BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
KHOA CƠ KHÍ
oOo
TRỊNH THỊ LINH
THIẾT KẾ KỸ THUẬT THIẾT B Ị SẤY ARTEMIA VÀ TRỨNG
BÀO XÁC NĂNG SUẤT 10KG/MẺ ĐẠT TIÊU CHUẨN THƯƠNG
PHẨM PHỤC VỤ NUÔI TRỒNG T HỦY SẢN
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUN NGÀNH: CHẾ TẠO MÁY
Nha Trang, tháng 11 năm 2007
GVHD: PGS.TS. PHẠM HÙNG THẮNG
NHẬN XÉT CỦA CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
Họ, tên SV : Trịnh Thị Linh Lớp : 45CT
Ngành : Chế tạo máy Mã ngành : CK
Tên đề tài : “ Thiết kế kỹ thuật thiết bị sấy Artemia và trứng bào xác năng suất
10kg/mẻ đạt tiêu chuẩn thương phẩm phục vụ nuôi trồng thủy sản”.
Số trang : 97 Số chương: 5 Số tài liệu tham khảo: 12
Hiện vật : không
NHẬN XÉT CỦA CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
Kết luận:
Nha trang, ngày… , tháng…., năm 2007.
Cán bộ hướng dẫn:
PGS.TS Phạm Hùng Thắng
PHIẾU ĐÁNH GIÁ ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP
Họ, tên SV : Trịnh Thị Linh Lớp : 45CT
Ngành : Chế tạo máy Mã ngành : CK
Tên đề tài : “ Thiết kế kỹ thuật thiết bị sấy Artemia và trứng bào xác năng suất
10kg/mẻ đạt tiêu chuẩn thương phẩm phục vụ nuôi trồng thủy sản”.
Số trang : 97 Số chương: 5 Số tài liệu tham khảo: 12
Hiện vật : không
NHẬN XÉT CỦA CÁN BỘ PHẢN BIỆN
Kết luận:
Nha trang, ngày… , tháng…., năm 2007.
Cán bộ phản biện :
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ARTEMIA VÀ TRỨNG BÀO XÁC 1
1.1. Đặc điểm sinh học của Artemia 1
1.1.1. Hệ thống phân loại 1
1.1.2. Vòng đời và đặc điểm sinh trưởng của Artemia 1
1.1.4. Đặc điểm sinh sản 4
1.1.5 Đặc điểm sinh thái và khả năng thích nghi với các điều kiện môi
trường của Artemia 5
1.2. Vai trò của Artemia 7
1.2.1. Vai trò của Artemia trong nuôi trồng thuỷ sản 7
1.2.2. Vai trò của Artemia trên ruộng muối 8
1.3.Tình hình nuôi , khai thác Artemia trên thế giới và ở trong nước 9
1.3.1.Tình Hình Trên thế giới 9
1.3.2. Tình hình nghiên cứu và nuôi Artemia ở trong nước 10
1.4. Tổng quan về công nghệ sản xuất khô Artemia và trứng bào xác phục vụ
nuôi thuỷ sản 11
1.4.1 Thu hoạch và xử lý sinh khối artemia. 11
1.4.2 Thu hoạch và xử lý trứng bào xác Artemia. 14
1.5. Yêu cầu của sản phẩm 19
CHƯƠNG 2: ĐẠI CƯƠNG VỀ QUÁ TRÌNH VÀ THIẾT BỊ SẤY 21
2.1. Quá trình sấy và nhân tố ảnh hưởng 21
2.1.1. Đại cương về quá trình sấy 21
2.1.2. Chế độ sấy 22
2.1.3. Nhân tố ảnh hưởng 27
2.2. Các phương pháp và mô hình sấy 31
2.2.1. Phương pháp hoá lý 31
2.2.2. Phương pháp cơ học 32
2.2.3. Phương pháp nhiệt 32
2.2.4. Mơ hình các phương pháp sấy trên 32
Chương 3: THIẾT KẾ KỸ THUẬT THIẾT BỊ SẤY ARTEMIA VÀ TRỨNG
BÀO XÁC 36
3.1. u cầu kỹ thuật thiết bị sấy Artemia và trứng bào xác 36
3.1.1. Ý nghĩa của độ ẩm trong q trình sấy 36
3.1.2. u cầu của sản phẩm Artemia sau khi sấy 36
3.1.3. Nhiệm vụ của việc thiết kế hệ thống sấy 36
3.2. Chọn phương án thiết kế 37
3.3. Tính tốn thiết bị sấy 44
3.3.1. Tính tốn nhiệt 44
3.3.2. Tính chọn quạt 49
3.3.3. Tính chọn calorife 51
3.3.4. Xác định kích thước cơ bản của buồng sấy 51
3.4. Thiết kế kỹ thuật thiết bị sấy 62
3.4.1. Kết cấu và tính tốn các chi tiết cơ bản 62
3.4.2. Bản vẽ kỹ thuật thiết bị 65
Chương 4: LẮP RÁP, VẬN HÀNH, SỬA CHỮA VÀ AN TỒN LAO ĐỘNG 66
4.1. Lắp ráp 66
4.2. Vận hành 67
4.3. Sửa chữa 68
4.4. An toàn và vệ sinh trong quá trình sấy 68
4.4.1. An toàn lao động 68
4.4.2. Vệ sinh máy 69
Chương 5: THIẾT KẾ QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ GIA CÔNG MẶT BÍCH 70
5.1. Xác đònh dạng sản xuất 70
5.2. Phân tích chi tiết gia công 71
5.3. Xác đònh phương pháp chế tạo phôi 71
5.4. Thiết kế quy trình công nghệ gia công các bề mặt mặt bích. 72
5.5. Phương án gia công bề mặt 74
5.6. Trình tự các nguyên công 74
5.7. Xác đònh lượng dư cho các nguyên công 79
5.7.1. Tính lượng dư cho bềø mặt 1,2 bằng phương pháp phân tích 79
5.7.2. Xác đònh lượng dư gia công bằng phương pháp tra bảng cho các
nguyên công còn lại 82
5.8.Chế độ cắt 84
5.8.1. Xác đònh chế độ cắt bằng phương pháp phân tích cho kích thước
380H7 84
5.8.2. Xác đònh chế độ cắt bằng phương pháp tra bảng cho các nguyên
công khác 91
5.9. Thiết kế đồ gá 94
5.9.1. Nhiêïm vụ thiết kế. 94
5.9.2. Một số chi tiết cơ cấu của đồ gá 94
5.9.3. Các chi tiết và cơ cấu đònh vò 94
5.9.4. Các chi tiết và cơ cấu kẹp chặt. 95
5.9.5. Nội dung việc thiết kế đồ gá 96
HẠCH TỐN GIÁ THÀNH THIẾT BỊ 100
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN 101
1. Kết luận 101
2. Đề xuất ý kiến 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lời nói đầu
Hiện nay ngành nuôi trồng thủy sản rất phát triển. Để tạo nguồn giống cho
ngành nuôi các viện nghiên cứu, trại chăn nuôi đã nhân giống thành công nhiều con
giống có tỷ lệ sống cao, cho năng suất lớn, giá thành thấp hơn. Để đạt được kết quả
đó, nguồn thức ăn cho con giống đóng một vai trò rất quan trọng. Trên thế giới,
người ta sử dụng nhiều loại thức ăn có hàm lượng dinh dưỡng cao đặc biệt là
Artemia. Dạng thức ăn này được sử dụng ở dạng tươi sống, đông lạnh hoặc sấy khô.
Tuy nhiên, dạng sấy khô là kinh tế hơn cả vì chúng vẫn giữ nguyên giá trị dinh
dưỡng mà thời gian sử dụng lại rất dài. Ở Việt Nam cũng vậy nhưng sản phẩm
thường được nhập từ Mỹ hoặc Trung Quốc với giá thành rất cao. Tại Cam Ranh-
Khánh Hòa người ta đã nuôi sinh khối Artemia và thu hoạch, thấy hàm lượng dinh
dưỡng cũng không kém Sóc Trăng và trên thế giới. Nhưng chúng chỉ sử dụng dạng
tươi sống, đông lạnh chứ chưa sấy khô vì chưa có thiết bị.
Dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Phạm Hùng Thắng, em đã thực hiện đề tài sau:
“ Thiết kế kỹ thuật thiết bị sấy Artemia và trứng bào xác năng suất 10kg/mẻ
đạt tiêu chuẩn thương phẩm phục vụ nuôi trồng thủy sản”.
Nội dung thực hiện:
1. Tổng quan về sấy Artemia
2. Thiết kế kỹ thuật thiết bị
3. Lập quy trình chế tạo chi thiết điển hình
4. Hạch toán giá thành thiết bị
5. Kết luận và đề xuất ý kiến
Trong quá trình thực hiện đề tài em được sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS
Phạm Hùng Thắng, sự giúp đỡ của các thầy trong bộ môn CTM, của bác Nguyễn
Danh Thoàn, sự cổ vũ động viên của gia đình bạn bè rất nhiều. Tuy đã cố gắng và
nỗ lực hết sức mình nhưng vẫn không tránh khỏi sai sót mong được sự góp ý của
các thầy cô và các bạn sinh viên. Mọi góp ý xin gửi tới địa chỉ sau:
Email: Linhtrinh45ct @yahoo.com
Xin chân thành cảm ơn‼
Chủ nhiệm đề tài
Trịnh Thị Linh
- 1 -
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ ARTEMIA VÀ TRỨNG BÀO XÁC
1.1. Đặc điểm sinh học của Artemia
1.1.1. Hệ thống phân loại
Artemia thuộc nhóm giáp xác có hệ thống phân loại như sau:
Ngành : Arthropoda
Lớp : Crustacea
Lớp phụ : Branchiopoda
Bộ : Anostraca
Họ : Artemiidae
Giống : Artemia, Leach 1819
Trong các dòng Artemia lưỡng tính hoặc dị hợp (quần thể bao gồm con đực
và con cái) đã xác định có tất cả sáu loài anh em như sau:
Artemia salina : Lymington (Anh, đã không còn hiện diện)
Artemia tunisiana : Châu Âu
Artemia franciscana : Châu Mỹ (Bắc, Trung và Nam Mỹ)
Artemia perrsimilis : Argentina
Artemia urmiana : Iran
Artemia monica : Mono Lake, CA-USA
(Theo P.Sorgeloos.1986)
Vì những thể mới đang được liên tục mô tả đặc điểm , nên các nhà khoa học
được thuyết phục nên sử dụng tên Artemia. Trừ khi chúng có đủ bằng chứng về sinh
hoá, di truyền tế bào hoặc hình thái để định rõ tên loài.
1.1.2. Vòng đời và đặc điểm sinh trưởng của Artemia
Vòng đời phát triển
Để hoàn thành vòng đời của mình , Artemia trải qua nhiều giai đoạn phát
triển khác nhau.
- 2 -
Đặc điểm sinh trưởng của Artemia
Sự sinh trưởng và phát triển của Artemia trải qua nhiều giai đoạn khác nhau.
Ngoài tự nhiên, vào một thời điểm nào đó trong năm Artemia sẽ đẻ trứng bào xác
nổi trên mặt nước và được sóng thổi dạt vào bờ. Trứng này ở trạng thái ngừng hoạt
động trao đổi chất và ở tình trạng giữ khô. Các sản phẩm trứng nghỉ là một đặc
điểm thích nghi của Artemia với điều kiện môi trường bất lợi.
Trứng bào xác có dạng hình cầu lõm, màu nâu hay nâu sậm, kích thước
đạt 200-300µm trung bình một gam trứng bào xác có khoảng 270.000 đến 300.000
trứng. Trứng bào xác sinh ra trôi nổi trong điều kiện nước mặn (>20ppt) và chìm
trong nước ngọt. Nó có cấu tạo gồm hai phần :
Phần vỏ có cấu tạo gồm 3 lớp:
+ Ngoài cùng là lớp Chorion có bản chất là một lipoprotein chứa đầy
kitin và hematin (sắc tố đen) có tác dụng bảo vệ vỏ trứng khỏi những tác động cơ
học và các tác động cơ học khác của môi trường. Lớp này sẽ bị phá huỷ dưới tác
dụng của hypochlorine.
+ Ở giữa là lớp màngngoại bì có tác dụng ngăn cản những phân tử có
kích thước lớn hơn phân tử CO
2
xâm nhập.
+ Trong cùng là lớp màng phôi trong suốt và có tính đàn hồi cao.
Sau đây là sơ đồ vòng đời của Artemia:
- 3 -
Phần phôi trong trứng bào xác chỉ phát triển đến giai đoạn phôi vị thì
dừng lại ở trạng thái tiềm sinh với độ ẩm trong trứng < 10%. Trứng bào xác nếu
được bảo quản tốt có thể giữ được nhiều năm.
Trứng bào xác khi gặp môi trường nước biển sẽ hấp thụ nước và trở nên căng
tròn (trương nước). Lúc này bên trong trứng bắt đầu xảy ra quá trình trao đổi chất,
phôi tiếp tục phát triển. Trứng ngậm nước và tiêu thụ oxy để hoàn tất quá trình
chuyển hoá carbohydrat hiện tượng chuyển hoá này xảy ra khi độ ẩm trong trứng
>25% và độ mặn thích hợp (5-30ppt). Độ mặn dưới 5ppt thì trứng vẫn nở nhưng ấu
trùng sẽ chết rất nhanh, khi độ mặn trên 70ppt thì sự ngâm nước không hoàn thành
do đó trứng sẽ không nở. Trứng trương nước sau khoảng 18-20 giờ màng nở bên
ngoài sẽ nứt ra phôi xuất hiện và vẫn được bao quanh bởi màng nở. Trong khi phôi
đang treo bên dưới vỏ trứng thì phôi vẫn phát triển. Sau một thời gian ngắn màng
nở bị phá vỡ ấu trùng Nauplius được phóng thích ra ngoài.
Giai đoạn Nauplius
Ấu trùng Nauplius mới nở có chiều dài 400-500µm, có màu vàng nâu với
điểm mắt màu đỏ nằm giữa cặp râu I. Chúng có 3 đôi phần phụ: đôi râu I có chức
năng cảm giác, đôi râu II có chức năng vận động và lọc thức ăn, đôi râu III có chức
năng nhận và gom thức ăn. Ở giai đoạn này bộ máy tiêu hoá của Artemia chưa hoàn
chỉnh, chúng sống dựa vào nguồn noãn hoàng. Sau 7-8 giờ ấu trùng Instar II, giai
đoạn này chúng đã có khả năng sử nguồn thức ăn bằng cách lọc các hạt thức ăn có
kích thước nhỏ từ 10-50µm như: tế bào tảo, vi khuẩn, chất vẩn… bằng đôi râu II.
Giai đoạn ấu niên
Ở giai đoạn này cơ thể Artemia kéo dài dần, các đôi phần phụ dần xuất hiện
ngực và biến thành chân ngực, mắt kép xuất hiện ở hai bên mắt. Từ sau lần lột xác
thứ 10 trở đi chúng có sự thay đổi lớn về hình thái và chức năng của các đôi phần
phụ râu II mất đi chức năng vận động và lọc thức ăn chuyển sang biệt hoá giới tính.
Ở con đực đôi râu II phát triển thành đôi càng lớn dung để bám vào con cái khi cặp
đôi, trong khi đôi râu II của con cái biệt hoá thành phần phụ cảm giác. Các chân
- 4 -
ngực được biệt hoá thành ba bộ phận chức năng: đốt gốc và nhánh trong làm nhiệm
vụ hô hấp.
Giai đoạn trưởng thành
Artemia trưởng thành trong quần thể lưỡng tính dài khoảng 1cm và dài
khoảng 2cm trong quần thể trinh sản đa bội. Chúng có cơ thể kéo dài với hai mắt
kép, ống tiêu hoá thẳng, một đôi râu cảm giác và 11 đôi chân ngực. Từ giai đoạn
Naulius đến giai đoạn trưởng thành chúng phải trải qua 15 lần lột xác. Con đực có
đôi gai giao phối ở phần sau của vùng ngực và có đôi càng hình móc rất đặc thù ở
vùng đầu. Đối với con cái rất dễ nhận dạng nhờ vào túi ấp hoặc tử cung nằm ngay
sau đôi chân ngực thứ 11, chúng thường có kích thước lớn hơn con đực. Artemia ở
giai đoạn ở giai đoạn này bắt đầu kết cặp và tiến hành sinh sản.
1.1.3. Đặc điểm dinh dưỡng
Artemia là sinh vật ăn không chọn lựa. Trong tự nhiên hay ao nuôi Artemia
sinh trưởng và phát triển chủ yếu dựa vào nguồn thức ăn có sẵn trong môi
trường.Chúng sử dụng mùn bã hữu cơ, tảo đơn bào và vi khuẩn có kích thước nhỏ
hơn 50µm. Trong tự nhiên, Artemia thường hiện diện ở vùng nước có độ mặn cao
nên hiếm gặp các loài động vật dữ và các động vật cạnh tranh thức ăn khác như luân
trùng, giáp xác nhỏ ăn tảo. Nhiệt độ, thức ăn và độ mặn là những nhân tố ảnh hưởng
đến sự gia tăng mật độ của quần thể Artemia hoặc ngay cả đến sự vắng mặt tạm thời
của chúng.
Trong nghề nuôi Artemia trên ruộng muối nông dân thường sử dụng phối
hợp phân chuồng (chủ yếu là phân gà ) kết hợp với phân vô cơ như Urê hoặc DAP
để gây màu trực tiếp trong ao nuôi hoặc gián tiếp ngoài ao bón phân trước khi cấp
nước vào trong ao nuôi. Artemia có thể sử dụng trực tiếp phân gà và các phân hữu
cơ khác khi bón vào ao nuôi. Ngoài ra, khi lượng nước tảo cung cấp vào ao hằng
ngày thiếu hụt nông dân còn sử dụng cám gạo, bột đậu nành… để duy trì quần thể.
1.1.4. Đặc điểm sinh sản
Artemia sinh sản ở 2 dạng: đơn tính và hữu tính, trong đó dạng sinh sản hữu
tính được sử dụng rộng rãi hơn trong sản xuất.
- 5 -
Đối với dòng Artemia lưỡng tính khi trưởng thành con đực bắt cặp với con
cái. Con đực dung đôi càng ôm phần bụng của con cái, giao cấu và thụ tinh cho
trứng. Hoạt động này diễn ra rất thường xuyên trong hầu hết vòng đời của chúng.
Trứng phát triển trong hai buồng trứng dạng ống ở phần bụng. Khi trứng chin có
dạng cầu và di chuyển qua hai ống dẫn để vào tử cung. Thông thường trứng được
thụ tinh phát triển thành ấu trùng bơi lội (phương thức đẻ con- ovviviparaus) và
được con cái sinh ra. Trong điều kiện bất lợi các phôi chỉ phát triển đến giai đoạn
phôi vị. Lúc này chúng sẽ được bao bọc bằng một lớp vỏ dày (được tiết ra từ tuyến
vỏ trong tử cung) biến thành trứng nghỉ hay còn gọi là trngj thái “ tiềm sinh” và
được con cái phóng thích ra ngoài.
J.Vos (1980) cho rằng kiểu sinh sản Artemia được kiểm soát bởi giới hạn các yếu
tố môi trường. Các yếu tố chính ảnh hưởng như sau:
Đẻ con Đẻ trứng
Độ mặn thấp - Độ mặn cao
Hàm lượng ôxy cao - Hàm lượng ôxy thấp
Biên độ dao động ôxy thấp - Biên độ dao động ôxy cao
Thức ăn nghèo sắt - Thức ăn giàu sắt
1.1.5 Đặc điểm sinh thái và khả năng thích nghi với các điều kiện môi trường
của Artemia
Artemia là sinh vật có tính rộng muối, chúng sống được trong môi trường
nước lợ (vài phần ngàn) cho đến nước mặn bão hoà (250 phần ngàn). Tuỳ theo điều
kiện môi trường mà chúng có đặc điểm sinh trưởng và sinh sản khác nhau.
Chủng quần thể của Artemia được tìm thấy ở trên 500 hồ nước mặn và ruộng
muối trên thế giới. Artemia được tìm thấy chủ yếu trong những ao hồ có nồng độ
muối cao (80ppt- 120ppt) đây cũng là ngưỡng chịu đựng cao nhất về nồng độ muối
của các loài sinh vật dữ. Từ 250ppt trở lên mật độ Artemia giảm mặc dù chúng có
thể sống ở nồng độ muối cao hơn nhưng nhu cầu về năng lượng để điều hoà áp suất
thẩm thấu tăng làm ảnh hưởng bất lợi đến sinh trưởng và sinh sản của chúng , thậm
- 6 -
chí chúng bị đói và bị chết do môi trường trở nên độc và việc trao đổi chất cực kỳ
khó khăn.
Mặc dù Artemia có thể sống tốt trong môi trường nước biển tự nhiên nhưng
Artemia không có cơ chế chống lại sinh vật dữ (cá, tôm…) và cạnh tranh với các
loài ăn lọc khác nên chúng có một cơ chế thích nghi rất tốt với độ mặn cao(80-
120ppt) nơi mà hầu như các loài sinh vật dữ và sinh vật cạnh tranh không thể tồn tại
được. Sự thích nghi về sinh lý của chúng với độ mặn cao là nhờ :
Chúng có một hệ thống điều hoà thẩm thấu cực tốt.
Khả năng tổng hợp các sắc tố hô hấp cao nhằm thích ứng với điều kiện O
2
thấp ở nơi có độ mặn cao.
Trong điều kiện bất lợi chúng có khả năng sản xuất ra trứng bào xác để đảm
bảo sự tồn tại của chúng trong tự nhiên.
Các dòng Artemia khác nhau có thể thích nghi rộng với sự biến đổi của môi
trường, đặc biệt là nhiệt độ, chúng có thể thích nghi trong khoảng nhiệt độ 6-35
0
C.
Thành phần ion của các thuỷ vực gồm Chlorid, Sunfat, Cacbonate và NaCl là thành
phần chủ yếu tạo nên các sinh cảnh Artemia ven biển và sinh cảnh nước mặn khác
nằm sâu trong đất liền, chẳng hạn hồ Great-Salt ở Mỹ.
Đối với dòng Artemia bản địa của Việt Nam đã có nhiều đặc điểm thích nghi
khác xa so với tổ tiên của chúng, đặc biệt là sự thích nghi với nhiệt độ mặc dù
chúng có nguồn gốc từ Mỹ. Điều kiện môi trường thích hợp nhất cho chúng là:
Độ mặn : 80- 120
0
/
00
Nhiệt độ : 22-25
0
C
Oxy hoà tan: cao hơn 2ppm
pH từ trung tính đến kiềm (7.0-9.0)
Trong tự nhiên hay trong ruộng muối Artemia sinh trưởng và sinh sản chủ
yếu dựa vào nguồn thức ăn sẵn có trong môi trường. Chúng ăn lọc không có tính
chọn lựa với thành phần thức ăn là các mảnh vụn hữu cơ lơ lửng trong tầng nước và
các sinh vật nhỏ như tảo vi tảo, vi khuẩn với kích thước từ 10-50µm. Trong thực tế,
- 7 -
do sự thiếu vắng của các sinh vật dữ và sinh vật cạnh tranh thức ăn nên Artemia
thường thấy ở những hệ thống độc canh lớn.
1.2. Vai trò của Artemia
1.2.1. Vai trò của Artemia trong nuôi trồng thuỷ sản
Artemia được biết đến vào những năm 30 của thập kỷ 20 khi người ta phát
hiện ra chúng là loài thức ăn sống có giá trị dinh dưỡng cao cho việc ương nuôi
giống các loài thuỷ sản như tôm, cá, động vật than mềm. Artemia có thể đáp ứng rất
tốt nhu cầu dinh dưỡng cho giai đoạn ấu trùng của các loài tôm cá.
Hiện nay tại các trại sản xuất giống, ấu trùng Artemia được sử dụng rộng rãi
nhất bởi những lý do sau:
Giá trị dinh dưỡng cao (protein, axit béo không no HUFA cao)
Sẵn có trên thị trường dưới dạng trứng bào xác
Không phụ thuộc mùa vụ, thời tiết và có thể thu với số lượng lớn (trứng bào
xác nở sau 24 giờ tính từ khi ấp)
Có thể khống chế được bệnh cho ấu trùng nuôi(xử lý ấu trùng Artemia trước
khi cho ăn hoặc sử dụng chúng như một bao sinh học để chứa các dinh dưỡng, đặc
biệt là thuốc phòng trị bệnh chuyển tới ấu trùng nuôi).
Con non và con trưỏng thành của Artemia được sử dụng làm thức ăn trong
ương nuôi tôm cá, cua và các loài thuỷ hải sản khác không chỉ vì giá trị dinh dưỡng
tối ưu của chúng (chứa gần 70% đạm) mà còn bởi những lợi ích về năng lượng. Do
đó ấu trùng có thể sinh trưởng tốt hơn hoặc điều kiện sinh lý được cải thiện như đã
chứng minh trong việc nuôi ấu trùng của tôm hùm, cá mahi, cá bơn, cá chẽm. Đối
với ấu trùng cá chẽm Lates calcarifer việc sử dụng sinh khối Artemia làm thức ăn
trong trại giống và trại ương đã tiết kiệm được một lượng trứng Artemia đáng kể
(lên tới 60%), do đó làm giảm được chi phí về thức ăn cho ấu trùng đồng thời làm
giảm sự ăn thịt lẫn nhau trong giai đoạn đầu ương nuôi tôm hùm.
Việc sử dụng trực tiếp ấu trùng Artemia đã được nhiều tác giả ghi nhận:
O.Kinne (1976) cho rằng ấu trùng cá và giáp xác như tôm cua đều sử dụng với số
lượng lớn. Vanolst (1976) đã nhận thấy giai đoạn ấu trùng của nhiều đối tượng thuỷ
- 8 -
sản có giá trị kinh tế cao cũng sử dụng Nauplius của Artemia như là khẩu phần cơ
sở ban đầu. Ấu trùng các loài tôm biển sử dụng Nauplius như là khẩu phần bắt buộc
trong tuần lễ đầu tiên, sau đó mới kết hợp các loại thức ăn khác.
Artemia than mềm với lớp vỏ mỏng, chúng bơi lội chậm chạp trong môi
trường nước, có màu sắc hấp dẫn, trong nước ngọt có thể sống 8 giờ. Chính vì vậy
Artemia là thức ăn chủ yếu và lý tưởng cho ấu trùng các loài tôm cá ở giai đoạn
phát triển sớm. Artemia không chỉ có giá trị sử dụng tiện lợi mà chúng còn có giá trị
dinh dưỡng cao: hàm lượng protein chiếm 62% và 27% lipit (tính theo trọng lượng
khô)… Trong nuôi Artemia thu sinh khối thì Artemia trưởng thành được quan tâm
nhiều hơn do có kích thước lớn hơn 20 lần và khối lượng nặng hơn 500 lần ấu trùng
Artemia mới nở đồng thời thành phần dinh dưỡng của nó cũng chứa đầy đủ các
axitamin cần thiết như: histidine, methionine, phenyllanine và threonine mà ở ấu
trùng Nauplius không có.
Hiện nay, việc sử dụng sinh khối Artemia vẫn chưa được chấp nhận ở mức
độ công nghiệp do hạn chế về tính thời vụ và số lượng sinh khối tươi cũng như sinh
khối đông lạnh chi phí cao, chất lượng biến động. Ở Việt Nam, mức độ sử dụng
sinh khối vẫn chỉ ở mức độ thí nghiệm và thử nghiệm là thức ăn cho ấu trùng tôm
càng xanh, tôm cua biển và cá cảnh ở dạng tươi sống, đông lạnh và thức ăn chế biến
chứ không dùng có sản phẩm khô vì giá thành quá đắt.
1.2.2. Vai trò của Artemia trên ruộng muối
Nước ta có đường bờ biển dài nên nghề làm muối khá phổ biến. Tuy nhiên,
nghề làm muối mang lại hiệu quả kinh tế thấp và từ khi Artemia được nhập nội và
thuần hoá trên các ruộng muối thì việc chuyển hướng sản xuất muối độc canh sang
mô hình sản xuất muối kết hợp nuôi Artemia thu sinh khối như thu trứng bào xác đã
mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn cho người sản xuất.
Trên ruộng muối, Artemia có thể phát triển rự nhiên hay được thả nuôi một
cách chủ động như một công cụ quản lý các hoạt động thuỷ sinh học nhằm nâng cao
chất lượng muối, tận thu được nguồn trứng bào xác và sinh khối Artemia, là hai sản
phẩm có giá trị cao trong nghề nuôi trồng thuỷ sản. Artemia được xem như là một
- 9 -
hệ thống lọc sinh học trên ruộng muối nhờ tính ăn lọc của mình. Sự phát triển củ tảo
ở các phần trên ruộng muối làm bay hơi nước sẽ được hạn chế rất nhiều nếu vùng
đó có sự hiện diện của Artemia. Trong ruộng muối nếu tảo phát triển mạnh cũng
đồng nghĩa là quá trình trao đổi chất của các chất hữu cơ trong môi trường tăng lên
làm cho độ nhớt của nước tăng lên. Kết quả là sự kết tủa của thạch cao xảy ra sớm
dẫn đến sự kết tủa non của các tinh thể muối ở phần ruộng kết tinh. Như vậy chất
lượng muối sẽ giảm đáng kể vì hạt nhỏ, nhiễm bẩn và làm cho giá thành muối giảm.
Sự có mặt của Artemia trên ruộng muối làm cho nước trở nên trong hơn, tảo và các
chất vẩn hữu cơ trong ruộng sẽ là nguồn thức ăn tốt cho Artemia. Qua thực tế cho
thấy, phân và trứng do Artemia thải ra không ảnh hưởng đến quá trình sản xuất
muối mà nó còn mang lại lợi ích cho ruộng muối nhờ tạo ra trên nền đáy một loại vi
khuẩn ưa mặn Halobacterium có màu đỏ sậm làm tăng khả năng hấp thụ nhiệt của
ruộng muối nhờ đó muối sẽ kết tinh nhanh hơn.
Artemia được nuôi trên ruộng muối chủ yếu ở các phần diện tích bốc hơi
nước nơi có độ mặn cao từ 100-180ppt, nhờ đó mà phần ruộng bỏ trống trước đây
đã được tận dụng để nuôi Artemia thu sinh khối ở các phần ruộng có độ mặn từ 80-
120ppt và thu trứng bào xác khi độ mặn là 150-180ppt.
Từ khi nuôi Artemia trên ruộng muối hiệu quả kinh tế trên các ruộng muối
đã tăng lên đáng kể nhờ vào chất lượng muối được nâng cao đồng thời có thêm
nguồn thu từ sinh khối Artemia cũng như trứng bào xác. Hiện nay, với vai trò tích
cực của Artemia trên ruộng muối mà mô hình sản xuất kết hợp Artemia - muối đã
và đang được ứng dụng phổ biến tai nhiều quốc gia trên thế giới.
1.3.Tình hình nuôi , khai thác Artemia trên thế giới và ở trong nước
1.3.1.Tình Hình Trên thế giới
Artemia được biết đến vào những năm đầu thập niên 30 khi người ta phát
hiện ra chúng là loại thức ăn sống có giá trị dinh dưỡng cao cho việc ương nuôi các
giống thuỷ sản như tôm cá và động vật than mềm. Người ta ước tính rằng mỗi năm
trên thế giới sử dụng khoảng trên 2000 tấn trứng Artemia khô và nhu cầu này ngày
càng tăng cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành nuôi trồng thuỷ sản trên toàn
- 10 -
cầu. Mặc dù Artemia phân bố khá rộng trên toàn thế giớ nhưng không phải ở nơi
nào cũng có. Trong tự nhiên Artemia chỉ có một số vùng của một vài quốc gia như:
SanFrancisco Bay, Great Salt Lake (Mỹ), Bohai Bay (Trung Quốc)…
Trứng bào xác được thu từ hai nguồn chính : khai thác tự nhiên và gây nuôi
từ ruộng muối hoặc các hồ nước mặn. Cho đến nay nguồn cung cấp trứng bào xác
chủ yếu ở Mỹ và Trung Quốc. Năm 2000 sản lượng thu trứng ở Mỹ đạt 8200 tấn và
duy trì ở mức 8314 tấn trong năm 2001, 2002. Trong khi đó sản lượng thu hoạch tại
hồ Urmia xấp xỉ 100 tấn và ở vịnh Bohai từ 800-1000 tấn.Tuy nhiên theo đánh giá
của các nhà nghiên cứu thì càng ngày sản lượng Artemia ở đây đang giảm mạnh. Và
Artemia đang dần được nghiên cứu và nuôi phổ biến ở các nước Đông Nam Á đặc
biệt là ở Việt Nam.
1.3.2. Tình hình nghiên cứu và nuôi Artemia ở trong nước
Ở trong nước ta, nghiên cứu về nuôi sinh khối Artemia bắt đầu từ những năm
1970.Một số tác giả bước đầu thử nghiệm nuôi Artemia salina trong phòng thí
nghiệm tại Viện nghiên cứu biển Nha Trang như Lê Thị Ngọc Anh và Dương Thị
Thuận (1970).Kết quả bước đầu cho thấy có thể nuôi Artemia tại Nha Trang.
Năm 1991, Vũ Dũng tiến hành nghiên cứu xây dưng quy trình nuôi Artemia
ở đồng muối Ninh Hải, Cà Ná. Tác giả đã nuôi 7 dòng khác nhau trong bể kính 30
lít với thức ăn bằng tảo, kiểm tra các chỉ tiêu sinh học, chọn dòng tốt nhất đem ra
nuôi ở ruộng muối. Kết quả nghiên cứu cho thấy dòng San Fancisco Bay (Artemia
franciscana) có kích thước Cyst và Nauplius nhỏ, thành thục sớm, sức sinh sản cao,
thích hợp với nuôi ở miền Trung. Độ muối trên dưới 80
0
/
00
kích thích các dòng
Artemia đẻ con, độ muối từ 80-120
0
/
00
cho năng suất trứng cao nhất và độ muối là
một trong các yếu tố chi phối việc đẻ con hay đẻ trứng của Artemia. Kết quả nghiên
cứu đã mở ra triển vọng cho việc nuôi sinh khối A.franciscana ở ruộng muối tại các
tỉnh Khánh Hòa và Ninh Thuận.
Năm 1997, Nguyễn Thị Ngọc Anh, Vũ Đỗ Quỳnh,Nguyễn Văn Hòa,Peter
Beart tiến hành đề tài nghiên cứu Đánh giá tiềm năng thu sinh khối Artemia trên
ruộng muối Vĩnh Châu’’.Các thí nghiệm được thực hiện tại trại thí nghiệm đặt tại
- 11 -
Hợp tác xã muối Vĩnh Phước, huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng trong hai mùa khô
năm 1994 và 1995. Nguồn giống dùng trong thí nghiệm này là trứng Artemia
franciscana thu ở Vĩnh Châu từ vụ nuôi trước.Kết quả nghiên cứu cho thấy có thể
nuôi thu sinh khối theo hướng một chu kì, kết hợp thu trứng bào xác cho năng suất
cao. Năng suất trung bình khi nuôi các ao nhỏ (200m
2
/ao) 6521± 1559 kg/ha/vụ và
ở các ao lớn trên 2000m
2
/ao 1716±229kg/ha/vụ.
Tại địa bàn Cam Ranh, Nguyễn Ngọc Lâm và Vũ Đỗ Quỳnh (1998) đã
nghiên cứu cấu trúc sinh sản của Artemia trong điều kiện tự nhiên đồng muối Cam
Ranh. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng độ muối ảnh hưởng rất lớn đến sinh sản
của Artemia. Khi độ muối giảm sản lượng trứng bào xác giảm dần, mật độ cá thể
cái tham gia sinh sản thấp,sức sinh sản kém…
Năm 1999, Trương Sĩ Kỳ và Nguyễn Tấn Sỹ đã nuôi Artemia franciscana trong ao
đất tại Đồng Bò, Nha Trang thu sinh khối làm thức ăn cho sản xuất giống và nuôi
thương phẩm cá ngựa Đen. Mật độ cấy giống 100con/lít, nuôi trong ao đất diện tích
300m
2
, độ sâu 0,5-0.8m, độ muối 70-80
0
/
00.
Thu sinh khối bắt đầu từ ngày nuôi 14,
cách 2-3 ngày thu một lần (không lặp lại), trên một ao nuôi nên không đảm bảo độ
tin cậy.
Hiện nay, nhu cầu về trứng bào xác cũng như sinh khối Artemia franciscana
trên thị trường rất lớn để cung cấp cho sản xuất giống các loài cá và các loài giáp
xác có giá trị kinh tế cao. Điều kiện tự nhiên khu vực ruộng muối Đồng Bò-Nha
Trang có nhiều thuận lợi và phù hợp cho nuôi sinh khối đối tượng này.Tuy nhiên,
cho đến nay các nghiên cứu về Artemia franciscana trên địa bàn Nha Trang, Khánh
Hòa rất ít và vẫn còn nhiều thiếu sót nên chưa có được quy trình nuôi sinh khối đảm
bảo độ tin cậy để triển khai nuôi đại trà. Vì vậy cần phải tiếp tục nghiên cứu nuôi
sinh khối Artemia franciscana tại địa bàn Nha Trang – Khánh Hòa.
1.4. Tổng quan về công nghệ sản xuất khô Artemia và trứng bào xác phục vụ
nuôi thuỷ sản
1.4.1 Thu hoạch và xử lý sinh khối artemia.
Bước thu hoạch
- 12 -
Có thể thu gom khối artemia từ các ruộng nuôi rộng và nông bằng cách dùng
lưới hình nón gắn vào phía trước một chiếc thuyền máy hoặc dung sức người kéo. Ở
các ruộng nuôi nhỏ có thể dùng vó. Cách thay thế là đặt lưới (tạm thời) ở cửa thoát
nước ở ruộng nuôi và khi đó sinh khối được thu gom tự động khi nước chảy (tự
chảy hoặc dùng bơm) sang ruộng bên cạnh. Sau đây là một số nguyên tắt chỉ đạo
trong việc thu hoạch sinh khối Artemia:
Lưới phải to để thuận tiện cho việc thu hoạch, ví dụ đối với 100kg sinh khối
trưởng thành thì dùng lưới có miệng rộng 1*2 m và chiều dài lưới lọc từ 3 đến 6m
Dùng kích thước mắt lưới 1 đến 2 mm để thu hoạch chọn lọc Artemia trưởng
thành /non.
Ráp loại kích thước mắt lưới 1000µm vào phần cuối của lưới, nơi Artemia
trưởng thành tích tụ, để tránh việc Artemie bị đẩy ra.
Mỗi giờ quét một lần; sinh khối Artemia tích tụ ở phần cuối lưới lọc được
phơi ra điều kiện kị khí là điều kiện mà nó có thể chịu đựng được tới 1 giờ; vì
Artemia giàu enzim phân giải protein cho nên điều quan trọng là phải thu hoạch ở
dạng tươi sống.
Sau khi thu gom sinh khối cần được chuẩn bị để vận chuyển và dùng hoặc xử
lý tiếp.
Bước xử lý
Dùng một trong các phương pháp sau đây cho phù hợp với nhu cầu:
a) Dùng ngay trong vòng 1 đến 3 giờ làm thức ăn sống hoặc để ướp đông sấy
khô (tỷ lệ sống >90%)
Tạm thời giữ sinh khối được thu hoạch trong lưới đặt ở trong ruộng nuôi
Sục khí mạnh trong lưới chứa sinh khối
Rửa nhẹ sinh khối bằng nước biển
Chuyển sinh khối đã được rửa vào các thùng chứa có nước biển với mật độ
tối đa là 500g trọng lượng ướt/lít nước biển
Dùng nước đá trộn với sinh khối để hạ nhiệt độ của sinh khối xuống 5-10
0
C
Sục khí mạnh
- 13 -
b) Dùng ngay trong vòng 12 giờ làm thức ăn sống hoặc để ướp đông sấy khô
(tỷ lệ sống >90%)
Thủ tục như ở phần a nhưng lưu giữ tối đa 300g sinh khối trọng lượng ướt/lít
nước biển
c) Vận chuyển sống để tiêu thụ như sản phẩm sống (tỷ lệ sống >90%)
Chuyển sinh khối đã thu hoạch vào lưới đặt ở ruộng nuôi
Sục khí mạnh
Rủa nhẹ sinh khối bằng nước biển
Dùng kĩ thuật giống như vận chuyển ấu trùng cá/tôm sống, tức là:
Chuẩn bị túi chất dẻo loại 9 lít chai ôxy
Đổ 2 đến 3 lít nước biển vào túi
Cho Artemia vào, mật độ 100g sinh khối trọng lượng ướt/lít
Bơm đầy ôxy vào túi và dùng dây cao su buộc chặt
Đặt túi vào thùng xốp cùng với nước đá
Sau khi thu hoạch và vận chuyển, sinh khối Artemia có thể được ướp đông
để sau đó dùng làm thức ăn cho các trại cá tôm giống hoặc bán làm thức ăn cho sinh
vật cảnh. Một cách khác là có thể sấy khô sinh khối Artemia và dùng như một hợp
phần thức ăn dùng cho ấu trùng (chà bông hoặc chế độ ăn hạt). Cần ghi nhớ những
điều sau đây:
Vì Artemia giàu enzim phân giải protein nên điều quan trọng là phải xử lý
sinh khối lúc artemia còn sống.
Ướp đông càng nhanh càng tốt (các lớp mỏng, nhệt độ thấp), ướp đông
chậm sẽ dẫn đến hoạt động phân giải protein và làm mất các chất dinh dưỡng quan
trọng khi sử dụng về sau.
Nếu sấy khô từ từ (ví dụ phơi nắng) sẽ có hiện tượng ôxy hoá quá mức
(chuyển sang màu đen) và hoạt động phân giải protein sẽ làm thất thoát sản phẩm.
Có thể có được bột sinh khối chất lượng tốt nhất bằng cách ướp đông khô
hoặc sấy khô.
Có thể đạt được chất lượng cho phép bằng cách quay khô (chà bông).
- 14 -
Để tính toán kinh tế , hãy tính đến mất mát 90% trọng lượng (sinh khối chứa
khoảng 90% nước) khi sấy khô sinh khối Artemia.
{Kỹ thuật sấy khô/ướp đông nói trên tham khảo thêm sách giáo khoa chuyên
ngành về chế biến thức ăn.}
1.4.2 Thu hoạch và xử lý trứng bào xác Artemia.
Sau khi thu hoạch trứng bào xác, cần tiến hành một số bước xử lý để có thể
có sản phẩm sạch, tiêu thụ được, đảm bảo các thông số về trứng nở và thời hạn sử
dụng.
Công việc xử lý có thể được chia thành bảy bước kế tiếp nhau, cụ thể là: thu
hoạch, xử lý bằng nước mặn, xử lý bằng nước ngọt, sấy khô, chuẩn bị đóng gói,
đóng gói, và lưu giữ khô.
Bào xác mới giải phóng phát triển ngay thành ấu trùng nauplius, ngay cả khi
ở sinh cảnh có điều kiện ấp trứng thuận lợi. Bào xác còn ở trong trạng thái nghỉ hoạt
động, có nghĩa là toàn bộ hoạt động trao đổi chất bị gián đoạn. Chỉ sau khi khử hoạt
tính của thời kì nghỉ hoạt động này thì bào xác mới có thể phát triển trở lại khi được
ấp trong điều kiện nở chấp nhận được.
Trong suốt quá trình xử lý cần phải thực hiện việc kiểm soát chất lượng một
cách chặt chẽ để có thể điều chỉnh hoặc sửa đổi kỹ thuật xử lý khi cần thiết và để
đạt được sản phẩm cuối cùng có chất lượng thương phẩm tốt.
Bước thu hoạch
Sau khi được giải phóng, bào xác trôi nổi trên mặt nước và dần dần bị gió
làm cho dạt vào bờ. Ở những nơi có gió đổi chiều, bào xác có thể trôi nổi vòng
quanh trong một thời gian dài trước khi bị dạt vào bờ. Nếu các bào xác này được
sản xuất ở các ruộng nuôi có độ mặn thấp (<100ppt) hoặc có hiện tượng phân tầng
độ mặn sau khi mưa thì các bào xác này có thể nở được. Khi nước bị lay động mạnh
và hình thành nhiều bọt, bào xác bị kẹt và mắc trong đám bọt hình thành do không
khí này. Mặt khác, bào xác bị dạt vào bờ có thể phải chịu nhiệt độ cao, sự phát xạ
của tia cực tím và các chu kì thuỷ hợp/ khử nước nhắc đi nhắc lại, do đó khả năng
- 15 -
sống sót của sản phẩm cuối cùng có thể bị giảm đi. Tiếp theo, số bào xác này khi
khô có thể bị cuốn vào không khí.
Sự đảm bảo tối đa để đạt được chất lượng tốt, đồng thời giảm sự nhiễm bẩn
chỉ có được khi bào xác được thu hoạch thường xuyên từ mặt nước.
Bước xử lý trong nước muối
Khử nước trong nước muối
Để có thể cải thiện điều kiện kho chứa hoặc để khử hoạt tính của giai đoạn
nghỉ hoạt động, bào xác thường được khử nước (xuống mức 20-30% nước) trong
nước muối bão hòa ngay sau khi thu hoạch. Khi thiết bị phân ly kích thước và mật
độ được bố trí gần điểm thu gom, việc khử nước trong nước muối được thực hiện
ngay sau khi hoặc kết hợp với việc phân ly mật độ và phân ly kích thước. Song khi
có một khoảng thời giữa thu gom và xử lý, nên tiến hành khử nước trong nước muối
khi phân ly kích cỡ và mật độ trong nước muối để co thể tránh sự giảm đi về chất
lượng.
Phân ly kích cỡ trong nước muối
Công việc này bao gồm việc loại bỏ các mảnh vụn lớn hơn hoặc nhỏ hơn báo
xác (lông vũ, cát, gỗ, đá) bằng cách lọc sản phẩm đã thu hoạch bằng các túi lọc có
kích thước mắt lưới khác nhau (cụ thể là 1mm, 0.5mm, 1.15mm). Đối với nguyên
liệu bào xác có chứa nhiều mảnh vụn (khi thu gom ven bờ) thì sẽ hiệu quả hơn nếu
tiến hành phân ly mật độ trước khi phân ly kích cỡ.
Phân ly mật độ trong nước muối
Việc loại bỏ các mảnh vụn nặng cùng phạm vi kích cỡ với bào xác (khi thực
hiện sau phân ly kích cỡ) được tiến hành thông qua việc phân ly mật độ trong nước
muối. Khi ngập trong nước muối, bào xác trôi nổi trong khi đó các manh vụn nặng
thì chìm xuống. Việc phân ly mật độ thường được thực hiện gần địa điểm sản xuất
(do sẵn có muối bão hòa) ngay sau khi thu hoạch. Có thể kết hợp với việc khử nước
trong nước muối hoặc có thể chuyển bào xác sang bể khử nước muối đặc biệt hoặc
ruộng nuôi sau khi đã phân ly mật độ.
Lưu giữ khô
- 16 -
Lý do của việc lưư giữ khô thường là sự kết hợp của các yếu tố sau đây:
Lưu giữ tạm thời (vài ngày hoặc vài tuần) trước khi có hoạt động xử lý trong
nước muối tiếp theo, tức là:
+ Khi địa điểm xử lý ở xa khu thu gom
+ Khi số lượng thu gom quá nhỏ để xử lý hằng ngày
+ Giữa các lần xử lý trong nước muối khác nhau
Lưu giữ tạm thời trước bước xử lý trong nước ngọt
Kết hợp lưu giữ khô và các phương pháp khử hoạt tính giai đoạn nghỉ
Hoạt động cụ thể
Lưu giữ khô để dùng như một sản phẩm khô ướt (trong vòng 2 đến 3 tháng)
Sau đây là một số phương pháp lưu giữ khô:
a. Lưư giữ trong nước muối độ mặn thấp (tức là nước muối trong ruộng
nuôi):
Có thể lưu giữ được nhiều loài trong nước muối ruộng nuôi với độ mặn thấp
ở mức100ppt trong vài ngày ở nhiệt độ môi trường xung quanh mà không làm giảm
khả năng sống sót. Khi lưu giữ ở nước muối độ mặn thấp, điều quan trọng là làm
sao để bào xác có thể tồn tại trong điều kiện giảm ôxy –huyết nhằm nhăn ngừa sự
trao đổi chất dẫn đến sự nở trứng. Có thể có được điều kiện giảm ôxy huyết khi lưu
giữ với hệ số bào xác/nước muối tương đối cao (20 đến 80% khối lượng/khối
lượng) và không sục khí. Trong một số trường hợp nhất định, bào xác đã được lưu
giữ an toàn ở độ mặn thấp tới 80g/lít tới hai tháng ở nhiệt độ môi trường xung
quanh trong điều kiện giảm ôxy huyết, trong thời gian đó giai đoạn nghỉ hoạt động
từ từ bị khử hoạt tính.
b. Lưu giữ trong nước muối bão hoà:
Sau khi khử nước muối, bào xác có thể được lưu giữ tới một tháng ở nhiệt độ
môi trường xung quanh. Bào xác có thể được lưu giữ trong các thùng chứa để ngập
trong nước muối hoặc bằng cách loại bỏ nước muối thừa (dùng tay ép ) và sản phẩm
nửa ẩm này có thể được trong các túi bằng vải bông hoặc đay, số nước muối còn lại
sẽ tiếp tục rò rỉ trong quá trình lưu trữ. Khi lưu giữ sản phẩm dưới dạng sản phẩm
- 17 -
nửa ẩm như vậy trong một thời gian dài hơn(>1 tuần) ở những nơi có độ ẩm tương
đối cao thì muối khô cần được trộn với bào xác để ngăn ngừa sự tái thuỷ hợp của
bào xác có tính hút ẩm cao này. Lưu giữ trong điều kiện giảm ôxy-huyết hoặc với
mức ôxy thừa (như là một sản phẩm nửa ẩm) xem ra ít ảnh hưởng tới thời gian lưu
kho tối ưu, với điều kiện bào xác được khử nước một cách thoả đáng. Thực tế thì
bào xác cần được lưu trữ trong các túi nếu được vận chuyển một khoảng cách dài
(dể xử lý, trọng lượng ít hơn ). Ngoài sự khử hoạt tính của giai đoạn nghỉ hoạt động
như một kết quả của bản thân của quá trình khử nước, sự lưu giữ trong nước muối
có thể khử thuộc tính giai đoạn nghỉ hoạt động đối với một số dòng mẻ nuôi nhất
định.
c. Lưu giữ lạnh:
Nhiều dòng mẻ nuôi bào xác có thể được lưu giữ từ vài tháng tới một năm ở
nhiệt độ trong khoảng -20 C đến 4C. Đối với một số loài / dòng bào xác nhất định,
sự lưu giữ lạnh trong vòng vài tháng là một phương pháp thích hợp đối với việc khử
hoạt tính giai đoạn nghỉ hoạt động. Do chi phí cao và hạn chế về kho lạnh ở gần địa
điểm thu hoạch cho nên chỉ nên xét đến việc lưu giữ lạnh khi cần đến phương pháp
khử hoạt tính giai đoạn nghỉ hoạt động đặc trưng này. Mặc dù nhiều dòng mẻ nuôi
đã được lưu giữ an toàn không cần khử nước một cách thích đáng nhưng bào xác
thường được khử nước trong nước muối bão hoà và được đóng gói dưới dạng sản
phẩm ẩm trước khi lưu giữ lạnh.
Sử dụng như một sản phẩm nửa ẩm:
Bào xác lưu giữ trong nước muối bão hoà có thể sử dụng được như một sản
phẩm nửa ẩm được làm sạch một phần trong vòng 2 đến 3 tháng sau khi thu hoạch.
Sau 2 đến 3 tháng lưu giữ trong nước muối, tỷ lệ nở trứng thường bị giảm đi. Nếu
cần thiết thì có thể có được sản phẩm bào xác sạch bằng cách áp dụng bước xử lý
nước ngọt.
Bước xử lý trong nước ngọt
Xác tiếp tục được làm sạch thông qua phân ly mật độ và được chuẩn bị sau
đó để sấy khô. Vì dùng nước ngọt cho nên bào xác sẽ thuỷ hợp một phần. Nếu bào
- 18 -
xác ở trong trạng thái thuỷ hợp quá lâu trong điều kiện sục khí thì trên thực tế phôi
sẽ đạt đến trạng thái không thể đảo ngược được của sự trao đổi chất dẫn đến nở
trứng (tức là không thể khử nước bào xác mà không ảnh hưởng tới sự sống sót của
phôi ). Thời gian chính xác để đạt đến trạng thái không thể đảo ngược được phụ
thuộc rất nhiều vào dòng mẻ nuôi cụ thể nhưng có thể là rất ngắn –khoảng 6 giờ.
Ngay cả khi bào xác được khử nước trước khi đạt đến giai đoạn trao đổi chất không
thể đảo ngược được thì dự trữ năng lượng của bào xác đã có thể bị cạn kiệt đến mức
làm giảm tỷ lệ nở trứng. Để ngăn ngừa sự trao đổi chất kéo dài và hệ quả cạn kiệt
năng lượng việc xử lý trong nước ngọt phải được giới hạn tối đa là 30 phút. Bước
xử lý trong nước ngọt gồm các hoạt động sau:
Loại bỏ nước muối thừa:
Trước khi phân ly mật độ trong nước ngọt, nước muối thừa cần được loại bỏ
để ngăn ngừa sự gia tăng độ mặn (mật độ ) của nước tiếp theo đó là sự phân ly dưới
mức cực thuận.
Phân ly mật độ trong nước ngọt :
Bào xác để ngập trong nước ngọt sẽ phân ly thành một bộ phận mật độ cao
(chìm) và một bộ phận mật độ thấp (trôi nổi). Bộ phận chìm chủ yếu là các bào xác
đầy đặn và một số chất không phải là bào xác có mật độ và kích thước tương đương
như các bào xác đầy đặn. Một số bào xác rỗng và vỏ bị nứt còn lại trong bộ phận
chìm sẽ được loại bỏ ở giai đoạn sau bởi sự phân loại bằng không khí. Bộ phận trôi
nổi chứa chủ yếu là các bào xác rỗng, bị nứt và các chất nhẹ không phải là bào xác
có kích thước tương tự. Đối với một số dòng bào xác, bộ phận trôi nổi có thể còn
chứa một số lượng đáng kể các bào xác đầy đặn có tỷ lệ nở tương đối cao (tức là từ
50 đến 80%). Song, vì sự có mặt của các vỏ rỗng và các chất nhẹ không phải là bào
xác, hiệu quả nở trứng của khối vật chất này thường rất thấp. Khi sẳn có thì khối vật
chất bào xác này còn có thể được dùng như sản phẩm loại hai.
Khử trùng:
Để giảm vi khuẩn ở sản phẩm bào xác cuối cùng (giảm nhu cầu ôxy trong
khi nở, giảm nồng độ tác nhân gây bệnh), bào xác có thể được khử trùng trong quá