là Yết hậu ngữ. Cách
giải thích thứ hai rất phổ biến và được nhiều người chấp nhận, phần lớn các
nhà nghiên cứu và các công trình nghiên cứu về vấn đề này đều sử dụng nó.
Thực ra cách giải thích thứ hai cũng vấp phải những vấn đề khó giải quyết. Rất
nhiều ví dụ chứng minh rằng đơn vị ngôn ngữ này không hề "yết hậu" (t§fc ífí).
Theo thống kê của nhóm tác giả cuốn "Yết hậu ngữ " (nhà xuất bản
thương vụ ấn thư quán-1985) do Ôn Đoạn Chính chủ biên, thì trong tổng số
4893 đơn vị Yết hậu ngữ của hơn 520 tác phẩm nghệ thuật được nghiên cứu
như "Hồng Lâu Mộng", "Nho Lâm Ngoại Sử", "Tây Du Kí","Lí Tự Thành" ,
chỉ có 375 Yết hậu ngữ (chưa đầy 10%) là lược bỏ bộ phận sau .
Tại sao bộ phận sau là không được bỏ đi?
Một là: hai bộ phận cấu thành Yết hậu ngữ quan hệ với nhau rất chặt
chẽ, hơn nữa bộ phận sau là trọng tâm biểu nghĩa của cả Yết hậu ngữ nếu lược
bỏ sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả biểu đạt.Ví dụ:
12
(4 ) S ỉ t t £ f f l k T ' j f T i « t l s # 4 - e T "
) i * ố < ) S « a ’ * * Ỉ Ẹ M 1 W ° a i M t t : '& M M .
ắ ì f l j i g l » l / h * •
(Bây giờ hợp tác hoá rồi, các hộ tự thu hoạch riêng lẻ trước kia
nay đã hợp lại cùng nhau. Những hòn đá trục sẽ thừa ra chẳng bán được
cho ai. Như thế gọi là: Cô gái chưa chồng khâu giày- không cần biết
chân chú rể to hay nhỏ). (12. Trang 236)
Trong ví dụ này "không cần biết chân chú rể to hay nhỏ” ví làm việc,
không xuất phát từ tình hình thực tế. Nếu lược bỏ đi sẽ rất khó lí giải được
nghĩa của cả câu.
Hai là: là cần phải kể đến một số Yết hậu ngữ nếu lược bỏ bộ phận sau
sẽ rất khó hiểu và không phân biệt ý nghĩa của chúng. Ví dụ:
( 5 ) “ ÍẾ |ỈS J ! s • m t i m & ' ’ Ễ ế i i § - Í
Ếằ í l ± i í nửn ử k i t ; “ Ằ ín i£ ffc * Ỉ O Ẩ Í L
- M t t a e ” ^ 9,;(
("Anh ấy à, vừa'Van lại vừa''võ, văn viết rất lưu loát mà chữ viết
cũng là một tay cừ khôi". Tổng biên tập cười ha hả nói: "Mọi người đều
nói anh ấy là Trương Phi xâu kim - thô mà lại tinh") (12. Trang 332)
( 6 ) / L ^ i ă ’ iK ^ 2 , j £ m % m J L £ ỉ i z z ± BIm /i■NBI ’ íề W
(Chỉ mấy câu nói đã khiến cho Mã Liên Phú như Trương Phi xâu
kim-mắt trợn tròn sống lưng, ớn lạnh) (4. Trang 162.)
Hai Yết hậu ngữ trên bộ phận trước đều là"3£ "(Trương phi xâu
kim) bộ phận sau lần lượt là " i t t i " (thô mà tinh) " 01 Bi/MỈU" (mắt
trợn tròn) nếu lược bỏ đi thì thật khó mà phân biệt và hiểu được nghĩa của cả
câu.Vì thế, bộ phận sau định hướng nghĩa cho bộ phận trước.
Ba là: việc lược bỏ bộ phận sau sẽ làm mất tính hoàn chỉnh của cấu, đặc
biệt, trong tình hình chen thêm ihành phần khác vào giữa hai bộ phận hoặc
13
m ! ”
(Trần Khánh Sơn bất giác ngoác miệng cười, nói: "Chuột găm
bóng da, cậu lại khách sáo rồi!") (5. Tr.301)
= “ i ì
m m - ừ m ± ? S i « t t ’ f r j f t g t t ’ É J Ê * í f ] * A 'itto
Ế i ”
(Trong nhà hợp tác là cả một đám hỗn độn, tiếng của lão Sơ át
mọi thứ tiếng khác, ông nói:" Đây thì là hợp tác xã gì? Mấy thằng cha
ấy túi vải mua mèo, chỉ chực chộp lấy sự hồ đồ của bà con ta mà thôi).
(15. Trang 273)
Ví dụ: (7) giữa hai bộ phận trước và sau chêm thêm "ịỉự\ fậj"
Ví dụ (8) bộ phận sau"J^ Jlft " bị tách ra , chêm fn w ịẾ"
vào giữa. Trong tình hình trên không thể nào mà lược bỏ bộ phận sau được,
nếu lược bỏ đi thì không những ý được biểu đạt không rõ mà ngay cả câu cũng
không đứng vững được.
Những điêù trên cho thấy, gọi là Yết hậu ngữ nhưng thực ra là không hề
"yết hậu " (lược đi) và cũng không thể đểu là "yết hậu Nói như vậy không có
nghĩa là Yết hậu ngữ thì tuyệt đối không có "yết hậu", mà là* phải có điều kiện
cụ thể. Những điều kiện đó là: một, cùng một Yết hậu ngữ mà trước đó đã xuất
hiện hoặc sau đó sẽ xuất hiện, để tránh sự trùng lặp sẽ lược bớt một phần. Hai
là, đó là những Yết hậu ngữ thường dùng. Đây là điều kiện chủ yếu. Vì những
Yết hậu ngữ thường dùng mọi người đểu quen thuộc , vừa nói bộ phận trước
người nghe đã liên tưởng tới bộ phận sau, ví dụ như các Yết hậu ngữ
"±7 jcỳf 7 i è ĩ - Ỉ Ễ - - — K À W Ẳ ^!c"(n ư ớ c lớn dìm miếu Long Vương-
nguùi một nhà mà không nhận), "ĩqj n£ g Y'fp] ÌỆ. - - iP A t K ;ừ " (chó cắn Lã
Động Tân- không biết lòng người tốt)
trong cùng một bộ phận như:
14
Cũng cần phải chỉ ra rằng, việc lược bỏ bớt một bộ phận không chỉ riêng
Yết hậu ngữ mới có, mà một số Thành ngữ, Ngạn ngữ trong những điều kiện
nhất định cũng có thể thực hiện phép lược trên. Ví dụ thành ngữ "
có thể được coi như là kết quả "yết hậu" của thành ngữ jju ^ ’ fpj Ég
/ c í í " (Muốn gán tội cho người khác không lo thiếu chứng cớ). Những trường
hợp giống như trên không ít.
Ngoài ra, tên gọi Yết hậu ngữ còn có một điểm hạn chế khác, đó là rất
dễ lẫn lộn với Yết hậu ngữ mà người xưa nói tới. Tên gọi này có thể thấy xuất
hiện tản mạn trong một số sử sách thời xa xưa, nhưng về thực chất chúng lại
rất khác nhau.
Một là, chỉ một thể thơ, thể thơ này một thời thịnh hành ở đời Đường,
tác giả nổi tiếng nhất là Trịnh Khánh vì thế mà có tên là "Yết hậu thể Trịnh
Ngũ". Thể thơ này thường lược bỏ bớt từ cuối của câu thơ. Ví dụ hai câu thơ
mà Trịnh Khánh viết tặng vợ chổng người em ngày cưới vốn ra phải là:
(Tàm vô đậu kiến đức,
Quí tác Lương Sơn Bạc)
(Tạm dịch "Hổ vì kém đức, Thẹn được làm anh")
Trên thực tế hai câu thơ này chỉ là : Tàm vô đậu kiến, Quí tác Lương
Sơn. Ông đã lược bỏ chữ"f|ỉ" (đức) dùng hai chù' "|ỆịÉ;" (đậu kiến) thay thế,
sau hai chữ "Ij-lJ-l" (Lương Sơn) lược bỏ bớt chữ "fÉJ"(bạc) và dùng hai chữ
đó thay thế cho chữ
Hình thức ngôn ngữ này cũng xuất hiện nhiều lần trong thơ của Đỗ Phủ,
Hàn Dũ và các nhà thơ khác.
Hai là, chỉ một kiểu "tạo ngữ pháp". Trần Dịch đời Kim trong cuốn
"Văn thuyết" từng qui thành tám loại " Dưỡng khí", " Bão đề", "Minh thể",
15
"Phân gian", "Lập ý", "Tạo ngữ", "Hạ tự" là "Vi văn chi pháp" và chú dưới
mục "Yết hậu ngũ' "trong "tạo ngữ pháp" như sau:
Yết hậu ngữ : Giai bất thuyết phá chính ý yết hậu sở đương ngữ, nhi thử
nhân tư chi (tạm dịch" ngũ' lược bỏ không nói rõ ý chính để người nghe tự suy
ngẫm về nó). Trên thực tế nó tương đương với kiểu câu phản vấn mà người
Hán hiện nay sử dụng, cố ý đưa ra câu hỏi, không giải đáp chính diện mà để
người đọc suy nghĩ tìm ra câu trả lời.
Ba là, chỉ một trò chơi chữ.
Ba loại Yêì hậu ngũ' kể trên với Yết hậu ngữ mà người Hán hiện nay sử
dung (cũng chính là Yết hậu ngũ' mà luận văn này đề cập đến). Về tính chất cơ
bản là khác nhau. Loại yết hậu ngữ được nói tới ở đây thực ra là đã tồn tại từ
rất lâu, nhưng thời xưa cũng không có sự thống nhất về tên gọi. Có người gọi
nó là "Tiếu ngũ' ", có người gọi nó là "Phương ngữ" , có người lại qui nó về
"Thị ngũ'", song nhiều nhất gọi nó là "Dao ngạn". Trong cuốn "Cố dao ngạn"
của tác giả Đỗ Văn Lan đời Thanh thu nhập không ít loại yết hậu ngũ' này.
Do tên gọi Yết hậu ngũ' không phán ánh được đặc trưng bản chat cua
nó, lại dễ nhầm lẫn với Yết hậu ngũ' mà người xưa nói, nên ngay từ những năm
30 của thế kỉ 20 nhiều nhà nghiên cưú và cả các nhà văn, như nhà văn Mao
Thuẫn trong bài "Yết hậu ngữ " cũng chủ trương răng, Yết hậu ngũ' mà người
Hán hiện đại sử dụng " Nên có một cái tên khác". Một số tác giả khác hiện nay
như Ôn Đoan Chính (tác giả cuốn Yết hậu ngũ' - nhà xuất bán Thương vụ ấn
thư quán) chủ trương đổi thành tên" Dãn Chú ngữ”. Lí do mà ông đưa ra đó là:
❖ Phần lớn các Yết hậu ngữ đểu không lược bỏ phần sau.
♦> Khi vận dụng vào câu. Yết hậu ngũ' không chi có tác đụns ví von so sánh
mà còn là sự dẫn dắt đế đi tớimột kết luận.
♦> Mối quan hệ nội bộ giữa hai bộ phận của Yết hậu ngữ không chi la Tỉ -
Giải mà còn là các quan hệ khác.
16
Tác giả của luận văn này cho rằng cách phân tích và luận giải tên gọi
"Dẫn Chú ngữ " của Ôn Đoan Chính khá xác đáng và hợp lí. Song việc đổi tên
liên quan đến rất nhiều vấn đề , đặc biệt là vấn đề tập quán, hơn nữa tên gọi
Yết hậu ngữ hiện nay vẫn được các nhà Hán ngữ chấp nhận sử dụng, nên luận
_
. ' có
văn vân dùng tên gọi cũ Yết hậu ngữ với nội dung ỉồì bộ phận Dẫn - Chú.
Chúng tôi cũng cho rằng tuy có những điểm khác cơ bản với Yết hậu ngữ mà
thời xưa nói tới song ở những điểm nhất định nào đó Yết hậu ngữ ngày nay và
Yết hậu ngữ thời xưa vẫn có nhũng điểm tương tự. Để trả lời Yết hậu ngữ là gì
chúng tôi đã thảo luận thêm một số vấn đề sau đây.
1.2 K h á i niệm và đặc trư ng của Y ết hậu n g ữ .
1.2.1 Khái niêm
Trên đây khi trình bày về tên gọi, chúng tôi cũng đề cập đến nội hàm
của thuật ngữ Yết hậu ngữ .
Về nội dung khái niệm Yết hậu ngữ cũng có rất nhiều ý kiến khác
nhau. Dưới đây xin đưa ra một số ý kiến tiêu biểu.
Nhóm tác giả cuốn " Hiện đại Hán ngữ " Nhà xuất bản nhân dân Cam
túc năm 1981, cho rằng "Yết hậu ngữ là những câu nói cửa miệng có tính chất
ẩn ngữ do hai bộ phận giống như câu đố và lời giải tạo thành. Bộ phận thứ
nhất là sự ví von hoặc nêu ra một sự vật giống như câu đố, bộ phận sau như lời
giải đố biểu hiện ý nghĩa thực tại của câu"
Tác giả Ngó Chiếm Thân trong cuốn "Hiện đại Hán ngữ độc bản" Nhà
xuất bản Học viện Ngôn ngữ Bấc kinh thì cho rằng "Yết hậu ngữ là những câu
nói cửa miệng có tính chất định hình mang phong cách hóm hỉnh hài hước do
hai bộ phận Tỉ dụ ngữ - Thuyết minh ngũ' tạo thành"
Từ điển "Hiện đại Hán ngữ " viết: "Yết hậu ngữ là một câu nói được tạo
thành bởi hai bộ phận, bộ phận trước như lời đố, bộ phận sau như lời giải đố,
thông thường chỉ nói bộ phận trước, nghĩa cơ bản nằm ở bộ phận sau". Chúng
tôi thấy rằng những cách định nghĩa trên ỏ một mức độ nào đó chưa thật khái
í L ê ,lỏ 0 4
/
quái và bao Irìun. Th(í Miện ỏ' cliỏ, lioậc lá họ clui.ý lới mơi quail h(Ị giữa hai bộ
phận (ý kiến các nhóm lác giá hai cuốn " Hiện đại Hán ngữ "); hoặc là chíi ý
tới tảc dụng tu từ của yết hậu ngũ' (ý kiến của tác giá Ngô Chiêm Thân). Và
ngay cả khi nói về hai bộ phận, phấn lớn déu chơ răng "bộ phân irước nhu' lời
đố, bộ phận sau như lời giai đố. Ỷ kiến của lác giá cuốn "Hiện đại Hán ngữ từ
điển"., Nhà xuất bán Thương vụ thư quán còn cho rằng thông thường chỉ cần
nói bộ phận trước, diều này so với con số Ihống kê về việc lược bỏ bộ phận sau
mà nhóm tác gicí cuốn "Yết hậu ngữ " (Nhà XIIất bán Thương vụ Ihư quán do
Ôn Đoan Chính chủ biên) liến hành nehiên CIÍII qua 520 tác phẩm văn học
nghệ thuật như dã nêu ở phần I là li'tii nuiĩực nhau.
Bên cạnh những ý kiến trên, có một ý kiến khác mà chúng lôi cho rằng
xác đáng hơn cá, dó lít cua túc siki Òn Đoan Chính. Sau khi phân tích các ý
k iế n k h á c n ha u ô n g dưa ra đ ịn h n uhĩa: " Y ẽ ì hậu im ữ !à m ộ l lo ại llụ ic n gữ của
tiếng Hán do hai bộ phận chứa quan hệ Dan Chú tạo lliành và có kết cấu lương
dối cố định mang sắc thái khẩu ngữ." (8. Tr. I)
Ông còn nhấn mạnh thêm rằng quan hệ Dan- CliLÌ (dẫn dắt - chú giái) la
chí clning cho các quan hệ khác (kể ca cỊLicin hệ lí dụ) giữa hai bộ phận.
Sau khi tham kháo lổng hợp các ý kiến khác nhau lỉiì chúng lôi cho ràng
Yết hậu ngữ là m ột đon vị ììgôìì iìgữ âặc tìiừ của tiêng Hán. Là những câu
nói cứa miệng có dãc (1iểw ììììiỉi lnoníỊ sinh dộng, hài hước hóm ÌìỉìiÌì được
tạo thành bồi hai bộ pháỉì có hết cấu khá vững chắc. Bộ phàn íntỏc là sự
dẫn dắt, ví von, lĩìnlĩ dung hoặc miêu tả dối vói một sư vật hoác một động
tác hành động, bộ phận sau là su Ịịịắi thích, nói rõ cho bộ phận trước, vói
các nội đung ré nhân tình thê thái, tình băng hữu, lí su - lư biên, su đánh
Ịịiá của chủ ngôn (lìiỊUÒi (/Íniíi)rjn>iiự những (liêu kiên nhất dinh có íhê
lược bỏ bô phàn sau.
1.2.2 Đâc triniíi của Yết hâu iwữ
18
Sau khi tiến hành phân tích hưn 2300 Yết hậu ngữ trong cuốn "Yết hậu
ngữ tiểu từ điển", cluing lòi lúi ía mộl kết luận nlni sau vể mối quan hệ giữa
hai bộ phận của Yêt hậu ngũ' : Mộl là, trọng tàm ý nghiã luôn luôn ở bộ phận
sau. Có nghĩa là bộ phân sau biêu thị ý nghĩa cơ bản cúa cá chính ihế Yết hậu
ngữ. Nội dung ngữ nghĩa mà bộ phân sau tlề cập tiến rái lộng lớn bao gồm mọi
Cling bậc tình cám của con người, lừ cách nhìn nhận vê nhân lình thế thái, lình
cảm yêu ghét, niềm sướng khổ cho đến nhũng triết lí sâu xa ưong phê phán
giáo đục, tổng kết kinh nghiệm. Bô phận trước ngoài việc biếu lliị mộl ý nghĩa
phụ trợ nào dó chủ yếu là làm vai Irò dẫn dắl cho bộ phận sau. Chẳng
~Ả' ỈH" (Cao xạ pháo bán muỗi- Đại tài tiểu
đụng); " tx -] T' Ấ‘ ~A‘ ;JN (Cót diện làm đũa - Đại tài tiểu dụng)
lại cũng có thể nói ihành: ÍJ !:1- ểằ ÌM' - - jfc Ặ' 7J' ill" (Cội nhà làm kim-
Đại tài tiểu dung); jl] ÌM ậ T - - :k /j' /Jn (Vỏ chăn vá bít tất - Đại tài
tiểu dụng) trong dó "|ffj Ỵ-" (Cao xạ pháo bắn muỗi),
"tè ếêtuẾỉ “P" ( Cột cí'ên l‘im CÍL~la), " n Í I Éi íl' í ir (Cộl nhà làm kim),
"M E5Ĩ tfl ' ( vỏ chăn vá híl t;ì() la giỏng nhau đéu có tliể dán tới
" À' 4 ' ỵh JTJ" ( Đai tài liêu dmm). Vì bô phận sau của Yết hậu ngữ là dẫn thân
từ bộ phạn trước thì tự nhiên nó dã hàm chứa lác dụng chú thích nói rõ cho bộ
phận trướcyihư Ạ l|j" (.lôi với tât cá các hộ phận nước mà nó di kèm. Vì
thê chúng tôi dồng ý với quan điếm cho lăng môi quan hệ giữa hai hộ phàn
của Yết hậu ngũ có thể khái quái thành quail hệ giữa dần đắt và chú ihích, gọi
tắt là "quan hệ Dẫn-Chú".
Như vậy mối quan hệ Dần-Cluí co thè được coi la dặc trưng cơ bán nhất
của mối quan hệ nội bộ của Yết hàu ngữ . Các mòi quan hệ khác bao gồm ca
quan hệ Tí Giái đều được phát sinh tư môi quan hệ này. Do Vdặc Irưng cơ ban
nhất HĂỹ nên nó cũng chính là tiêu chí nhận diện quan trọng nhài cua Yêt hậu
ngữ .
19
Đặc trưng thứ hai của Yết hậu ngư là lính, tương dối cô định về mặt kếl
cấu. ơ điểm này Yết hậu ngũ' giống nlur'ihanh ngữ, Ngạn ngữ. Tuy nhiên cũng
phải thấy rằng so với Thành Ngữ và ỉìlgạn ngữ Ihì Yết hậu ngũ' kém chặt chẽ
hơn; người ta có thể chen lliêm vào giữa hai bộ phận thám, chí ngay Irong mội
bộ phận những thành phẩn khác nhau (xem ví dụ 1,2 ơ Irang 6), trong khi ử
Thành ngữ và Ngạn ngữ hầu như khôn lí thể thực hiện dược điểu này.
Đặc (rung thứ ba là tính khau ngũ' mạnh . Qua khao sát chúng tôi thấy
rằng hầu hết nhũng dẫn dắt mà bộ phân nước cua Yết hậu ngu' dưa ra đểu râl
gián dị sinh dộng như dời sống thực, ngôn lừ ít Irau chuôi gọt giũa. Hãy quan
sát các Yếl hậu ngũ' sau:
(1 ) " £ ± ± từ ĨÈ - - ill: e * n 7C r ì 7 "
ơ Yếl hạll ngữ ( !) nèll mộ( sụ' viêc ớ hộ phận trước "hà giỉi dệl hna" lừ
đó dân dál đêu một aiai thích "lằng nhằng mãi không xong". Yêì hậu ngũ' (2)
bộ phận Irước là nhắc đến mộl sự vậtHlống Ỉ1Ổ hỏng và đi đến kết luận "không
chuẩn". Ta có ihế Ihíìy rằng, lìhũìm sự vậi SƯ việc dược nêu ra nil gần gũi mộc
mạc, hình Ihức ngôn ngũ' cũng gian dị khác hán những câu triết lí hàm súc sâu
1.3. Tiêu chí nhận diện
V iệ c vạch m ticu chí nhím diên cho I11ÔI (lon vị ngổn I1ÍIỮ là mổt việc có
ý n g h ĩa q ua n trọ n tí: k h ô n g ch í d ổ i với COM tí lác n g h iê n cứu m à c ò n d ố i với cá
việc vận dụng vào thực lõ sư dun”,
Việc đua ra các tiêu chí nhãn diên Yếl hậu ngữ dược chúng tói liên
hành trên cơ sơ tổng kết các dặc lniim cua 11(3 như dã phàn tích ở phần trên
dồng thời kết hợp với kếl quá của việc so sánh Yếl hậu ngũ' với các dơn vị dề
nhám lẫn với nó như Thành ngữ , Ngan ngữ.
20
Theo chúng tôi có bốn tiêu chí để nhận diện Yết hậu ngữ, gồm tiêu chí
về hình thức; tiêu chí về mối quan hệ nội bộ, tiêu chí về kết cấu, tiêu chí về tác
dụng tu từ.
ỉ .3.1 Tiêu chí vê hình thức.
Cũng nằm trong hệ thống thục ngũ', nhưng Thành ngữ trong tiếng Hán
phần lớn gồm 4 yếu tố (4 chù') chẳng hạn (không kể xiết )
" Ạ õ ji t i r (không cứu vãn nổi); Ngạn ngữ là những câu rút gọn có thể dùng
độc lập , kiểu như 3 ," ( Trước sau cốc vũ, gieo đỗ
trồng dưa ) "^j=f Ịe3 ’ ji[ fn (Có mượn có trả, mượn lại không khó)
còn Yết hậu ngũ' có số lượng các yếu tố (các chữ) không hạn định và được tạo
bởi hai bộ phận rõ ràng, giữa hai bộ phận ngoài dấu phẩy nhưThành ngũ', Wgạn
ngữ còn có thể dùng dấu ngang dài để phân cách. Ví dụ: - - Í5 iíìi"
(đổng hồ hỏng - không chuẩn); '’7jC^íặ-tl:.Ẹ ~w ýj f"Ể A' L±1" (Trâu rơi
xuống giếng - có sức cũng bó tay).
ỉ .3.2 Tiêu chí vê mối quan hê nỗi bô.
Phần lớn các Thành ngũ', Ngạn ngũ' là một chỉnh thể trọn vẹn. nhưng cũng
có không ít các Thành ngũ', Ngạn ngũ' cũng được cấu thành bới hai bộ phận, tại
sao không gọi chúng là Yết hậu ngũ’ ? Ta xét các ví dụ sau đâv, thành ngữ
"t Jf ỉ? * (Thà đế mình lanh không để lòng lạnh); "hj
ỉil t t ’ (Giữ được núi xanh không lo thiếu cúi đốt), ngạn ngũ'
—‘ÍE/IE ’ fk ^ ~ ' íẵ ệ ẵ " (Mùa đông tích một nắm phán, vụ mùa thêm
một gánh thóc), "ý c x ặ tầ ' % H w i ỉ " (tỏi là thứ quí, thường ăn sẽ
khoẻ) đều không gọi là Yết hậu ngữ . Vì kết quả nghiên cứu về các đơn vị trên
. THíuiìa
cho thấy, quan hệ giữa hai bộ phận của Yết- hậu ngũ' hoặc Ngạn ngũ', đó hoặc
là quan hệ liệt kê, như "iìịíỂẺ A' ẾM ’ M ‘r : ^ " (một SỢÍ tơ dệt không thành
dây, một bàn tay vỗ không thành tiếng), hoặc là quan hệ giả thiết nhu'
"'ìÙỠ]W'£Mr- ’ {ũĩ (Muốn gán tội không sợ thiếu chúng cứ), hoặc là quan hệ lựa
chọn, như (Tha đế mình lanh chứ khôns đế lòng lanh) hoặc
là quan hệ điều kiện như "Ịg t# - ỉUtt ' 'Ríỉ.íU ặ H n ’1 (Giữ dược núi xanh
không lo thiếu củi đốt). Ỷ nghĩa mà Thành ngữ , Ngạn ngữ biểu dại không phải
là sự cộng lại của các yếu tố hoặc thuộc về một bộ phận nào đó mà là cua cá
chỉnh thể. Trong khi đó như (lã phân tích ở phần dặc trung , mối quan hệ nội
bộ giữa hai bộ phạn của Yêì hậu ngữ là quan hệ Dẫn -Chú hoặc Tỉ -Giái. Ỷ
nghĩa hiện thực của Yết hậu ngữ lại nằm ở bộ phận phía sau, hộ phận liước chỉ
có lác dụng dẫn dắt ví von. Vì thê chúng ta dễ dàng nhận thấy các Thành ngữ
Ngạn ngữ nêu tiên không lluiộc ve Yẽt hạu ngữ .
Cẩn nói thêm rằng, trong những điểu kiện nhất định một sô Thành ngữ,
Ngạn ngữ có thể cluiyển lioá thành Yết hậu ngữ. Ví dụ "iỉử 7KÍT j-]‘ - - P!'J
ill" (chèo Ihuyền ngược nước- không liến ắl lùi) là kếl quá của việc ngưừi sử
dụng bổ sung bộ phận cluí thích "^ M; l/iy Ì E " VÍK) Ihành ngữ "jộj 7]c Í7 '$■ "•
Cũng giống như vậy sau ngan ngữ ^~\}\ !$ * í'ỈI' / " bổ
sung vào phía sau " i ' p - - Ệ ị" sẽ Ihành Yết hậu ngữ "Ba lú lài nói
chuyện sách , ba đổ tể nói chuyện lợn - người nào kiếu ấy". Điều kiên nhất
định được nói ở dây chính là sư thay dổi về mối quan hệ nội bộ giữa các bộ
phân của Thanh ngữ hoặc Ngạn ngữ (lược chuycn hoá. Có nghĩa là khi bổ Sling
hoặc phân tách ra thì mối quan hệ nội bộ của don vị ây phái là quan hệ Dẩn
Cluí lúc dó nó mới Irớ thành Yết hậu ngữ .
Do đó có thế thây rằng mối quan hê Dẫn tlắl - CliLÌ thích giữa hai hộ phận
là liêu chí cơ hán nliấl đê giúp phàn biệl và nhận diện Yêì hậu ngữ .
ỉ .3.3 Tiêu chí vé kết càn
Nếu xél về độ bén vững ổn tlịnh của kết câu lliì Yết hậu ngữ kém hơn hẳn
Thành ngữ và Ngạn ngữ, người la cỏ Ihể chen Ihêm các yêu lố vào giữa hai bộ
phận, thậm chí là trong cùng mội bộ phân của Yêì hậu ngữ, nhung không Ihê
thực hiện được điều đỏ đổi với Thành ngữ và Ngan ngữ.
22
Nhưng nêu so sánh với phép tỉ dụ thông thông thường ta thấy Yết hậu ngữ
có kết cấu ổn định hơn hẳn. Chúng ta hãy quan sát các ví dụ sau:
(9)"#c ^ ^ # 7ầ ỉầ g Ẻ*I ^ - - fff ì ề jfcM
7 "
(Lão Mai này sẽ không bao giờ là con nhặng xanh trong cái chụp
thuỷ tinh- Tương lai tươi sáng không đường ra nữa ) ( 12. Tr. 159)
(Tôi như chú chim sâu bay ra ngoài qua lớp kính , mất nhìn thấy
bầu trời tươi sáng bên ngoài, đầu va đập đến phát đau mà cũng không sao
thoát ra khỏi) ( 13. Tr.36)
Rõ ràng ý diễn đạt của "3£ - - mĩì ũ i t tb ớ ví
dụ(9)và"i5s^#j£iíi]ỷh
Ẻk ^ :ẳr" ớ yí dụ (10) là gần như nhau nhưng người ta chỉ gọi cái
trước là Yết hậu ngữ bởi vì kết cấu của nó ổn định và thành thục ngữ còn cái
sau thì không phái vì kếl cấu không ổn định và chỉ được tổ hợp mộl cách lâm
thời, ổâu (9) tái sinh, câu (10) sản sinh trong lúc nói.
1.3.4 Tiên chí vé túc chiììx tu từ.
Nếu Thành ngũ' mang phong cách tao nhã làm cho câu ngắn gọn hàm súc
mà vẫn hêì sức sắc bén mới mẻ chuyển tái những ý tứ sâu xa, nếu Ngạn ngữ
làm tăng cường sức thuyết phục, sức truyền cám nâng cao tính chiến đấu của
ngôn ngũ' thì Yết hậu ngũ' lại làm cho câu trở nên sinh động, hài hước hóm
hỉnh mang lại cám giác mới mé cho người nghe.
Bên cạnh đó thông thường Thành ngũ' oèn mang tính bút ngũ' còn Yết hậu
ngũ' lại ngược lại, nó mang tính kháu ngũ' rất mạnh. Cùng biếu đạt ý không
dám trổ tài trước nhũng người giỏi giang hơn mình, người Hán có hai cách nói,
một là "ĩ)ĩ. n # r ệ " ( múa búa trước cửa nhà Lỗ Ban) " Ỹ \M n ầríặic 'fr "
(đánh rơi búa trước cửa nhà Lỗ Ban). Nguồn gốc của hai cách nói trên có từ rất
23
lâu, sớm xuất hiện trong các điển sách thời Tống Nguyên. Nhưng người ta coi
" Ị lỉ Ị1 # là Thành ngữ còn n Ệ ịĩệ -ý c ^ r" là Yết hậu ngũ' bởi lẽ nó
mang đậm sắc thái khẩu ngữ như một câu ví von thông thường. Nhũng trường
hợp tương tự kế trên cũng không phái là ít.
1.4 N gu ồ n gốc của Yết hậ u n g ữ
Khi nói tới nguồn gốc của Yết hậu ngữ tức là nói tới hai vấn đề có tương
quan lẫn nhau: Yết hậu ngữ được hình thành như thế nào và do ai sáng tạo.
1-4.1 Đối với câu hỏi Yết hậu ngũ' được hình thành ra sao có rất nhiều ý kiến
khác nhau, trong đó phái kê đến bốn ý kiến tiêu biểu sau:
Một, cho rằng Yết hậu ngũ' ngày nay là do "Ngạn ngũ' tự chú cách (ngạn
ngũ' kiểu tự chú) phát triển mà thành.
Hai, cho là do loại Yết hậu ngũ' "vốn có" hoặc "chính qui" phát triến lên.
Ba. cho là do Ẩn ngũ' phát triển thành.
Bốn, cho là hình thành từ "Tỉ hưng dẫn dụ".
Sau đây chúng tôi lđn lượt phân tích từng ý kiến một.
Ỷ kiến thứ nhất là cúa một tác già không rõ tên trong bài "Yết hậu ngữ"
đăng trên bán nguyệt san "Thái bạch"năm 1935 . Trong đó viết "Yết hậu ngữ
thực ra là một hình thức của sự phát triển đặc biệt của Ngạn ngữ. Chúng ta đều
biết Ngạn ngũ' có rất nhiều kiêu trong đó phổ biến nhất là Ti dụ Yết hậu ngũ'
chính là sự phát triển đặc biệt cua phép Tỉ dụ". Tác giá bài báo này cho rằng
"Trong Ngạn ngũ' có một loại "Ngạn ngũ' tự chú cách", sau phần ví von so
sánh, xuất hiện phần "chú thích nói rõ dụ ý", ví dụ như 71 '
(dao đậu phụ, hai mặt sáng) nếu kéo dài ngừng ngắt giữa hai bộ phận cua
"Ngạn ngữ tự chú cách" này thì sẽ biến thành Yết hậu ngũ'.
Ý kiến này có một phán chính xác vì trước khi có tên gọi Yết hâu ngũ'
nó luôn luôn được coi là một loại Nsạn ngũ'. Xét theo ý nghĩa đó có thê cho
rằng Yết hậu ngũ' là "một hình thức của sự phái triến đặc biệt của Níiạn ngữ".
Nhưng nếu nói Yết hậu ngữ là sự phát triển đặc biệt của "ngạn ngữ tự chú
cách" thì lại không thoả đáng. Bởi lẽ cái gọi là "Ngạn ngữ tự chú cách" chính
là loại ngạn ngữ mà hai bộ phận trước sau có quan hệ Dẫn Chú đ«schính là Yết
hậu ngữ mà chúng ta đang nói tới. Cách nói tuy khác nhau nhưng trên thực
chất lại là cùng một hiện tượng ngôn ngữ. Vậy thì sao lại có thể nói cái nào có
trước, cái nào có sau; cái nào sinh ra cái nào? Còn lấy độ ngắn dài trong ngừng
ngắt làm tiêu chí khu biệt giữa Yết hậu ngữ với "Ngạn ngữ tự chú cách" thì rõ
ràng là không thể được. Trên thực tế sự ngừng ngắt giữa hai bộ phận của Yết
hậu ngữ có thể ngắn có thể dài, ớ giũa có hay không có dấu phân cách và dùng
dấu gì cũng không hề có qui định bắt buộc.
Y kiến thứ hai là của tác giả Trần Vọng Đạo và nhà văn Mao Thuẫn.
Qua bài "Về Yết hậu ngữ " (Mao Thuẫn) và "Tu từ học phát phàm" (Trần
Vọng Đạo) hai tác giả này đều cho rằng Yết hậu ngữ ngày nay là do loại Yết
hậu ngữ "vốn có" hoặc "chính qui" phát triển thành. Nhiều công trình nghiên
cứu sau này về nguồn gốc của Yết hậu ngũ' đều theo quan điểm trẽn. Khi cho
rằng Yết hậu ngữ ngày nay nói tới là được hình thành và phát triển từ loại Yết
hậu ngữ "vốn có" hoặc "chính qui" xưa kia, có lẽ các tác giả này đã có sự
nhầm lẫn do chịu ảnh hưởng của cái tên "Yết hậu ngữ " mà người xưa sử dụng.
Thực tế khảo sát cho thấy, Yết hậu ngữ "vốn có" hoặc "chính qui" thời
cổ xưa phải là một thành ngữ quen thuộc xuất hiện trong các cuốn sách được
nhiều người biết đến, thành ngữ ấy phái lược bỏ đi một vài chữ phía sau, lấy
chữ phía trước thay thế. Chẳng hạn như "1x T " (hữu vu huynh đệ) lược
bỏ còn lại Yết hậu ngữ vốn có này lần lượt được đưa vào trong
các câu thơ nổi tiếng như " ĩ ặ H (Thơ Đào Nguyên Minh),
" L ỈJ ^ iilít^ " (T h ơ Đ Ỗ Phủ)
Nếu so sánh những đặc điểm của loại Yết hậu ngữ "vốn có" này với loại
Yết hậu ngữ có mối quan hệ Dẫn - Chú thì ta thấy đây là hai hiện tượng ngôn
ngữ khác nhau cơ bản về tính chất,giữa một hiện tượng luồn luôn lược bỏ một
25