Tải bản đầy đủ (.pdf) (142 trang)

Đánh giá tài nguyên du lịch Thanh Hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.74 MB, 142 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐÁNH GIÁ TÀI NGUYÊN DU LỊCH
THANH HOÁ
Mã sô CBX2004
Chủ trì đề tài: PG S-TS Trần Đức Thanh
ĐA: HỌC Quoc GIA HA IMO'
■' ■ T/&V ~HÔIMG TIN THi ■ -'Ềr

/
59
Hà Nội - 2005
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường và trong xu thế hội nhập, việc khai
thác có hiệu quả tài nguyên là một vấn đề đặt ra có tính hết sức cấp bách. Để đạt
được điều đó, cần phải tiến hành đánh giá lại các nguồn lực. Trong du lịch, một
trong những nguồn lực quan trọng là tài nguyên du lịch. Trên cơ sở đánh giá
một cách chính xác tài nguyên du lịch theo vùng lãnh thổ mới có thể xây dựng
được các bản quy hoạch, đưa ra được chiến lược khai thác không gian một cách
bền vững, vừa thoả mãn nhu cầu của thế hệ hôm nay, vừa đảm bảo nhu cầu cho
các thế hệ mai sau.
Thanh Hoá được coi là một trong 14 tỉnh có tiềm năng phát triển du lịch
lớn nhất của nước ta. Tuy nhiên hoạt động du lịch ở đây chỉ chiếm một tỷ trọng
rất khiêm tốn. Lượng khách năm 2004 chỉ có 701.800 lượt, doanh thu 160 tỷ
đổng và nộp ngân sách 10,53 tỷ. Các nhà kinh tế chưa đầu tư nhiều vào du lịch
Thanh Hoá như ở một số tỉnh khác. Một trong những nguyên nhân là họ thiếu
thông tin về khả năng khai thác tài nguyên, về tiềm năng du lịch của tỉnh.
Về phía Khoa Du lịch trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn cho
đến nay đã bắt đầu có môn Đánh giá tài nguyên du lịch cho hệ cao học. Tuy
nhiên các tài liệu hầu như rất ít, đặc biệt là tài liệu về đánh giá tài nguyên du


lịch của Việt Nam.
Trước thực tế đó việc thực hiện mảng đề tài về đánh giá tài nguyên du lịch
là hết sức cần thiết, vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn.
Mục đích của đề tài
Đề tài có các mục tiêu sau:
1
1. Tổng hợp, bổ sung và hoàn thiện các phương pháp đánh giá tài nguyên
du lịch, đặc biệt theo hướng lượng hoá các chỉ tiêu định tính
2. Qua việc áp dụng đánh giá cụ thể tài nguyên du lịch Thanh Hoá, rút ra
những kinh nghiệm trong công tác đánh giá.
3. Tạo ra một sản phẩm đánh giá tin cậy để tỉnh Thanh Hoá có cơ sờ xây
dựng và kêu gọi các dự án đầu tư vào du lịch, góp phần khai thác có hiệu quả
tiềm năng du lịch.
4. Làm cơ sở để xây dựng giáo trình đánh giá tài nguyên du lịch, phục vụ
giảng dạy
5. Tạo thành đề tài khoá luận, luận văn và NCKH cho sinh viên và học
viên cao học
Nhiệm vụ nghiên cứu
-Nghiên cứu, tổng hợp và xây dựng tổng quan về các phương pháp đánh
giá tài nguyên du lịch
-Khảo sát tài nguyên du lịch Thanh Hoá
-áp dụng đánh giá tài nguyên du lịch theo địa bàn huyện thị
Khách thè và đối tượng nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu là những công trình có liên quan và tỉnh Thanh
Hoá. Đối tượng nghiên cứu là các phương pháp (định tính và định lượng) có khả
nâng áp dụng để đánh giá tài nguyên du lịch, tài nguyên du lịch tỉnh Thanh Hoá.
Phạni vi nghiên cứu
Do điều kiện thời gian (đề tài 1 năm) và kinh phí rất hạn chế nên đề tài
chỉ giới hạn ở việc khảo sát đánh giá một số điểm du lịch chìa khoá và chi đánh
giá ờ 14 /27 đơn vị hành chính cấp huyện, về cơ bản tài nguyên du lịch của

Thanh Hoá tập trung hầu hết ở trên địa bàn 14 đơn vị hành chính này.
Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
2
Quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
Quán triệt quan điểm này, đề tài đã xem xét đánh giá tài nguyên du lịch
Thanh Hoá theo quá trình phát triển nhu cầu và điều kiện kinh tế xã hội cụ thể
của tỉnh, có tính đến khả nãng biến đổi và xu thế phát triển của nó.
Quan điểm, đường lối của Đáng
Mục tiêu phấn đấu của Đảng ta là dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, vãn minh. Đây phải là kim chỉ nam cho mọi hành động nói chung, cho
mọi hoạt động nghiên cứu khoa học nói riêng. Do vậy mục đích của đtài này
cũng dựa theo hướng phần nâng cao đời sống của nhân dân, góp phần làm cho
xã hội bình đẳng hơn, văn minh hơn, làm cho nước ta nói chung, Thanh Hoá nói
riêng thực sự mạnh về kinh tế, vững về chính trị, ổn định về xã hội.
Quan điểm hệ thông
Nội dung của quan điểm hệ thống được quán triệt khi nghiên cứu, đánh
giá hoạt động du lịch của điểm du lịch Thanh Hoá. Đó là đề tài đã xem xét nội
dung nghiên cứu trong tình hình hoạt động du lịch của tiểu vùng du lịch Trung
tâm và rộng hơn nữa của vùng du lịch Bắc Bộ và cả nước. Hoặc khi nghiên cứu
về hoạt động điều hành quản lý nhà nước về du lịch ở Thanh Hoá với tư cách
một phân hệ trong hệ thống lãnh íhổ du lịch đề tài đã dựa vào các văn bản pháp
quy của nhà nước, cụ thể là của Tổng cục Du lịch Việt Nam. Trong khi đó cũng
phải thấy rõ quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về du lịch
ở cấp tỉnh trong việc chỉ đạo các cơ quan cấp dưới.
Quan cỉiểm tổììg hợp
Nếu như coi quan điểm hệ thống là cách nhìn đối tượng trong bảng phân
vị thì quan điểm tổng hợp cho cách nhìn sự vật trong mối tương quan với các
lĩnh vực khác. Mặc dù đề tài nghiên cứu về đánh giá tài nguyên phục vụ mục
đích phát triển du lịch nhưng vẫn cân nhắc đến gía trị của tài nguyên đó đối với
một lĩnh vực kinh tế hay văn hoá xã hội nào khác của tỉnh.

Phương pháp luận
3
Thu thập và phán tích tư liệu
Tư liệu mà chúng tôi thu thập bao gồm các công trình nghiên cứu được
đăng tải trên các tạp chí, được in thành sách, trên internet v.v (xem TLTK cuối
các chương) Chúng có dưới dạng bài viết, dưới dạng bản đồ, bảng sô' liệu hay
dưới dạng khác. Chỉ trong một thời gian tương đối ngắn người nghiên cứu đã có
được một cái nhìn khái quát về vấn đề nghiên cứu, những kết quả đã được giải
quyết và những vấn đề còn đang tổn tại. Tuy nhiên phương pháp này có một số
hạn chế nhất định. Trước hết đó là sự không nhất quán của các tư liệu có được.
Hạn chế thứ hai là các sô' liệu, dữ kiện không mang tính thời sự. Hạn chế thứ ba
là các kết luận, đề xuất, kiến nghị được đưa ra mang tính chủ quan của tác giả,
nhiều khi những điều này không còn phù hợp với hiện tại.
Kết quả nghiên cứu bằng phương pháp nghiên cứu này là cơ sở để hoạch
định cho công tác điền dã (nghiên cứu, điều tra thực địa) sẽ được trình bày dưới
đây.
Điền dã (nghiên cứu thực địa)
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát 2 đợt. Đợt 1 vào tháng 10 năm 2004 và
đợt 2 vào tháng 3 năm 2005. Do điều kiện kinh phí và thời gian hạn chê nên
chúng tôi không thực hiện được điều tra sâu hơn (vào mùa du lịch, mùa chết) để
có được thông tin đầy đủ. Song nó là công cụ hữu hiệu để bổ sung, chính xác
hoá và cập nhật những thông tin còn thiếu hay đã lỗi thời, điểm yếu của phương
pháp thu thập nghiên cứu tư liệu.
Các phương pháp diều tra xã liội liọc
Phương pháp điều tra xã hội học cho phép tìm thấy những thông tin cần
thiết để điều chỉnh, đưa ra các đề xuất phù hợp Chúng tôi đã sử dụng lực lượng
sinh viên và nhân viên tại chỗ để tiến hành điều tra.
Phương pháp nghiên cứu
4
Trong đề tài này, do kinh phí rất hạn chế nên chúng tôi chì mới dùng

Mapiníò và phương pháp nhân bản truyền thống.
Bố cục của báo cáo
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phần nội dung của báo
cáo có 3 chương.
Chương 1. Tổng luận về tài nguyên du lịch và đánh giá tài nguyên du
lịch.
Chương 2. Khảo sát giá trị của tài nguyên du lịch Thanh Hoá
Chương 3. Nhận xét và đề xuất của đề tài
Phương pháp bản đồ
5
CHƯƠNG l.TổNG LUẬN VỂ TÀI NGUYÊN DU
LỊCH VÀ ĐÁNH GIÁ TÀI NGUYÊN DU LỊCH
1.1. Tài nguyên du lịch
2.2.1. 1.1.1. Khái niệm
Tài nguyên là tất cả những nguồn nâng lượng, vật chất, thông tin và tri
thức được khai thác phục vụ cuộc sống và sự phát triển của xã hội loài người. Đó
là những thành tạo hay tính chất của thiên nhiên, những công trình, những sản
phẩm do bàn tay khối óc của con người làm nên, những khả năng của loài
người được sử dụng phục vụ cho sự phát triển kinh tế và xã hội của cộng đồng.
Xét về mức độ tiềm tàng, tài nguyên được chia thành 2 loại. Đó là tài
nguyên có thể hữu hạn và tài nguyên vô hạn. Cãn cứ vào sự biến đổi của tài
nguyên sau khi sử dụng có thể chia tài nguyên hữu hạn thành tài nguyên có thể
tái tạo được và tài nguyên không thể tái tạo được. Loại thứ nhất là loại sau khi sử
dụng chúng mất đi giá trị ban đầu của mình, không có cách nào, hoặc nếu có thì
cũng phải chi phí hơn nhiều lần giá trị thu được từ sử dụng chúng, để đưa chúng
về giá trị ban đầu đó. Có những loại tài nguyên sau khi sử dụng có khả năng đưa
chúng về giá trị ban đầu. Giữa khái niệm hữu hạn và vô hạn cũng không có ranh
6
giới rõ rệt. Một số tài nguyên nếu khai thác hợp lí thì có thể là loại vô hạn, song
nếu khai thác bất hợp lí cố thể làm chúng cạn kiệt dần, trở nên hữu hạn.

Có loại tài nguyên thể hiện ở chính sự tồn tại vất thể cùa mình và cũng có
loại tài nguyên thể hiện giá trị cùa mình dưói các dạng phi vật thể như nhiệt
năng, cơ năng
Tài nguyên du lịch, theo Pircỹnik “là những tổng thể tự nhiên và văn hoá-
lịch sử và những thành phần của chúng, tạo điều kiện cho việc phục hồi và phát
triển thể lực và tinh thần của con người, khả năng lao động và sức khoẻ cùa họ,
trong cấu trúc nhu cầu du lịch hiện tại và tương lai, trong khả năng kinh tế-kỹ
thuật cho phép, chúng được dùng để trực tiếp và gián tiếp sản xuất ra những dịch
vụ du lịch và nghi ngoi”
Nguyễn Minh Tuệ và nnk cũng cho rằng “Tài nguyên du lịch là tổng thể
tự nhiên và vãn hoá-lịch sử cùng các thành phần của chúng góp phần khôi phục
và phát triển thể lực và trí lực của con người, khả năng lao động và sức khoẻ của
họ, những tài nguyên này được sử dụng cho nhu cầu trực tiếp và gián tiếp, cho
việc sản xuất dịch vụ du lịch”
Trong Luật du lịch Việt Nam ban hành năm 2005 tại chương 1, điều 4
mục 4. Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tổ' tự nhiên, di tích lịch
sừ - văn hoá, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân vãn
khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để
hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch.
Còn có nhiều định nghĩa khác nữa về tài nguyên du lịch. Tuy nhiên hầu
hết các định nghĩa này chưa phản ánh được bản chất cùa tài nguyên du lịch.
Pirojnik và một số học giả cho rằng tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên, kinh
tế, vãn hoá được sử dụng để phục hồi sức khoẻ của con người. Trên cơ sở này họ
cho rằng địa hình, thuỷ văn, khí hậu, thế giói động thực vật, di tích, lễ hội
v.v là những tài nguyên du lịch. Thế nhưng rõ ràng rằng không phải bất cứ mọi
dạng, mọi kiểu địa hình, không phải bất cứ kiểu khí hậu nào v.v cũng đều có
7
khả năng thu hút khách du lịch, hay nói cách khác không phải tấtc* chun® đ
có thể được khai thác cho kinh doanh du lịch. Nhiều khi có nhưng ki ’
thuỷ văn, khí hậu lại là những điều kiện bất lợi, cản trơ việc thu hut kh

nếu ở Đà Lạt có khí hậu như ờ Vũng Tàu hay ngược lại thì liệu Đà Lạt và Vũng
Tàu có tên trên bản đồ du lịch nước ta như hiện nay không? Cung theo cach
này khó có thể nói được Văn Miếu-Quốc Tử Giám, địa đạo Cu Chi, khi hậu Đ
Lạt đã trở thành tài nguyên du lịch từ bao giờ. Như vậy cái gì lam cho nươe
khoáng Khánh Hội, Kim Bôi trở thành tài nguyên du lịch? Khi nước khoáng này
chỉ được đóng chai để bán rộng rãi trên thị trường trong và ngoài nước thi no co
thể được coi là tài nguyên du lịch không? Từ nhũng vấn đề trên chúng ta thây
được rằng khái niệm tài nguyên ữong du lịch có nét khác biệt so với trong cac
ngành kinh tế khác. Nếu như rừng được coi là tài nguyên vì con người có thê
khai thác được từ đây chất đốt, vật liệu xây dựng, nguồn thực phẩm thì chúng
được coi là tài nguyên du lịch vì một lí do hoàn toàn khác. Người ta đên vói rừng
vì sự trong lành của môi trường, vì muốn hiểu biết thêm về thế giới tự nhiên, vì
muốn thử sức mình v.v Tại sao mọi người đắm mình trước các bức tranh nổi
tiếng ở Viện Bảo tàng Ermitage, Louvre hay Viện Bảo tàng Mĩ thuật trong lời
giải thích của người thuyết minh. Cái gì làm cho du khách ngẩn ngơ khi đứng
trước các công trình kiến trúc lớn hoặc hiện đại như tháp Eiffel, nhà hát opera
Sydney, tháp truyền hình Thượng Hải? Rõ ràng rằng mọi người đến tham quan
nhà thờ Phát Diệm vì một kiểu kiến trúc nhà thờ kì lạ là chính chứ không phải
chỉ thoả mãn nhu cầu tâm linh (nếu có).
Như vậy tài nguyên du lịch phải là những giá trị thẩm mĩ, lịch sử văn
hoá, tâm linh, giải trí, kinh tế của các thành tạo tự nhiên, những tính chất của
thiên nhiên, các công trình, sản phẩm do bàn tay hay trí tuệ của con ngưòi làm
nên có sức hấp dẫn vói du khách hoặc được khai thác phục vụ phát triển du lịch.
Từ đây có thể dễ dàng nhận thấy rằng sự tồn tại dưới dạng vật thể của
.htah „0 Mên „hiẽ„ hoạc cùa các sàn phầm do con „gưùi ạ 0 „ M có m
nghĩa nhât định dc chúng dưọc coi là tài nguyen du lịch m
8
không phải sự tồn tại dưới dạng vật thể mà chủ yếu là các giá trị (phi vật thể) đã
làm cho các thành tạo tự nhiên, các sản phẩm do con người tạo ra trờ thành tài
nguyên du lịch.

2.2.2. 1.1.2. Đặc điểm của tài nguyên du lịch
Tài nguyên của mỗi loại hình du lịch mang tính đặc thù của chúng, tài
nguyên chủ yếu cho các loại hình du lịch nghỉ dưỡng là các loại nước khoáng và
bùn chữa bệnh, thời tiết và khí hậu thích hợp cho việc chữa bệnh; các hang động
và mỏ muối với kiểu vi khí hậu của nó. Nghỉ ngơi bồi dưỡng sức khoẻ sử dụng
thời kỳ có khí hậu thích hợp, nước, thực vật, địa hình và các thành phần cũng
như các đặc điểm của cảnh quan tạo nên hiệu quả bồi dưỡng sức khoẻ. Du lịch
thể thao và các cuộc hành trình cần những đặc điểm đặc biệt của lãnh thổ như:
những chướng ngại vật (bến đò, đèo, ghềnh, thác ) nhưng vẫn có thể vượt qua
được, dân cư thưa thớt và ở cách xa trung tâm. Đối với tham quan du lịch, cần
những danh lam thắng cảnh tự nhiên và lịch sử văn hoá, các cổng trình kinh tế
lớn, những ngày lễ dân gian và những thành phần văn hoá dân tộc (trò chơi dân
tộc, thủ công mỹ nghệ truyền thống).
Tất cả những tài nguyên du lịch này đều mang các đặc điểm sau:
1) Thời kỳ có thể khai thác (thời gian có thể tắm được ở các lưu vực, thời
gian tồn tại của lớp tuyết phủ bền vững) để xác định mùa vụ, nhịp điệu du lịch.
2) Sự ổn định về mặt lãnh thổ của phần lớn các dạng tài nguyên, tạo ra sự
hấp dẫn đối với du lịch và các luồng khách du lịch.
3) Vốn đầu tư tương đối thấp và chi phí cho khai thác không cao, cho
phép tạo được cơ sờ vật chất kỹ thuật trong một thời gian ngắn và thu được hiệu
quả kinh tế, đồng thời có thể sử dụng từng dạng tài nguyên riêng biệt một cách
không chuyên.
4) Khả năng sử dụng nhiều lần theo định mức sử dụng hợp lý tài nguyên
thiên nhiên và tiến hành các biện pháp cần thiết để cải thiện, bảo dưỡng.
9
Khi đánh giá tài nguyên du lịch cần chú ý đến toàn bộ các chi tiêu và có
chỉ dẫn rõ ràng khách thể đánh giá (loại tài nguyên, đối tượng, lãnh thổ) và chủ
thể đánh giá (loại hình du lịch, chu kỳ hoạt động du lịch, hình thức nghi ngoi).
Trong địa lý du lịch có 3 kiểu đánh giá tài nguyên du lịch : 1) y-sinh (sinh lý)
khi cần xác định được mức độ thuận lợi của môi trường cảnh quan tự nhiên cho

việc tổ chức nghỉ ngơi ; 2) tâm lý-thẩm mỹ, khi phân tích đặc điểm tác động về
mặt cảm xúc của môi trường tự nhiên tới người đi nghỉ, sự phong phú, đa dạng
các đối tượng tự nhiên và lịch sử-văn hoá ; 3) đánh giá kỹ thuật ở đây xác định
lợi ích cùa những tài nguyên-cho việc tổ chức các dịch vụ du lịch-nghỉ dưỡng
khác nhau, khả năng hình thành các hệ thống lãnh thổ du lịch chuyên môn và
tổng hợp (Mukhina 1973). Tính chất tổng hợp của các tài nguyên du lịch đòi hỏi
phải kết hợp cả ba kiểu đánh giá để xác định được giá trị của tài nguyên, hình
thức sử dụng chúng một cách hợp lý. Người ta cũng dự thảo các phương pháp
đánh giá kinh tế tài nguyên du lịch, chú ý đến cơ chế tạo lợi nhuận, so sánh chi
phí khai thác tài nguyên một loại hình, gắn với hiệu quả kinh tế cùa dịch vụ du
lịch thu được trong lĩnh vực sản xuất vật chất, lượng dịch vụ có sẩn và lợi nhuận
nhận được từ việc khai thác tài nguyên du lịch.
2.2.3. 1.1.3. Phàn loại tài nguyên du lịch
Có nhiều cách phân loại tài nguyên du lịch. Thông thường theo nguồn gốc
thành tạo người ta phân loại chúng thành tài nguyên du lịch tự nhiên và tài
nguyên du lịch nhân văn. Một số tác giả gọi tài nguyên du lịch do con người tạo
ra là tài nguyên du lịch nhân tạo. Điều này không phù hợp với nghĩa cùa từ nhân
tạo vì không phải bất cứ thứ gì do con người làm ra cũng đều được coi là nhân
tạo. Mặt khác, theo định nghĩa vừa nêu về tài nguyên du lịch có thể thấy sự
khác biệt cơ bản giữa khái niệm tài nguyên trong du lịch và các lĩnh vực khác là
giá trị của chúng. Một số học giả chia thành tài nguyên hữu thể và tài nguyên
phi vật thể hoặc tài nguyên hữu hình và vô hình. Quan niệm hữu thể và vô thể,
hữu hình và vô hình khá trực giác. Theo họ, những gì có thể nhìn thấy được, sờ
nắm được gọi là hữu thể hay hữu hình, ngược lại là vô thể. Những ví dụ có thể
10
minh hoạ họ có thể đưa ra về hữu thể như Vãn Miếu-Quốc Tử Giám, Hạ Long,
Nhà thờ Phát Diệm; làn điệu dân ca, phong tục tập quán là vô thể. Tuy nhiên,
như đã trình bày ở trên, bất cứ một thứ gì được coi là tài nguyên du lịch khi và
chỉ khi nó có sức hấp dản du khách hay nói cách khác chúng có một nào đó.
Những giá trị này có thể nhận được khi du khách nhìn thấy (giá trị thẩm mỹ, giá

trị kiến trúc nghệ thuật ), hoặc sau khi nghe thấy (giá trị lịch sử, giá trị vãn
hoá ).
2.2.4. 1.1.4. Tài nguyên du lịch tự nhiên
Phong cảnh ngoạn mục
Địa hình là tập hợp của vô vàn những thể lồi lõm hoặc tương đối bàng
phẳng, phân cách với nhau bởi những đường ranh giới ít nhiều rõ ràng, tức là tập
hợp của các dạng địa hình
Phong cảnh là tổ hợp các hợp phần tự nhiên (địa hình, lớp phủ thực vật)
mà con người có thể nhìn thấy được.
Độ hấp dẫn cùa tổng thể tự nhiên là những đặc điểm như: sự kỳ thú (mức
độ tương phản của các cảnh quan khu vực du lịch so với khu vực thường trú),
tính độc đáo (tần số lặp lại hay không bao giờ lạp lại của các đối tượng và hiện
tượng). Nó biểu hiện qua sự đa dạng của phong cảnh thiên nhiên ở khu vực.
Trong địa lý du lịch còn nghiên cứu một dạng đánh giá tổng thể tự nhiên đặc
biệt- đó là đánh giá thẩm mỹ. Việc đánh giá này phản ánh kết quả phân tích mối
tương quan giữa các nhóm du khách khác nhau (thí dụ như những người ở miền
đồng bằng và những người ờ miền núi cao) với những tổng thể tự nhiên thông
qua đặc điểm kỳ thú của các vùng tự nhiên.
11
Khi đánh giá thẩm mỹ cảnh quan của khu vực, cần chú ý đến sự biến
động theo mùa của thiên nhiên, đặc điểm chia cắt địa hình, độ che phủ rùng, độ
ngập nước, đầm lầy, sự phân bô' dân cư, cho phép phân vùng thẩm mỹ cảnh
quan trong khu vực theo vẻ đẹp của nó.
Khí hậu phù hợp
Trạng thái khí quyển với tập hợp các hiện tượng, quá trình vật lý quan sát
được trong khí quyển tại một thời điểm nhất định gọi là thời tiết. Thời tiết luôn
biến đổi theo thời gian và không gian.
Khí hậu là chế độ thời tiết đậc trưng nhiều năm, được tạo nên bời bức xạ
mặt trời, đặc tính của mặt đệm và hoàn lưu khí quyển. Nói một cách khác, khí
hậu là trạng thái trung bình của thời tiết.

Các yếu tố chính của khí hậu là bức xạ mạt trời, lượng mây che phủ bầu
trời, áp suất khí quyển, tốc đọ gió và hướng gió, nhiệt độ không khí, lượng giáng
thuỷ, lượng bốc hơi.
Bức xạ mặt trời là tổng năng lượng của mật trời đi đến mặt đất. Năng
lượng này truyển xuống chủ yếu dưới dạng quang nãng, sau đó chuyển hoá
thành nhiệt năng và cơ năng. Lượng nãng lượng này là nhân tố chính tạo nên
thời tiết của trái đất. Do Trái đất có dạng hình cầu nên cường độ bức xạ mặt trời
mà các nơi trên trái đất nhận được sẽ không như nhau, tạo nên sự khác biệt về
thời tiết. Những vùng ở vĩ độ thấp nhận được nguồn nãng lượng nhiều hơn nên
có khí hậu nóng hơn hai vung cực.
Lượng mây xuất hiện ít hay nhiều trên bầu trời ảnh hường đến cường độ
bức xạ mặt trời đi đến mặt đất. Do vậy đây là một yếu tô' quan trọng tạo nên
thời tiết của địa phương.
Khí áp là lực tác dụng lên một đơn vị diện tích của trọng lượng cột không
khí có chiều cao bằng chiều dày của khí quyển tại một điểm cụ thể nào đó. Khí
áp ở vùng núi sẽ nhỏ hơn khí áp của vùng ven biên. Ngoài ra, khí áp còn phụ
12
thuộc vào lượng khí bị dồn nén làm khối lượng riêng của nó tăng hay giảm hơn
bình thường trong các điều kiện có gió, bão hay thay đổi nhiệt độ.
Nhiệt độ không khí thể hiện cường độ bức xạ mặt trời mà bề mặt trái đất
tại một điểm cụ thể nhận được. Một trong những yếu tố có tác động đến nhiệt
độ là độ hấp thụ nhiệt của bề mặt nhận quang năng. Bề mặt càng tối (sẫm màu)
thì tỷ lệ năng lượng dưới dạng quang năng chuyển sang nhiệt năng càng lớn và
ngược lại.
Như phân trên đã trình bày, khí hậu tồn tại ở mọi vùng trên Trái đất. Do
vậy khó có thể nói khí hậu là tài nguyên du lịch tự nhiên được. Cũng như địa
hình, khí hậu nhìn chung được coi là điều kiện của hoạt động du lịch. Tuy nhiên
ở một số nơi, nếu không có điều kiện khí hậu phù hợp không thể triển khai được
một số loại hình du lịch cụ thể. Ví dụ Vũng Tàu không thể là một bãi biển nổi
tiếng, thu hút hàng triệu khách mỗi năm nếu ở đó có khí hậu như Đà Lạt hoặc Sa

Pa. Ngược lại Đà Lạt, Sa Pa sẽ không có tên trên bản đổ du lịch Việt Nam nếu ở
đây có khí hậu nóng như ờ Vũng Tàu. Như vậy không phải cứ khí hậu ôn hoà,
mát mẻ được coi là tài nguyên du lịch mà phải là có khí hậu phù hợp với loại
hình du lịch nào đó.
Tài nguyên nước
Đối với đời sống con người, nước là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá.
Đối với du lịch nước cũng có thể được coi là tài nguyên, đặc biệt là nước mặt và
nước ngầm. Nước mặt là nước tồn tại trên bề mặt trái đất ở trông các sông hồ,
biển đại dương
Ngoài giá trị đối với đời sống con người là cung cấp nguồn nước phục vụ
sinh hoạt và phục vụ sản xuất hàng ngày, hệ thống sông ngòi có 2 ý nghĩa lớn
đối với đu lịch. Đó là tạo nên cảnh quan đẹp hấp dẫn du khách. Những dòng
sông uốn lượn quanh co chảy êm đềm ở các vùng đổng bằng hoặc những thác
nước ào ào xối xả ở vùng rừng núi có sức hấp dẫn kỳ lạ đối với khách du lịch từ
13
mọi nơi. Bên cạnh đó, hộ thống sông ngòi còn là điều kiện để phát triển các loại
hình du lịch sông nước như du lịch thể thao nước, du lịch trên du thuyền
Theo các nhà địa mạo học, hồ được hình thành do nhiều nguyên nhân
khác nhau. Có thể chia hồ thành các loại hồ tiềm thực, hồ móng ngựa, hồ núi
lửa, hồ kiến tạo, hồ nhân tạo. Mỗi nguyên nhân thành tạo sẽ để lại những dấu ấn
nhất định trên hình dạng và đặc điểm của hồ.
Hồ nhân tạo là những hồ được hình thành do sự can thiệp của con người.
Thông thương có 2 mục đích chính để xây dựng hồ nhân tạo. Thứ nhất là mục
đích trữ nước phục vụ tưới tiêu và sinh hoạt hàng ngày. Thứ hai là trữ nước để
khai thác thế nãng của chúng trong sản xuất điện năng. Tuy nhiên theo thời
gian, giá trị du lịch cùa chúng ngày càng rõ net, thậm chí đôi khi người ta quên
mất vai trò ban đầu của các hồ này. Đặc điểm của hồ nhân tạo là khá rộng lớn,
nhiều “đảo” do các đình núi bị ngập nước tạo thành.
Hồ núi lửa, xuất hiện khi núi lửa đã bị “chết”. Hồ núi lửa có miệng hình
tròn, độ dốc đáy hồ lớn, dạng hình phễu. Thông thường nước trong hồ rất trong

xanh.
Hổ xâm thực là loại hồ được hình thành do vận động sụt lún cùa vỏ trái
đất gây ra. Trong các loại hồ này, cần chú ý đến loại hổ hình thành trên nền đá
mẹ là đá vôi. Lớp đá này có nhiều vết nứt, hang ngầm dưới lòng hồ. Những khe
nứt này đã làm yếu, đôi khi triệt tiêu lực đẩy của nước trong hồ. Do vậy tắm
trong các hồ này rất nguy hiểm, ngay cả đối với người giỏi bơi lội.
Hồ móng nsựa là loại hồ hình thành sau hiện tượng đổi dòng cùa sông.
Tất cả các con sông đểu có dạng miandre (rắn lượn). Khi mùa mưa tới. nhiều
đoạn nước không chảy kịp theo lòng sông đã tràn bờ và chảy thảng xuống nơi
thấp hơn. Đoạn cong của sông trở thành một khúc sông “chết”. Các hồ này có
hình như một chiếc móng ngựa nên các nhà địa mạo học đã lấy luôn hình tượng
đó đặt tên cho loại hổ này. Đặc điểm của hổ này là mực nước lên xuống theo
chế độ thuỷ văn cùa sông mẹ, sổng đã sinh ra hồ móng ngựa.
14
Theo Ngô Ngọc Cát, Nguyễn Xuân Tãng và Tô Đình Huyên 1990(l) Nước
khoáng là nước thiên nhiên (chủ yếu là nước dưới đít) có chứa một số thành
phần vật chất đặc biệt (các nguyên tô' hoá học, các khí, các nguyên tố phóng
xạ ) hoặc có một sô' tính chất vật lý (nhiệt độ cao, độ pH ) có tác dụng sinh lý
đối vói con người.
Vói tư cách là tài nguyên du lịch, nước khoáng là nước thiên nhiên (chủ
yếu là nước dưới đất) có chứa một sô' thành phần vật chất đặc biệt (các nguyên
tố hoá học, các khí, các nguyên tô' phóng xạ ) hoặc có một số tính chất vật lý
(nhiệt độ cao, độ pH ) có tác dụng tốt đối với sức khoẻ con người.
Thế giới động thực vật
Khác với các loại tài nguyên du lịch tự nhiên kể trên, bản thân thế giới
động thực vật đã có sức hấp dẫn đối với du khách. Trong khi con người đang tìm
mọi cách tạo ra một môi trường kỹ thuật dễ chịu hơn so với môi trường thiên
nhiên, cũng tức là càng tách biệt với mỏi trường tự nhiên thì ngược trờ lại, với tư
cách là một thực thể của thiên nhiên, con người lại muốn quay trở vể với thiên
nhiên. Điều này thể hiện rõ ở sở thích của những người sống trong các đô thị,

các nước có nền công nghiệp phát triển. Do vậy, thế giơí động thực vật là một
loại tài nguyên du lịch đặc biệt. Như chúng ta đã biết, nơi tập trung nhiều động
thực vật hoang dã nhất là các vườn quốc gia. Đến tháng 6/ 2003 ở Việt Nam có
26 vườn quốc gia. Thanh Hoá có một trong số 26 vườn quốc gia ở nước ta. Đó là
Vườn quốc gia Bên En.
2.2.5. 1.1.5. Tài nguyên du lịch nhãn ván
Tài nguyên du lịch nhân văn là những giá trị vãn hoá của các đối tượng và
hiện tượng xã hội có sức hấp dẫn đối với du khách và được khai thác để kinh
doanh du lịch. Cũng có thể hiểu tài nguyên du lịch nhân vãn là các di sản văn
hoá.
(l> Để tài Đánh giá tài nguyên nước khoáng và nước dưới đất Việt Nam phục vụ cho quy hoạch phát triển du
lịch. Trong Chương trình NCKH Tổ chức lãnh thổ du lịch Việt Nam, 1990
15
Trong Luật di sản văn hoá của Việt Nam, di sản văn hoá được chia thành
2 loại là di sản văn hoá vật thể và di sản văn hoá phi vật thể
Di sản văn hoá vật thể
Di sản văn hoá vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, vãn hoá,
khoa học, bao gồm di tích lịch sử-văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật,
bảo vật quốc gia.(,)
Di tích lịch sử-văn hoá là công trình xây dựng địa điểm và các di vật, cổ
vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, vãn hoá,
khoa học.<2)
Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có kết hợp
giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ,
khoa học.<3)
Di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, vãn hoá, khoa học.
Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn
hoá, khoa học, có từ một trăm nãm tuổi trở lên.(5)
Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý
hiếm, tiêu biểu của đất nước vể lịch sử, văn hoá, khoa học.(6)

Di sản văn lìoá plii vật thể
Di sản vãn hoá phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn
hoá, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền
miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu truyền khác, bao gồm tiếng
nói, chữ viết, tác phẩm vãn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng,
diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công
(l> Điểu 4. mục 2. Luât di sàn văn hoá
(2) Điéu 4. mục 3. Luât di sàn văn hoá
(,) Điẻu 4. mục 4. Luật di sàn vãn hoá
,4' Điéu 4. mục 5. Luật di sân vãn hoá
(5> Điểu 4. mục 6. Luật di sàn vãn hoá
<6> Điểu 4. mục 7. Luật di sản văn hoá
16
truyền thống,tri thức về y, dược học cổ truiyền, về vãn hoá ẩm thực, về trang
phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian khácơ)
Có nhiều quan niệm khác nhau trong việc phân chia tài nguyên du lịch
nhân vãn. Nếu coi tài nguyên du lịch nhân vãn là di sản văn hoá thì cũng có thể
chia chứng thành di sản văn hoá phi vật thể và di sản vãn hoá vật thể. Tuy cách
phân loại này còn nhiều điều đáng bàn song nó được nhiều người sử dụng nhất
hiện nay.
Theo cách chia này có thể xếp vào nhóm tài nguvên du lịch nhân văn hữu
thể các loại sau: di tích, công trình đương đại, hàng hoá, các mặt hàng ăn uống,
các sản phẩm làng nghề, các tác phẩm nghệ thuật hữu hình. Trong số các tài
nguyên du lịch nhân văn vô thể có thể kể đến lễ hội, phong tục tập quán, truyền
thuyết, các tác phẩm vãn hoá nghệ thuật vô hình, nếp sống, nghệ thuật ẩm
thực
Đặc điểm của tài nguyên du lịch nhân vân
-Tài nguyên du lịch nhân văn chủ yếu có giá trị nhận thức, giá trị giải trí
thường là thứ yếu.
-Tài nguyên du lịch nhân văn khồng có khả nãng tự phục hổi, bị xuống

cấp ngay cả khi khồng khai thác.
-Tài nguyên du lịch nhân văn chủ yếu thu hút du khách có trình độ văn
hoá cao.
- Tài nguyên du lịch nhân văn thường ở gần hay ngay trong điểm dân cư,
nơi có cơ sở hạ tầng tốt hoặc ít nhiều thuận lợi nên thường ít phải đầu tư lớn khi
khai thác.
-Việc khai thác tài nguyên du lịch nhân văn ít phụ thuộc vào mùa vụ nên
hầu như có thể khai thác được quanh năm, góp phẩn giảm sức ép trong kinh
doanh du lịch.
<7) Điểu 4. mục 1. Luật di sàn văn hoá
17
OAI HỌC QU O C GIA fj 0 ,
TRUNG TÁM THÔNG TIN THƯ VltN
-Do có sự khác nhau về trình độ vãn hoá, độ tuổi, nghề nghiệp, giới tính
v.v. nên nhận thức về giá trị cùa tài nguyên du lịch nhân văn ờ du khách không
đồng dều, dễ nảy sinh cảm giác nhàm chán nên vai trò của hướng dẫn viên ở đây
đặc biệt quan trọng
2.2.6. 1.1.6. Vai trò của tài nguyên du lịch đối với việc phát triển du lịch
Đối với viộc phát triển du lịch, tài nguyên du lịch luôn đóng vai trò quan
trọng
- Tài nguyên du lịch ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành các sản phẩm
du lịch. Tài nguyên du lịch càng đặc sắc, độc đáo thì giá trị của sản phẩm du
lịch càng cao.
- Tài nguyên du lịch là cơ sở quan trọng để hình thành các loại hình du
lịch, vì vậy nó sẽ ảnh hưởng đến cấu trúc và chuyên môn hoá của vùng du lịch,
nó xác định qui mô cùa các hoạt động du lịch và khả năng phát triển du lịch tại
địa phương đó.
- Tài nguyên du lịch đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức lãnh thổ
du lịch. Tuy hệ thống lãnh thổ du lịch được hình thành từ nhiều yếu tố tác động
tương hỗ với nhau, nhung tài nguyên du lịch là yếu tố quyết định sự phân bố

không gian của hệ thống, qui mô lãnh thổ của hệ thốno.
Nắm được những vai trò quan trọng của tài nguyên mới có những định
huớng đúng đắn trong việc tổ chức, phát triển du lịch.
1.2. Đánh giá tài nguyên du lịch
2.2.7. 1.2.1. Khái niệm
Con người, trong hoạt động kinh tế không ngừng phải lựa chọn từ vô số
các đối tượng và hiện tượng xung quanh, những gì đáp ứng tốt nhất các yêu cẩu
của mình. Vì vậy mà con người luôn phải đánh giá, bởi vì thiếu nó không thể lựa
chọn được những đối tượng phù hợp nhất, và do đó không thể có được những
phương án tối ưu cho việc giải quyết các vấn đề kỹ thuật và kinh tế.
18
Trong các công trình có liên quan vói việc giải quyết những nhiệm vụ
kinh tế, nghiên cứu địa lý giữ vai trò quan trọng, trong đó đặc biệt là các công
trình đánh giá các tổng thể tự nhiên.
Đánh giá luôn liên quan với qui hoạch phát triển trong tương lai và với dự
báo các kết quả mong đợi. Để có qui hoạch đúng đắn cho các tổng thể lãnh thổ
cần phân tích chính xác các điều kiện tự nhiên mà trong đó các hệ thống này sẽ
hoạt động. Công việc này hiện nay không chi thuộc các nhà địa lý mà cả các nhà
kinh tế và qui hoạch nữa. Tuy nhiên, các nhà qui hoạch cần tham khảo những dữ
liệu cần thiết từ kết quả nghiên cứu của các nhà địa lý. Kết quả cùa những
nghiên cứu này không chỉ đề cập các thông tin cần thiết về các thành phần của
mỏi trường tự nhiên, các yếu tố và hiện tượng đặc thù của lãnh thổ mà phải cả
những đánh giá về mức độ thuận lợi của chúng cho một lĩnh vực hoạt động nào
đó của con người.
Đánh giá là nhận xét hoặc nhận định giá trị (nãng lực, phẩm chất, chất
lượng, số lượng ) của đối lượng đánh giá so với một tiêu chuẩn nào đó. Đánh
giá có thể hiểu là một quá trình, một hoạt động nhận định giá trị hoặc cũng có
thể được hiểu là kết quả của quá trình đó. Đánh giá phải dựa vào các chuẩn, tức
là những quy định hay đơn vị đo lường-hiểu theo nghĩa rộng, làm cãn cứ để so
sánh.

Tồn tại một quan điểm khác nữa, mà những người theo quan điểm này
hiểu thuật ngữ đánh giá theo nghiã hẹp. Họ cho rằng, để đánh giá chính xác thì
trong mọi trường hợp đều phải biểu thị được giá trị và họ hiểu thuạt ngữ này là
giá trị, tức là chỉ công nhận đánh giá kinh tế.
Trên thực tế, thường xuất hiện những nhiệm vụ như cần phải xác định
xem một vùng nào đó là thuận lợi hơn cả cho cuộc sống của con người, hoặc
một nơi nào đó thuận lợi hay không thuận lợi cho một loại cây trồng nào đó.
Những đánh giá tương tự như vậy không thể qui ra giá trị bằng tiền. Để thực
hiện các đánh giá đó người ta gọi là đánh giá mức độ thuận lợi. Điều này cho
thấy rằng trước khi kết luận là thuận lợi hay không thuận lợi cho một hoạt động
19
sản xuất nào tại một vùng cần làm rõ xem các điều kiện tự nhiên ờ đó là thuận
lợi hay không cho hoạt dộng đó. Nếu thuận lợi thì tói mức nào còn không thì tới
mức nào.
Cần ghi nhận rằng, bất kỳ một đánh giá kinh tế nào, và trước hết là đánh
giá gía trị nào cũng đều chỉ có thể thực hiện được khi đã tiến hành các hoạt động
sản xuất vì nó đòi hỏi những sô' liệu về kết quả. Đồng thời, đo đạc giá trị bằng
tiẻn lại chưa phải ỉà đánh giá.
Đánh giá có thể chỉ là định tính hoặc có thể định lượng. Đánh giá định
tính là nhận xét thiên về bản chất của hiện tượng hay đối tượng. Ví dụ nhận xét
về năng lực của hướng dẫn viên, nhận xét về chuyến du lịch đã trải nghiệm.
Đánh giá định lượng là so sánh các chỉ tiêu đo đếm được như kích thước (chiều
dài, chiều rộng, độ sâu, độ cao, diện tích, ), số lượng, khối lượng (thể tích,
trọng lượng ). Đánh giá định tính cũng có xu hướng lượng hoá để dễ dàng
thống nhất và dễ xử lý bằng các công cụ toán tin.
Căn cứ vào các mối quan hệ tương tác giữa các khách thể và chủ thể trong
một hệ thống mà có thể chia ra các kiểu đánh giá khác nhau. Đó là đánh giá kỹ
thuật, đánh giá theo tâm lý, đánh giá theo sự thích ứng sinh học và đánh giá theo
giá trị kinh tế.
Khi khách thể (đối tượng đánh giá) là các hợp phần hay tổng thể tự nhiên,

chủ thể (những điều kiện cần được đáp ứng) là các hệ thống kỹ thuật, các công
trình kỹ thuật, thì đó là đánh giá kỹ thuật.
Đánh giá các mối tác động trực tiếp giữa các tổng thể tự nhiên với sở
thích hay nhu cầu, nhận thức của con người, đó là đánh giá tlteo tâm lý. Một số
nhà khoa học như Pirojnik 1985 (Belarus), Mukhinna (1983), Nguyễn Minh Tuệ
1996 gọi là các đánh giá tâm ỉỷ-thẩm mỹ.
Khi đánh giá các dạng tài nguyên theo sự thích ứng của nó đối với sức
khoẻ, khả năng chịu đựng của con người Thí dụ như các yếu tố khí hậu đối với
20
con người thì gọi là đánh giá theo kiểu sinh học. Kiểu đánh giá này chủ yếu dựa
trên cơ sở thực nghiệm.
Đánh giá kinh tế là khi hoạt động đánh giá cho kết quả bằng tiền tệ.
So sánh giữa các kiểu đánh giá này cho thấy đánh giá cho các công trình
kỹ thuật hoặc cho cây trồng nồng nghiệp thường đom giản hơn vì những yêu cầu
của nhiều loại công trình kỹ thuật hoặc cây trồng nông nghiệp đã được nghiên
cưu và đã được xác định theo những chuẩn mực cụ thể. Còn đánh giá tâm lý-
thẩm mỹ hay y-sinh học thường khó khăn, phức tạp hơn nhiều bời nhu cầu, ý
thích của con người là hết sức đa dạng và trong nhiều lĩnh vực còn chưa được
nghiên cứu đầy đủ.
Trong tất cả các kiểu đánh giá đều nhất thiết phải nghiên cứu kỹ đặc điểm
của cả hai đối tượng tác động tương hỗ, một bên là các tổng thể tự nhiên, còn
bên kia là các công trình kỹ thuật, là con người hoặc cây trổng nông nghiệp. Khi
đánh giá, bất kỳ một đối tượng nào thuộc hệ thống đánh giá cũng có thể là chủ
thể hoặc khách thể, tuy nhiên, trong các khảo sát địa lý, khách thể thường là các
điều kiện địa lý hoặc tài nguyên, còn chủ thể là hệ thống kỹ thuật, con người,
cây trồng nông nghiệp. Như vậy, đánh giá bao giờ cũng gồm hai đối tượng.
Liên quan đến mức độ nghiên cứu, yêu cầu nghiên cứu của các đối tượng
khác nhau, có thể có nhiều loại nhiệm vụ khác nhau trong những công trình
đánh giá. Loại nhiệm vụ thường gặp nhất là tìm các yếu tố địa lý (tự nhiên, kinh
tế, xã hội) có điều kiện thuận lợi cho một loại công trình hay một loại hoạt

động kinh tế, xã hội cụ thể. Trong trường hợp này, đặc điểm của chủ thể đã rõ,
cần tìm những khách thể phù hợp. Loại nhiệm vụ thứ hai là tbn một loại hoạt
động, một loại hình du lịch hay một loại công trình phù hợp nhất (mang tính
sinh thái chẳng hạn) đối với một khu vực có các điều kiện địa lý cho trước.
Trong trường hợp này, các yêú tố điều kiện đã được nghiên cứu kỹ, cần chọn
những chủ thể phù hợp. Loại nhiệm vụ thứ ba xuất hiện trong trường hợp cả hai
đối tượng đều chưa được nghiên cứu. Thí dụ như trong rất nhiều loại hình du
21
lịch nghỉ dưỡng đang tồn tại, cần lựa chọn những loại hình phù hợp cho một loại
lãnh thổ cụ thể. Trường hợp này, cần nghiên cứu cả khách thể lẫn chủ thể và lựa
chọn các đối tượng cho phù hợp. Thực tế là loại nhiệm vụ này bao gồm cả hai
loại trước. Vì vậy có thể tách ra thành hai loại rồi giải quyết lần lượt hoặc song
song. Một loại nhiệm vụ cuối cùng nữa có thể xuất hiện khi cả hai đôi tượng đều
đã rõ, đều đã được nghiên cứu và lựa chọn phù hợp vói nhau. Nhưng, mối tương
tác giữa chúng chỉ có thể thực hiện được một cách tối ưu trong một bối cảnh
kinh tế-xã hội nhất định. Vì vậy cần nghiên cứu bối cảnh này. Trường hợp này
tương đối hiếm, nhưng vẫn có thể xảy ra.
2.2.8. 1.2.2. Tổng quan các công trình đánh giá tài nguyên du lịch
Trên thế giới
Việc đánh giá các tổng thể tự nhiên có ý nghĩa quan trọng nên đã từ lâu
được các nhà địa lý quan tâm nghiên cứu. Hơn nữa, phải nói rằng đây cũng
chính là một nhiệm vụ quan trọng của địa lý. Các công trình đánh giá điều kiện
tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên phục vụ nhiều hướng phát triển kinh tế khác
nhau đã được tiến hành từ những năm 60-70 của thế kỷ XX. Thí dụ như đánh giá
đất cho các loại cây trồng nông nghiệp; đánh giá các điều kiện tự nhiên cho mục
đích nông nghiệp; đánh giá các điều kiện tự nhiên cho việc xây dựng đường sá,
phát triển giao thông, công trình xây dựng đã được tiến hành ở nhiều quốc gia
trên thế giói như Liên Xô, Ba Lan, Đức, Mỹ, Anh
Đặc biệt, phải kể đến còng trình của L.I.Mukhina. 1973 “Những nguyên
tắc và phương pháp đánh giá kỹ thuật các tổng thể tự nhiên”, ở đây, ông đã tổng

kết nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước về lĩnh vực
này. Cùng với kinh nghiệm thực tế rút ra được từ các công trình nghiên cứu tập
thể mà bản thân đã tham gia, ông đã đưa ra những nguyên tắc và phương pháp
chung nhất để tiến hành một công trình đánh giá. Đây là một công trình có giá
trị về mặt phương pháp luận trong lĩnh vực đánh giá kỹ thuật các tổng thể tự
nhiên, là kim chỉ nam cho các công trình về đánh giá. Tuy nhiên, ông cũng đã
22
chỉ ra rằng đánh giá các đối tượng khác nhau, cho các mục đích khác nhau đều
có đặc thù riêng, nhung về nguyên tắc và phương pháp lại có những điểm chung.
Chính những điểm chung này là cơ sở để đưa ra một phương pháp luận khoa học
thống nhất cho việc đánh giá các tổng thể tự nhiên. Song, một phương pháp vạn
năng là không thể nào có được. Vì vậy, cần phải xây dựng phương pháp luận
đánh giá chung cũng như những nguyên tắc và phương pháp đánh giá riêng cho
từng loại mục đích khác nhau
Đánh giá lãnh thổ cho mục đích du lịch-nghỉ dưỡng là một hướng thuộc
lĩnh vực đánh giá các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên cho mục đích
kinh tế. Hướng này đã được nhiều nhà địa lý đề cập đến trong các công trình của
mình. Trước hết, phải kể đến công trình của các nhà địa lý Xô viết như
V.Xtauxkat.1969 nghiên cứu các chỉ tiêu đánh giá cảnh quan, phục vụ mục đích
qui hoạch du lịch, ông đã đề cập đến cả những yếu tố tự nhiên cũng như kinh tế
(rừng, sông, địa hình, đường sá ) khi đánh giá cho mục đích du lịch.
M.G.Bojcer, đánh giá các điều kiện cho việc phát triển du lịch nghỉ dưỡng. Đạc
biệt, công trình của Iu.A.Veđenhin và N.N.Mirósnhitrencồ đã đánh gía toàn bộ
các yếu tô' tự nhiên làm tiền đề cho việc tổ chức các vùng du lịch nghỉ dưỡng.
Công trình của L.I.Mukhina, 1973 về lĩnh vực này có vai trò quan trọng. Ông đã
xây dựng phương pháp luận đánh giá tổng thể tự nhiên cho một loại hình nghỉ
ngơi giải trí cụ thể, đó là nghỉ ngơi tĩnh tại cho những người cao tuổi.
E.A.Kôtliaiốp, 1978 tiến hành đánh giá lãnh thổ phục vụ hình thành và phát
triển các tổng thể lãnh thổ du lịch. Còn Pirôjnik, 1985 thì tiến hành phân vùng
du lịch toàn bộ lãnh thổ Liên xô trên cơ sở đánh giá tổng hợp các thành phần

của hệ thống lãnh thổ du lịch như tài nguyên du lịch, cấu trúc của các luồng
khách và cơ sở vật chất phục vụ du lịch theo các vùng và các đới du lịch nghỉ
dưỡng.
Các nhà địa lý thuộc các quốc gia khác cũng có những công trình nghiên
cứu khá đa dạng về lĩnh vực này. Thí dụ như M.Klaus (Đức) đã đánh giá các
điều kiện tự nhiên (địa hình, khí hậu, thực vật) cho việc qui hoạch các trung tâm
23
nghỉ dưỡng. J.Vatrinxkaia (Balan) đã xây dựng mô hình đánh giá tài nguyên
thiên nhiên cho mục đích du lịch và nghỉ dưỡng. Sử dụng mô hình này ổng đã
đánh giá tài nguyên du lịch tự nhiên cho loại hình du lịch núi.
Các nhà nghiên cứu địa lý và du lịch thuộc các nước phương tây từ lâu đã
tiến hành nghiên cứu, đánh giá tài nguyên du lịch trong các công trình qui hoạch
tổng thể phát triển của từng địa phương cũng như trong cả nước. Bỏniface &
Cooper, 1993; Gun Clare; Baud Bôvy & Fred Lauson. 1982; Edward Inskeep
đều cho rằng nghiên cứu và đánh giá tài nguyên du lịch là một bước cơ bản
trong quá trình qui hoạch phát triển du lịch. Chính vì vậy, trong các tài liệu của
mình, họ đều đề cập đến việc nghiên cứu tài nguyên du lịch một cách khá chi
tiết. Tuy các đánh giá này không tiến hành cho điểm như đánh giá kỹ thuật của
Mukhina, nhưng đê áp dụng các quan điểm hệ thống và mục đích, nhiều tác giả
cũng áp dụng phương pháp đánh giá theo ma trận. Đặc biệt là mảng nghiên cứu
về sức chứa du lịch, các chỉ tiêu về sức chứa cho tùng loại tài nguyên du lịch
được nhiều tác giả quan tâm, tuy họ cho rằng đây là vấn đề phức tạp và cần xác
định cụ thể cho từng khu vực, từng địa phương trên thế giới (B.Shelby and
Th.A.HeberIein,1986). Đây là một vấn đẻ khá phức tạp mà các tác giả thuộc các
khu vực khác còn ít đề cập tói.
Trong thời gian gần đây, các tác giả có nhiều hướng đánh giá khác nhau
cho du lịch vói rất nhiều yếu tố. s.de Vries và M. Goossen đánh giá độ hấp dẫn
của rừng và các tổng thể tự nhiên bằng các yếu tố như: khả năng tiếp cận, hiện
trạng sử dụng đất, chất lượng môi trường, hệ thống đường trong rừng, địa hình,
các loại tài nguyên nước, khoảng cách. Còn Rôsmary đánh giá tài nguyên du

lịch cho việc phát triển du lịch bền vững thì bằng các yếu tố như: giá trị của tài
nguyên du lịch, khả năng tiếp cận, các hoạt động du lịch, cơ sở hạ tầng và cơ sở
vật chất kỹ thuật du lịch, sự lôi cuốn cộng đồng địa phương và sự tham gia của
cộng đồng. Tuy nhiên các đánh giá này cũng chỉ là định tính chứ chưa có những
chỉ tiêu định lượng cụ thể.
24

×