Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

IMF thành công thất bại bai học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.1 KB, 24 trang )






Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, quan hệ kinh tế - tài chính quốc tế diễn ra
mạnh mẽ, các tổ chức tài chính - tín dụng quốc tế ra đời không chỉ là yêu cầu khách quan về
mặt kinh tế mà còn là yêu cầu khách quan để phát triển các mối quan hệ về chính trị, ngoại
giao và các quan hệ khác giữa các nước. Trong đó, việc gia nhập các tổ chức tài chính – tín
dụng quốc tế có ý nghĩa rất quan trọng đối với mỗi quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát
triển, bao gồm cả Việt Nam.
Trong đó Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) chính là tổ chức tài chính – tín dụng lớn và có
vai trò quan trọng trong sự phát triển của các quốc gia đặc biệt là các quốc gia đang phát
triển. Các quốc gia nếu nắm rõ được cơ chế hoạt động, biết nắm bắt, tận dụng được chính
sách ưu đãi, nguồn vốn mà các tổ chức này mang lại thì sẽ có một nguồn lực lớn để phát
triển.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu cơ cấu, tổ chức, hoạt động của IMF cũng như mối
quan hệ giữa Việt Nam và IMF có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tạo cơ sở thúc đẩy
hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế nước nhà trong hiện tại và tương lai.
5
 
 
Tiếng Anh: International Monetary Fund (Viết tắt: IMF). Đây là một tổ chức quốc tế
phi chính phủ có uy tín lớn trên thế giới, hoạt động công khai, minh bạch, có hiệu quả, tạo
điều kiện tối đa cho các nước nghèo, các nước chưa phát triển về mặt tài chính để các quốc
gia xây dựng và phát triển đất nước. Tổ chức này giám sát hệ thống tài chính toàn cầu bằng
theo dõi tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán, cũng như hỗ trợ kỹ thuật và giúp đỡ tài chính
khi có yêu cầu. Trụ sở chính của IMF đặt ở Washington, D.C., thủ đô của Hoa Kỳ.
  !"
Năm 1944, các đồng tiền Âu Châu bị mất hết Vàng bảo chứng trong Chế độ Bản vị
Vàng (Régime Etalon-Or). Vì vậy Mỹ triệu tập Hội Nghị Tiền tệ Bretton Woods 1944. Hội


nghị lập Quỹ Tương trợ Tiền tệ (Caisse d’Entraide Monétaire) gọi tắt là FMI. Đây là Quỹ
hỗ trợ tiền tệ giữa các thành viên gồm chính yếu là Mỹ và Âu Châu. Mục đích căn bản của
Quỹ là hỗ trợ về tiền tệ cho quốc gia thành viên bị khủng hoảng về tiền tệ. Vì Âu Châu kiệt
quệ do Thế chiến II, nên khi thành lập Quỹ tương trợ này, Mỹ đóng vào Dần dần, IMF đặt
thêm mục đích thứ 2 là giúp đỡ những Chương trình Phát triển Kinh tế cho những nước
nghèo. Nhưng đây không phải là mục đích chính yếu từ khi thành lập FMI. Việc thành lập
IMF và mục đích chính hoạt động của nó là giữa Mỹ và Âu Châu. Mỹ đóng góp rất nhiều
vào IMF, nhưng không muốn đứng đầu để bị công kích là sử dụng Quỹ như phương tiện
thống trị. Mỹ dành cho Âu Châu điều hành, bởi lẽ chính Âu Châu mới có những đồng tiền
mạnh mang tầm ảnh hưởng đến những cựu thuộc địa và thương mại quốc tế. Cái truyền
thống này đã có từ khi thành lập IMF với mục đích tiền tệ của nó.
# $%&'()%*+, (
Mục tiêu:
- Thúc đẩy hợp tác quốc tế thông qua một thiết chế thường trực có trách nhiệm cung
cấp một bộ máy tư vấn và cộng tác nhằm giải quyết các vấn đề tiền tệ quốc tế.
- Tạo điều kiện mở rộng và tăng trưởng cân đối hoạt động mậu dịch quốc tế và nhờ đó
góp phần vào việc tăng cường và duy trì ở mức cao việc làm, thu nhập thực tế và
phát triển nguồn lực sản xuất của tất cả các thành viên, coi đó là mục tiêu quan trọng
nhất của chính sách kinh tế.
- Tăng cường ổn định ngoại hối nhằm duy trì một cách có trật tự hoạt động giao dịch
ngoại hối giữa các thánh viên và tránh việc phá giá tiền tệ để cạnh tranh.
- Hỗ trợ việc thành lập một hệ thống thanh toán đa phương giữa các nước thành viên
và xóa bỏ các hạn chế về ngoại hối gây phương hại đến sự tăng trưởng của mậu dịch
quốc tế.
- Tạo niềm tin cho các nước thành viên bằng cách cung cấp cho họ nguồn lực dự trữ
của quỹ được đảm bảo an toàn và tạo cơ hội cho họ sửa chữa mất cân đối trong cán
cân thanh toán quốc tế.
- Rút ngắn thời gian và giảm bớt mức độ cân bằng trong cán cân thanh toán của các
nước thành viên.
6

Trong hơn 50 năm qua IMF đã khẳng định được vai trò cũng như thực hiện mục tiêu
của mình trong việc duy trì sự ổn định và thúc đẩy phát triển kinh tế thế giới trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra trên quy mô ngày càng rộng với tốc độ ngày càng nhanh.
Nguyên tắc hoạt động:
IMF hoạt động theo nguyên tắc phiếu bầu. Mỗi nước hội viên góp với số vốn ban
đầu tương đương 250 phiếu bầu. Nếu đóng thêm 100.000 SDR thì được cộng thêm một
phiếu bầu. Nếu rút ra 400.000 SDR thì rút ra một phiếu
1.4. /0123
.-4((-5 Cơ quan lãnh đạo cao nhất là Hội đồng thống đốc. Hội đồng
thống đốc bao gồm Giám đốc điều hành và giám đốc quản lý của mỗi nước. Mỗi nước thành
viên có một đại diện.
Họp vào mùa xuân hàng năm. Hai năm họp ở Washington, một năm họp ở nước
thành viên.
Hội đồng Thống đốc quyết định các vấn đề liên quan cơ bản của Quỹ như: kết nạp
hội viên mới, khai trừ thành viên hiện tại, thay đổi mức góp vốn. Hội đồng giám đốc điều
hành xử lý các vấn đề về chính sách, nghiệp vụ và quản trị của Quỹ.
6(78--9': Có một Ban giám đốc điều hành hoạt động dưới Hội đồng
thống đốc bao gồm 22 người trong đó có 5 thành viên không phải bầu ra (Mỹ, Anh, Đức,
Pháp, Nhật), hai thành viên không phải bầu và 15 người bầu theo khu vực địa lý. Nhiệm kỳ
là hai năm.
Tổng Giám đốc: Tổng Giám đốc do Ban giám đốc bầu ra với nhiệm kỳ đầu tiên là 5
năm.
Tổng Giám đốc tham gia vào các buổi họp của Hội đồng thống đốc, Uỷ ban Tài
chính Tiền tệ quốc tế và Uỷ ban phát triển. Tổng Giám đốc có quyền bỏ phiếu trong các
cuộc họp. Ngoài ra, tổng giám đốc còn phụ trách các cán bộ IMF. Dưới Tổng giám đốc có
các Phó tổng giám đốc, phụ trách một bộ phận dưới sự chỉ đạo của Tổng giám đốc.
Uỷ ban tiền tệ và tài chính quốc tế: là cơ quan tư vấn cho Hội đồng thống đốc. Uỷ
ban
được giao nhiệm vụ chỉ đạo công việc của hội đồng.
Uỷ ban về phát triển: Uỷ ban đưa ra các khuyến nghị và xây dựng các báo cáo cho

Hội
đồng thống đốc của quỹ.
Cán bộ quỹ: Số lượng nhân viên của quỹ có khoảng 2600 cán bộ từ hơn 100 nước,
được tổ
chức thành 5 Vụ khu vực (Vụ Châu Phi, Vụ Châu Âu, Vụ Trung Đông và Trung Á,
Vụ Châu Á Thái Bình Dương và Vụ Tây Bán cầu). 9 Vụ chức năng và nghiệp vụ đặc biệt
(Vụ Tài chính, Vụ các vấn đề ngân sách, Học viện IMF, Vụ thị trường vốn quốc tế, Vụ
Pháp luật, Vụ các Hệ thống tài chính Tiền tệ, Vụ kiểm điểm và xây dựng chính sách, Vụ
7
Nghiên cứu và Vụ Thống kê), 3 Vụ thông tin liên lạc(Vụ đối ngoại, Văn phòng thông tin
liên lạc Khu vực Châu Á Thái Bình Dương, Văn phòng quỹ tại Liên Hiệp Quốc) và 3 Bộ
phận dịch vụ (Vụ thư ký, Vụ Nguồn nhân lực và Vụ Dịch vụ Tổng hợp và Công nghệ).
Ngoài ra, IMF có hơn 60 Văn phòng đại diện tại nhiều nước trên thế giới
: /3;(
Mục đích thành lập IMF là nhằm kêu gọi, khuyến cáo sự hợp tác quốc tế về tiền tệ,
ổn định tỷ giá hối đoái giữa các đơn vị tiền tệ nhằm tránh sự phá giá tiền tệ do cạnh tranh
giữa các quốc gia, thiết lập hệ thống thanh toán đa phương, cung ứng cho các quốc gia hội
viên ngoại tệ cần thiết để quân bình hoặc giảm bớt thiếu hụt trong cán cân thanh toán quốc
tế. IMF đã có những hoạt động giúp đỡ tài chính đối với các các nước thành viên gặp khó
khăn thông qua các khoản vay.
Một trong những điều luật quan trọng nhất của IMF là buộc các nước thành viên phải
để đồng tiền nước mình được trao đổi tự do với các đồng tiền nước ngoài; và trong mọi
trường hợp, phải báo cáo với IMF mọi sự thay đổi trong các chính sách tài chính - kinh tế
nước mình, nhằm tránh gây ảnh hưởng cho nền kinh tế các nước thành viên. Hơn nữa, thành
viên phải hiệu chỉnh các chính sách liên quan đến tài chính - kinh tế theo lời khuyên IMF để
phù hợp với nhu cầu của toàn bộ khối nằm chung trong tổ chức.
• Xác định hệ thống ngang giá tiền tệ và tỷ giá hối đoái của các thành viên
Theo quy định của văn bản hiệp định đầu, các nước thành viên đều áp dụng hệ thống
ngang giá tiền tệ và tỉ giá hối đoái (TGHÐ) cố định.
Tuy nhiên sau hơn hai thập kỷ, hệ thống này đã bộc lộ nhiều yếu kém. Ðến đầu thập

kỷ 70 khủng hoảng kinh tế đã làm cho nó không thể duy trì hệ thống ngang giá tiền tệ và tỷ
giá hối đoái cố định giữa các quốc gia.
Hệ thống tiền tệ mà IMF quản lý từ năm 1978 đến nay được gọi là hệ thống tỷ giá
thả nổi có quản lý. Theo cơ chế này, IMF có vai trò lớn tác động đến chính sách quản lý tỷ
giá của các nước thông qua các điều kiện tín dụng.
• Cấp tín dụng cho các nước thành viên có khó khăn tạm thời về cán cân thanh
toán và trợ giúp tài chính .
Để thực hiện mục tiêu trọng tâm là duy trì sự ổn định của hệ thống tiền tệ quốc tế,
IMF đã cung cấp cho các nước thành viên các khoản tín dụng khi họ gặp khó khăn tạm thời
về cán cân thanh toán xuất phát từ tình trạng giảm sút mạnh giá xuất khẩu, gia tăng giá nhập
khẩu, do khủng hoảng tài chính dẫn đến tình trạng tháo chạy vốn quốc tế hay các cú sốc
khác. Khi một nước rơi vào tình trạng này buộc họ phải giảm dự trữ ngoại hối hoặc đi vay.
Hậu quả là các nước đó phải đối mặt với sức ép ngày càng tăng về tỷ giá hối đoái. Đây
chính là lúc IMF thực hiện chức năng của mình. Một nước thành viên gặp khó khăn thanh
toán có thể ngay lập tức rút từ IMF 25% lượng vốn mà nước này đóng góp. Nếu 25% này
không đủ, nước đó có thể yêu cầu IMF cho vay thêm. Khi cho một nước thành viên vay
thêm, IMF phải tuân thủ theo 2 nguyên tắc:
8
Thứ nhất, mỗi nước thành viên khi vay đồng tiền của thành viên khác từ Quỹ phải
trả lại ngay sau khi khó khăn về thanh toán của nước mình được giải quyết. Bằng cách này,
vốn của quỹ có thể quay vòng cho tất cả các thành viên và lúc nào cần cũng có.
Thứ hai, trước khi IMF rút tiền ra khỏi Quỹ, nước thành viên muốn vay phải cho
biết kế hoạch giải quyết vấn đề thanh toán để có thể trả lại IMF trong thời hạn thông thường
là 3 đến 5 năm. Tuy nhiên trong một số trường hợp nhất định, thời hạn này được kéo dài
đến 10 năm.
• Theo dõi tình hình của hệ thống tiền tệ quốc tế và chính sách kinh tế , chính sách
tiền tệ của các nước hội viên .
Theo Hiệp định thành lập thì mục tiêu và hoạt động trọng tâm của IMF là “thực hiện
sự giám sát chặt chẽ tỷ giá hối đoái của các nước thành viên”. Theo Ðiều 4 về quan hệ hợp
tác giữa IMF và thành viên, IMF được phép xem xét một cách có hệ thống sự phát triển

kinh tế và chính sách kinh tế của thành viên, đánh giá tác động của các chính sách đối với tỷ
giá hối đoái và cán cân thanh toán.
Để bảo đảm một hệ thống tiền tệ quốc tế quân bình và tạo điều kiện cho những trao
đổi thương mại thế giới phát triển, hiện nay Quỹ có một hoạt động nghiên cứu quan trọng
về tình trạng kinh tế tổng quát, chính sách tiền tệ của mỗi nước hội viên để có thể nhìn trước
những khó khăn một nước có thể phải đối đầu và cần sự giúp đỡ của Quỹ. Hằng năm, một
nhóm chuyên viên của Quỹ được cử tới thủ đô mỗi nước hai tuần để thu thập những dữ kiện
kinh tế có ảnh hưởng đến giá trị đồng tiền và đối thoại với những vị đại diện chính phủ về
sự hữu hiệu của những chính sách kinh tế đang được áp dụng, những dự trù thay đổi để có
một chính sách trao đổi ngoại tệ một cách tự do không bị kiểm soát hay giới hạn.
Nhóm chuyên viên trở về trụ sở Washington và lập một bản tường trình chi tiết để
ban điều hành có thể góp ý kiến cho nước hội viên phải sửa đổi hay canh tân trong những
lãnh vực có nhiều thiếu sót.
IMF quan tâm đặc biệt đến chính sách tiền tệ, đặc biệt là hoạt động của hệ thống
ngân hàng. Số lượng cho vay của các ngân hàng quá lớn sẽ khuyến khích nhập cảng gia
tăng. Việc kiểm soát và giới hạn hoạt động cho vay của hệ thống ngân hàng là điều Quỹ bắt
nước cần vay phải thực hiện.
Hệ thống tài chính ngân hàng thế giới trong những năm qua liên tục chứng kiến
nhiều vụ bê bối lớn, nhiều cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã xảy ra trong phạm vi lớn
cũng như ở một vài nước. Những lúc như thế này, các nhà kinh tế cũng như toàn thế giới lại
trông đợi vào vai trò của một tổ chức trung gia tài chính lớn nhất toàn cầu đó là IMF. Ví dụ
như cuộc khủng hoảng tài chính ở Hi Lạp, EU và IMF đã thông qua gói cứu trợ 110 tỷ Euro
(tương đương 136 tỷ USD), với khoản vay đầu tiên trị giá 14.5 tỷ Euro đã được giải ngân
vào ngày 18/05/2010.
Gần đây nhất, ngày 30/4/2014, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã nhất trí gói cứu trợ tài
chính từ 17 tỷ USD cho Ukraine, để giúp phục hồi nền kinh tế nước này sau khủng hoảng.
Với khoản cứu trợ này, Ukraine có thể tránh nguy cơ phá sản.
< =(4&+, (5
9
Nguồn vốn hoạt động của quỹ được hình thành từ ba nguồn sau: vốn điều lệ, nguồn

vốn vay, nguồn điều lệ
Trong đó, vốn điều lệ (vốn cổ phần của các nước thành viên và tích luỹ của IMF).
Ban đầu, mức cổ phần đóng góp phụ thuộc vào tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu của
nước đó so với kim ngạch xuất nhập khẩu của cả thế giới. Ngoài ra, trong trường hợp cần
thiết, IMF cũng có thể vay vốn trên thị trường tài chính quốc tế để phục vụ cho các hoạt
động của mình. Tổng số vốn cho vay của Quỹ trong giai đoạn 1998 – 1999 lên tới 22,2 tỷ
SDT (khoảng 30 tỷ USD).
Các nghiệp vụ tài trợ của IMF
IMF thực hiện các nghiêp vụ tài trợ cho các nước nhằm mục đích ổn định tiền tệ và
cán cân thanh toán quốc tế.
- Rút vốn dự trữ: Các nước thành viên có quyền tự động rút vốn đối với 25% số vốn
góp bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi của mình để bù đắp thiếu hụt cán cân thanh toán. Rút
vốn dự trữ
không mang tính chất vay mượn nên không phải chịu lãi suất mà chỉ thu lệ phí.
- Tín dụng thông thường theo đợt
Hình thức này giúp các nước hội viên có nhu cầu bù đắp thiếu hụt trên cán cân thanh
toán
có thêm nguồn tài chính, nhưng không tài trợ ngay một lần mà phân làm bốn lần với
những điều
kiện giải ngân khác nhau.
- Tài trợ bù đắp bất ngờ
Hình thức này giúp các nước hội viên khắc phục sự thiếu hụt trên cán cân thanh toán
do
sự giảm mức xuất khẩu có tính chất tạm thời và mang tính khách quan.
- Dự trữ điều hoà
Hình thức này giúp một số nước hội viên gặp khó khăn về cán cân thanh toán do phải
đóng góp phí tổn xây dựng các kho dự trữ về nông sản cơ bản. Hình thức này đã
không còn tồn
tại cách đây 15 năm.
- Điều chỉnh cơ cấu

Tài trợ điều chỉnh cơ cấu dựa vào nguồn tín thác dành cho các nước đang phát triển
có thu
nhập thấp theo những điều kiện ưu đãi với mức cao nhất về thời hạn và lãi suất.
- Tài trợ giảm nghèo và tăng trưởng
Phục vụ chi chiến lược đấu tranh chống đói nghèo trên toàn thế giới.
10
- Tài trợ dự trữ bổ sung: Đáp ứng nhu cầu tài chính ngắn hạn do thiệt hại đột xuất và
do
sự bất ổn của thị trường.
- Tài trợ phòng ngừa: Hỗ trợ những nước bị ảnh hưởng của khủng hoảng.
- Tài trợ chuyển đổi hệ thống: Đáp ứng yêu cầu tài chính của một số nước thành viên
chuyển đổi hệ thống kinh tế.
 =>(+, (-7(?@&'3;((')'(8A,B6
C+(9DEE(5
 'F(5
2.1.1. 'C(G8HCI&'-'+,+DJK-LM'+7
N(O+
IMF tiến hành nhiều hoạt động như tư vấn về chính sách và hỗ trợ kỹ thuật cho các
nước đang phát triển trong các lĩnh vực ngân hàng, tài chính, thương mại, cải cách doanh
nghiệp nhà nước, tiền tệ, ngoại hối, thanh tra ngân hàng, cải cách thuế (tư vấn cho Bộ Tài
chính), xác định mục tiêu lạm phát, chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố… Ngoài ra,
cán bộ ngân hàng nhà nước và các ngành liên quan được tham dự các khóa đào tạo, hội thảo
ngắn hạn và được cấp học bổng dài hạn theo chương trình đào tạo do IMF tổ chức
Các hỗ trợ và đào tạo kỹ thuật được IMF triển khai theo vùng với hai trung
tâm hỗ trợ kỹ thuật đã được thiết lập ở Thái Bình Dương và Caribbe. Trung tâm thứ 3 được
mở tại Đông Phi vào năm 2002 với mục tiêu có 4 trung tâm khác tại vùng Hạ Sahara châu
Phi. Bên cạnh việc cung cấp các khoá đào tạo tại trụ sở, IMF cũng tổ chức các khoá học và
hội thảo tại các học viện hoặc chương trình của từng nước hoặc từng khu vực. Hiện nay
IMF có 4 trung tâm đào tạo tại các khu vực Châu Mỹ La tinh (Brazil), Châu Phi (Tunisia),
Singapore và Áo. IMF còn tổ chức các chương trình đào tạo song phương, đặc biệt là với

Trung Quốc và Quỹ tiền tệ Arab (Arab Monetary Fund).
/+&6)N-P-&7N(O+5
IMF cũng hoạt động tích cực trong việc giảm đói nghèo cho các quốc gia trên thế
giới một cách độc lập hoặc trong sự hợp tác với Ngân hàng thế giới WB (World Bank) và
các tổ chức khác.
Trong những năm qua, IMF đã phát triển được nhiều công cụ cho vay (facility) phù
hợp với từng tình trạng của mỗi quốc gia thành viên. Các nước nghèo có thể vay với lãi suất
ưu đãi hỗ trợ phát triển và xoá đói nghèo PRGF (Poverty Reduction and Growth Facility) và
sáng kiến hỗ trợ các nước nghèo đang mắc nợ nặng nề HIPC (Heavily Indebted Poor
Countries Initiative) dựa trên các nghiên cứu về chiến lược giảm đói nghèo PRSP (Poverty
Reduction Strategy Papers) do nước sở tại tiến hành dưới sự cố vấn của các tổ chức xã hội
và các đối tác phát triển bên ngoài nhằm đưa ra một cơ cấu chính sách kinh tế xã hội toàn
diện phục vụ cho việc thức đẩy phát triển và giảm đói nghèo. Khả năng vay của các nước
thành viên phụ thuộc vào quota mà nước đó đóng góp cho IMF. Trong những năm gần đây,
11
các khoản vay lớn nhất của IMF được thực hiện qua PRGF với lãi suất chỉ 0,5% và thời hạn
từ 5,5 đến 10 năm.
Ngoài ra IMF có các khoản cho vay không ưu đãi được cung cấp thông qua 4 công
cụ: Stand-By Arrangements (SBA), Extended Fund Facility (EFF), Supplemental Reserve
Facility (SRF) và Compensatory Financing Facility (CFF).
- SBA được thiết lập để giúp giải quyết khó khăn về cán cân thanh toán trong ngắn
hạn và cung cấp nguồn lực lớn nhất của IMF. Độ dài của SBA thường từ 12 đến 18 tháng
với thời hạn hoàn trả từ 2 năm 3 tháng đến 4 năm.
- EFF ra đời năm 1974 nhằm giúp đỡ các kho khăn kéo dài về cán cân thanh toán đòi
hỏi cải cách cơ bản cơ cấu nền kinh tế. Các khoản dàn xếp thông qua EFF vì vậy kéo dài từ
3 năm trở lên với thời hạn hoàn trả từ 4 năm rưỡi đến 7 năm.
- SRF ra đời năm 1997 nhằm tài trợ ngắn hạn với quy mô lớn, xuất phát từ sự mất
lòng tin thị trường đột ngột do các nền kinh tế mới nổi những năm 90 làm các luồng vốn
đầu tư bị rút về hàng loạt, đòi hỏi sự hỗ trợ tài chính lớn hơn bất cứ hoạt động nào của IMF
trước đó. Thời hạn hoàn trả vốn từ 1 năm rưỡi đến 2 năm, có thể yêu cầu gia hạn 6 tháng.

- CFF được thiết lập năm 1963 nhằm hỗ trợ các nước có giá trị xuất khẩu giảm tạm
thời hoặc chi phí nhập khẩu ngũ cốc tăng lên do giá hàng hoá thế giới biến động. Các điều
kiện khác gần giống như công cụ SBA.
Ngoài ra IMF cũng cung cấp các hỗ trợ khẩn cấp (emergency assistance) đối với các
trường hợp gặp thảm hoạ thiên nhiên và xung đột vũ trang. Một vài trường hợp có thể được
nhận các khoản cho vay ưu đãi. Thời hạn hoàn trả từ 3 năm 3 tháng đến 5 năm.
#'F(B6Q.DB(+(DERRS
IMF đã đạt được thành công ngoài dự kiến khi xây dựng gói kích thích tài khóa quy
mô tới 2% GDP toàn cầu, điều phối các chính sách vĩ mô trên bình diện toàn cầu, khắc phục
những yếu kém của hệ thống tài chính quốc tế trong thời gian vừa qua.
15/9/2008, Ngân hàng Mỹ Lehman Brothers sụp đổ chính thức báo hiệu khủng
hoảng thế giới đã bắt đầu. Với hệ lụy là hàng trăm ngân hàng phá sản chỉ trong thời gian
ngắn, hàng vạn con mắt đã đổ dồn về phía IMF và World Bank.
Cũng tại thời điểm đó, một lần nữa người ta lại thấy xuất hiện những những yêu cầu
giải tán cơ quan tài chính lớn nhất thế giới này với lí do hoạt động kém hiệu quả…
4/10/2009, 1 năm sau cuộc khủng hoảng, Hội nghị thường niên của IMF được
tổ chức tại Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ nhưng với một vị thế khác hẳn trước đó. Bất chấp những
phản đối kịch liệt mà tổ chức này gặp phải trong quá trình hoạt động, IMF đã vươn lên trở
thành vị cứu tinh cho cuộc khủng hoảng. Những nước mà trước đây chỉ trích IMF mạnh mẽ
nhất thì nay cũng tự nguyện chấp thuận sự dẫn dắt của tổ chức tài chính này. Không ai được
lợi từ khủng hoảng kinh tế, nhưng rõ ràng sau đợt suy thoái lần này, IMF chính là kẻ chiến
thắng.
Quả thật, "nhờ" có cuộc khủng hoảng kinh tế lần này mà vai trò của IMF mới được
nhìn nhận một cách đúng đắn hơn. Không chỉ bơm hàng trăm tỷ USD vào các nền kinh tế
12
đang lâm vào cảnh khó khăn, IMF còn giúp các nước này đặt ra các nền móng vững chắc
cho cải cách kinh tế và tài chính, vốn đang trở nên cấp thiết hơn lúc nào khác.
Nói cách khác, vị thế của IMF trong cuộc khủng hoảng lần này có thể nhìn nhận với
"vai trò kép". Một mặt, họ ném cho các quốc gia đang chìm sâu trong khủng hoảng chiếc
phao cứu sinh, chiếc phao này không giúp họ nhảy ra khỏi mặt nước nhưng ít nhất sẽ giúp

họ tồn tại; mặt khác IMF chỉ cho các nước này những lối thoát mà họ cần phải tiến hành để
có thể tự mình thoát ra khỏi khủng hoảng. Các chương trình cải cách của IMF đang được
triển khai ở các thị trường mới nổi tại Trung Âu như Hungary, Belarus, Serbia, Romania….
là minh chứng rõ ràng nhất cho chính sách này của IMF.
Chức năng thứ 2 của IMF trong cuộc khủng hoảng tài chính lần này là khá đặc biệt.
Mặc dù IMF không có công cụ ràng buộc pháp lý nào với các quốc gia thành viên trong
việc tuân theo các khuyến nghị về cải cách hệ thống ngân hàng, đưa ra các gói kích cầu ,
vai trò cố vấn chính sách đúng đắn cho các quốc gia chấp hành và giúp họ nhận thức được
tầm quan trọng của chính sách đó là vô cùng quan trọng. Giữa sự hoảng loạn và hoang
mang tột độ, IMF nổi lên với vai trò là thực thể duy nhất đủ bình tĩnh để phân tích tình hình,
đánh giá các tác động và đưa ra được những lời khuyên đúng đắn. Một cách hình tượng, nếu
phải bầu một vị thuyền trưởng có đủ các phẩm chất cần thiết để lèo lái con tàu kinh tế-tài
chính đang lung lay dữ dội trong tâm bão, sẽ không có ai xứng đáng hơn IMF.
 1M,5
Dù không thể phủ nhận vai trò ngày càng quan trọng của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF),
đặc biệt là sau các cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính, nhưng nhiều năm qua có ý kiến
cho rằng, IMF cũng góp phần đẩy nhiều quốc gia đến bờ vực phá sản và chưa thật sự dự báo
được các cuộc khủng hoảng tài chính để có “liều thuốc” đúng cho các “bệnh nhân”.
TDB(+(IQJU6
Cuộc khủng hoảng nợ ở Mỹ Latinh xảy ra đầu những năm 1980 (một số nước bắt đầu
từ những năm 1970), với cái tên “thập kỷ mất mát”. Thời điểm đó, các nước gặp khủng
hoảng do nợ nước ngoài vượt GDP và họ không còn khả năng trả nợ. Những nước như
Brazil, Argentina, Mexico đã vay mượn rất nhiều tiền từ các tổ chức tín dụng và các tập
đoàn công nghiệp quốc tế để triển khai các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng.
Vào tháng 8-1982, Bộ trưởng Tài chính Mexico Jesus Silva-Herzog tuyên bố,
Mexico không còn khả năng trả khoản nợ nước ngoài 85 tỷ USD và yêu cầu đàm phán lại
thời hạn trả nợ với các chủ nợ. Hậu quả, hầu hết các ngân hàng thương mại đã giảm đáng kể
hoặc ngừng hẳn các khoản cho vay mới với cả khu vực Mỹ Latinh. Hàng tỷ USD trước đó
được hứa hẹn cho vay đều đình hoãn. Những khoản vay mới lúc này đều kèm theo nhiều
điều kiện ngặt nghèo và các con nợ buộc phải chấp thuận sự can thiệp của IMF. Trong thời

kỳ này, các quan chức IMF liên tục có các chuyến đi con thoi từ nước này sang nước khác ở
Mỹ Latinh để đưa ra các chương trình “thắt lưng buộc bụng” tạo cơ hội để các nước khủng
hoảng có thể trả nợ.
Chính vì vậy, tỷ lệ tăng trưởng và mức sống của các nước trong khu vực sụt giảm
đáng kể, dẫn đến sự phản đối gay gắt IMF và các chính sách của tổ chức này. Bộ trưởng Tài
chính Mexico Herzog phải ra đi khi ông bị cáo buộc quá “vâng lời IMF” mà không tính đến
13
sự bất ổn trong nước. Sau đó đến lượt chính phủ của Tổng thống Peru Alan Garcia phải từ
chức. Chính phủ mới sau đó bác bỏ “công thức” do IMF đưa ra và tự cho phép mình khất nợ
với IMF.
Năm 1983, khoản nợ nước ngoài của Brazil lên mức 111 tỷ USD và nước này buộc
phải nhờ cậy đến IMF sau khi các ngân hàng thương mại từ Tây Âu và Mỹ đều từ chối
không cho Brazil vay tiếp.
Sau các cuộc đàm phán, IMF chấp nhận trợ giúp tài chính cho Brazil, đổi lại nước
này phải thực hiện các chính sách khắc khổ do IMF đề ra như phá giá đồng tiền cruzeiro, cắt
giảm mạnh chi tiêu quốc nội, phong tỏa mọi khoản lương, giảm hầu hết các chương trình trợ
cấp của chính phủ. Hậu quả, tỷ lệ tăng trưởng GDP của Brazil giảm 4%, lạm phát tăng lên
211%, thất nghiệp tăng 12%, GDP từ mức 296 tỷ USD năm 1982 còn 226 tỷ USD năm
1985. Đã xảy ra hàng loạt vụ nổi dậy cướp bóc lương thực thực phẩm do người nghèo và
người thất nghiệp thực hiện. Các quan chức Brazil vào đầu năm 1987 khi đàm phán về nợ
với IMF tuyên bố họ sẽ “không ký kết các thỏa thuận với IMF”.
EDB(+('VG
Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 bắt đầu từ Thái Lan với sự mất giá
của đồng baht theo sau quyết định thả nổi đồng tiền của chính phủ nước này. Bên cạnh đó,
nợ nước ngoài quá lớn cũng góp phần làm trầm trọng hơn cuộc khủng hoảng, dẫn tới cuộc
khủng hoảng ở nhiều nước Đông Á khác, trong đó có Nhật Bản với hậu quả là thị trường
chứng khoán cũng như giá trị tài sản rớt giá. Dòng vốn USD ồ ạt rút ra.
Trong thời điểm tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng, nợ nước ngoài của 4 nền kinh tế
lớn nhất Đông Á có lúc lên đến 180% GDP. IMF vào cuộc với 40 tỷ USD giúp ổn định tiền
tệ của Thái Lan, Hàn Quốc và Indonesia, những nước khủng hoảng nặng nhất nhưng kèm

theo những chính sách thắt lưng buộc bụng vô cùng khắt khe, hậu quả không những không
giúp những nước này thoát khỏi khủng hoảng mà còn làm tình hình thêm trầm trọng.
Năm 1997, Indonesia vay IMF 10 tỷ USD. Đổi lại, quốc đảo này cắt giảm chi tiêu,
tăng thuế, đóng cửa một số ngân hàng và thắt chặt chính sách tiền tệ, yếu tố mà theo IMF sẽ
hạn chế sự sa sút của nền kinh tế. Kết quả, kinh tế Indonesia kết thúc năm 1998 với mức suy
giảm lên tới 13%, ngược hẳn với mức dự báo của IMF tăng trưởng 3%.
Hàn Quốc vay của IMF 21 tỷ USD và nhất trí với một chương trình kinh tế hứa hẹn
giúp GDP nước này tăng ở mức 3% năm 1998. Tuy nhiên, nền kinh tế Hàn Quốc đã sụt
giảm gần 6% trong năm 1998. Chung Duck-koo, người đứng đầu phái đoàn Hàn Quốc tham
gia cuộc đàm phán về gói cứu trợ năm 1997, cho rằng IMF đã chẩn đoán sai cuộc khủng
hoảng tiền tệ, coi đó là vấn đề về ngân sách tài chính và đưa ra các cải cách sai lầm.
Trong khi đó, Malaysia đã trở thành tấm gương thoát khỏi suy thoái bằng những tính
toán dựa vào thực trạng nền kinh tế trong nước. Thời điểm đó, Thủ tướng Mahathir
Mohamad kiên quyết không vay tiền của IMF, đồng thời đưa ra những chính sách kinh tế
hợp lý như khuyến khích doanh nghiệp cổ phần hóa, kêu gọi nhà đầu tư nước ngoài vào
Malaysia Nhờ đó, Malaysia từng bước thoát khỏi khủng hoảng.
Trong giai đoạn này IMF bị chỉ trích dữ dội do áp dụng những “bài thuốc” cứng nhắc
từ Nam Mỹ. Sau khi từng nước châu Á rơi vào khủng hoảng, rất nhiều nhà đầu tư địa
14
phương và cả chính phủ nước ngoài ồ ạt rút vốn bằng USD. Hàng loạt các chính phủ sụp đổ,
đồng tiền mất giá thảm hại và bất ổn xã hội gia tăng. Đó là những vấn đề mà IMF không thể
lường trước. Nhiều nhà kinh tế cho rằng trong bối cảnh suy thoái cần hạ lãi suất để thúc đẩy
sản xuất, tăng chi tiêu chính phủ để kích thích tiêu dùng, cắt giảm thuế. Trong khi đó IMF
làm ngược lại.
T6K!6W8Q)U,X5
Ngày 05/06/2013, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) vừa công bố một nghiên cứu quan trọng
đối với chính bản thân tổ chức này cũng như với chương trình cứu trợ trị giá 110 tỷ euro
dành cho Hy Lạp. IMF thừa nhận các giả thiết về tăng trưởng là quá lạc quan và đáng lẽ ra
chương trình tái cơ cấu nợ phải được thực hiện sớm hơn.
Việc quá nhấn mạnh đến chính sách khắc khổ tại Hy Lạp đã đẩy tỷ lệ thất nghiệp lên

mức kỷ lục và nền kinh tế tiếp tục rơi vào suy thoái sâu. Số liệu của cơ quan thống kê nhà
nước công bố ngày 6/6 cho thấy thất nghiệp tại Hy Lạp tháng 3/2012 là 26,8%, riêng tỷ lệ
trong giới trẻ dưới 24 tuổi lên đến 58,3%. Trong ba năm qua, kinh tế Hy Lạp đã suy giảm
25%, thu nhập bình quân của người dân giảm một phần ba, hậu quả của chính sách cắt giảm
lương, trợ cấp và tăng thuế. Tỷ lệ nghèo đói và tự vẫn cũng tăng một cách đáng lo ngại
Mặc dù đã công khai nhận định IMF không lường hết những hiệu ứng mà các biện
pháp thắt lưng buộc bụng khắc khổ gây ra cho tăng trưởng kinh tế, báo cáo khẳng định Hy
Lạp là một trường hợp đặc biệt, xét đến những yếu kém trong điều hành của chính phủ.
'+>(;8SSRYN66ZQ-F(68/G[ đã phải đối mặt với
các vấn đề kinh tế nghiêm trọng. Họ đã yêu cầu IMF giúp đỡ. Nếu IMF hành động theo
đúng vai trò chính thức của nó, thì lẽ ra nó đã cho vay mượn và hướng dẫn quốc gia này
phát triển bằng cách bảo vệ các kỹ nghệ non trẻ của mình, trợ cấp cho nông dân, và đầu tư
vào lãnh vực giáo dục và sức khỏe của người dân.
Tuy nhiên, IMF nói họ sẽ chỉ trợ giúp nếu Malawi đồng ý tái cơ cấu theo yêu cầu của
IMF. Họ ra lệnh Malawi bán ra gần như tất cả những gì nhà nước sở hữu cho các công ty tư
nhân và các nhà đầu cơ, và cắt giảm chi tiêu cho dân chúng. IMF nói chỉ ưu tiên đưa tiền
cho các ngân hàng quốc tế hơn là đưa tiền cho người dân Malawi.
Vì vậy, vào năm 2001 khi IMF phát hiện ra chính phủ Malawi dự trữ một số lượng
lớn ngũ cốc đề phòng trường hợp mất mùa, IMF ra lệnh cho họ phải bán nó đi cho các công
ty tư nhân ngay lập tức. Họ nói với Malawi phải sắp xếp các ưu tiên của cho đúng bằng
cách sử dụng số tiền thu được để trả cho một khoản nợ từ một ngân hàng lớn, một món nợ
mà chính IMF đã nói với chính phủ Malawi nên mượn, với một lãi suất 56 % hàng năm.
Tổng thống Malawi phản đối và cho rằng đây là nguy hiểm. Nhưng ông đã không có sự lựa
chọn nào khác. Ngũ cốc đã được bán ra. Các ngân hàng đã được trả tiền.
Năm sau, mùa màng thất bát. Chính phủ Malawi hầu như không có gì trong tay để
phân phát cho dân chúng. Dân chúng đang chết đói đã phải ăn đến vỏ cây, và bất kỳ con
chuột nào bắt được. Đài BBC mô tả sự kiện đó như là một nạn đói tệ nhất từ trước đến giờ
của Malawi, ít nhất một ngàn người dân vô tội bị chết đói.
Vào thời gian cao điểm của nạn đói, IMF đã đình chỉ một món viện trợ trị giá 47
triệu đô, vì chính phủ đã “chậm” trong việc thực hiện những “cải cách thị trường” mà bản

15
thân chúng đã dẫn đến tai họa. Nhóm ActionAid, một nhóm trợ giúp hàng đầu trên đất
Malawi, đã tiến hành khám nghiệm hậu chẩn về nạn đói. Họ kết luận rằng IMF phải chịu
trách nhiệm về những tai họa đó
\+X6&'.E(>6])9^VC &'(O+-_5
Ethiopia là một trong những nước nghèo nhất thế giới, thu nhập bình quân đầu người
chỉ có 100USD/năm và đất nước này đã liên tục phải hứng chịu hạn hán và mất mùa gây
nên cái chết của 2 triệu người. Để cải thiện tình hình trên và làm cho đất nước thoát khỏi
nghèo đói thủ tướng Meles đã tiến hành quá trình chuyển đổi kinh tế. Cả ông và chính phủ
đã cam kết theo đuổi quá trình phi tập trung hoá, đưa chính phủ đến gần người dân và đảm
bảo trung tâm đất nước không bị chia tách với các khu vực khác. Nhưng Meles đã gặp phải
vấn đề với IMF, IMF đã ngừng chương trình tài trợ cho nước này, mặc cho thành quả kinh
tế vĩ mô tốt, họ lập luận rằng họ lo ngại về tình hình ngân sách của Ethiopia.
Một xung đột nữa giữa IMF và Ethiopia là vấn đề trả nợ sớm. Ethiopia đã sử dụng
một phần dự trữ của mình để trả nợ cho các ngân hàng của Mỹ và IMF đã phản đối chuyện
này. Họ phản đối không phải bởi vì cách làm này sai mà vì Ethiopia đã làm điều đó mà
không xin phép IMF. Nhưng một quốc gia có chủ quyền không lẽ không thể tự định đoạt
được số phận của mình hay sao? Không chỉ dừng lại ở đó, bất đồng này còn tăng lên khi
IMF cho rằng các nước nhận tiền viện trợ của nó có trách nhiệm báo cáo tất cả mọi thứ
thích hợp, không thực hiện điều đó sẽ dẫn đến việc đình chỉ các chương trình cho vay, bất
kể lí do của việc không báo cáo là gì.
Một điểm đáng chú ý khác trong quan hệ giữa IMF và Ethiopia liên quan đến quá
trình tự do hoá thị trường tài chính. IMF muốn Ethiopia không chỉ mở cửa thị trường tài
chính cho cạnh tranh mà còn muốn chia ngân hàng lớn của nước này thành các đơn vị
nhỏ.Trong khí đó, các tập đoàn tài chính lớn như Citibank và Travelers còn phải hợp nhất
để cạnh tranh hiệu quả thì một ngân hàng quốc gia nhỏ bé của Ethiopia làm sao có thể cạnh
tranh nổi. Chính vì thế mà khi các tổ chức tài chính toàn cầu vào một nước, chúng sẽ "hạ
gục" mọi đối thủ cạnh tranh trong nước. Và khi thu hút được những người gửi tiền từ bỏ các
ngân hàng nội địa, chúng sẽ tập trung hơn và rộng rãi hơn khi cho các tập đoàn đa quốc gia
lớn vay hơn là cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và nông dân. Nhưng thực sự

IMF đã quá sai lầm, bởi tự do hoá thị trường tài chính là cho phép lãi suất được tự do định
đoạt trên thị trường và IMF tin rằng thị trường tài chính tự do luôn làm giảm lãi suất và do
đó làm cho nguồn vốn dễ tiếp cận hơn. Thực tế thì không phải như thế, bởi với một nước
mà phần lớn là nông dân như Ethiopia, điều quan trọng là nông dân có thể tiếp cận tín dụng
với điều kiện hợp lý để mua hạt giống và phân bón. Chính vì thế mà lãi suất của Ethiopia
chắc chắn phải thấp hơn lãi suất thị trường tự do và nếu như để tự do hoá thị trường tài
chính ngay bây giờ thì người dân nước này càng khó có thể tiếp cận được nguồn vốn tín
dụng. Chính vì lẽ đó mà Ethiopia đã đi ngược lại theo những lời khuyên của IMF.
2.3 Sự thất bại của Kenya do tuân thủ tuyệt đối các chính sách của IMF:
Trái với 2 nước trên Kenya là một quốc gia giàu có và màu mỡ. Các văn phòng chính
phủ đầy ắp những nhân viên được đào tạo tốt thế nhưng nền kinh tế lại bi suy sụp do nạn
tham nhũng hoành hành và việc tuân thủ theo những lời khuyên của IMF đã dẫn tới lãi suất
16
cao, các doanh nghiệp và người nông dân không thể tiếp cận nguồn vốn đã đưa đến sản
lượng kinh tế giảm, thất nghiệp và nghèo đói gia tăng.
# `!6+,CQ%Da8]b
Thứ nhất, IMF ra đời từ sau Hội nghị Bretton Woods, tháng 7/1944, lúc Thế chiến
thứ Hai bước vào giai đoạn cuối. Cơ sở để thành lập định chế tài chính này khi đó là hậu
quả từ cuộc đại suy thoái toàn cầu năm 1929-1933 vẫn còn, cộng thêm sự tàn phá nặng nề
của chiến tranh. IMF được giao nhiệm vụ kiểm soát và đảm bảo sự ổn định toàn bộ hệ thống
tài chính toàn cầu và các chính sách kinh tế của 185 nước thành viên. Như vậy, IMF được
đánh giá là "hệ thống cảnh báo sớm" cho thị trường.
Tuy vậy, đáng tiếc là trong vài thập niên qua, tổ chức tài chính quốc tế này đã dần đi
chệch trọng tâm sứ mệnh ban đầu và ngày càng bị chính trị hóa. Biểu hiện rõ nét nhất của
việc này là chính sách can thiệp vào công việc nội bộ các quốc gia đang phát triển thông qua
việc áp đặt những điều kiện khắt khe về cải cách thể chế, chống tham nhũng, tự do thương
mại, thậm chí cải cách chính trị, nhân quyền, để được vay tiền giải quyết khó khăn về tài
chính. Và càng ngày, các chính sách can thiệp đó càng trở nên thô bạo hơn. Điều đó có
nghĩa là, một quốc gia muốn được vay tiền của IMF thì phải tuân thủ một loạt tiêu chuẩn
nghiêm ngặt phục vụ ý đồ chính trị của phương Tây.

Trong khi đó, đối với các quốc gia phát triển thì IMF hầu như dành cho một sự ưu ái
đặc biệt, đến nỗi bị dư luận xem là những "cánh tay nối dài" cho các chính sách bá chủ về
kinh tế, chính trị của Mỹ và Tây Âu. Khi khủng hoảng kinh tế xảy ra và phải cầu đến sự trợ
giúp từ IMF, tổ chức này đã thẳng tay gò ép các quốc gia áp dụng những biện pháp cứng
rắn mà không thèm quan tâm đến điều kiện thực tế của mỗi nước. Thái Lan, Hàn Quốc và
Malaysia trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998, Argentina năm 2001, đều
phản ứng quyết liệt với những chính sách khắt khe của IMF.
Ngày nay, thể chế này thậm chí còn không được các quốc gia châu Phi và khu vực
Nam Mỹ tin tưởng để nhờ giúp đỡ khi cần thiết nữa, vì họ không thể thỏa mãn được các yêu
cầu khắt khe này. Thay vào đó, nhiều nước đang phát triển đã phải quay sang nhờ sự giúp
đỡ của các tổ chức từ thiện, các tổ chức tài chính khu vực (như Banco del Sur) và các
chương trình hợp tác với Trung Quốc và Nga để giải quyết các khó khăn kinh tế xã hội.
Trong bài viết đăng trên tờ Asia Times ngày 28/10/2010, giáo sư Hossein Askari (Đại
học George Washington) đã đưa ra nhiều luận chứng để lý giải rằng nguyên nhân sâu xa của
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay có phần lỗi lớn từ những sai lầm và lệch lạc
mục tiêu của IMF. Theo giáo sư H.Askari, dư luận thế giới hiện không đồng tình với việc
IMF chỉ phục vụ cho lợi ích của một nhóm người, một số ít quốc gia và bỏ rơi mục tiêu, sứ
mệnh cơ bản ban đầu. Đặc biệt là IMF hầu như chỉ chuyên tâm vận động cải cách kinh tế,
chính trị tại các quốc gia thành viên. Thậm chí, IMF còn đang "đá lấn sân" World Bank
trong việc theo đuổi các dự án phát triển, xóa đói giảm nghèo ở các nước đang phát triển, và
để kiếm tiền cho mình.
Do không tập trung vào mục tiêu chính của mình nên IMF đã không kiểm soát được
tình hình hoạt động của hệ thống tài chính toàn cầu, từ đó không thể phát hiện kịp thời
những dấu hiệu nguy hiểm của nó, và đương nhiên không thể đưa ra được những dự báo
17
khả dĩ về nguy cơ khủng hoảng, và từ đó có những giải pháp phòng ngừa và cứu chữa hợp
lý và kịp thời. Đây chính là thất bại cơ bản nhất của IMF
Thứ hai, tình hình thế giới thế kỷ XXI có nhiều biến đổi và phức tạp hơn nhiều so
với thời kỳ cách nay hơn 60 năm, khi hai tổ chức này được thành lập. Cụ thể, quy mô của
nền kinh tế thế giới nói chung, quy mô, tốc độ và phạm vi lưu chuyển hàng hoá, vốn và dịch

vụ đã tăng lên gấp nhiều lần, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã có những bước phát
triển vượt bậc tác động đáng kể đến lối sống và phong cách kinh doanh, Mặc dù vậy, cung
cách điều hành của thể chế kinh tế tài chính quốc tế này hầu như vẫn không thay đổi suốt từ
sau Chiến tranh thế giới thứ Hai. Cụ thể, quyền lực của IMF vẫn nằm trong tay một nhóm
nước. Phương thức bầu giám đốc của IMF vẫn mặc nhiên chỉ dành ưu tiên cho người châu
Âu hoặc Mỹ, mà không được bầu trên cơ sở công khai, minh bạch và có tính cạnh tranh.
Cách thức này đã được xác định từ năm 1944 và cho đến giờ vẫn ít được thay đổi. Những
biến đổi kinh tế và chính trị đó vô hình trung đã khiến cho cách thức tổ chức, hoạt động và
cung cách điều hành của IMF trở nên lỗi thời và đòi hỏi chúng phải tự làm mới mình để
thích ứng.
Thứ ba, tương quan lực lượng giữa các nước và nhóm nước trên thế giới cũng đã có
những thay đổi đáng kể. Các nền kinh tế công nghiệp phát triển từ chỗ chiếm 3/4 GDP toàn
cầu và là động lực tăng trưởng của nền kinh tế thế giới nhiều năm sau Chiến tranh thế giới
thứ Hai, thì nay vai trò đó đang phải nhường lại cho các nền kinh tế đang phát triển. Mặc dù
vẫn là siêu cường duy nhất trên thế giới, song kinh tế Mỹ từ chỗ chiếm 50% GDP toàn cầu
sau chiến tranh, nay giảm chỉ còn khoảng 30%. Trong khi đó, các nền kinh tế EU, Nhật Bản
và các nền kinh tế Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, Braxin và Nam Phi, gọi chung là nhóm
BRICS, đang nổi lên mạnh mẽ và cạnh tranh trực tiếp với Mỹ trong nhiều lĩnh vực và khía
cạnh, đòi phân chia lại quyền lực trong thị trường thế giới, đòi có tiếng nói, vị thế và lợi ích
cao hơn trong các thể chế quốc tế tương ứng với sức mạnh đã lớn lên của mình.
Thứ tư, về mặt tài chính, IMF là một thể chế tài chính không ổn định. Ngân sách hoạt
động hàng năm của tổ chức chỉ có 1 tỉ USD là hoàn toàn không đủ. Không những thế, các
khoản cho vay của tổ chức này khó có khả năng hoàn vốn do các quốc gia đi vay chủ yếu
đến từ các nước châu Phi không có khả năng hoàn trả, đã không mang lại đủ lợi tức cho
phép IMF chi trả cho các họat động của mình. Hậu quả là IMF thường phải chú tâm vào
việc cho vay (tức đá lấn sân WB) để tìm kiếm thu nhập, mà sao nhãng nhiệm vụ chính là
kiểm soát và cảnh báo rủi ro, nhằm duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính toàn cầu.
Thứ năm, không những không thể chẩn đoán chính xác được tình trạng sức khỏe tài
chính của thế giới, trong thời gian qua, còn có rất nhiều ý kiến chỉ trích rằng, IMF quá mất
dân chủ và tỏ ra thiên vị các nước giàu, thậm chí IMF còn hoạt động dưới sự chỉ huy của

Mỹ, phớt lờ hay coi nhẹ lợi ích của các nước nhỏ và nghèo.
Thứ sáu, tuy vậy, cũng có ý kiến cho rằng, IMF liệu có thể làm được điều gì khác khi
mà quyền hạn của IMF không cho phép tổ chức này can thiệp vào công việc của các quốc
gia (khi họ chưa cần đến sự trợ giúp của IMF) và các ngân hàng tư nhân hùng mạnh. Điều
đó có nghĩa là, bản thân các thể chế kinh tế, tài chính quốc tế này hoàn toàn không có quyền
lực thực tế, do đó các cảnh báo (dù có chính xác) của họ chỉ có tính tham khảo, không được
các quốc gia, thậm chí cả các thể chế tài chính tư nhân, coi trọng và tuân thủ. Chính ông
18
Straus-Kahn, nguyên Tổng giám đốc IMF, cũng đã từng thanh minh trong một cuộc phỏng
vấn năm 2009 trên một nhật báo kinh tế Thụy Sĩ khi bị trách cứ về việc IMF đã không thấy
trước được khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu hiện nay: “Chúng tôi cũng đã công bố
các con số dự báo về một cuộc khủng hoảng tài chính có thể làm chậm đà tăng trưởng kinh
tế thế giới. Nhưng người ta (các ngân hàng) không thèm nghe chúng tôi.” Ông cho rằng, sở
dĩ như vậy là vì: “Hệ thống tài chính đã mất đi giá trị thật của nó. Các định chế tài chính tư
nhân đã trở nên quá lớn và thường có thái độ bất chấp. Để tối đa hóa lợi nhuận của mình,
họ đã phớt lờ mọi rủi ro. Họ gia tăng sản phẩm tài chính của mình mà không kiểm soát
được những nguy hiểm, rủi ro của nó” Cần xây dựng lại thể chế của IMF với việc đem lại
nhiều quyền lực hơn cho tổ chức này nhằm giúp IMF kiểm soát được về tổng thể hệ thống
tài chính thế giới.
c $-V&25
Vẫn biết cải tổ IMF cần phải có thời gian, nhưng đã nhiều năm qua, những cải cách
tại thể chế tài chính toàn cầu này vẫn chỉ là hình thức mà thôi. Tuy vậy có thể nói, sự bất lực
của tổ chức này trong việc dự báo về cuộc khủng hoảng tài chính, kinh tế toàn cầu tồi tệ
nhất từ năm 1930 tới nay và sự lúng túng của họ trong việc giải quyết nguy cơ khủng hoảng
nợ công ở châu Âu hiện nay đã bộc lộ hết những yếu kém và khiếm khuyết không thể nào
không khắc phục ngay của họ. Là IMF phải có những thay đổi căn bản để có thể tồn tại và
hoàn thành được nhiệm vụ của mình. Hầu hết các ý kiến của cả các chuyên gia lẫn các
chính khách đều cho rằng, việc cải cách hay cải tổ thể chế này là hết sức cần thiết và phải
hướng đến những mục đích cụ thể sau:
- Nâng cao hiệu quả quản trị toàn cầu của tổ chức này, làm cho chúng có hiệu năng, hiệu lực

và hiệu quả hơn. Cụ thể, đem lại quyền lực cao hơn cho hai tổ chức này, giúp IMF có thể
làm đúng được chức năng là cơ quan giám sát, cảnh báo và ổn định hệ thống tài chính tiền
tệ toàn cầu.
- Nâng cao tiềm lực tài chính của IMF, để không chỉ giúp các tổ chức này có đủ quỹ cho các
hoạt động bộ máy, mà còn có đủ tiền để cho vay phát triển cũng như hỗ trợ các nước thành
viên trong những lúc khó khăn và khủng hoảng.
- Nâng cao tính dân chủ và minh bạch cho các hoạt động của các tổ chức này. Điều đó có
nghĩa là các cải cách đó phải làm cho các quyết sách, các khoản cho vay và hỗ trợ tài chính
cho các nước thành viên đều được công khai, minh bạch và có tính đến lợi ích của cả các
nước giàu lẫn nước nghèo; và làm cho tiếng nói của các nước đang phát triển, nhất là các
nước nghèo, đều được lắng nghe trong mọi hoạt động của IMF.
: /7MX7X25
Dồn dập trong thời gian gần đây, đã có nhiều phương án cải tổ được nêu ra đối với tổ
chức này, từ cả các nước thành viên lẫn các chuyên gia và từ chính tổ chức này. Song giữa
các phương án đó vẫn còn nhiều điểm khác biệt, thậm chí mâu thuẫn nhau, do chúng xuất
phát từ những lợi ích và hướng đến những mục đích không hoàn toàn đồng nhất. Tuy vậy,
cho đến nay, một số biện pháp cụ thể sau đây đã được thực hiện trên thực tế:
- Hai là, gần đây, các nước thành viên đã đồng ý tăng gấp 3 lần nguồn vốn cho vay của IMF
lên tới 750 tỉ USD.
19
- Một là, tại Hội nghị thượng đỉnh G.20 ở Pittsburge (Mỹ) 9/2009, tại Ủy ban Phát triển
Istanbul hồi tháng 10/2009, và Hội nghị Mùa Xuân tại WDC tháng 5/2010: IMF cam kết
hoàn tất việc kiểm điểm lại quyền biểu quyết trước tháng 1/2011 để phù hợp với những chỉ
tiêu đã nhất trí tại Istanbul, là tăng 5% quyền biểu quyết đối với các nước đang phát triển,
và phấn đấu đến năm 2015 sẽ tạo ra được sự cân bằng về quyền bỏ phiếu giữa các thành
viên.
- Ba là, IMF này cũng đã có một số cải cách về chính sách, về tiêu chí quản trị và điều hành
nhằm nâng cao quyền lực của mình.
+ Có một số sửa đổi về chính sách giúp các quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát
triển nghèo, có thể dễ dàng tiếp cận được các khoản cho vay của IMF và quản lý tốt hơn các

khoản nợ công của mình, cũng như tạo cho tổ chức này có thể quản lý tốt hơn các khoản
vay. Cụ thể, ngày 30/5/2011, IMF đã đề xuất công cụ trực tuyến hướng dẫn quản lý nợ công
của các nền kinh tế nhằm giúp tiêu chuẩn hóa việc phân loại các nguồn nợ công và xây
dựng dữ liệu nợ công với những đối sánh quốc tế rộng rãi. Công cụ trực tuyến này mang tên
“Các thống kê nợ khu vực công: Hướng dẫn cho người soạn thảo và người sử dụng” sẽ bổ
sung cho công cụ của IMF về "Cơ sở dữ kiện thống kê nợ công" hiện đang được sử dụng ở
35 nước thành viên. Công cụ mới này sẽ hỗ trợ quan trọng cho các nhà soạn thảo và sử
dụng các dữ liệu về nợ công, phương thức tính toán tổng nợ cũng như thực nợ công, các
thành phần cũng như trách nhiệm khác nhau của nợ công. Từ đó có thể đưa ra được lời
khuyên giá trị và thiết thực nhằm giải quyết nợ, góp phần quản lý chung các nguồn nợ công
chính xác hơn, đối sách quốc tế rộng rãi hơn và nâng cao nhận thức về các vấn đề tài chính
và nợ phức tạp khác có liên quan.
+ Ngày 22/11/2011, IMF cũng đã điều chỉnh quy chế tín dụng để cho ra đời công cụ
cho vay mới nhằm hỗ trợ các nước đang gặp khó khăn, gọi là Tiện nghi tín dụng Nhanh
(RCF). Theo đó, các nước được tiếp cận nguồn tài chính gấp 5 lần hạn ngạch. Theo các
chuyên gia của tổ chức này, RCF sẽ cung cấp tín dụng nhanh và ít điều kiện ràng buộc để
hỗ trợ các nước thu nhập thấp có nền kinh tế dễ đổ vỡ vượt qua giai đoạn nguy hiểm. Khi
các nền kinh tế này đã qua giai đoạn nguy hiểm, IMF mới tính tới việc có thể sử dụng Tiện
nghi tín dụng Mở rộng (ECF), cho phép cung cấp nguồn tài chính lớn hơn nhưng với các
tiêu chuẩn khắt khe hơn để tiếp tục sự hỗ trợ.
+ Ngoài ra, tổ chức này cũng đưa ra sáng kiến áp thuế đối với các ngân hàng lớn
nhằm giảm nguy cơ và buộc các ngân hàng phải chịu trách nhiệm trước những thất bại về
tài chính. Đồng thời, số tiền thuế thu về sẽ được dùng như một nguồn dự trữ để hỗ trợ các
thể chế tài chính khi lâm vào khủng hoảng. Cụ thể, sẽ có hai loại thuế được áp đặt: Loại thứ
nhất căn cứ trên khối lượng vốn và những khoản đầu tư mang tính rủi ro cao; Loại thứ hai
đánh vào các khoản tiền lời của các cơ quan tài chính và vào các khoản thù lao dành cho các
lãnh đạo ngân hàng.
Có thể nói, việc cải tổ hay cải cách thể chế này mới chỉ bắt đầu, song chắc chắn sẽ là
những vấn đề rất căn bản và lâu dài, đụng chạm đến vị thế và lợi ích thiết thân của các quốc
gia thành viên, nên đòi hỏi phải có thời gian và cần được tiến hành từng bước. Vấn đề bây

giờ là cần phải có sự nỗ lực, phải biết xuất phát từ lợi ích chung toàn cầu, phải biết lắng
nghe và biết nhân nhượng lẫn nhau từ tất cả các bên, để có được những biện pháp cải cách
20
khôn ngoan, tính đến lợi ích của tất cả các bên và phù hợp nhất với hoàn cảnh mới. Nếu
được như vậy, chúng ta hoàn toàn có thể hy vọng sẽ có được một IMF với một diện mạo
mới (công khai, minh bạch và dân chủ hơn), có năng lực và hiệu quả hơn, để có thể giám
sát, cảnh báo và duy trì tốt được sự ổn định và phát triển lành mạnh của nền kinh tế, tài
chính và tiền tệ toàn cầu trong tương lai không xa.
# d=ee=df
# U !"=68f
Chính quyền Sài Gòn gia nhập IMF vào tháng 9 năm 1956. Năm 1976, nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chính thức kế tục chân hội viên tại IMF và được quyền
hưởng các khoản vay từ tổ chức này.
1.1. Giai đoạn 1976-1983
Ngân hàng Nhà nước đã tích cực chủ động làm việc với IMF để vay khoảng 200
triệu Quyền rút vốn đặc biệt (SDR) theo các điều kiện ưu đãi về lãi suất và thời hạn giúp
Việt Nam khắc phục các khó khăn trong cán cân thanh toán.
1.2. Giai đoạn 1985-1993
Quan hệ giữa Việt Nam với IMF bước vào một thời kỳ vô cùng khó khăn khi IMF
đình chỉ quyền vay vốn của Việt Nam do các khoản nợ quá hạn
Ðến tháng 10-1993, với nỗ lực to lớn và quyết tâm thực hiện cải cách của Chính phủ
Việt Nam cùng với sự vận động dàn xếp tài chính thiện chí của các nhà tài trợ thuộc Câu lạc
bộ Paris, quan hệ tín dụng giữa IMF và Việt Nam chính thức được nối lại. Ðây là kết quả
của quá trình đàm phán kiên trì của Chính phủ ta với các chính phủ và một số ngân hàng
nước ngoài để huy động nguồn tài trợ cho việc trả hết các khoản nợ quá hạn.
1.3. Giai đoạn 1993-2004
IMF đã cung cấp cho Việt nam 4 khoản vay với tổng vốn cam kết 1.094 triệu
USD, trong đó, chương trình vay cuối cùng là Tăng trưởng và Giảm nghèo (PRGF) 3 năm.
Chương trình này được ký kết từ tháng 4/2001 với tổng số vốn cam kết khoảng 368 triệu
USD. Việt Nam đã rút vốn 3 đợt với tổng số tiền là 158 triệu USD. Từ thời điểm đó đến

tháng 4/2004 khi chương trình hết hạn, hai bên: IMF và Chính phủ Việt Nam không có đợt
giải ngân nào được thực hiện do 2 bên không đạt được sự nhất trí về chính sách an toàn mà
IMF đưa ra làm điều kiện cho việc giải ngân. Sau nhiều lần kiên trì đàm phán nhưng không
đi đến một giải pháp trung hoà mang tính thoả hiệp, tháng 4/2004, IMF và Việt Nam đã
thống nhất sẽ để chương trình PRGF kết thúc mà không tiếp tục gia hạn.
21
Mặc dù chương trình này kết thúc, nhưng IMF cũng như các nhà tài trợ quốc tế khác
vẫn công nhận những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội Việt Nam đạt được trong những
năm vừa qua. Đồng thời trong năm 2004, IMF tiếp tục trợ giúp kỹ thuật cho các Bộ, ngành
hữu quan của Việt Nam trên các lĩnh vực: chính sách thuế, phương pháp thống kê, hoạt
động tiền tệ - ngân hàng và ngoại hối; cung cấp các khoá đào tạo ngắn và trung hạn ở nước
ngoài do IMF cung cấp kinh phí về: kinh tế vĩ mô, quản lý rủi ro tín dụng, quản lý tài khoá,
an toàn hoạt động ngân hàng, thanh tra - kiểm soát hoạt động tiền tệ, chống rửa tiền và tài
trợ khủng bố, cho cán bộ trung cao cấp của Việt Nam.
Năm 2009, IMF đã tiến hành hai đợt phân bổ SDR tổng thể và đặc biệt vào các tháng
8 và 9 nhằm giúp các nước hội viên tăng dự trữ ngoại hối , chống đỡ trước tác động của
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu (*). Qua hai đợt phân bổ này, Việt Nam
được phân bổ tổng cộng hơn 267 triệu SDR, trong đó, phân bổ thông thường gần 244 triệu
SDR và phân bổ đặc biệt hơn 23 triệu SDR.
# IX7(>6=68g
/2XW&'-,h
Hiện nay cổ phần của Việt nam tại IMF bằng 314,79 triệu SDR, chiếm 0,154% tổng
khối lượng cổ phần và có tỷ lệ phiếu bầu là 0,14% tổng số quyền bỏ phiếu ( theo số liệu
IMF công bố tính đến ngày 31/07/2014).
Việt Nam thuộc nhóm nước Đông Nam Á. Giám đốc điều hành và Giám đốc điều
hành phụ khuyết của nhóm Đông Nam Á được luân phiên giữa các nước Indonesia, Thái
lan, Singapore và Malaysia. Các vị trí cố vấn được luân phiên giữa tất cả các nước trong
nhóm.
=>(+, ((W-G)
Trong những năm gần đây, Việt Nam và IMF cũng đã đẩy mạnh và tăng cường hợp

tác với nhau. Cụ thể như:
- Hàng năm, IMF cử các đoàn công tác định kỳ vào Việt nam để cập nhật tình hình
kinh tế vĩ mô. IMF cũng cung cấp nhiều hỗ trợ kỹ thuật cho lĩnh vực tiền tệ, ngoại hối, thị
trường mở, thanh tra ngân hàng, cải cách thuế, xác định mục tiêu lạm phát, tính toán lạm
phát cơ bản, v.v Ngoài ra, các cán bộ NHNN và các bộ ngành liên quan được tạo điều kiện
tham dự các khóa đào tạo, hội thảo ngắn hạn và xuất học bổng dài hạn theo chương trình do
IMF tài trợ.
- Hàng năm , IMF cũng đồng thời công bố những dự báo , nhận định về tình hình
tăng trưởng kinh tế của các nước trên thế giới , theo đó Chỉ số GDP của Việt Nam năm
2014 được IMF dự báo ở mức 5,5%, đây là mức tăng trưởng khá tốt so với các quốc gia
đang phát triển ở khu vực.
- Ngày 28/5 và 11/6 năm 2014, một nhóm đại diện của IMF do ông John Nelmes
viếng thăm Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh để tiến hành các cuộc thảo luận tư vấn Điều
IV với Việt Nam. Các cuộc thảo luận tập trung vào phát triển kinh tế gần đây và triển vọng,
những chính sách kinh tế vĩ mô trong ngắn hạn, và cải cách tài chính trong doanh nghiệp và
nhà nước.
22
- Ngày 9/10/2014 , tại Hội nghị thường niên Quỹ Tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế
giới đang diễn ra tại Thủ đô Washington, Mỹ, ông Nguyễn Hòa Bình, Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam đã có bài phát biểu quan trọng trước hội nghị. Theo đó, IMF sẽ
tiếp tục hỗ trợ Việt Nam đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội đã đề ra.Việt Nam hy vọng
IMF sẽ tiếp tục hợp tác chặt chẽ với các bộ, các ngành nhằm xây dựng được các chính sách
hiệu quả, qua đó giúp Việt Nam cải tiến mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế.
## 1-9]6&
3.1. Thuận lợi
- Nhờ sự phối hợp chặt chẽ giữa IMF với các bộ, ngành chức năng của Việt Nam nên
các đánh giá hàng năm của IMF về kinh tế vĩ mô của Việt Nam là khá sát với thực tế, chính
điều này đã góp phần tích cực vào công tác chỉ đạo, điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ
Việt Nam.
- IMF giúp Việt Nam những hoạt động tư vấn về chính sách trước việc ứng phó với

hậu quả của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu.
- Là một thành viên của IMF, là một nước đang phát triển, Việt Nam có quyền được
tiếp cận với các thể thức cho vay mới của IMF. Trong trường hợp cần thiết Việt Nam có thể
sử dụng nguồn vốn này để hỗ trợ cho dự trữ ngoại hối của mình, cũng như hỗ trợ cán cân
vãng lai, cán cân thương mại.
3.2. Bất cập
Trong thập kỷ 80,nhiệm vụ của IMF còn bao gồm quản lý các món nợ các nước đang
phát triển PED và giúp các nước đang phát triển khi họ mới nhận biết về khủng hoảng tài
chính. Song các trợ giúp này phải chịu các điều kiện: các nước phải chấp nhận các biện
pháp nghiệt ngã do IMF áp đặt. Sụt giảm lớn các chi tiêu công cộng, khắc khổ về tiền tệ, mở
cửa đất nước để nhận hàng hóa và tư bản nước ngoài, hủy bỏ các doanh nghiệp, biết bao
những quy định có thể làm suy yếu đất nước đã nghèo nàn do nợ nần hoặc thất thoát vốn.
Có thể thấy bên cạnh những lợi ích khi nhận viện trợ từ IMF, Việt Nam cũng cần
thận trọng khi chấp nhận những điều kiện do tổ chức này đặt ra.
23
iUj=
Với tư cách là tổ chức tài chính – tiền tệ quốc tế có thành viên là Chính phủ các
nước, trong hơn 60 năm qua, IMF đã chứng tỏ vai trò quan trọng của mình trong việc duy
trì trật tự ổn định và thúc đẩy kinh tế thế giới phát triển. Tuy vai trò thực sự của IMF thể
hiện rõ ràng hơn đối với nước phát triển nhưng tổ chức này cũng đóng vai trò rất quan trọng
trong việc tư vấn về chính sách và hỗ trợ kỹ thuật cho các nước đang phát triển trong các
lĩnh vực ngân hàng, tài chính, thương mại, cải cách doanh nghiệp nhà nước, tiền tệ, ngoại
hối, thanh tra ngân hàng, cải cách thuế ( tư vấn cho Bộ Tài chính), xác định mục tiêu lạm
phát, chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố…cũng như Việt Nam nói riêng.
24

×