Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

Hoàn thiện kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng tại Công ty cồ phần Ford Thăng Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.85 KB, 111 trang )

Khoá luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
LỜI CAM ĐOAN
Qua quá trình thực tập tại Công ty cổ phần Ford Thăng long từ ngày
20/02/2012 đến 25/05/2012, em đã hoàn thành đề tài khóa luận: “Hoàn thiện
kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng tại Công ty cồ phần Ford
Thăng Long”.
Em xin cam đoan bài khóa luận của em là có cơ sở thực tế xác thực,
những vấn đề mà em trình bày ở trong bài luận văn này là những hiểu biết của
em về tổ chức công tác kế toán bán hàng thực tế qua một thời gian đi thực tập tại
Công ty cổ phần Ford Thăng Long. Kính mong nhận được lời nhận xét của quý
thầy cô, các anh chị và các bạn để bài khóa luận tốt nghiệp của em được hoàn
thiện hơn.
Phạm Thị Quyên Lớp: KTBK11
Khoá luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
MỤC LỤC
Phạm Thị Quyên Lớp: KTBK11
Khoá luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCTC Báo cáo tài chính
BH Bán hàng
BHXH Bảo hiểm xã hội
BTC Bộ Tài chính
CBNV Cán bộ nhân viên
CCDC Công cụ dụng cụ
CP Chi phí
CPBH Chi phí bán hàng
CPQLDN Chi phí quản lý doanh nghiệp
DNTM Doanh nghiệp thương mại
DT Doanh thu
GTGT Giá trị gia tăng
HĐTC Hoạt động tài chính


HTK Hàng tồn kho
KHTSCĐ Khấu hao tài sản cố định
KQKD Kết quả kinh doanh
NVL Nguyên vật liệu
PXK Phiếu xuất kho
QLDN Quản lý doanh nghiệp
SXKD Sản xuất kinh doanh
TCKT Tổ chức kế toán
TKĐƯ Tài khoản đối ứng
TNDN Thu nhập doanh nghiệp
TTĐB Tiêu thụ đặc biệt
VCNB Vận chuyển nội bộ
WTO World Trade Oganization
Phạm Thị Quyên Lớp: KTBK11
Khoá luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
SƠ ĐÔ:
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của để tài nghiên cứu
Trong xu thế hiện nay, nền kinh tế toàn cầu hoá làm cho mức độ cạnh tranh về
kinh tế trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang ngày càng diễn ra gay
gắt, khốc liệt. Việt Nam kể từ khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới - thành viên
thứ 150 của WTO đã không ngừng nỗ lực vươn lên để bắt kịp với những đổi thay
và phát triển của nền kinh tế thế giới. Điều đó đã khuyến khích nhiều doanh nghiệp
lớn nhỏ ra đời với các lĩnh vực hoạt động kinh doanh phong phú, đa dạng.
Để điều hành và quản lý được toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh doanh
nghiệp mình một cách có hiệu quả nhất, các doanh nghiệp phải nắm bắt kịp thời,
chính xác các thông tin kinh tế cũng như những định hướng của nhà nước, đặc biệt
Phạm Thị Quyên Lớp: KTBK11
Khoá luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng

là phải xây dựng được một hệ thống kế toán tốt để thu thập, xử lý, tổng hợp các
thông tin giúp cho các nhà quản lý đưa ra quyết định kịp thời, chính xác, giúp doanh
nghiệp kinh doanh hiệu quả. Đối với doanh nghiệp thương mại, hoạt động bán hàng
giữ vị trí vô cùng quan trọng. Các doanh nghiệp muốn được chấp nhận kinh doanh
trên thị trường thì phải đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Vì vậy tiêu thụ
trở thành khâu thiết yếu trong quá trình sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Hạch toán chính xác tiêu thụ và xác định kết quả kinh doanh là cơ sở để doanh
nghiệp tìm ra lời giải cho bài toán giá cả, số lượng hàng bán ra và phương thức tiêu
thụ có hiệu quả nhất. Hơn thế nữa, khâu tiêu thụ được tổ chức tốt sẽ tạo điều kiện
cho việc thu hồi vốn nhanh, tăng vòng quay của vốn, đảm bòa tính liên tục của quá
trình sản xuất.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, trong thời gian thực tập tại công ty cổ
phần Ford Thăng Long dưới sự hướng dẫn của thầy Trịnh Đức Vinh và sự giúp
đỡ của các anh chị trong phòng kế toán em quyết định chọn đề tài: “ Hoàn thiện
kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng tại Công ty cồ phần Ford Thăng
Long” làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài này được thực hiện nhằm những mục tiêu sau:
- Tổng hợp, hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung liên quan đến kế
toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng.
- Nghiên cứu thực trạng công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả
bán hàng tại Công ty cổ phần Ford Thăng Long.
- Đánh giá những ưu điểm, nhược điểm về công tác kế toán bán hàng và
xác định kết quả bán hàng của Công ty.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện công tác kế toán bán
hàng và xác định kết quả tại Công ty cổ phần Ford Thăng Long.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
∗ Đối tượng nghiên cứu: lý luận, thực tiễn kế toán bán hàng và xác định
Phạm Thị Quyên Lớp: KTBK11
5

Khoá luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
kết quả bán hàng tại Công ty cổ phần Ford Thăng Long.
∗ Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi nội dung: Các vấn đề liên quan đến tổ chức và hạch toán kế
toán bán hàng và xác định kết quả tại Công ty cổ phần Ford Thăng Long.
- Phạm vi không gian: Công ty cổ phần Ford Thăng Long - 105 Láng Hạ
- Đống Đa - Hà Nội.
- Phạm vi thời gian:
Thời gian thực hiện đề tài: từ ngày 20/02/2012 đến 25/05/2012
Số liệu về công tác kế toán bán hàng và kết quả kinh doanh của công ty
được thu thập trong 3 năm (từ 2009 đến 2011).
4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu là kết hợp lý luận, khảo sát tư liệu các giáo trình,
một số luận văn tốt nghiệp, sách báo… để tập hợp những vấn đề chung đã có, khảo
sát thực tế công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh tại Công ty cổ
phần Ford Thăng Long và dùng phương pháp phân tích để rút ra các kết luận và đề
xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức công tác kế toán bán
hàng và xác định kết quả tại Công ty cổ phần Ford Thăng Long.
5. Kết cấu bài khóa luận
Ngoài lời mở đầu và kết luận, bài khóa luận gồm 3 chương như sau:
Chương I: Cơ sở lý luận chung về kế toán bán hàng và xác định kết quả bán
hàng trong doanh nghiệp thương mại
Chương II: Thực trạng công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả bán
hàng tại Công ty cổ phần Ford Thăng Long.
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán bán hàng
và xác định kết quả bán hàng tại Công ty cổ phần Ford Thăng Long
Trong thời gian học tập, nghiên cứu tại trường Học viện Ngân hàng, em xin
gửi lời cảm ơn chân thành tới tất cả các thầy cô giáo, đặc biệt là thầy Trịnh Đức
Vinh cùng các annh chị bộ phận kế toán của Công ty cổ phần Ford Thăng Long
đã giúp em hoàn thành bài khóa luận này.

Phạm Thị Quyên Lớp: KTBK11
6
Khoá luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
Tuy nhiên do thời gian có hạn và kiến thức còn hạn chế nên bài khóa luận
không tránh khỏi những thiếu sót và khiếm khuyết, em rất mong nhận được sự
chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và những người quan tâm để bài
khóa luận được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Phạm Thị Quyên Lớp: KTBK11
7
Khoá luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN BÁN HÀNG
VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ BÁN HÀNG TRONG DOANH NGHIỆP
THƯƠNG MẠI
1.1Những vấn đề chung về kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng
1.1.1 Các khái niệm chung về doanh nghiệp thương mại
1.1.1.1 Doanh nghiệp thương mại
Thương mại là khâu trung gian nối liền giữa sản xuất và tiêu dùng. Hoạt
động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của thương
nhân làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa
thương nhân với các bên liên quan bao gồm việc mua, bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ thươnrg mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi
nhuận hoặc nhằm mục đích thực hiện các chính sách kinh tế xã hội.
Trong hoạt động kinh doanh thương mại, tiêu thụ hàng hoá là giai đoạn
cuối cùng trong quá trình lưu chuyển hàng hoá. Hoạt động chính của doanh
nghiệp thương mại là mua vào các sản phẩm hàng hoá của các doanh nghiệp sản
xuất, sau đó thông qua hệ thống bán hàng của mình cung cấp cho người tiêu
dùng đồng thời thu được tiền nhờ vào việc cung cấp hàng hoá đó. Quá trình kinh
doanh của doanh nghiệp thương mại gồm ba khâu chủ yếu đó là: Mua vào, dự

trữ và bán ra. Trong đó quá trình vốn kinh doanh của doanh nghịêp vận động
theo mô hình T-H-T’.
Kinh doanh thương mại có một số đặc điểm sau:
- Về hàng hóa: Hàng hóa trong kinh doanh thương mại gồm các loại vật
phẩm, sản phẩm có hình thái vật chất hay không có hình thái vật chất mà doanh
nghiệp mua về Đặc điểm về hoạt động: Hoạt động kinh tế cơ bản của kinh doanh
thương mại là luân chuyển hàng hóa. Luân chuyển hàng hóa là sự tổng hợp các
hoạt động thuộc các quá trình mua bán, trao đổi và dự trữ hàng hóa.
Phạm Thị Quyên Lớp: KTBK11
8
Khoá luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
- Đặc điểm với mục đích để bán.
- Đặc điểm về phương thức lưu chuyển: lưu chuyển hàng hóa trong kinh
doanh thương mại có thể theo một trong hai hình thức là bán buôn và bán lẻ.
Bán buôn hàng hóa là bán cho người trung gian chứ không bán thẳng cho
người tiêu dùng, bán lẻ hàng hóa là việc bán thẳng cho người tiêu dùng từng
cái, từng ít một.
- Đặc điểm về tổ chức kinh doanh: Tổ chức kinh doanh thương mại có thể
theo nhiều mô hình khác nhau như: Công ty bán buôn, bán lẻ, công ty kinh
doanh tổng hợp, công ty môi giới…
- Đặc điểm về sự vận động của hàng hóa: Sự vận động của hàng hóa trong
kinh doanh thương mại là không giống nhau, tùy thuộc nguồn hàng và ngành
hàng. Do đó, chi phí thu mua và thời gian luân chuyển hàng hóa cũng không
giống nhau giữa các loại hàng.
Như vậy, có thể nói chức năng của thương mại là tổ chức và thực hiện việc
mua bán, trao đổi hàng hóa cung cấp các dịch vụ nhằm phục vụ sản xuất và đời
sống nhân dân.
1.1.1.2 Quá trình bán hàng
Trong doanh nghiệp thương mại, quá trình bán hàng được bắt đầu từ khi
doanh nghiệp chuyển giao sản phẩm, hàng hoá. dịch vụ cho khách hàng, đồng

thời khách hàng trả hoặc chấp nhận trả một khoản tiền tương ứng cho giá bán
sản phẩm hàng hoá đó mà hai bên đã thoả thuận. Quá trình này được coi là hoàn
tất khi người bán đã nhận được tiền và người mua đã nhận được hàng. Đối với
doanh nghiệp thương mại nói riêng và tất cả các doanh nghiệp nói chung hoạt
động bán hàng đảm bảo cho họ bù đắp các khoản chi phí bỏ ra trong quá trình
kinh doanh và có thể tích luỹ. Có thể nói hoạt động bán hàng là lý do tồn tại của
các doanh nghiệp thương mại và nó có ý nghĩa to lớn đối với sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp thương mại.
Phạm Thị Quyên Lớp: KTBK11
9
Khoá luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
Hoạt động bán hàng phát triển sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng
được thị trượng tiêu thụ, mở rộng kinh doanh, do đó tăng được doanh thu giúp
doanh nghiệp củng cố và khẳng định vị trí của mình trên thị trường.
Đối với người tiêu dùng, quá trình bán hàng của doanh nghiệp giúp đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Chỉ qua khâu bán hàng, công dụng của hàng
hoá, dịch vụ mới được xác định hoàn toàn, sự phù hợp giữa thị hiếu người tiêu
dùng với hàng hoá mới được khẳng định.
Đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, khâu bán hàng cũng có ý nghĩa rất
lớn với sự phát triển của nền kinh tế. Với lợi thế riêng của mình đó là tiếp cận
trực tiếp với người tiêu dùng, nên quá trình bán hàng có thể nắm bắt tường tận
nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng.
1.1.1.3 Kết quả bán hàng
Kết quả hoạt động kinh doanh là kết quả cuối cùng của hoạt động bán
hàng và các hoạt động khác của doanh nghiệp sau một thời kì nhất định biểu
hiện bằng số tiền lãi hay lỗ.
Kết quả bán hàng được xác định là số chênh lệch giữa doanh thu với trị
giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp phân bổ cho
hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ.
Đối với doanh nghiệp thương mại thì kết quả bán hàng thường chiếm

tỷ trọng lớn chủ yếu trong kết qủa hoạt động kinh doanh. Do đó, việc xác
định kết quả bán hàng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công tác quản lý
tại doanh nghiệp.
1.1.2 Vai trò và ý nghĩa của quá trình bán hàng và xác định kết quả bán hàng
1.1.2.1 Vai trò
Bán hàng là giai đoạn cuối cùng trong quá trình sản xuất kinh doanh trong
các doanh nghiệp. Bán hàng có vai trò vô cùng quan trọng không chỉ đối với mỗi
doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Phạm Thị Quyên Lớp: KTBK11
10
Khoá luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
Trong các doanh nghiệp quá trình tiêu thụ thành phẩm, hàng hoá hay đơn
thuần gọi là quá trình bán hàng được hiểu là quá trình trao đổi để thực hiện gía
trị của hàng hoá, đây là quá trình chuyển hoá vốn của doanh nghiệp từ hình thái
hiện vật sang hình thái tiền tệ (Hàng- Tiền) và hình thành kết quả bán hàng.
Trong quá trình đó, một mặt doanh nghiệp giao hàng cho khách và mặt khác
khách hàng sẽ trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền cho doanh nghiệp theo giá cả đã
thoả thuận. Như vậy thực chất bán hàng là việc chuyển quyền sở hữu về hàng
hoá, thành phẩm, dịch vụ cho khách hàng và đổi lại doanh nghiệp thu được tiền
hoậc nhận được quyền thu tiền từ khách hàng.
Đối với bản thân các doanh nghiệp có bán được hàng hoá thì mới có thu
nhập để bù đắp những chi phí đã bỏ ra và hình thành kết quả bán hàng. Nếu hoạt
động bán hàng của doanh nghiệp không thông suốt sẽ làm ngừng trệ các hoạt
động khác như sản xuất, mua vào, dự trữ Còn nếu hoạt động bán hàng của
doanh nghiệp trôi chảy sẽ thúc đẩy các hoạt động khác. Vì vậy có thể ví hoạt
động bán hàng là tấm gương phản ánh tình hình hoạt động chung của doanh
nghiệp. Nếu mở rộng được bán hàng, tăng doanh thu sẽ tạo điều kiện mở rộng
thị trường tiêu thụ của doanh nghiệp, mở rộng kinh doanh, củng cố và khẳng
định vị trí của doanh nghiệp trên thị trường, giúp doanh nghiệp đứng vững trong
kinh doanh.

Đối với người tiêu dùng (khách hàng), bán hàng đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng của khách hàng. Chỉ qua quá trình bán hàng, công dụng của hàng hoá mới
được phát huy hoàn toàn. Bên cạnh đó, bán hàng còn góp phần hướng dẫn nhu
cầu tiêu dùng của khách hàng. Việc thúc đẩy bán hàng ở doanh nghiệp là cơ sở
để thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ ở các đơn vị kinh tế khác có quan hệ kinh tế với
doanh nghiệp.
Phạm Thị Quyên Lớp: KTBK11
11
Khoá luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
Xét trên phạm vị toàn bộ nền kinh tế quốc dân, bán hàng là một trong
những hoạt động chính của quá trình lưu thông phân phối hàng hoá, bán hàng là
hoạt động để thực hiện mục đích của sản xuất là tiêu dùng và là điều kiện để quá
trình tái sản xuất xã hội được thực hiện. Ngoài ra bán hàng còn góp phần điều
hoà giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa tiền và hàng, giữa khả năng và nhu cầu là
điều kiện để đảm bảo sự phát triển cân đối trong từng ngành,từng vùng cũng như
trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
1.1.2.2 Ý nghĩa của kết quả bán hàng đối với doanh nghiệp
Kết quả bán hàng trong các doanh nghiệp được hiểu là khoản chênh
lệch giữa tổng doanh thu bán hàng trong kỳ của doanh nghiệp với các
khoản chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để có được số doanh thu đó. Nếu
doanh thu bán hàng lớn hơn tổng số chi phí đã bỏ ra phục vụ cho việc bán
hàng trong một chu kỳ nhất định thì doanh nghiệp có lãi và ngược lại, thu
nhập nhỏ hơn chi phí thì doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ. Kết quả bán
hàng là mục đích cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh tại các
doanh nghiệp. Nó là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp có ý nghĩa quan trọng
trong quản lý sản xuát kinh doanh, là nhân tố quyết định đến sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp. Có lợi nhuận, doanh nghiệp mới có điều kiện
để mở rộng kinh doanh, nâng cao đời sống của cán bộ trong doanh nghiệp,
tạo nguồn tích luỹ quan trọng cho nền kinh tế quốc dân
Bán hàng, với vị trí là khâu cuối cùng trong quá trình kinh doanh của

doanh nghiệp, có mối quan hệ mật thiết với kết quả kinh doanh: bán hàng
là cơ sở để xác định kết quả bán hàng, ngược lại xác định kết quả bán hàng
là căn cứ quan trọng để doanh nghiệp ra các quyết định sản xuất kinh
doanh. Có thể nói giữa bán hàng và kết quả bán hàng có mối quan hệ mật
thiết; kết quả bán hàng là mục đích cuối cùng của doanh nghiệp, còn bán
hàng là “phương tiện” trực tiếp để đạt được mục đích đó.
Phạm Thị Quyên Lớp: KTBK11
12
Khoá luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
1.1.3 Yêu cầu quản lý quá trình bán hàng và xác định kết quả bán hàng.
Quản lý công tác bán hàng và xác định kết quả bán hàng thực chất là quản
lý việc lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch bán hàng trong từng thời kỳ, đối với
từng khách hàng, từng hợp đồng kinh tế. Đó còn là quản lý về số lượng, chất
lượng hàng hoá, thời gian tiêu thụ, cơ cấu mặt hàng tiêu thụ, trị giá vốn hàng
xuất bán, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp phân bổ cho hàng
bán ra, tình hình thanh toán của khách hàng và thanh toán các khoản phải trích
nộp cho ngân sách Nhà nước.
Trong doanh nghiệp thương mại việc phân tích, lựa chọn các mặt hàng
kinh doanh là mục tiêu chủ yếu của doanh nghiệp. Do vậy, công tác quản lý
quá trình bán hàng và xác định kết quả kinh doanh cần đáp ứng được các yêu
cầu sau:
- Nắm chắc sự vận động của từng loại hàng hóa trong quá trình nhập, xuất,
tồn kho trên các chỉ tiêu về số lượng, chất lượng và giá trị
- Nắm bắt, theo dõi chặt chẽ phương thức bán hàng, từng phương thức
thanh toán, từng loại hàng bán ra và từng loại khách hàng. Đối với các khoản
giảm trừ phải có quy chế quản lý công khai, đối với các khoản chiết khấu,
giảm giá cho số hàng thông thường tiêu thụ trong kỳ phải đảm bảo cho doanh
nghiệp có lãi
- Lựa chọn phương pháp tính trị giá vốn hàng xuất bán phù hợp với điều
kiện thực tế của doanh nghiệp, giám sát kiểm tra chặt chẽ tính hợp lý, hợp pháp

của các khoản CPBH và CPQLDN phát sinh, đồng thời phân bổ chi phí cho hàng
bán ra hợp lý, khoa học, đảm bảo nguyên tắc nhất quán.
- Phải tập hợp chính xác, đúng đắn kết quả bán hàng nói chung cũng như
kết quả tiêu thụ từng loại hàng hóa nói riêng.
1.1.4 Nhiệm vụ của quá trình bán hàng và xác định kết quả bán hàng.
Trong doanh nghiệp thương mại, kế toán bán hàng và xác định kết quả
bán hàng có các nhiệm vụ cơ bản sau:
Phạm Thị Quyên Lớp: KTBK11
13
Khoá luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
- Phản ánh và ghi chép đầy đủ, kịp thời, chính xác tình hình hiện có và sự
biến động của từng loại thành phẩm, hàng hóa theo chỉ tiêu số lượng, chất lượng,
chủng loại và giá trị.
- Phản ánh và ghi chép đầy đủ, kịp thời và chính xác các khoản doanh thu,
các khoản giảm trừ doanh thu và chi phí của từng hoạt động trong doanh nghiệp,
đồng thời theo dõi và đôn đốc các khoản phải thu của khách hàng.
- Phản ánh và tính toán chính xác kết quả của từng hoạt động, giám sát
tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước và tình hình phân phối kết quả các
hoạt động.
- Cung cấp các thông tin kế toán phục vụ cho việc lập Báo cáo tài chính và
định kỳ phân tích hoạt động kinh tế liên quan đến quá trình bán hàng, xác định
và phân phối kết quả.
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ đó, kế toán bán hàng cần thực hiện tốt những
nội dung sau:
- Tổ chức tốt hệ thống chứng từ ghi chép ban đầu và trình tự luân chuyển
chứng từ.
- Báo cáo kịp thời, thường xuyên tình hình tiêu thụ, tình hình thanh toán với
khách hàng theo từng loại hàng, từng hợp đồng kinh tế để đảm bảo đáp ứng yêu
cầu quản lý và phải giám sát chặt chẽ hàng bán trên các mặt: Số lượng, chất
lượng, chủng loại… Đôn đốc việc thu tiền bán hàng về doanh nghiệp kịp thời,

tránh hiện tượng tiêu cực sử dụng tiền hàng cho mục đích cá nhân.
- Tổ chức vận dụng hệ thống tài khoản kế toán, hệ thống sổ sách kế toán
phù hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Kế toán bán hàng thực hiện tốt các nhiệm vụ của mình sẽ đem lại hiệu quả
thiết thực cho công tác bán hàng nói riêng và cho hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp nói chung.
Phạm Thị Quyên Lớp: KTBK11
14
Khoá luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
1.1.5 Các phương thức bán hàng và thanh toán
1.1.5.1 Các phương thức bán hàng
Các doanh nghiệp kinh doanh thương mại có thể bán hàng theo nhiều
phương thức khác nhau: bán buôn, bán lẻ, ký gửi, đại lý… trong mỗi phương
thức lại có thể thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau
a. Phân loại theo khối lượng hàng bán và mục đích sử dụng liền sau
∗Phương thức bán buôn
Bán buôn hàng hóa là hình thức bán hàng chủ yếu của các đơn vị thương
mại, các doanh nghiệp sản xuất…để thực hiện bán ra hoặc để gia công chế biến.
Đặc điểm của hàng bán buôn là hàng hóa vẫn nằm trong lĩnh vực lưu thông,
chưa đưa vào lĩnh vực tiêu dùng, do vậy giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa
chưa được thực hiện. Hàng hóa thường được bán buôn theo lô hoặc được bán với
số lượng lớn, giá biến động tùy thuộc vào khối lượng hàng bán và phương thức
thanh toán. Trong bán buôn thường bao gồm 2 phương thức:
- Phương thức bán buôn qua kho
Là phương thức bán buôn hàng hoá mà trong đó hàng bán phải được xuất
từ kho bảo quản của doanh nghiệp. Bán buôn qua kho có 2 hình thức.

+Bán buôn qua kho theo hình thức giao hàng trực tiếp:bên mua cử đại diện
đến kho của doanh nghiệp để nhận hàng. Doanh nghiệp xuất kho hàng hoá, giao
hàng trực tiếp cho đại diện bên mua. Sau khi đại diện bên mua nhận đủ hàng,

thanh toán tiền hoặc chấp nhận nợ, hàng hoá được xác định là tiêu thụ.
+Bán buôn qua kho theo hình thức chuyển hàng (gửi hàng cho bên
mua):căn cứ vào hợp đồng đã ký kết, hoặc theo đơn hàng, doanh nghiệp xuất
kho hàng hoá, dùng phương tiện vận tải của mình hoặc đi thuê ngoài, chuyển
hàng đến kho của bên mua hoặc một địa điểm nào đó do bên mua quy định trong
hợp đồng. Hàng hóa chuyển bán vẫn thuộc quyền sở hữu của bên doanh nghiệp
thương mại, chỉ khi nào được bên mua kiểm nhận, thanh toán hoặc chấp nhận
thanh toán thì số hàng chuyển giao mới được coi là tiêu thụ: người bán mất
quyền sở hữu số hàng đã giao.
Phạm Thị Quyên Lớp: KTBK11
15
Khoá luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
- Phương thức bán buôn vận chuyển thẳng
Doanh nghiệp sau khi mua hàng, nhận hàng mua, không đưa về nhập kho
mà chuyển bán thẳng cho bên mua.
Bán buôn vận chuyển thẳng có 2 hình thức:
+ Bán buôn vận chuyển thẳng theo hình thức giao hàng trực tiếp (hình thức
giao tay ba hay bán buôn vận chuyển thẳng có tham gia thanh toán): Doanh
nghiệp sau khi mua hàng, giao trực tiếp cho đại diện của bên mua tại kho người
bán. Sau khi giao, nhận, đại diện bên mua ký nhận đủ hàng, bên mua đã thanh
toán tiền hàng hoặc chấp nhận nợ, hàng hoá được xác định là tiêu thụ.
+Bán buôn vận chuyển thẳng theo hình thức chuyển hàng: doanh nghiệp
sau khi mua hàng, nhận hàng mua, dùng phương tiện vận tải của mình hoặc thuê
ngoài vận chuyển hàng đến giao cho bên mua ở địa điểm đã được thỏa thuận.
Hàng hóa chuyển bán trong trường hợp này vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh
nghiệp thương mại. Khi nhận tiền của bên mua thanh toán hoặc giấy báo của bên
mua đã nhận được hàng và chấp nhận thanh toán thì hàng hóa chuyển đi mới
được xác định là tiêu thụ.
∗ Phương thức bán lẻ
Là phương thức bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng hoặc các tổ chức

kinh tế hoặc các đơn vị kinh tế tập thể mua về mang tính chất tiêu dùng nội bộ.
Đặc điểm của hàng hóa bán lẻ là hàng hóa đã ra khỏi lĩnh vực lưu thông và
đi vào lĩnh vực tiêu dùng, giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa đã được thực
hiện, bán lẻ thường bán đơn chiếc hoặc số lượng nhỏ, giá bán thường ổn định.
Trong phương thức bán lẻ có các hình thức sau:
- Bán lẻ thu tiền tập trung: nghiệp vụ thu tiền của người mua và nghiệp
vụ giao hàng cho người mua tách rời nhau. Mỗi quầy hàng có một nhân viên thu
tiền làm nhiệm vụ thu tiền của khách, viết hóa đơn hoặc tích kế cho khách để
khách đến nhận hàng ở quầy hàng do nhân viên bán hàng giao.
Phạm Thị Quyên Lớp: KTBK11
16
Khoá luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
Cuối ca, cuối ngày nhân viên thu tiền làm giấy nộp tiền bán hàng, còn
nhân viên bán hàng căn cứ hóa đơn giao hàng cho khách hàng hoặc kiểm kê
lượng hàng cuối ca, cuối ngày để xác định lượng hàng đã bán cho khách, sau đó
lập báo cáo bán hàng.
Ưu điểm của hình thức này là ít xảy ra sai sót giữa tiền và hàng, nhưng có
nhược điểm là mất nhiều thời gian của khách hàng. Vì vậy hình thức bán hàng
này chỉ áp dụng đối với những mặt hàng có giá trị cao.
- Bán lẻ thu tiền trực tiếp: theo phương thức này, nhân viên bán hàng hoàn
toàn chịu trách nhiệm vật chất về số hàng đã nhận để bán ở quầy hàng, đồng thời
chịu trách nhiệm quản lý tiền bán hàng trong ngày. Nhân viên bán hàng trực tiếp
thu tiền của khách và giao hàng cho khách. Cuối ngày hoặc cuối mỗi ca nhân
viên bán hàng làm giấy nộp tiền và nộp tiền cho thủ quỹ và lập báo cáo bán
hàng và xác định kết quả kinh doanh.
- Bán lẻ tự phục vụ(tự chọn): khách hàng tự chọn lấy hàng, mang đến bàn
tính tiền và thanh toán tiền hàng. Nhân viên thu tiền kiểm hàng, tính tiền, lập
hoá đơn bán hàng và thu tiền của khách hàng.
- Bán hàng tự động: là hình thức bán lẻ mà các doanh nghiệp thương mại sử
dụng các máy bán hàng tự động, chuyên dùng cho một số loại hàng hóa nào đó

đặt ở nơi công cộng.
b. Phân loại theo thời điểm giao hàng
∗ Bán hàng theo phương thức bán hàng trực tiếp: là phương thức giao hàng
cho người mua trực tiếp tại kho hay trực tiếp tại các phân xưởng không qua kho
của doanh nghiệp. Số hàng này khi giao cho người mua thì được trả tiền ngay
hoặc được chấp nhận thanh toán. Vì vậy, sản phẩm xuất bán được coi là đã bán.
Thời điểm xác định doanh thu chính là thời điểm đã bán. Trong phương thức này
có các hình thức sau:
- Bán buôn trực tiếp:
- Bán lẻ trực tiếp:
Phạm Thị Quyên Lớp: KTBK11
17
Khoá luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
∗ Bán hàng theo phương thức gửi hàng: là phương thức mà bên bán gửi
hàng đi cho khách hàng theo các điều kiện ghi trong hợp đồng. Số hàng chuyển
đi này vẫn thuộc quyền sở hữu của bên bán, khi khách hàng thanh toán hoặc
chấp nhận thanh toán về số hàng đã chuyển giao thì số hàng này được coi là đã
bán. Trong phương thức này bao gồm các hình thức:
- Bán buôn theo hình thức gửi hàng: bao gồm bán buôn qua kho theo hình
thức gửi hàng, bán buôn vận chuyển thẳng theo hình thức gửi hàng.
- Gửi hàng đại lý: Đây là phương thức bán hàng mà trong đó, doanh nghiệp
thương mại giao hàng cho cơ sở đại lý, ký gửi để cho cơ sở này trực tiếp bán
hàng. Bên nhận làm đại lý ký gửi sẽ trực tiếp bán hàng, thanh toán tiền hàng và
được hưởng hoa hồng đại lý bán, số hàng chuyển giao cho các cơ sở đại lý, ký
gửi vẫn thuộc về doanh nghiệp thương mại cho đến khi doanh nghiệp thương
mại được cơ sở đại lý, ký gửi thanh toán tiền hay chấp nhận thanh toán hoặc
thông báo về số hàng đã bán được, doanh nghiệp mới mất quyền sở hữu số
hàng này.
c. Phân loại theo thời điểm thanh toán
* Bán hàng trả tiền ngay: Là phương thức bán hàng mà người mua thanh

toán đầy đủ số tiền khi mua hàng. Khi đó doanh nghiệp mất quyền sở hữu về
hàng hóa và hàng hóa được xác định là đã tiêu thụ.
* Bán hàng trả góp:
Theo hình thức này, người mua hàng được trả tiền mua hàng thành nhiều
lần cho doanh nghiệp thương mại, ngoài số tiền thu theo giá bán thông thường
còn thu thêm người mua một khoản lãi do trả chậm. Về thực chất, người bán chỉ
mất quyền sở hữu khi người mua thanh toán hết tiền hàng. Tuy nhiên, về mặt
hạch toán, khi giao hàng cho người mua, hàng hóa bán trả góp được coi là tiêu
thụ, bên bán ghi nhận doanh thu.
Phạm Thị Quyên Lớp: KTBK11
18
Khoá luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
1.1.5.2 Phương thức thanh toán
Sau khi giao hàng cho bên mua và được chấp nhận thanh toán bên bán có
thể nhận tiền hàng theo nhiều phương thức khác nhau tùy vào nhiều yếu tố như
trị giá lô hàng bán, mức độ thường xuyên trong quan hệ mua bán, mức độ tín
nhiệm lẫn nhau, … mà doanh nghiệp thương mại và người mua có thể thỏa thuận
lựa chọn sử dụng các phương thức, hình thức thanh toán khác nhau.
a. Phương thức thanh toán trực tiếp
Là quá trình bán hàng và thu tiền phát sinh cùng một thời điểm. Theo
phương thức thanh toán này, có các hình thức sau:
- Hình thức thanh toán bằng tiền mặt, ngân phiếu: Là hình thức khi bên
bán chuyển giao hàng hóa, dịch vụ thì bên mua xuất tiền, ngân phiếu để trả trực
tiếp tương ứng với giá cả mà hai bên đã thỏa thuận.
- Hình thức trao đổi hàng: Theo hình thức này, khi bên bán chuyển giao
hàng hóa cho bên mua thì bên mua xuất giao cho bên bán một lô hàng có giá trị
tương ứng với giá trị lô hàng đã nhận được từ bên bán.
b. Phương thức thanh toán không trực tiếp
Thanh toán không trực tiếp là phương thức thanh toán được thực hiện bằng
cách trích chuyển ở tài khoản của doanh nghiệp hoặc bù trừ giữa hai bên thông

qua các tổ chức kinh tế trung gian thường là Ngân hàng. Phương thức này có thể
được thực hiện theo một số hình thức sau:
- Hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm chi
- Hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm thu
- Hình thức thanh toán bằng séc
c. Phương thức thanh toán trả chậm
Phạm Thị Quyên Lớp: KTBK11
19
Khoá luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
Khách hàng đã nhận được hàng nhưng chưa thanh toán tiền cho doanh
nghiệp thương mại. Việc thanh toán trả chậm có thể thực hiện theo điều kiện tín
dụng ưu đãi theo thỏa thuận. Chẳng hạn điều kiện “1/10, n/20”, có nghĩa là trong
10 ngày đầu tiên kể từ ngày chấp nhận nợ, nếu người mua thanh toán công nợ sẽ
được hưởng chiết khấu 10%, kể từ ngày thứ 11 đến ngày thứ 20 người mua phải
thanh toán toàn bộ công nợ là n. Nếu 20 ngày mà người mua chưa thanh toán nợ
thì họ sẽ phải chịu lãi suất tín dụng.
1.2 Hạch toán chi tiết kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng
trong doanh nghiệp thương mại
1.2.1 Khái niệm doanh thu và nguyên tắc ghi nhận doanh thu
1.2.1.1 Khái niệm
Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là tổng các lợi ích kinh tế doanh
nghiệp thu được trong kỳ kế toán, phát sinh từ các hoạt động sản xuất, kinh
doanh thông thường của doanh nghiệp, góp phần tăng vốn chủ sở hữu.
Trong các doanh nghiệp, doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ được
phân biệt:
- Doanh thu bán hàng hoá.
- Doanh thu bán sản phẩm.
- Doanh thu cung cấp dịch vụ.
1.2.1.2 Nguyên tắc ghi nhận doanh thu bán
a. Cơ sở xác định doanh thu.

Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 14 – Doanh thu và thu nhập khác
(VAS14) doanh thu bán hàng được ghi nhận khi thoả mãn đồng thời các điều
kiện sau:
- Doanh nghiệp đã chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích kinh tế gắn liền với
quyền sở hữu sản phẩm, hàng hoá cho người mua.
- Doanh nghiệp không còn nắm giữ quyền quản lý hàng hoá như người sở
hữu hàng hoá hoặc quyền kiểm soát hàng hoá.
- Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn.
Phạm Thị Quyên Lớp: KTBK11
20
Khoá luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
- Doanh nghiệp đã thu hoặc sẽ thu được lợi ích kinh tế từ các giao dịch bán
hàng.
- Xác định được các chi phí liên quan đến giao dịch bán hàng.
Doanh nghiệp phải xác định thời điểm chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi
ích gắn liền với quyền sở hữu hàng hóa cho người mua trong từng trường hợp cụ
thể. Trong hầu hết các trường hợp, thời điểm chuyển giao phần lớn rủi ro trùng
với thời điểm chuyển giao lợi ích gắn liền với quyền sở hữu hợp pháp hoặc
quyền kiểm soát hàng hóa cho người mua.
Trường hợp doanh nghiệp vẫn còn chịu phần lớn rủi ro gắn liền với quyền
sở hữu hàng hóa thì giao dịch không được coi là hoạt động bán hàng và doanh
thu không được ghi nhận. Doanh nghiệp còn phải chịu rủi ro gắn liền với quyền
sở hữu hàng hóa dưới nhiều hình thức khác nhau, như:
(-) Doanh nghiệp còn phải chịu trách nhiệm để đảm bảo cho tài sản được
hoạt động bình thường mà việc này không nằm trong các điều khoản bảo hành
thông thường;
(-) Khi việc thanh toán tiền bán hàng còn chưa chắc chắn vì phụ thuộc vào
người mua hàng hóa đó;
(-) Khi hàng hóa được giao còn chờ lắp đặt và việc lắp đặt đó là một phần
quan trọng của hợp đồng mà doanh nghiệp chưa hoàn thành;

(-) Khi người mua có quyền huỷ bỏ việc mua hàng vì một lý do nào đó được
nêu trong hợp đồng mua bán và doanh nghiệp chưa chắc chắn về khả năng hàng
bán có bị trả lại hay không.
Nếu doanh nghiệp chỉ còn phải chịu một phần nhỏ rủi ro gắn liền với
quyền sở hữu hàng hóa thì việc bán hàng được xác định và doanh thu được ghi
nhận. Ví dụ doanh nghiệp còn nắm giữ giấy tờ về quyền sở hữu hàng hóa chỉ để
đảm bảo sẽ nhận được đủ các khoản thanh toán.
Phạm Thị Quyên Lớp: KTBK11
21
Khoá luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
Doanh thu bán hàng được ghi nhận chỉ khi đảm bảo là doanh nghiệp nhận
được lợi ích kinh tế từ giao dịch. Trường hợp lợi ích kinh tế từ giao dịch bán
hàng còn phụ thuộc yếu tố không chắc chắn thì chỉ ghi nhận doanh thu khi yếu tố
không chắc chắn này đã xử lý xong (ví dụ, khi doanh nghiệp không chắc chắn là
Chính phủ nước sở tại có chấp nhận chuyển tiền bán hàng ở nước ngoài về hay
không). Nếu doanh thu đã được ghi nhận trong trường hợp chưa thu được tiền thì
khi xác định khoản tiền nợ phải thu này là không thu được thì phải hạch toán vào
chi phí sản xuất, kinh doanh trong kỳ mà không được ghi giảm doanh thu. Khi
xác định khoản phải thu là không chắc chắn thu được (Nợ phải thu khó đòi) thì
phải lập dự phòng nợ phải thu khó đòi mà không ghi giảm doanh thu. Các khoản
nợ phải thu khó đòi khi xác định thực sự là không đòi được thì được bù đắp bằng
nguồn dự phòng nợ phải thu khó đòi.
Doanh thu và chi phí liên quan tới cùng một giao dịch phải được ghi nhận
đồng thời theo nguyên tắc phù hợp. Các chi phí, bao gồm cả chi phí phát sinh
sau ngày giao hàng (như chi phí bảo hành và chi phí khác), thường được xác
định chắc chắn khi các điều kiện ghi nhận doanh thu được thỏa mãn. Các khoản
tiền nhận trước của khách hàng không được ghi nhận là doanh thu mà được ghi
nhận là một khoản nợ phải trả tại thời điểm nhận tiền trước của khách hàng.
Khoản nợ phải trả về số tiền nhận trước của khách hàng chỉ được ghi nhận là
doanh thu khi đồng thời thỏa mãn năm (5) điều kiện quy định ở đoạn 10.

b. Phương pháp ghi nhận doanh thu
- Doanh thu được xác định theo giá trị hợp lý của các khoản đã thu hoặc
sẽ thu được
- Doanh thu phát sinh từ giao dịch được xác định bởi thỏa thuận giữa
doanh nghiệp với bên mua hoặc bên sử dụng tài sản. Nó được xác định bằng giá
trị hợp lý của các khoản đã thu được hoặc sẽ thu được sau khi trừ (-) các khoản
chiết khấu thương mại, chiết khấu thanh toán, giảm giá hàng bán và giá trị hàng
bán bị trả lại.
Phạm Thị Quyên Lớp: KTBK11
22
Khoá luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
- Đối với các khoản tiền hoặc tương đương tiền không được nhận ngay thì
doanh thu được xác định bằng cách quy đổi giá trị danh nghĩa của các khoản sẽ
thu được trong tương lai về giá trị thực tế tại thời điểm ghi nhận doanh thu theo
tỷ lệ lãi suất hiện hành. Giá trị thực tế tại thời điểm ghi nhận doanh thu có thể
nhỏ hơn giá trị danh nghĩa sẽ thu được trong tương lai.
- Khi hàng hóa hoặc dịch vụ được trao đổi để lấy hàng hóa hoặc dịch vụ
tương tự về bản chất và giá trị thì việc trao đổi đó không được coi là một giao
dịch tạo ra doanh thu.
Khi hàng hóa hoặc dịch vụ được trao đổi để lấy hàng hóa hoặc dịch vụ
khác không tương tự thì việc trao đổi đó được coi là một giao dịch tạo ra doanh
thu. Trường hợp này doanh thu được xác định bằng giá trị hợp lý của hàng hóa
hoặc dịch vụ nhận về, sau khi điều chỉnh các khoản tiền hoặc tương đương tiền
trả thêm hoặc thu thêm. Khi không xác định được giá trị hợp lý của hàng hóa
hoặc dịch vụ nhận về thì doanh thu được xác định bằng giá trị hợp lý của hàng
hóa hoặc dịch vụ đem trao đổi, sau khi điều chỉnh các khoản tiền hoặc tương
đương tiền trả thêm hoặc thu thêm.
1.2.2 Kế toán chi tiết hàng hóa.
Chứng từ kế toán sử dụng hạch toán hàng hoá bao gồm:
• Hoá đơn giá trị gia tăng.

• Hoá đơn bán hàng.
• Phiếu nhập kho, phiếu xuất kho
• Bảng kê hoá đơn bán lẻ hàng hoá dịch vụ.
• Bảng chứng từ khác liên quan đến nghiệp vụ bán hàng.
• Sổ, thẻ kho
Phương pháp kế toán chi tiết hàng hoá
Có 3 phương pháp kế toán chi tiết:
* Phương pháp thẻ song song
Phạm Thị Quyên Lớp: KTBK11
23
Khoá luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
Phương pháp thẻ song song là phương pháp mà tại kho và tại bộ phận kế
toán bán hàng đều cùng sử dụng thẻ để ghi số sản phẩm, hàng hóa.
- Ở kho: Sử dụng thẻ kho để theo dõi từng danh điểm hàng hoá về mặt khối
lượng nhập, xuất, tồn.
- Ở phòng kế toán: Mở thẻ kho hoặc mở sổ chi tiết để theo dõi từng danh
điểm kể cả mặt khối lượng và giá trị nhập, xuất, tồn kho.
Hàng ngày sau khi làm thủ tục nhập, xuất thì thủ kho phải căn cứ vào các
phiếu nhập, xuất để ghi vào thẻ kho của từng danh điểm và tính khối lượng tồn
kho của từng danh điểm.
Hàng ngày hoặc định kỳ thủ kho phải chuyển chứng từ cho kế toán hàng
hoá để ghi vào các thẻ hoặc sổ chi tiết ở phòng kế toán cả về số lượng và giá trị.
Sơ đồ 1.1 : Sơ đồ hạch toán chi tiết theo phương pháp thẻ song song
: Ghi hàng ngày
: Ghi đối chiếu
: Ghi cuối tháng
* Phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển
- Ở kho: thủ kho vẫn giữ thẻ kho để ghi chép tình hình nhập xuất tồn về mặt
khối lượng.
- Ở phòng kế toán: Không dùng sổ chi tiết và thẻ kho mà sử dụng sổ đối

chiếu luân chuyển để ghi chép tình hình nhập xuất tồn từng danh điểm nhưng chỉ
ghi 1 lần cuối tháng.
Phạm Thị Quyên Lớp: KTBK11
Phiếu nhập kho, phiếu xuất
kho
Thẻ kho Thẻ kế toán chi tiết
Số kế toán tổng hợp về hàng
hoá
Bảng tổng hợp nhập,
xuất, tồn
24
Khoá luận tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
Kế toán chi tiết nguyên vật liệu khi nhận các phiếu xuất, nhập kho do thủ
kho gửi lên, phân loại theo từng danh điểm và cuối tháng tổng hợp số liệu của
từng danh điểm để ghi vào sổ đôí chiếu luân chuyển một lần tổng hợp số nhập,
xuất trong tháng cả hai chỉ tiêu lượng và giá trị sau đó tính ra số dư của đầu
tháng sau.
Số cộng của sổ đối chiếu luân chuyển hàng tháng được dùng để đối chiếu
với kế toán tổng hợp nguyên vật liệu.
Còn từng danh điểm trên sổ đối chiếu luân chuyển được đối chiếu với thẻ
kho.
Sơ đồ 1.2: Sơ đồ hạch toán chi tiết theo phương pháp đối chiếu luân chuyển

* Phương pháp sổ số dư.
- Ở kho: Ngoài việc ghi chép thẻ kho giống như hai phương pháp trên,
cuối tháng sau khi tính lượng dư của từng danh điểm còn phải ghi vào sổ số dư.
- Tại phòng kế toán: không phải giữ thêm một loại sổ nào nữa nhưng định
kỳ phải xuống kiểm tra ghi chép của thủ kho và sau đó nhận các chứng từ nhập
xuất kho. Khi nhận chứng từ phải viết giấy nhận chứng từ.
Phạm Thị Quyên Lớp: KTBK11

: Ghi hàng ngày
:Ghi đối chiếu
:Ghi cuối tháng
Phiếu nhập kho
Thẻ kho
Phiếu xuất
kho
Bảng kê nhập vật liệu
Sổ đối chiếu luân chuyển
Bảng kê xuất vật liệu
Bảng
tổng
hợp
nhập
xuất
tồn
Sổ kế
toán
tổng
hợp về
vật tư,
hàng
hoá
25

×