i 
 
 
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN 
 
 
 
Lý Trọng Đại 
 
 
NGHIÊN CỨU CẢNH QUAN CHO MỤC ĐÍCH PHÁT TRIỂN NÔNG, 
LÂM NGHIỆP VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HUYỆN LẮK, 
TỈNH ĐẮK LẮK 
 
 Chuyên ngành: Sử dụng và bảo vệ tài nguyên môi trường 
 Mã số: 60 85 15 
 
 
 
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC ĐỊA LÝ 
 
 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 
 PGS.TSKH. Phạm Hoàng Hải 
 
 
 
Hà Nội - 2012 
 
 
i 
 MỤC LỤC  
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT iv 
DANH MỤC HÌNH v 
DANH MỤC BẢNG vi 
MỞ ĐẦU 1 
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 1 
2. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 2 
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3 
4. CƠ SỞ DỮ LIỆU 4 
5. KẾT QUẢ VÀ Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI 4 
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN 5 
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 6 
1.1. TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ 
TÀI 6 
1.1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu về cảnh quan 6 
1.1.2. Các nghiên cứu về huyện Lắk 10 
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU CẢNH 
QUAN, SỬ DỤNG HỢP LÝ NGUỒN TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN VÀ BẢO VỆ 
MÔI TRƯỜNG 11 
1.2.1. Quan niệm cảnh quan và cảnh quan học 11 
1.2.2. Đánh giá cảnh quan 14 
1.2.3. Vấn đề sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường 19 
1.3. QUAN ĐIỂM NGHIÊN CỨU 24 
1.3.1. Quan điểm tổng hợp 24 
1.3.2. Quan điểm hệ thống 25 
1.3.3. Quan điểm kinh tế sinh thái 26 
1.3.4. Quan điểm phát triển bền vững 26 
ii 
 1.3.5. Quan điểm lịch sử 27 
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 27 
1.4.1. Phương pháp phân tích tổng hợp tài liệu 27 
1.4.2. Phương pháp khảo sát thực địa 28 
1.4.3. Phương pháp bản đồ và hệ thông tin địa lý 28 
1.4.4. Phương pháp phân tích, tiếp cận hệ thống 29 
1.5. QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU 30 
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CÁC YẾU TỐ THÀNH TẠO CẢNH QUAN VÀ SỰ 
PHÂN HÓA CẢNH QUAN KHU VỰC NGHIÊN CỨU 32 
2.1. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ ĐẶC ĐIỂM CÁC YẾU TỐ THÀNH TẠO CẢNH QUAN 32 
2.1.1. Vị trí địa lý 32 
2.1.2. Đặc điểm điều kiện tự nhiên 32 
2.1.3. Đặc điểm kinh tế - xã hội 43 
2.1.4. Các vấn đề môi trường nảy sinh trong quá trình khai thác sử dụng tài nguyên 50 
2.2. ĐẶC ĐIỂM CẢNH QUAN HUYỆN LẮK 52 
2.2.1. Hệ thống phân vị cảnh quan huyện Lắk 52 
2.2.2. Đặc điểm các đơn vị cảnh quan huyện Lắk 57 
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ CẢNH QUAN CHO MỤC ĐÍCH PHÁT TRIỂN NÔNG, 
LÂM NGHIỆP HUYỆN LẮK 60 
3.1. ĐÁNH GIÁ CẢNH QUAN CHO MỤC ĐÍCH PHÁT TRIỂN NÔNG, LÂM 
NGHIỆP HUYỆN LẮK 60 
3.1.1. Nguyên tắc, đối tượng, mục tiêu đánh giá cảnh quan huyện Lắk 60 
3.1.2. Hệ thống tiêu chí và chỉ tiêu đánh giá 61 
3.1.3. Kết quả đánh giá 67 
3.2. ĐỊNH HƯỚNG SỬ DỤNG KHÔNG GIAN LÃNH THỔ HUYỆN LẮK CHO 
PHÁT TRIỂN NÔNG, LÂM NGHIỆP 75 
3.2.1. Quan điểm và cơ sở của việc định hướng sử dụng không gian lãnh thổ huyện 
Lắk cho phát triển nông, lâm nghiệp 75 
3.2.2. Định hướng sử dụng không gian 80 
iii  
3.2.3. Giải pháp phát triển 81 
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 87 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 90 
PHỤ LỤC i 
iv  
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT 
1. FAO : Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (Food and 
Agriculture Organization of the United Nations) 
2. UNESCO: Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (United 
Nations Educational Scientific and Cultural Organization) 
3. QHBVMT: Quy hoạch bảo vệ môi trường 
4. PTBV: Phát triển bền vững 
5. RTR: Rác thải rắn 
6. ONMT: Ô nhiễm môi trường 
v  
DANH MỤC HÌNH  
Hình 1.1. Sơ đồ nội dung đánh giá cảnh quan 18 
Hình 1.2: Sơ đồ quy trình các bước nghiên cứu 31 
Hình 2.1: Bản đồ hành chính huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk 32a 
Hình 2.2: Bản đồ địa chất huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk 33a 
Hình 2.3: Bản đồ địa mạo huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk 34a 
Hình 2.4: Bản đồ thổ nhưỡng huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk 40a 
Hình 2.5: Bản đồ thảm thực vật huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk 41a 
Hình 2.6: Cơ cấu các ngành kinh tế huyện Lắk, năm 2000 và 2010 49 
Hình 2.7: Bản đồ cảnh quan huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk 57a 
Hình 3.1: Bản đồ đánh giá cảnh quan cho mục đích phát triển rừng phòng hộ huyện Lắk, 
tỉnh Đắk Lắk 68a 
Hình 3.2: Bản đồ đánh giá cảnh quan cho mục đích phát triển rừng sản xuất huyện Lắk, 
tỉnh Đắk Lắk 70a 
Hình 3.3: Bản đồ đánh giá cảnh quan cho mục đích phát triển cây hàng năm huyện Lắk, 
tỉnh Đắk Lắk 72a 
Hình 3.4: Bản đồ đánh giá cảnh quan cho mục đích phát triển cây lúa huyện Lắk, tỉnh Đắk 
Lắk 73a 
Hình 3.5: Bản đồ định hướng sử dụng hợp lý không gian lãnh thổ huyện Lắk, tỉnh Đắk 
Lắk 80a 
vi  
DANH MỤC BẢNG  
Bảng 2.1. Hiện trạng dân số huyện Lắk năm 2010 44 
Bảng 2.2. Biến động dân số huyện Lắk giai đoạn 2005-2010 44 
Bảng 2.3. Dân số và lao động huyện Lắk 2005 – 2010 45 
Bảng 2.4. Giá trị sản xuất các ngành kinh tế huyện Lắk giai đoạn 2000 – 2010 47 
Bảng 2.5. Hệ thống phân loại cảnh quan của Phạm Hoàng Hải và nnk (1997) 55 
Bảng 2.6. Hệ thống phân loại cảnh quan huyện Lắk 57 
Bảng 3.1. Chỉ tiêu đánh giá cảnh quan cho mục đích phát triển rừng phòng hộ đầu nguồn 63 
Bảng 3.2. Bảng chỉ tiêu đánh giá cảnh quan cho mục đích phát triển rừng sản xuất 64 
Bảng 3.3. Bảng chỉ tiêu đánh giá cảnh quan cho mục đích phát triển cây trồng hàng năm 65 
Bảng 3.4. Bảng chỉ tiêu đánh giá cảnh quan cho mục đích trồng Lúa 66 
Bảng 3.5. Bảng tổng hợp kết quả đánh giá cho mục đích phát triển rừng phòng hộ (P) 67 
Bảng 3.6. Bảng tổng hợp kết quả đánh giá cho mục đích phát triển rừng sản xuất (S) 70 
Bảng 3.7. Bảng tổng hợp kết quả đánh giá cho mục đích phát triển cây hàng năm (H) 72 
Bảng 3.8. Bảng tổng hợp kết quả đánh giá cho mục đích phát triển cây lúa (L) 73 
Bảng 3.9. Bảng tổng hợp đề xuất hướng sử dụng các dạng cảnh quan 80 
Bảng 3.10. Các tiêu chí bảo vệ môi trường huyện Lắk 85 
1  
MỞ ĐẦU 
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 
Để phát triển kinh tế xã hội của một lãnh thổ lâu dài và bền vững thì vấn đề 
sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và khai thác các 
nguồn lực, sử dụng có hiệu quả là những vấn đề hết sức quan trọng. 
Cảnh quan của một lãnh thổ luôn có những thay đổi và phân hoá phức tạp. 
Các thành phần cấu tạo cảnh quan có tính độc lập tương đối, song giữa chúng có 
mối quan hệ chặt chẽ tạo thành một hệ thống động lực. Hệ thống đó tồn tại trong 
trạng thái cân bằng động, một thành phần nào đó trong hệ thống thay đổi có thể sẽ 
dẫn đến sự thay đổi của các thành phần khác và phá vỡ hệ thống cũ tạo nên một hệ 
thống mới. Nếu khai thác hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên tức là tác động vào 
hệ thống tự nhiên một cách phù hợp với đặc điểm, quy luật phát sinh, phát triển của 
chúng thì sẽ bảo vệ, tái tạo được nguồn tài nguyên thiên nhiên và đảm bảo được sự 
phát triển bền vững của lãnh thổ. Ngược lại, nếu con người khai thác, sử dụng tự 
nhiên không tuân theo những quy luật thì sẽ mang lại những hậu quả lâu dài và 
không lường trước được. Vì thế, việc nghiên cứu để tìm ra những đặc trưng, quy 
luật phát sinh, phát triển của một lãnh thổ tự nhiên là rất quan trọng, giúp cho việc 
sử dụng lãnh thổ một cách hợp lý, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi 
trường, phục vụ phát triển kinh tế-xã hội một cách bền vững. 
Trong những năm gần đây, để giải quyết những vấn đề thực tế mang tính 
tổng hợp cao, hướng nghiên cứu cảnh quan, đánh giá cảnh quan đã trở thành hướng 
nghiên cứu quan trọng, đáp ứng được nhiều vấn đề thực tế đặt ra và là cơ sở khoa 
học của việc lựa chọn các mục tiêu sử dụng thích hợp lãnh thổ. Dựa vào kết quả 
nghiên cứu, đánh giá đặc điểm các thành phần tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên; 
phân tích tính đa dạng của cảnh quan trên cơ sở làm rõ cấu trúc, chức năng và động 
lực phát triển cảnh quan có xem xét đến yếu tố nhân tác là những cơ sở khoa học 
đầy đủ và đáng tin cậy để hoạch định phát triển kinh tế của mỗi một vùng lãnh thổ. 
2 
 Huyện Lắk nằm về phía Đông Nam của Tỉnh Đắk Lắk, cách thành phố Buôn 
Ma Thuột 54 km theo quốc lộ 27, hiện nay vấn đề khai thác, sử dụng có hiệu quả 
các nguồn lực mang tính bền vững lâu dài và đồng bộ trên toàn lãnh thổ Lắk vẫn 
đang là vấn đề cấp bách, cần được quan tâm. 
Trên thực tế ở huyện Lắk các công trình đã được nghiên cứu, ứng dụng vào 
phát triển kinh tế xã hội chỉ dừng lại ở mức độ phục vụ cho từng mục tiêu cụ thể, 
chưa có công trình nghiên cứu, đánh giá một cách tổng hợp về điều kiện tự nhiên, 
tài nguyên thiên nhiên trên toàn huyện. Để có một cách nhìn nhận tổng thể và hoàn 
thiện hơn về đặc điểm tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên huyện Lắk, nhằm xây 
dựng những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác quy hoạch phát triển kinh tế xã 
hội bền vững lâu dài, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực tự nhiên và tài 
nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường trên toàn lãnh thổ thì có thể thấy rằng vấn đề 
nghiên cứu, đánh giá cảnh quan huyện Lắk là vấn đề hết sức cần thiết. 
Xuất phát từ những nhìn nhận trên tác giả đã lựa chọn đề tài: “Nghiên cu 
cnh quan cho m   n nông, lâm nghip và bo v  ng 
huyn Lk, tLk” để thực hiện nghiên cứu. 
2. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 
 a. Mc tiêu 
 Xác lập được những luận cứ khoa học trên cơ sở phân tích, đánh giá cảnh 
quan phục vụ cho việc phát triển nông, lâm nghiệp nhằm sử dụng hợp lý nguồn tài 
nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường huyện Lắk 
 b. Nhim v 
 Để đạt được mục tiêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là: 
1. Nghiên cứu những vấn đề lý luận của cảnh quan học, cảnh quan ứng dụng, 
đánh giá cảnh quan và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, những cơ sở lý 
luận về phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường và việc vận dụng vào nghiên 
cứu cảnh quan huyện Lắk. 
3  
2. Phân tích đặc điểm và vai trò của các yếu tố thành tạo cảnh quan trên lãnh 
thổ huyện Lắk để thấy được đặc điểm phân hóa, các quy luật tự nhiên và mối quan 
hệ của các thành phần tự nhiên trong tổng thể tự nhiên, cũng như mối quan hệ giữa 
tự nhiên và kinh tế xã hội. 
3. Xây dựng hệ thống phân loại cảnh quan và thành lập Bản đồ cảnh quan 
huyện Lắk. Phân tích tính đa dạng trong cấu trúc, chức năng và động lực cảnh quan 
huyện Lắk. 
4. Thực hiện đánh giá cảnh quan, xác định mức độ thích nghi của các đơn vị 
cảnh quan đối với mục đích phát triển các ngành kinh tế nông, lâm nghiệp Lắk. 
5. Xây dựng các cơ sở, nguyên tắc, phương pháp ứng dụng kết quả nghiên 
cứu cảnh quan trong việc sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ 
môi trường. Nghiên cứu đề xuất một số định hướng và các giải pháp phát triển kinh 
tế xã hội nhằm sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường 
huyện Lắk, tỉnh Đăk Lắk. 
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 
 a. Phm vi lành th: Giới hạn trong phạm vi huyện Lắk, tỉnh Đăk Lắk. 
Huyện có 1 thị trấn và 10 xã, tổng diện tích tự nhiên 1.256 km
2
, dân số năm 2010 là 
60.754 người. 
 b. Phm vi khoa hc: 
- Nghiên cứu lý luận và phương pháp luận nghiên cứu cảnh quan, phân tích 
vai trò của các nhân tố thành tạo Cảnh quan huyện Lắk. Đây là những cơ sở lý luận 
và thực tiễn để tác giả xây dựng hệ thống phân loại và bản đồ cảnh quan của huyện 
Lắk. 
- Phân tích đa dạng cấu trúc, chức năng và động lực của cảnh quan, tìm ra 
những đặc trưng của từng đơn vị cảnh quan, quy luật phân hoá của cảnh quan trên 
toàn lãnh thổ nghiên cứu. 
4  
- Trên cơ sở hệ thống các đơn vị cảnh quan đã được phân chia, tiến hành 
đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên đối với các mục đích 
phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp huyện Lắk. Đồng thời căn cứ thực tiễn phát triển 
kinh tế - xã hội và định hướng phát triển kinh tế huyện Lắk trong thời gian tới đề tài 
nghiên cứu đề xuất các giải pháp phát triển kinh tế trên lãnh thổ nghiên cứu nhằm 
sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường huyện Lắk. 
4. CƠ SỞ DỮ LIỆU 
 - Bản đồ địa hình khu vực nghiên cứu tỉ lệ 1:25000. 
 - Các tài liệu, công trình nghiên cứu mang tính lý luận và thực tiễn có liên 
quan đến đề tài. 
 - Số liệu thống kê về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và môi trường của 
huyện Lắk. 
 - Kết quả khảo sát thực địa và điều tra xã hội học. 
5. KẾT QUẢ VÀ Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI 
 a. Kt qu 
 - Phân tích đặc điểm các yếu tố thành tạo cảnh quan và xây dựng được bản 
đồ cảnh quan lãnh thổ nghiên cứu ở tỷ lệ 1:50000. 
 - Xác định mức độ thích nghi của các đơn vị cảnh quan đối với mục đích 
phát triển các ngành kinh tế nông, lâm nghiệp huyện Lắk. 
 - Định hướng tổ chức không gian khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên 
nhiên huyện Lắk. 
  
 - Ý nghĩa khoa học: Kết quả nghiên cứu của đề tài thể hiện sự vận dụng lý 
thuyết cảnh quan kết hợp với đánh giá các đơn vị cảnh quan phục vụ cho việc định 
hướng quy hoạch bảo vệ môi trường huyện Lắk. 
5  
 - Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu tham khảo cho 
việc hoạch định tổ chức không gian khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên 
và bảo vệ môi trường huyện Lắk. 
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN 
 Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm những nội dung chính sau: 
Chương 1: Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 
Chương 2: Đặc điểm các yếu tố thành tạo cảnh quan và sự phân hóa cảnh quan 
huyện Lắk. 
Chương 3: Đánh giá cảnh quan cho mục đích phát triển nông, lâm nghiệp huyện 
Lắk 
6  
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
1.1. TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN 
ĐỀ TÀI 
1.1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu về cảnh quan 
 a) Trên th gii 
 Đối với lĩnh vực nghiên cứu cảnh quan và phân tích, đánh giá cảnh quan để 
phục vụ cho mục đích phát triển kinh tế - xã hội thì từ trước đến nay đã có rất nhiều 
công trình của các tác giả thuộc nhiều trường phái khác nhau. Trước hết phải kể đến 
những công trình của các nhà cảnh quan học Nga và một số nước thuộc Liên Xô 
trước đây. Học thuyết về cảnh quan được sáng lập ra bởi nhà bác học Nga L.S. Berg 
với tiền đề là học thuyết của V.V. Dokutsaev về địa tổng thể và các đới thiên nhiên. 
Năm 1913, L.S. Berg đã đưa khái niệm cảnh quan vào trong địa lí học và ông cho 
rằng chính cảnh quan là đối tượng nghiên cứu của địa lí học. Đến năm 1931, L.S. 
Berg công bố tác phẩm “Các đới cảnh quan địa lí Liên Xô” (tập 1) - công trình nổi 
tiếng là cơ sở để hoàn thiện lí luận cảnh quan. Năm 1963, Annhenxkaia và nnk đã 
trình bày rõ cách phân chia các đơn vị cảnh quan trong tuyển tập “Cảnh quan học”. 
Năm 1967, F.N. Milkov đề cập đến các tổng thể thiên nhiên trên trái đất với tên gọi 
là các “tổng thể cộng sinh” mà sau đó D.L. Armand gọi là “địa hệ” trong công trình 
“Khoa học về cảnh quan” (1975). “Khoa học về cảnh quan” là một loạt tiểu luận về 
các đề tài lí thuyết và phương pháp được sắp xếp theo một trình tự lôgic rõ ràng. 
 Một nhà cảnh quan tiêu biểu khác của Nga là A.G. Ixatxenko với nhiều công 
trình có giá trị. Năm 1961, ông đã hoàn thành công trình “Bản đồ cảnh quan Liên 
Xô, tỉ lệ 1 : 4.000.000 và vấn đề phương pháp nghiên cứu cảnh quan”. Năm 1969, 
ông cho ra đời tác phẩm “Cơ sở cảnh quan học và phân vùng địa lí tự nhiên”, trong 
đó ông đã trình bày những cơ sở lí thuyết và các nguyên tắc cơ bản trong phân vùng 
địa lí tự nhiên, 5 năm sau (1974), ông cùng với A.A. Shliapnikov công bố công 
trình “Về những nội dung của bản đồ cảnh quan địa lí”. Năm 1976, ông tiếp tục 
7  
xuất bản cuốn “Cảnh quan học ứng dụng” - công trình thể hiện tầm nhìn và khả 
năng nắm bắt thực tiễn rất nhạy bén của ông khi đưa quan điểm ứng dụng vào cảnh 
quan học. Những năm sau, một loạt các công trình về cảnh quan ứng dụng cũng 
được hoàn thành như: “Nghiên cứu đánh giá cảnh quan cho các sơ đồ quy hoạch 
vùng” (E.M. Rakovskaia, I.R. Dorphman - 1980); “Phương pháp đánh giá cảnh 
quan sinh thái nhằm mục đích phát triển tối ưu lãnh thổ” (M. Ruzichka, M. Miklas - 
1980). 
 Nghiên cứu mối quan hệ giữa cảnh quan học với các ngành khoa học khác 
cũng có nhiều đại diện xuất sắc. Trước hết phải kể đến B.B. Polưnov - người sáng 
lập môn địa hóa học cảnh quan vào thập niên 40 của thế kỉ XX tại Liên Xô, mà sau 
đó, công trình cùng tên “Địa hoá học cảnh quan” cũng được công bố bởi A.I. 
Perelman. Trong cuốn sách này, A.I. Perelman đã thể hiện một phương pháp nghiên 
cứu mới - nghiên cứu cảnh quan trên quan điểm địa hóa. Sau đó, tiếp tục có thêm 
một hướng nghiên cứu cảnh quan khác trên quan điểm địa vật lí được biết đến qua 
công trình “Địa vật lí cảnh quan” do tập thể các nhà khoa học thuộc Viện Hàn lâm 
Khoa học Liên Xô công bố, do I.P. Geraximov làm chủ biên. 
 Tiếp sau các tác giả của Nga và Liên Xô là một số tác giả theo trường phái 
cảnh quan của Anh, Mĩ, Pháp, Đức với một vài khác biệt trong hướng nghiên cứu. 
Trong đó đáng chú ý có hướng nghiên cứu địa sinh thái cảnh quan. Đây là sự kết 
hợp lí thuyết địa sinh thái với cảnh quan học mà vào năm 1973, Gunter Haase và 
Raft Schmid - hai nhà cảnh quan học của Đức đã sử dụng để nghiên cứu cảnh quan 
và thành lập bản đồ nông nghiệp ở Cộng hoà dân chủ Đức (cũ). Tuy vậy, hướng 
nghiên cứu này xuất hiện trước tiên ở Pháp với đại diện tiêu biểu là G. Bertran qua 
công trình “Phong cảnh địa lí tự nhiên toàn cầu” (1968). Theo Bertran, địa lí học 
tiến triển theo hướng sinh quần học, còn phong cảnh là một bộ phận sinh thái có thể 
nhận thấy được của cảnh quan. Chính vì thế mà ở Pháp, thuật ngữ “phong cảnh” 
được sử dụng thay cho thuật ngữ “cảnh quan”. 
 b)  Vit Nam 
8  
 Quá trình nghiên cứu cảnh quan của nước ta tuy mới chỉ diễn ra trong hơn 
nửa thập kỉ gần đây nhưng cũng đã có các tác giả để lại nhiều công trình giá trị. Đi 
tiên phong trong lĩnh vực này là Nguyễn Đức Chính và Vũ Tự Lập. Năm 1963, các 
ông công bố tác phẩm “Địa lí tự nhiên Việt Nam”, trong đó trình bày rõ về các 
nguyên tắc cơ bản của phân vùng cảnh quan và áp dụng cho lãnh thổ Việt Nam. 
Cũng trong năm đó, đã có nhiều bài báo nghiên cứu về vấn đề phân vùng địa lí tự 
nhiên, ví dụ như: “Cơ sở lí luận của phân vùng địa lí tự nhiên” (Nguyễn Đức Chính, 
V.G. Zavrie); “Về vấn đề xác định nội dung các danh từ dùng để chỉ các đơn vị 
phân vị cơ bản trong phân vùng địa lí tự nhiên tổng hợp tỉ lệ khác nhau” (V.G. 
Zavrie, Nguyễn Đức Chính, Vũ Tự Lập); “Phương pháp luận và phương pháp phân 
vùng địa lí tổng hợp tỉ lệ trung bình (V.G. Zavrie, Nguyễn Đức Chính, Nguyễn Văn 
Nhưng). Đến năm 1976, Vũ Tự Lập với sự giúp đỡ của E.M. Murzaev và V.G. 
Zavriev đã hoàn thành công trình “Cảnh quan địa lí miền Bắc Việt Nam” - được 
xem là một công trình tổng hợp hết sức công phu có giá trị học thuật lớn lao đối với 
khoa học địa lí Việt Nam hiện đại. 
 Ngoài ra, công tác phân vùng còn được tiến hành bởi Tổ phân vùng địa lí tự 
nhiên thuộc Uỷ ban Khoa học và kĩ thuật Nhà nước, với tác phẩm “Phân vùng địa lí 
tự nhiên lãnh thổ Việt Nam” (1970). Đến 1998, Nguyễn Văn Nhưng và Nguyễn 
Văn Vinh công bố cuốn “Phân vùng địa lí tự nhiên đất liền, đảo - biển Việt Nam và 
lân cận”. Mặc dù có khá nhiều quan điểm phân vùng khác nhau nhưng các tài liệu 
này đã cung cấp cơ sở lí luận và thực tiễn cho việc nghiên cứu địa lí tự nhiên tổng 
hợp của các thế hệ sau được tiến hành thuận lợi hơn. 
 Đối với hướng nghiên cứu địa hóa và sinh thái cảnh quan thì ở Việt Nam, tuy 
ra đời muộn hơn các nước phương Tây nhưng đã đạt được những thành tựu đáng 
kể, tiêu biểu là Nguyễn Văn Vinh. Năm 1983, ông có bài “Những yếu tố chính cấu 
thành cảnh quan địa hóa Việt Nam” - chứng tỏ sự có mặt của hướng nghiên cứu địa 
hóa trong cảnh quan tại Việt Nam. Tiếp đó, tại Hội thảo về cảnh quan sinh thái 
(Hà Nội - 1992), ông và Nguyễn Thành Long đánh dấu sự mở đầu hướng nghiên 
cứu sinh thái trong cảnh quan học Việt Nam với bài “Tiếp cận sinh thái trong 
9  
nghiên cứu cảnh quan”. Năm 1994, ông và Huỳnh Nhung hoàn thành “Quan niệm 
về cảnh quan, hệ sinh thái, sự phát triển của cảnh quan học và sinh thái học cảnh 
quan” - làm rõ hơn mối quan hệ giữa cảnh quan và sinh thái học. Cũng năm này, 
ông và Nguyễn Văn Nhưng báo cáo về “Chu trình vật chất, trao đổi năng lượng 
trong một số cảnh quan Việt Nam” - cho thấy quan điểm sinh thái được vận dụng 
linh hoạt hơn trong nghiên cứu cảnh quan Việt Nam. 
 Ngoài các hướng nghiên cứu truyền thống, Việt Nam cũng tiếp cận rất nhanh 
các hướng nghiên cứu cảnh quan có ứng dụng thành tựu của công nghệ thông tin. 
Có thể kể đến là Nguyễn Thành Long với công trình “Nghiên cứu cảnh quan Tây 
Nguyên trên cơ sở ảnh vệ tinh Landsat” (1987); Phạm Hoàng Hải và nnk với công 
trình “Xây dựng bản đồ cảnh quan sinh thái tỉnh Thanh Hoá tỉ lệ 1 : 200.000 trên cơ 
sở sử dụng các tư liệu viễn thám” (1990); Nguyễn Văn Vinh và Nguyễn Cẩm Vân 
với “Thành lập bản đồ cảnh quan đồng bằng Nam Bộ tỉ lệ 1 : 250.000 bằng tư liệu 
viễn thám” (1992). 
 Một trong những hướng nghiên cứu được tiến hành rất mạnh thời gian gần 
đây là hướng nghiên cứu, đánh giá cảnh quan phục vụ mục đích phát triển bền vững 
lãnh thổ, mà tiêu biểu là các công trình của Phạm Hoàng Hải. Năm 1988, ông hoàn 
thành công trình “Vấn đề lí luận và phương pháp đánh giá tổng hợp tự nhiên cho 
mục đích sử dụng lãnh thổ - ví dụ vùng Đông Nam Bộ”. Kế đến vào năm 1990, 
trong Chương trình 48B, ông cùng Nguyễn Trọng Tiến và nnk đã tiến hành “Đánh 
giá tổng hợp điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên dải ven biển Việt Nam 
cho phát triển sản xuất nông - lâm”. Năm 1993, ông cùng Nguyễn Thượng Hùng 
thực hiện “Đánh giá tổng hợp cho mục đích sử dụng và khai thác hợp lí tài nguyên 
Tây Nguyên”. Vào 1997, Nhà xuất bản Giáo dục đã công bố “Cơ sở cảnh quan học 
của việc sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường lãnh thổ Việt 
Nam” của ông cùng Nguyễn Thượng Hùng và Nguyễn Ngọc Khánh - công trình 
được đánh giá cao bởi những miêu tả chi tiết các quy luật và đặc trưng của các cảnh 
quan nhiệt đới gió mùa Việt Nam trên cơ sở một hệ thống phân loại tương đối thống 
nhất cho toàn lãnh thổ và theo các miền, các vùng cảnh quan riêng biệt; đồng thời 
10  
công trình cũng đề cập một cách khá đầy đủ, sâu sắc những biến đổi của tự nhiên 
nói chung và cảnh quan nói riêng dưới tác động của con người, từ đó đưa ra các giải 
pháp, các hướng tiếp cận khoa học tin cậy nhằm sử dụng hợp lí tài nguyên, bảo vệ 
môi trường. Trong giai đoạn này còn có rất nhiều công trình nghiên cứu của các nhà 
khoa học, các nhà nghiên cứu cảnh quan như Nguyễn Cao Huần, Phạm Quang Anh, 
Trương Quang Hải, Phạm Quang Tuấn, Trần Anh Tuấn và những người khác. 
 Ngoài ra, còn có thể kể đến một số công trình khác được thực hiện ở các 
vùng, miền của đất nước và có những đóng góp nhất định vào sự phát triển chung 
của cảnh quan học như: Đoàn Ngọc Nam với “Các thể tổng hợp địa lí tự nhiên trong 
cấu trúc cảnh quan ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh và hướng cải tạo chúng, 
phục vụ phát triển nông nghiệp” (1991); Nguyễn Thế Thôn với “Tổng luận phân 
tích nghiên cứu và đánh giá cảnh quan cho việc quy hoạch và phát triển kinh tế” 
(1993) và “Tổng luận phân tích những vấn đề cảnh quan sinh thái ứng dụng trong 
quy hoạch và quản lí môi trường” (1995); Trần Văn Thành với “Phân vùng địa sinh 
thái đất ngập nước Đồng Tháp Mười” (1993). 
 Đó là chưa nói đến một loạt các bản đồ cảnh quan và đánh giá cảnh quan đã 
được các nhà cảnh quan học và các nhà địa lí tổng hợp xây dựng nên trong hơn 30 
năm qua, giúp cho lĩnh vực nghiên cứu cảnh quan của nước ta ngày càng có những 
bước phát triển mạnh mẽ và vững chắc. 
1.1.2. Các nghiên cứu về huyện Lắk 
 Cho đến nay các nghiên cứu về huyện Lắk đã và đang tập trung theo hướng 
nghiên cứu về tài nguyên thiên nhiên và phát kinh tế xã hội: Đã có một số công 
trình nghiên cứu về đất đai và tình hình kinh tế xã hội như “Nghiên cứu hiện trạng 
sử dụng đất” của phòng tài nguyên môi trường huyện Lắk, các báo cáo thường niên 
của huyện, một số đề tài nghiên cứu nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế nông thôn 
như “Nghiên cứu phát triển kinh tế nông thôn gắn với du lịch ở huyện Lắk, Phạm 
Văn Xuân 2008; “Phân cấp năng suất rừng trồng keo lai tại huyện Lắk, tỉnh Đắk 
Lắk”, Thạc sĩ Hoàng Đình Quang; “Nghiên cứu chuyển đổi một số vườn tạp kém 
11  
hiệu quả của người dân tộc M’Nông sang trồng cỏ nuôi bò tại huyện Lắk, tỉnh Đắk 
Lắk”, Ks.Tôn Thất Dạ Vũ; “Điều tra thực trạng phát triển cây Ca Cao tại huyện 
Lắk, tỉnh Đắk Lắk”; “Nghiên cứu tình hình canh tác và tiêu thụ lúa của nông hộ tại 
xã yang tao, huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk”, Nguyễn Thành Trung 2012; “Tìm hiểu tình 
hình sử dụng và gây trồng lâm sản trên đất canh tác của người dân xã Đắk Liêng, 
huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk”, Trần Hà Kim Anh 2012; Bên cạnh đó cũng đã có những 
nghiên cứu về môi trường trong khu vực huyện như “Đề tài Khảo sát hóa chất bảo 
vệ thực vật huyện Lắk”; Trần Minh Hùng 2010. 
 Nhìn chung, các nghiên cứu trên đây về huyện Lắk đều chưa thể hiện được 
nguồn lực tổng hợp về tài nguyên thiên nhiên cũng như mối quan hệ giữa các hoạt 
động sử dụng tài nguyên đối với các vấn đề môi trường nảy sinh trong khu vực, 
chính vì vậy trong thời gian tới cần phải có những điều tra và nghiên cứu sâu hơn về 
khu vực. 
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU 
CẢNH QUAN, SỬ DỤNG HỢP LÝ NGUỒN TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN VÀ 
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 
1.2.1. Quan niệm cảnh quan và cảnh quan học 
 Về mặt phương pháp luận nghiên cứu, học thuyết cảnh quan được xây dựng 
bắt đầu từ thế kỷ XIX, tuân thủ các giai đoạn phát triển từ phân tích bộ phận, rồi 
đến tổng hợp; phân tích các bậc cao hơn, tổng hợp ở bậc cao hơn và ngày càng đi 
sâu vào bản chất của các sự vật, hiện tượng trong lớp vỏ cảnh quan. Sau chiến tranh 
thế giới lần thứ 2, cảnh quan học xác định rõ nhiệm vụ của mình là học thuyết các 
quy luật phân hóa lãnh thổ của lớp vỏ địa lý, cảnh quan là đơn vị cơ sở của hệ thống 
phân vùng và có thể nhóm cảnh quan vào bậc liên kết cao hơn. Chuyển sang giai 
đoạn nghiên cứu sâu cấu trúc không gian của cảnh quan, xem cảnh quan là những 
hệ thống có cấu trúc không gian phức tạp, là một hệ thống động lực hở và là hệ 
thống có tính chất phân bậc lôgíc, khẳng định cảnh quan học đã tiến thêm một bước 
mới. 
12  
 Trong quá trình phát triển, khái niệm “cảnh quan” dần dần được hoàn chỉnh, 
mỗi khái niệm đánh dấu một bước phát triển của khoa học cảnh quan trên thế giới. 
 Lần đầu tiên L.S. Berge (1913) đã đưa ra khái niệm coi cảnh quan như là một 
miền, trong đó địa hình, khí hậu, nước, đất, lớp phủ sinh vật cũng như hoạt động 
của con người được gắn kết thành một thể thống nhất, hài hòa, lặp lại một cách điển 
hình trong một đới nhất định nào đó của trái đất. Quan điểm giải thích cảnh quan 
của ông được các nhà địa lý Xô Viết như: L.G.Ramenxki, X.V.Kalexnik, 
N.A.Xontxep, A.A.Grigôriep cùng nhiều nhà địa lý khác ủng hộ và phát triển [14, 
25]. 
 Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, khoa học về CQ mới xác định rõ nhiệm vụ 
và thực sự phát triển rộng rãi, hoàn thiện dần về cả lý thuyết, phương pháp luận, 
phương pháp nghiên cứu. 
 Năm 1948, N.A.Xolsev đã phát triển trên cơ sở quan niệm của L.S.Berge, 
ông đưa ra định nghĩa xác định: Cảnh quan là một lãnh thổ đồng nhất về mặt phát 
sinh, các thành phần địa chất, địa hình, khí hậu, đất và động thực vật có sự lặp lại 
một cách điển hình và có quy luật. Năm 1962, ông đã đưa ra định nghĩa cụ thể và rõ 
ràng hơn về CQ. Quan niệm này cho rằng CQ là một đơn vị cơ bản trong phân vùng 
địa lý tự nhiên “…là một thể tổng hợp lãnh thổ tự nhiên đồng nhất về mặt phát sinh, 
có một nền địa chất đồng nhất, có một kiểu địa hình, một kiểu khí hậu đồng nhất và 
bao gồm một tập hợp các dạng địa lý chủ yếu và thứ yếu có liên kết với nhau về mặt 
động lực, lặp lại một cách có quy luật trong không gian, tập hợp này chỉ thuộc riêng 
cho cảnh quan đó mà thôi”. Với định nghĩa này, N.A.Xolsev đã xác định được cấu 
trúc thẳng đứng và cấu trúc ngang của cảnh quan [14, 25]. 
 Năm 1965, A.G.Ixatsenko đã bổ sung định nghĩa trên, ông cho rằng: Cảnh 
quan là một bộ phận được tách ra từ một miền, một đới địa lý và nói chung là của 
một đơn vị lãnh thổ bất kỳ nào đó lớn hơn, nó có đặc điểm là đồng nhất về cả tương 
quan địa đới và phi địa đới, có một cấu trúc riêng và một cấu tạo hình thái riêng. 
Cũng trên quan điểm đó năm 1991 ông đưa ra định nghĩa gắn gọn hơn cho rằng: 
13  
“Cảnh quan là một địa hệ thống nhất về mặt phát sinh, đồng nhất về các dấu hiệu 
địa đới và phi địa đới, bao gồm một tập hợp đặc trưng các địa hệ liên kết bậc thấp”. 
 Ở Việt Nam, khi nghiên cứu CQ địa lý miền Bắc Việt Nam, GS.Vũ Tự Lập 
đã đưa ra định nghĩa: “Cảnh quan địa lý là một địa tổng thể, được phân hóa trong 
phạm vi một đới ngang ở đồng bằng và một đai cao ở miền núi, có một cấu trúc 
thẳng đứng đồng nhất về nền địa chất, kiểu địa hình, kiểu khí hậu, kiểu thủy văn, về 
đại tổ hợp thổ nhưỡng và đại tổ hợp thực vật, bao gồm một tập hợp có quy luật của 
các dạng địa lý và những đơn vị cấu tạo khác theo một cấu trúc ngang đồng nhất” 
[31]. 
 Như vậy, CQ được hiểu và áp dụng khác nhau phụ thuộc vào quan điểm của 
người nghiên cứu. Thuật ngữ này có thể hiểu theo một trong các nội dung sau: 
 1. Cảnh quan được coi là một thể tổng hợp lãnh thổ tự nhiên ở bất kỳ một 
cấp phân chia nào, đó là quan niệm chung. 
 2. Cảnh quan là một đơn vị phân loại trong hệ phân vị lãnh thổ tự nhiên, 
trong đó cảnh quan là đơn vị chủ yếu được xem xét đến những biến đổi do tác động 
của con người. Quan niệm cảnh quan là đơn vị mang tính kiểu loại. 
 3. Cảnh quan là những cá thể địa lý, là một phần nào đó riêng biệt của lớp vỏ 
địa lý, trong đó có những đặc tính chung nhất. 
 Trong đó quan niệm kiểu loại và quan niệm cá thể được nhiều nhà nghiên 
cứu cảnh quan sử dụng, phổ biến là quan niệm kiểu loại. Trong quan niệm này cảnh 
quan được coi là đơn vị cơ sở, là một cấp phân vị, đơn vị phân loại thể hiện rõ nét 
nhất cả hai quy luật địa đới và phi địa đới, đồng thời là địa hệ tự nhiên cấp cơ sở có 
cấu trúc hình thái riêng. Trong NCCQ có nhiều hướng khác nhau, cần phải hiểu 
cảnh quan theo đúng bản chất của nó, không thể hiểu theo tên gọi vì chưa có một 
định nghĩa cảnh quan thống nhất [14]. 
 Trong quá trình nghiên cứu cảnh quan lãnh thổ huyện Lắk, tác giả đã quan 
niệm cảnh quan vừa là một thể tổng hợp tự nhiên, vừa là đơn vị mang tính kiểu loại, 
14  
là một đơn vị nằm trong hệ thống phân loại chung của cảnh quan lãnh thổ Việt Nam 
và đồng thời là một bộ phận cảnh quan lãnh thổ Việt Nam. Cảnh quan huyện Lắk là 
một thể tổng hợp tự nhiên phức tạp vừa có tính đồng nhất vừa bất đồng nhất bao 
gồm một hệ thống các yếu tố thành phần cấu tạo nên (địa chất, địa hình, khí hậu, 
đất, nước, sinh vật) và giữa chúng có mối liên hệ phụ thuộc tác động lẫn nhau, đồng 
thời có sự phân hoá phức tạp từ cấp cao đến thấp theo hệ thống phân loại nhất định 
tạo nên tính đa dạng trong cấu trúc, chức năng và động lực cảnh quan huyện Lắk. 
Chính vì vậy khi nghiên cứu cảnh quan huyện Lắk cần lựa chọn phương pháp và 
quan điểm nghiên cứu phù hợp. 
1.2.2. Đánh giá cảnh quan 
 Đánh giá Cảnh quan là một khâu quan trọng trong nghiên cứu địa lý ứng 
dụng nhằm mục đích phục vụ sử dụng hợp lý lãnh thổ, tức là giúp các nhà quản lý 
hoạch định, tổ chức sản xuất phù hợp với chức năng của từng cảnh quan và đảm bảo 
phát triển bền vững lãnh thổ. 
 Bản chất của công tác đánh giá cảnh quan là xác định mức độ thuận lợi của 
cảnh quan cho các mục đích sử dụng khác nhau. Mỗi loại hình sử dụng có một yêu 
cầu nhất định đối với cảnh quan, đánh giá cảnh quan được thực hiện trên cơ sở đối 
chiếu, so sánh mức độ thuận lợi của cảnh quan đối với từng loại hình sử dụng. Thực 
chất là đánh giá tổng hợp các tổng thể tự nhiên cho mục đích cụ thể nào đó như: 
nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, du lịch, công nghiệp, xây dựng 
 Đánh giá cảnh quan cũng như nhiều lĩnh vực khoa học khác phát triển từ đơn 
giản đến phức tạp, từ đánh giá thành phần đến đánh giá tổng hợp. Phương pháp 
đánh giá cảnh quan thực chất đã được xem xét từ những năm 70 của thế kỷ XX ở 
những khía cạnh khác nhau như: thích nghi sinh thái (mức độ thuận lợi), hiệu quả 
kinh tế, ảnh hưởng của môi trường và ảnh hưởng của xã hội; Năm 1973 Mukhina đã 
đưa ra phương pháp và nguyên tắc đánh giá kỹ thuật các tổng hợp thể tự nhiên. 
Trong vài thập kỷ gần đây để đáp ứng với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội các vùng 
lãnh thổ, công tác đánh giá tổng hợp ĐKTN, TNTN cho các mục đích cụ thể ngày 
15  
càng phổ biến và đạt được nhiều kết quả to lớn. Trước hết phải kể đến các công 
trình nghiên cứu của các nhà địa lý tổng hợp tham gia vào quy hoạch các cùng lãnh 
thổ Liên Xô (cũ) như Cộng hoà Ucraina, Liên bang Nga, các nước Tây Âu, Bắc 
Mỹ. Các công trình có ý nghĩa thực tiễn lớn và đồng thời đã xây dựng phương pháp 
luận, nguyên tắc, phương pháp đánh giá cảnh quan thiết lập nên một khoa học độc 
lập có đối tượng, chức năng và nhiệm vụ nghiên cứu riêng đó là Đánh giá tổng hợp 
ĐKTN và TNTN cho các mục đích thực tiễn [12, 13]. 
 Phương pháp đánh giá mức độ thuận lợi hay còn gọi là đánh giá tiềm năng 
sản xuất các địa tổng thể của Mukhina (1973) là phương pháp đánh giá truyền 
thống, đặc trưng của địa lý tự nhiên ứng dụng. Hiện nay ngoài các phương pháp 
đánh giá cảnh quan truyền thống còn có các phương pháp hỗ trợ như: Phương pháp 
đánh giá đất của FAO (1976, 1981), đánh giá đất tự động (sử dụng phần mềm 
ALES), hệ thống thông tin địa lý (Công nghệ GIS), phân tích các nhân tố…[22, 
36,37]. 
 Ở nước ta từ những năm 80, 90 trở lại đây các công trình nghiên cứu cảnh 
quan cũng đã tập trung vào những vấn đề đánh giá tổng hợp tiềm năng tự nhiên, 
TNTN ở các vùng và các địa phương nhằm mục đích tìm ra các giải pháp để sử 
dụng hợp lý nguồn TNTN và bảo vệ môi trường phục vụ phát triển kinh tế - xã hội 
bền vững. Có thể kể đến các công trình đánh giá đất FAO (1993), Trần An Phong 
(1993), Nguyễn Đình Kỳ, Nguyễn Anh Hoành (2004) ; Các công trình nghiên cứu 
về phương pháp luận và đánh giá tổng hợp ĐKTN, TNTN của các nhà khoa học : 
Phạm Hoàng Hải, Nguyễn Thượng Hùng, Nguyễn Ngọc Khánh (1997) ; Nguyễn 
Thị Kim Chương (2001), Nguyễn Viết Thịnh (2002), Lại Vĩnh Cẩm, Trần Xuân Ý, 
Nguyễn Xuân Độ (2003) ; Nguyễn Cao Huần, Nguyễn An Thịnh, Phạm Quang 
Tuấn (2004), Trương Quang Hải (2004) và rất nhiều luận án, luận văn đã thực hiện 
nghiên cứu, đánh giá cảnh quan ở từng lãnh thổ cụ thể [12, 15, 19, 22]. 
 Trên cơ sở kết quả của phân tích cảnh quan, hệ thống phân loại và bản đồ 
cảnh quan, quá trình đánh giá tổng hợp gồm lý thuyết đánh giá chung và các thủ 
16  
pháp tiến hành. Trong phần lý luận chung làm cơ sở để thực hiện đánh giá phải xác 
định rõ mục đích, đối tượng, nội dung và lựa chọn phương pháp đánh giá phù hợp, 
chỉ tiêu đầy đủ, hợp lý. Việc xác định đối tượng, mục đích đánh giá là hết sức quan 
trọng và phức tạp nó quyết định đến mức độ khái quát hoặc chi tiết của công tác 
đánh giá, tỷ lệ bản đồ, hệ thống các cấp phân loại cảnh quan. Ngược lại việc lựa 
chọn phương pháp đánh giá phù hợp, chỉ tiêu đầy đủ, hợp lý thì sẽ cho kết quả đánh 
giá chính xác và có ý nghĩa thực tiễn cao hơn. 
 Đối tượng đánh giá là tính đặc thù của các điều kiện tự nhiên và tài nguyên 
thiên nhiên, các đặc điểm về cấu trúc, chức năng của các đơn vị tự nhiên, các quá 
trình, hiện tượng tự nhiên trong mối quan hệ tổng hoà, tác động qua lại lẫn nhau 
giữa hệ thống tự nhiên và hệ thống kinh tế xã hội. Như vậy, đối tượng đánh giá 
không phải là một hợp phần tự nhiên, một cá thể, một thể tổng hợp tự nhiên riêng lẻ 
mà là một hệ thống tự nhiên gồm nhiều yếu tố thành phần và giữa chúng có mối 
quan hệ, tác động tương hỗ lẫn nhau. Việc xác định đối tượng đánh giá dựa trên các 
mối quan hệ tự nhiên-xã hội là cơ sở khoa học quan trọng trong đánh giá cảnh quan 
cho mục đích ứng dụng. 
 Mục tiêu của việc đánh giá cảnh quan là đưa ra những kết luận tương đối 
chính xác, làm cơ sở khoa học cho việc bố trí các ngành sản xuất kinh tế phù hợp 
với từng vùng lãnh thổ nhằm sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo 
vệ môi trường. Trong từng vùng lãnh thổ cảnh quan có sự phân hoá đa dạng, phức 
tạp và mức độ sử dụng chúng cho các mục đích kinh tế cũng khác nhau. Ở mỗi đơn 
vị cảnh quan với những đặc điểm riêng biệt thì chúng có thể thích hợp, ít thích hợp 
hoặc không thích hợp đối với từng mục đích sử dụng, vì vậy thông qua việc đánh 
giá cảnh quan để tìm ra các biện pháp tối ưu cho việc sử dụng TNTN của lãnh thổ. 
 Nguyên tắc chung của đánh giá cảnh quan là thông qua đặc điểm, tính chất 
của chủ thể (các ngành sản xuất dự định bố trí, phát triển trên từng cảnh quan) và 
tương ứng là các đặc tính thành phần của khách thể (đặc điểm cảnh quan luôn thay 
đổi theo không gian và thời gian) để xác định mức độ thích hợp của các cảnh quan 
17  
cho từng ngành sản xuất kinh tế riêng biệt. Chính việc đánh giá tổng hợp cảnh quan 
cho phép chúng ta tiếp cận gần nhất với thực tiễn sử dụng hợp lý TNTN và bảo vệ 
môi trường. 
 Phương pháp đánh giá cảnh quan gồm hệ thống các phương pháp đa dạng, 
phức tạp. Tuỳ thuộc vào mục đích cụ thể của việc đánh giá đối với từng lãnh thổ để 
lựa chọn phương pháp thích hợp. Trên quan điểm tiếp cận địa lý tổng hợp trong 
đánh giá cảnh quan có thể sử dụng các phương pháp mô hình hoá, phương pháp bản 
đồ, phân tích tổng hợp, so sánh định tính, thang điểm có trọng số. Trong quá trình 
đánh giá có thể sử dụng riêng lẻ các phương pháp hoặc kết hợp với nhau tuỳ theo 
từng giai đoạn và mục tiêu cụ thể. 
 Do độ phức tạp của công tác đánh giá nên không thể tồn tại một kiểu đánh 
giá chung mà các giai đoạn đánh giá theo yêu cầu với cấp độ từ thấp đến cao. Giai 
đoạn đầu tiên là giai đoạn đánh giá chung hay đánh giá sơ bộ, còn gọi là đánh giá 
thích nghi, là đánh giá dựa trên kết quả nghiên cứu về điều kiện tự nhiên, tài nguyên 
theo các vùng lãnh thổ mang tính định hướng chung cho các mục đích thực tiễn 
khác nhau, đánh giá mức độ “thuận lợi ” hay mức độ “thích hợp ” của cảnh quan 
hoặc các hợp phần của chúng đối với một dạng hoạt động kinh tế nào đó. Ở mức độ 
cao hơn là đánh giá kinh tế, đây là hình thức đánh giá sâu hơn về giá trị và hiệu quả 
kinh tế của các ngành sản xuất. Mỗi kiểu đánh giá có những đặc trưng riêng nên đòi 
hỏi lựa chọn các phương pháp phù hợp, kiểu đánh giá phổ biến nhất trong nghiên 
cứu địa lý tổng hợp những thập kỷ gần đây là kiểu đánh giá thích nghi hay còn gọi 
là đánh giá mức độ thuận lợi của cảnh quan cho các mục đích phát triển các ngành 
sản xuất, đây là giai đoạn đánh giá trước đánh giá kinh tế, làm cơ sở khoa học quan 
trọng để tiếp tục đánh giá kinh tế - kỹ thuật và là cơ sở để xây dựng các luận chứng 
quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội đối với từng lãnh thổ riêng biệt [12, 13, 22]. 
 Qua việc tìm hiểu một số mô hình đánh giá tổng hợp ĐKTN và TNTN cho 
các vùng lãnh thổ khác nhau của Mukhina, Marinhich A.M, Sisenko P.G và nhiều 
người khác, trên cơ sở mô hình của tác giả Phạm Hoàng Hải trong đánh giá cảnh 
18  
quan nhằm sử dụng hợp lý TNTN và BVMT lãnh thổ Việt nam thì nội dung của 
đánh giá cảnh quan có thể tóm tắt trong sơ đồ sau đây:           
Hình 1.1. Sơ đồ nội dung đánh giá cảnh quan 
 Để thực hiện các nội dung của đánh giá cảnh quan, sau khi xác định mục 
đích, nhiệm vụ và đối tượng đánh giá thì cần thực hiện một quy trình gồm như sau: 
 - Lập bảng thống kê đặc điểm tự nhiên của các đơn vị CQ và xác định nhu 
cầu sinh thái của các dạng sử dụng. Đây là cơ sở để lựa chọn và phân cấp chỉ tiêu 
đánh giá. Tuỳ thuộc vào tỷ lệ nghiên cứu mà mức độ chi tiết khác nhau. Thông 
thường các dữ liệu thực tế không đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu vì vậy đây là 
một trong những bước khó khăn cần khắc phục. 
 - Lựa chọn chỉ tiêu và yếu tố đánh giá có ý nghĩa rất quan trọng quyết định 
độ chính xác của các kết quả đánh giá, vì vậy cần được nghiên cứu lựa chọn một 
cách khoa học và phù hợp. Thông thường chỉ tiêu đánh giá bao gồm các đặc điểm 
của các yếu tố khí hậu, đặc trưng của địa hình, của thổ nhưỡng. Tuy nhiên khi đánh 
giá cho từng ngành sản xuất hay từng loại cây trồng thì số lượng và thành phần của 
các chỉ tiêu lựa chọn phải phù hợp với đặc tính sinh thái của các loại cây, đặc điểm 
Đặc trưng của các đơn vị 
tổng hợp thể tự nhiên (cảnh quan) 
lãnh thổ 
Đánh giá tổng hợp 
Xác định mức độ thích hợp của 
các thể tổng hợp tự nhiên 
(cảnh quan) đối với các mục đích 
cụ thể 
Đề xuất, kiến nghị sử dụng hợp lý 
TNTN và BVMT 
Đặc điểm, tính chất của các đối 
tượng sản xuất kinh tế cụ thể dự 
kiến bố trí trên lãnh thổ