Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan chuyên đề tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Mọi số liệu, thông tin đều trung thực và chính xác xuất phát từ số liệu thực tế
của Ngân hàng TMCP Công thương Chi nhánh Tô Hiệu
Hà Nội, ngày 09 tháng 06 năm 2013
Sinh viên
Nguyễn Thị Nhung
Nguyễn Thị Nhung Lớp: NHC – LTĐH 8
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
MỤC LỤC
1.2.4. Các dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng 15
1.3. Khái niệm và sự cần thiết phải phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng 23
Nguyễn Thị Nhung Lớp: NHC – LTĐH 8
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
RRTD : Rủi ro tín dụng
NHCT : Ngân hàng công thương
NHTM : Ngân hàng thương mại
TDNH : Tín dụng ngân hàng
KH : Khách hàng
NH : Ngân hàng
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
TD : Tín dụng
TSĐB : Tài sản đảm bảo
Nguyễn Thị Nhung Lớp: NHC – LTĐH 8
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
DANH MỤC BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ
1.2.4. Các dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng 15
1.2.4. Các dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng 15
1.3. Khái niệm và sự cần thiết phải phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng 23
1.3. Khái niệm và sự cần thiết phải phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng 23
Nguyễn Thị Nhung Lớp: NHC – LTĐH 8
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
LỜI MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong những thập kỷ gần đây, xu hướng tự do hóa, toàn cầu hóa kinh tế và
quốc tế cùng với những đầu tư mạnh mẽ của Đảng và Chính phủ, các luồng tài
chính đã làm thay đổi cơ bản hệ thống ngân hàng Việt Nam. Sự phát triển của thị
trường tài chính quốc tế cho phép các ngân hàng sử dụng vốn một cách hiệu quả
hơn. Tuy nhiên, cùng với việc thị trường được mở rộng, hoạt động kinh doanh của
các ngân hàng cũng trở nên phức tạp hơn, áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàng gay
gắt hơn và mức độ rủi ro cũng tăng lên, đặc biệt là rủi ro tín dụng.
Do đó, hệ thống ngân hàng Việt Nam cần có những đổi mới hơn nữa trên tất
cả các mặt, trong đó nhiệm vụ hàng đầu là tập trung vào vấn đề phòng ngừa và hạn
chế rủi ro tín dụng vì hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động cơ bản và
đặc thù trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
Đối với nền kinh tế thị trường, kinh doanh và rủi ro là hai phạm trù không thể
tách rời. Rủi ro xuất hiện ở những điểm yếu, kém hiệu quả, mất cân đối trong phát
triển kinh tế và từ chính sự cạnh tranh gay gắt giữa các chủ thể kinh tế. Tuy nhiên,
rủi ro tạo tiền đề cho quá trình đào thải tự nhiên các doanh nghiệp yếu kém, thúc
đẩy sự thay đổi tích cực, tạo xu hướng phát triển ổn định và có hiệu quả cho nền
kinh tế.
Trong điều kiện đó, hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại nói
chung và của ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam nói riêng cũng
không nằm ngoài sự tác động trên. Trong công cuộc đổi mới và hội nhập của hệ
thống ngân hàng Việt Nam hiện tại cùng với mục tiêu “trở thành một trong những
ngân hàng TMCP hàng đầu Việt Nam”, vấn đề tăng trưởng nhanh đi kèm với việc
phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng đã và đang là vấn đề vô cùng quan trọng
trong hoạt động kinh doanh của NHCT chi nhánh Tô Hiệu.
Nhân thức được sự quan trọng của vấn đề này tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu
cho chuyên đề tốt nghiệp của mình là : “Giải pháp phòng ngừa và Hạn chế rủi ro
Nguyễn Thị Nhung Lớp: NHC – LTĐH 8
5
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
tín dụng tại Ngân Hàng Công Thương Việt Nam – chi nhánh Tô Hiệu hải
Phòng ” với mong muốn góp một phần nhỏ bé trong việc phân tích và đề xuất một
số giải pháp ngăn ngừa và hạn chế RRTD tại NHCT Việt Nam chi nhánh Tô Hiệu.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống lại những vấn đề có tính lý luận về RRTD để khẳng định RRTD là
một tất yếu song có thể phòng ngừa và hạn chế được để đảm bảo an toàn và khả
năng sinh lời của ngân hàng.
- Phân tích thực trạng hoạt động và RRTD tại NHCT Việt nam- chi nhánh Tô
Hiệu từ đó rút ra vấn đề tồn tại.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động
tín dụng tại NHCT Việt Nam- chi nhánh Tô Hiệu.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng.
- Phạm vi nghiên cứu: NHCT Việt Nam- chi nhánh Tô Hiệu với số liệu từ
2010 đến 2012.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng, suy luận logic kết
hợp với phương pháp duy vật lịch sử. Sử dụng số liệu thực tế để luận chứng thông
qua các phương pháp so sánh, thống kê, đồ thị
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục bảng biểu sơ đồ tài liệu tham
khảo, khoá luận được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng trong hoạt
động kinh doanh của NHTM
Chương 2: Thực trạng phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại NHCT Việt
Nam- chi nhánh Tô Hiệu
Chương 3: Các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại NHCT
Việt Nam- chi nhánh Tô Hiệu
Nguyễn Thị Nhung Lớp: NHC – LTĐH 8
6
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA VÀ HẠN CHẾ RỦI RO TÍN
DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHTM
1.1 Hoạt động tín dụng của NHTM
1.1.1 Khái niệm và đặc trưng của tín dụng
1.1.1.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng
Thuật ngữ “tín dụng” theo tiếng la tinh gọi là creditium, tiếng anh gọi là credit
có nghĩa là “tin tưởng và tín nhiệm”. Theo thuật ngữ dân gian Việt Nam tín dụng có
nghĩa là “sự vay mượn”
Về mặt tài chính. TDNH là quan hệ chuyển nhượng quyền sở hữu vốn từ Ngân
hàng cho khách hàng trong một thời gian nhất định và một khoản chi phí nhất định.
1.1.1.2 Đặc trưng của tín dụng
Hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng nó mang những
đặc trưng chủ yếu sau đây:
Tín dụng là sự cung cấp một lượng giá trị trên cơ sở lòng tin. Ở đây người
cho vay tin tưởng người đi vay sử dụng vốn có hiệu quả sau một thời gian nhất định
và có khả năng trả được nợ.
Tín dụng là sự chuyển nhượng một lượng giá trị có thời hạn. Để đảm bảo
thu hồi nợ đúng thời hạn người cho vay thường xác định rõ thời hạn cho vay.
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị trên nguyên tắc
phải hoàn trả cả gốc và lãi. Đây là thuộc tính riêng vốn có của tín dụng. Vì vốn cho
vay của ngân hàng là nguồn vốn huy động từ những người có vốn nhàn rỗi nên sau
một thời gian nhất định ngân hàng phải hoàn trả cho người kí thác.
1.1.2 Vai trò của tín dụng
1.1.2.1 Đối với nền kinh tế
Trong điều kiện ngày nay, phát triển kinh tế của một quốc gia gắn liền với
kinh tế thế giới, tín dụng ngân hàng đã trở thành một trong những phương tiện nối
liền kinh tế các nước với nhau. Tín dụng đóng vai trò quan trọng trong việc mở
Nguyễn Thị Nhung Lớp: NHC – LTĐH 8
7
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
rộng xuất khẩu hàng hoá, đồng thời nhờ nguồn tín dụng bên ngoài để công nghiệp
hoá và hiện đại hoá nền kinh tế.
Hoạt động của các ngân hàng là tập trung vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi mà vốn
này nằm phân tán khắp mọi nơi, trong tay các doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nước và
cá nhân, trên cơ sở đó cho vay các đơn vị kinh tế, những người có nhu cầu về vốn để
duy trì quá trình sản xuất liên tục đồng thời góp phần đầu tư phát triển kinh tế. Tín
dụng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành mũi nhọn.
1.1.1.3 Đối với ngân hàng
Tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ chốt của ngân hàng để tạo ra lợi
nhuận. Chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự
trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí vốn trôi nổi, chi phí thuế và các loại chi
phí rủi ro đầu tư.
1.1.1.4 Đối với khách hàng
Đối với khách hàng doanh nghiệp: đáp ứng nhu cầu về vốn, tạo điều kiện
cho quá trình sản xuất dược luu thông, giúp cho các doanh nghiệp tiêu thụ được
hàng hóa của mình.
Đối với khách hàng cá nhân: đáp ứng dược nhu cầu cá nhân như mua nhà,
mua ô tô…giúp khách hàng trang trải cuộc sống.
1.1.3 Phân loại tín dụng
Có nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau tùy theo yêu cầu của khách hàng
và mục tiêu quản lý của ngân hàng. Một số cách phân loại:
1.1.3.1 Phân loại theo thời gian
- Tín dụng ngắn hạn: Có thời hạn từ 12 tháng trở xuống, được sử dụng để
bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp, nhà nước, hộ sản xuất và
các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: Có thời hạn từ trên 12 tháng đến 60 tháng. Tín dụng
trung hạn chủ yếu dược sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc
đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh xây dựng các dự án mới
Nguyễn Thị Nhung Lớp: NHC – LTĐH 8
8
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: Có thời hạn 5 năm và thời hạn tối đa có thể lên đến 20 –
30 năm, một số trường hợp cá biệt có thể lên tới 40 năm. Tín dụng dài hạn được
cung cấp để đáp ứng ác nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, đầu tư xây dựng các
xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng như cầu, đường, máy móc, thiết bị
có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu dài
1.1.3.2 Phân loại theo hình thức
- Chiết khấu thương phiếu: Là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng
tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở
hữu một thương phiếu chưa đến hạn (một giấy nợ)
- Cho vay: Là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách
hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
- Bảo lãnh: Là việc ngân hàng cam kết thưc hiện các nghĩa vụ tài chính hộ
khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, xong ngân hàng đã cho
khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi.
- Cho thuê: Là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê
theo thoả thuận nhất định. Sau một thời gian, KH phải trả gốc lẫn lãi cho NH
1.1.3.3 Căn cứ vào đối tượng tín dụng
- Tín dụng vốn lưu động: là lọai tín dụng được sử dụng để hình thành vốn
lưu động của các tổ chức kinh tế, có nghĩa là cho vay bù đắp vốn lưu động thiếu
hụt tạm thời.
- Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được sử dụng để hình thành tài sản
cố định, có nghĩa là đầu tư để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kĩ thuật,
mở rộng sản xuất, xây dựng xí nghiệp và công trình mới.
1.1.3.4 Căn cứ vào mức độ đảm bảo:
- Tín dụng có tài sản đảm bảo: Là hình thức cấp tín dụng có tào sản hoặc
người bảo lãnh đứng ra đảm bảo cho khoản tiền vay.
- Tín dụng không có tài sản đảm bảo:là hình thức tín dụng không có tài sản
Nguyễn Thị Nhung Lớp: NHC – LTĐH 8
9
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
đảm bảo hay không có người bảo lãnh đảm bảo cho khoản vay.
1.1.3.5 Căn cứ vào xuất xứ tín dụng:
- Tín dụng gián tiếp: là hình thức cấp tín dụng thông qua một trung gian tài
chính như ngân hàng thương mại hoặc tổ chức tài chính.
- Tín dụng trực tiếp: là hình thức cấp tín dụng cho người sử dụng tiền( hàng
hóa), không cần phải thông qua một trung gian tài chính nào cả.
1.2 Rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của NHTM
Rủi ro trong hoạt động tín dụng là đặc trưng nhất và dễ xảy ra nhất. Hoạt động
tín dụng là hoạt động tiêu biểu của hầu hết các ngân hàng, hoạt động này đòi hỏi
ngân hàng phải tìm mọi cách để kiểm soát được khả năng trả nợ của khách hàng, ít
nhất cũng là dự tính, phán đoán khả năng này. Không phải bao giờ dự tính này cũng
chính xác tuyệt đối và thời gian qua đi thi khả năng phán đoán lại càng khó khăn
hơn. Người ta cho rằng rủi ro chính mà các nhà ngân hàng phải mặt đó chính là rủi
ro trong hoạt động tín dụng.
1.2.1 Khái niệm về rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải
chịu do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ
vốn và lãi.
Trong hoạt động kinh doanh của NHTM, rủi ro tín dụng ảnh hưởng rất lớn
đến mọi hoạt động của ngân hàng. Nếu món vay của ngân hàng bị thất thoát,
ngân hàng không thực hiện hoặc khó thực hiện kế hoạch đầu tư cũng như kế
hoạch thanh toán các khoản tiền gửi đến hạn. Rủi ro tín dụng lớn sẽ dẫn đến khó
khăn trong việc huy động vốn và phát triển các sản phẩm dịch vụ, khó mở rộng
quan hệ với các khách hàng và các ngân hàng khác, buộc ngân hàng phải thu hẹp
hoạt động, tất cả thể hiện ở lợi nhuận giảm, ngân hàng phải sử dụng vốn tự có để
bù đắp sự giảm sút đó, uy tín của ngân hàng giảm sút, dẫn đến tình trạng khó
khăn, phá sản.
1.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng
Nguyễn Thị Nhung Lớp: NHC – LTĐH 8
10
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
1.2.2.1. Căn cứ vào khả năng trả nợ cho ngân hàng
Việc phân loại rủi ro tín dụng căn cứ vào khả năng trả nợ cho ngân hàng dựa
trên hai khía cạnh là thời gian trả nợ và số tiền trả nợ:
- Rủi ro đọng vốn: xảy ra khi khách hàng không trả nợ theo đúng kỳ hạn như
đã cam kết trong hợp đồng tín dụng đã ký kết với ngân hàng hay nói cách khác đây
là việc khách hàng trì hoãn trả nợ cho ngân hàng. Việc này làm ảnh hưởng đến kế
hoạch sử dụng vốn của ngân hàng, gây cản trở và khó khăn cho việc chi trả cho
người gửi tiền.
- Rủi ro mất vốn: xảy ra khi khách hàng không có khả năng hoàn trả một
phần hoặc toàn bộ nợ vay khiến cho khả năng sinh lời trên đồng vốn mà ngân hàng
bỏ ra bị giảm sút, vòng quay tín dụng chậm lại và làm tăng các chi phí liên quan tới
khoản vay như chi phí giám sát, chi phí pháp lý liên quan tới việc xử lý nợ quá hạn
và nợ khó đòi.
1.2.2.2. Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro
Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro thì rủi ro tín dụng được phân chia
như sau:
Sơ đồ 1.1. Phân loại RRTD theo nguyên nhân phát sinh rủi ro
- Rủi ro giao dịch: phát sinh do những hạn chế trong quá trình giao dịch
và xét duyệt cho vay đánh giá khách hàng. Bao gồm:
+ Rủi ro lựa chọn: là rủi ro liên quan đến quá trình đánh giá phân tích tín
Nguyễn Thị Nhung Lớp: NHC – LTĐH 8
Rủi ro tín
dụng
Rủi ro
giao dịch
Rủi ro
danh mục
Rủi ro
lựa chọn
Rủi ro
bảo đảm
Rủi ro
nghiệp vụ
Rủi ro nội
tại
Rủi ro tập
trung
11
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
dụng khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết
định cho vay.
+ Rủi ro bảo đảm: là rủi ro phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các
điều khoản trong hợp đồng cho vay các loại tài sản bảo đảm, chủ thẻ bảo đảm, cách
thức bảo đảm và mức cho vay trên giá trị tài sản bảo đảm.
+ Rủi ro nghiệp vụ: là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và
hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và xử lý các
khoản cho vay có vấn đề.
- Rủi ro danh mục: phát sinh do những hạn chế trong quản lý danh mục
cho vay của ngân hàng được. Bao gồm:
+ Rủi ro nội tại: là rủi ro xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm mang tính
riêng biệt bên trong quá trình hoạt động hoặc sử dụng vốn của các chủ thể đi vay
tùy theo ngành hoặc lĩnh vực kinh tế.
+ Rủi ro tập trung: là rủi ro xuất phát từ việc ngân hàng tập trung vốn cho
vay quá nhiều vào một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động
trong cùng một ngành, một lĩnh vực kinh tế hoặc trong cùng một khu vực địa lý hay
cùng một loại hình cho vay có mức độ rủi ro cao.
1.2.3. Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh
của NHTM
1.2.3.1. Nguyên nhân khách quan từ nền kinh tế.
- Môi trường kinh tế: môi trường kinh tế tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực kinh
doanh của ngân hàng cũng như các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Khi nền kinh tế
đang tăng trưởng ổn định thì các doanh nghiệp lằm ăn có hiệu quả và có nhiều khả
năng trả nợ cho ngân hàng. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái,
mất ổn định, các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh, sản
xuất bị đình trệ, sức mua bị giảm sút, hàng hóa bị ứ đọng. Điều này làm cho các
doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và ảnh hướng đến khả năng trả nợ cho ngân
hàng.
Ngoài ra, các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của chính phủ cũng ảnh hưởng
Nguyễn Thị Nhung Lớp: NHC – LTĐH 8
12
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
không nhỏ đến hoạt động của ngân hàng. Chính phủ có thể gây khó khăn cho một
số khách hàng của ngân hàng, đặc biệt là khách hàng doanh nghiệp khi Chính phủ
theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao làm tăng tỷ lệ lạm phát dẫn đến giá cả
các loại nguyên vật liệu đầu vào tăng, giá thành sản phẩm tăng, hàng hóa khó tiêu
thụ được. Hơn nữa, việc Chính phủ không kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu tràn
lan các mặt hàng mà trong nước có thể sản xuất được làm cho hàng hóa trong nước
bị cạnh tranh, chậm tiêu thụ, sản xuất bị đình trệ… các doanh nghiệp trậm trễ hoặc
mất khả năng trả nợ cho ngân hàng, dẫn đến rủi ro tín dụng.
- Môi trường chính trị, xã hội: môi trường chính trị, xã hội ổn định sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển Ngược lại, tình trạng chiến tranh,
cấm vận kinh tế, chính trị bất ổn, tệ nạn xã hội tràn lan đều dẫn đến việc kìm hãm
sản xuất, từ đó gây ra rủi ro đối với các doanh nghiệp nói chung và rủi ro tín dụng
của các ngân hàng nói riêng.
- Môi trường pháp lý: nếu nhà nước xây dựng một hành lang pháp lý chặt chẽ
và có hiệu quả sẽ lành mạnh hóa các quan hệ kinh tế giữa các ngân hàng và các
thành phần kinh tế và chính giữa các thành phần kinh tế với nhau. Ngược lại, hệ
thống pháp lý lỏng lẻo sẽ tạo ra nhiều kẽ hở, gây nên tình trạng lừa đảo, lách luật và
gây thiệt hại lẫn nhau, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thanh toán đối với
ngân hàng hay thậm chí trực tiếp lừa đảo chiếm dụng vốn của ngân hàng, điển hình
như vụ án Tamexco, Epco Minh Phụng gây xôn xao dư luận.
- Môi trường quốc tế: xu hướng hội nhập nền kinh tế khu vực và quốc tế hiện
nay ảnh hưởng rất lớn đến tình hình kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế.
Một mặt nó tạo điều kiện giao lưu kinh tế, tăng hiệu quả kinh tế xã hội cho đất nước
nhưng mặt khác nó cũng tạo ra sức cạnh tranh khốc liệt. Các doanh nghiệp yếu
kém, làm ăn kém hiệu quả lập tức sẽ bị đào thải, gây ảnh hưởng đến hoạt động tín
dụng của ngân hàng nếu ngân hàng và doanh nghiệp này có quan hệ tín dụng. Ngoài
ra, quan hệ kinh tế mở rộng giữa các nước cũng tạo ra sự ràng buộc về kinh tế, tiềm
ẩn nhiều rủi ro mang tính hệ thống, tạo ra một hiệu ứng tiêu cực cho toàn bộ nền
kinh tế của nhiều nước trên thế giới khi những biến động kinh tế lớn xảy ra. Điển
Nguyễn Thị Nhung Lớp: NHC – LTĐH 8
13
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
hình là cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 và cuộc suy thoái kinh tế thế
giới 2008 đã gây ra nhiều tổn thất, thậm chí dẫn đến việc sáp nhập hay phá sản của
một số ngân hàng lớn trên thế giới.
1.2.3.2. Nguyên nhân từ phía khách hàng
Nhiều doanh nghiệp do thiếu năng lực về khả năng quản lý tài chính lại không
có tài sản thế chấp hợp lệ, do đó không đủ điều kiện để đảm bảo an toàn cho việc
vay vốn ngân hàng. Họ lập các số liệu, giấy tờ giả mạo hoặc đi vay ở nhiều ngân
hàng với cùng một bộ hồ sơ. Nếu ngân hàng không phát hiện thì khả năng rủi ro của
khoản tín dụng này là rất lớn.
Lợi dụng việc ngân hàng không phải lúc nào cũng có thể kiểm soát hết mọi
hoạt động kinh doanh của mình, một số doanh nghiệp đã sử dụng vốn vay của ngân
hàng vào mục đích khác với hợp đồng đã cam kết, dẫn đến việc xảy ra rủi ro tín
dụng là rất cao.
Đối với một số doanh nghiệp, năng lực hoạt động kinh doanh và kinh nghiệm
còn thấp, các doanh nghiệp này không nắm bắt được thông tin kịp thời, thiếu thích
nghi với cạnh tranh. Vì vậy khi dự án vay vốn gặp khó khăn, khả năng trả nợ của
khách hàng gặp vấn đề thì RRTD là điều không thể tránh khỏi.
1.2.3.3. Nguyên nhân từ phía ngân hàng
- Việc mở rộng hoạt động tín dụng quá mức tạo điều kiện cho rủi ro tín dụng
của ngân hàng tăng lên. Mở rộng tín dụng quá mức đồng nghĩa với việc thẩm định
khách hàng kém kỹ càng, khả năng giám sát của cán bộ tín dụng đối với việc sử
dụng khoản vay giảm xuống đồng thời việc tuân thủ quy trình tín dụng cũng bị nới
lỏng.
- Trình độ cán bộ hạn chế, đặc biệt là cán bộ tín dụng, người trực tiếp nhận hồ
sơ khách hàng, phân tích và thẩm định khách hàng cũng như dự án vay vốn. Rủi ro
tín dụng xảy ra từ chính rủi ro đạo đức của cán bộ tín dụng.
- Quy chế cho vay chưa chặt chẽ, việc thẩm định khách hàng sơ sài, qua loa do
sự cạnh tranh không lành mạnh nhằm thu hút khách hàng giữa các NHTM, việc
đánh giá giá trị tài sản bảo đảm không chính xác gây thiệt hại cho ngân hàng khi rủi
Nguyễn Thị Nhung Lớp: NHC – LTĐH 8
14
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
ro xảy ra.
1.2.4. Các dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng ẩn chứa trong những khoản vay có vấn đề và biểu hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau.Xuất phát từ thực tiễn hoạt động tín dụng, một số dấu
hiệu cơ bản sau đây được rút ra để giúp cho các cán bộ tín dụng nhận biết, phán
đoán và sớm có những biện pháp kịp thời để ngăn chặn những rủi ro thực sự có thể
xảy ra:
1.2.4.1. Nợ quá hạn
Nợ quá hạn là một khoản tín dụng được cấp ra nhưng không thể thu hồi đúng
hạn do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau.
Là một trung gian tài chính giữa bên thừa vốn với bên thiếu vốn trong nền
kinh tế, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển nên tính ổn định và
hiệu quả hoạt động của ngân hàng có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của các doanh
nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Trong nhiều yếu tố ảnh hưởng tới hoạt
động của ngân hàng thì nợ quá hạn là một trong những yếu tố dễ gây ra rủi ro cho
ngân hàng. Do vậy, để hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng thì ngân hàng phải
giữ cho tỉ lệ nợ quá hạn ở mức hợp lý, và có thể, không phát sinh nợ quá hạn.
Nợ quá hạn có thể được phân thành nhiều loại, tuy nhiên, nếu dựa vào khả
năng thu hồi thì ta có thể chia nợ quá hạn thành hai loại là nợ quá hạn có khả năng
thu hồi và nợ quá hạn không có khả năng thu hồi.
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: là những khoản nợ đến hạn thanh toán vì
nhiều lý do khác nhau khách hàng chưa có khả năng thanh toán nhưng các phân tích
chủ quan của ngân hàng cho thấy có thể thu hồi được.
- Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi: là nợ quá hạn sau khi phân tích cho
thấy không thể thu hồi. Trong trường hợp này, các ngân hàng được phép trích quỹ
dự phòng để bù đắp.
1.2.4.2. Lãi treo
Nguyễn Thị Nhung Lớp: NHC – LTĐH 8
15
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
Lãi treo là số tiền lãi mà khách không trả được khi đến hạn thanh toán lãi. Lãi
treo cũng là một dấu hiệu quan trọng để nhận biết rủi ro tín dụng, bởi vì việc thanh
toán lãi không gắn với việc trả lại gốc và có giá trị nhỏ hơn gốc rất nhiều, được trả
vào cuối tháng, khi doanh nghiệp không thanh toán được phần lãi của món vay cho
thấy dấu hiệu doanh nghiệp gặp khó khăn, đặc biệt về tài chính.
Do vậy, khi xuất hiện lãi treo ngân hàng phải tiến hành điều tra, phân tích kỹ
tình hình tài chính doanh nghiệp, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
để tìm ra nguyên nhân tại sao doanh nghiệp không có khả năng thanh toán lãi theo
đúng hạn. Dựa vào kết quả phân tích, ngân hàng sẽ đưa ra các biện pháp phù hợp
nhất để hạn chế những tổn thất cho cả ngân hàng và doanh nghiêp.
1.2.4.3. Một số dấu hiệu khác
- Trì hoãn nộp các báo cáo tài chính của người vay.
Báo cáo tài chính là tài liệu quan trọng giúp ngân hàng hiểu được tình hình tài
chính của người vay, thông qua đó dự báo về khả năng trả nợ của họ. Việc trì hoãn
có nhiều nguyên nhân nhưng chúng ta phải xem xét đến nguyên nhân chính đó là do
tình hình hoạt động kinh doanh của người vay đã có những dấu hiệu không bình
thường nên họ không muốn ngân hàng biết sớm tình hình tài chính đang yếu kém
của họ.
- Mối quan hệ giữa ngân hàng và người vay thay đổi.
Đó là sự chẫm trễ trong việc sắp xếp các cuộc kiểm tra của ngân hàng đối với
doanh nghiệp, nhằm giúp cho ngân hàng giám sát những nghĩa vụ của người vay
đối với khoản vay. Vấn đề này biểu hiện bởi sự giảm sút bầu không khí không tin
cậy và hợp tác giữa cán bộ ngân hàng và người vay vốn đã có từ lâu.
- Hàng tồn kho tăng lên quá mức bình thường, các khoản nợ cũng gia tăng.
- Hoàn trả nợ vay không đúng hoặc lãi vay không thanh toán đúng kỳ.
- Chất lượng sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp giảm sút, khách hàng của họ
không còn tín nhiệm như trước dẫn đến phải bán hàng với thời gian trả tiền lâu hơn,
hoặc bán cả cho những khách hàng có khả năng tài chính yếu kém, khả năng thanh
toán thấp.
Nguyễn Thị Nhung Lớp: NHC – LTĐH 8
16
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
- Thay đổi về cơ cấu tổ chức quản lý kinh doanh.
1.2.5. Tác động của rủi ro tín dụng
1.2.5.1. Tác động đến ngân hàng
- Rủi ro tín dụng làm giảm lợi nhuận của ngân hàng:
Những khoản tín dụng gặp rủi ro gây cho ngân hàng những thiệt hại về mặt tài
chính khi không thu được vốn và lãi trực tiếp, làm giảm lợi nhuận ngân hàng. Trong
trường hợp ngân hàng thu được lãi treo hay nợ quá hạn thì cũng làm mất cơ hội đầu
tư vào những dự án khả thi, có khả năng mang lại lợi nhuận.
- Rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng:
Rủi ro tín dụng khiến cho việc hoàn trả tiền gửi của ngân hàng gặp nhiều khó
khăn. Các khoản đầu tư, cho vay bị thất thoát hoặc chậm thu hồi trong khi ngân
hàng vẫn phải đều đặn trả lãi vốn huy động theo đúng kỳ hạn. Chính điều này đã
làm hạn chế khả năng thanh khoản của ngân hàng.
- Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín của ngân hàng:
Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín và ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của
ngân hàng. Một ngân hàng gặp nhiều rủi ro là một ngân hàng hoạt động kém hiệu
quả, khách hàng mất lòng tin vào ngân hàng, họ sẽ không gửi tiền vào hoặc thậm
chí rút lại những khoản tiền đã gửi. Điều đó gây khó khăn cho việc huy động vốn,
làm giảm quy mô hoạt động của ngân hàng. Một ngân hàng gặp rủi ro cũng sẽ mất
lòng tin với các ngân hàng liên kết trong và ngoài nước, do đó khó có thể nhận được
những khoản tín dụng từ những ngân hàng này khi cần thiết cũng như các quan hệ
đại lý trong thanh toán quốc tế, phát triển các dịch vụ của ngân hàng.
- Rủi ro tín dụng là nguy cơ dẫn đến phá sản ngân hàng:
Ngân hàng gặp rủi ro tín dụng làm giảm sút lòng tin đặc biệt là đối với dân
chúng. Họ lo sợ bị mất những khoản tiền đã gửi và sẽ đến rút tiền để tìm cơ hội đầu
tư có lợi hơn ở một ngân hàng khác. Trường hợp nghiêm trọng xảy ra khi có quá
nhiều người đến rút tiền dẫn đến sự phá sản thực sự của ngân hàng.
Hậu quả của sự phá sản ngân hàng không chỉ bản thân ngân hàng phải gánh
chịu mà nó còn liên quan đến các ngân hàng có quan hệ với ngân hàng đó. Điều này
Nguyễn Thị Nhung Lớp: NHC – LTĐH 8
17
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
sẽ tạo ra một phản ứng dây chuyền gây ra sự phá sản hàng loạt của các ngân hàng
khác, ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế. Chính điều này gây ra những rối
loạn về kinh tế, an ninh, chính trị, xã hội… kéo theo hàng loạt những hậu quả khác
như: thất nghiệp, lạm phát, tệ nạn xã hội nảy sinh…
1.2.5.2. Tác động đến các thành phần kinh tế
Hiện nay khách hàng hoạt động kinh doanh không chỉ dựa hoàn toàn vào vốn
tự có của bản thân họ mà chủ yếu là vay ngân hàng. Vì vậy khi ngân hàng gặp rủi ro
lớn thì ngân hàng cũng thận trọng hơn trong quyết định cho vay đối với khách hàng
hoặc điều chuyển lên Hội sở để xem xét. Điều này ảnh hưởng đến hoạt động của
các doanh nghiệp dẫn đến hiện tượng vốn của ngân hàng thừa nhưng các thành
phần kinh tế không có vốn để hoạt động kinh doanh. Đối với những khách hàng gửi
tiền: ngân hàng gặp rủi ro thì khả năng thanh toán của ngân hàng gặp khó khăn hoặc
có thể ngân hàng còn mất khả năng thanh toán cho khách hàng.
1.2.5.3. Tác động đến nền kinh tế
Trong bất kỳ hoạt động kinh doanh nào cũng chứa đựng những rủi ro và nó
không chỉ ảnh hưởng đến chính doanh nghiệp sản xuất đó ở tầm vi mô mà còn ảnh
hưởng đến nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Ngành tài chính ngân hàng không nằm ngoài
quy luật trên, khi rủi ro xảy ra nó gây không chỉ thiệt hại tài chính mà còn tổn thất
của cải của nền kinh tế.
1.2.6. Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng
1.2.6.1. Tình hình nợ quá hạn
Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN thì: “nợ quá hạn là khoản nợ mà một
phần hoặc toàn bộ nợ gốc hoặc lãi quá hạn”
Khi một món nợ không trả được vào kỳ hạn nợ, toàn bộ nợ gốc còn lại của
hợp đồng sẽ được chuyển thành nợ quá hạn. Để đảm bảo quản lý chặt chẽ, các
khoản nợ trong hệ thống NHTM Việt Nam được phân loại theo thời gian và được
phân chia theo thời hạn thành các nhóm sau:
- Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn
Nguyễn Thị Nhung Lớp: NHC – LTĐH 8
18
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
+ Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng đánh giá là có đủ khả năng
thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn
- Nhóm 2: Nợ cần chú ý
+ Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ
cấu lại
- Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn
+ Các khoản nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày.
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều
chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nợ nhóm 2.
+ Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng
trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.
+ Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3.
- Nhóm 4: Nợ nghi ngờ
+ Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày.
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo
thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 2.
+ Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4.
- Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn
+ Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
+ Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở
lên theo thời hạn trả nợ đã được cơ cấu lại lần đầu.
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn
trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai.
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị
quá hạn hoặc đã quá hạn.
Nguyễn Thị Nhung Lớp: NHC – LTĐH 8
19
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
+ Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý.
+ Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5.
Xét theo khía cạnh khả năng thu hồi thì nợ quá hạn được chia làm hai
loại, đó là:
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: là những khoản nợ nợ quá hạn nhưng
thời gian quá hạn ngắn và ý thức của khách hàng được đánh giá là tốt.
- Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi: là mức độ cao hơn của nợ quá
hạn có khả năng thu hồi, thông thường là nợ nhóm 5 - nợ có khả năng mất vốn.
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ cho vay
Chỉ tiêu này phản ánh trực tiếp RRTD: cứ 100 đồng dư nợ cho vay thì
có bao nhiêu đồng dư nợ không trả đúng thời hạn. Tỷ số này càng cao bao nhiêu thì
mức độ RRTD của ngân hàng càng lớn bấy nhiêu do khách hàng gặp nhiều khó
khăn trong việc trả nợ. Ngoài ra, chi phí của ngân hàng cũng tăng lên do tăng chi
phí giám sát, đôn đốc thu nợ và các chi phí về mặt pháp lý có liên quan trong quá
trình thu nợ như tòa án, bán tài sản bảo đảm và các chi phí cơ hội do việc khách
hàng chậm trả nợ gây ra. Tỷ số này quá lớn chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân
hàng kém, ngân hàng phải xem xét lại khả năng đánh giá các khoản cho vay, đánh
giá quy trình thủ tục cho vay, đặc biệt là xem xét lại khả năng thực hiện nhiệm vụ
của các cán bộ tín dụng. Vì vậy ngân hàng nên duy trì hệ số này càng thấp càng tốt.
Theo quy định hiện nay của NHNN, tỷ lệ dư nợ quá hạn được phép của các NHTM
không được vượt quá 5%.
1.2.6.2. Tình hình nợ xấu
Nợ xấu (hay còn được gọi là nợ có vấn đề, nợ không lành mạnh, nợ khó đòi,
nợ không thể đòi…) là khoản nợ quá hạn kèm theo một số tiêu chí khác nhau như:
khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các cam kết
này đã đến hạn, tình hình tài chính của khách hàng đang và có chiều hướng xấu dẫn
đến có khả năng ngân hàng không thu hồi được cả vốn lẫn lãi, giá trị tài sản bảo
Nguyễn Thị Nhung Lớp: NHC – LTĐH 8
20
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
đảm của khách hàng được đánh giá là không đủ trang trải nợ gốc và lãi của ngân
hàng.
Theo quyết định 18/2007/QĐ – NHNN ban hành ngày 25/04/2007, nợ xấu
của tổ chức tín dụng bao gồm các 3 nhóm nợ:
- Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn
- Nhóm 4: Nợ nghi ngờ
- Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn
Tỷ lệ nợ xấu
Tổng nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu =
Tổng dư nợ cho vay và cho thuê
Tỷ lệ nợ xấu cho biết: trong 100 đồng dư nợ cho vay và cho thuê thì có bao
nhiêu đồng nợ khó có khả năng thu hồi. Tỷ lệ nợ xấu càng cao thì mức độ RRTD
càng cao và chất lượng tín dụng của ngân hàng càng kém.
1.2.6.3. Hệ số nguy cơ rủi ro tín dụng
Tổng dư nợ cho vay
Hệ số nguy cơ RRTD =
Tổng tài sản có
Hệ số nguy cơ RRTD cho thấy tỷ trọng khoản mục tín dụng trên tổng tài sản
có. Tỷ trọng này càng lớn thì thu nhập của ngân hàng sẽ càng lớn nhưng đồng thời
RRTD cũng càng cao.
1.2.6.4. Hệ số khả năng bù đắp rủi ro tín dụng
Dự phòng RRTD đã trích
Hệ số khả năng bù đắp RRTD =
Tổng nợ xấu
Hệ số này cho biết khả năng bù đắp vốn của ngân hàng đối với nợ xấu. Hệ số
này lớn hơn 1 chứng tỏ ngân hàng trích lập dự phòng đầy đủ và có khả năng bù đắp
vốn cho ngân hàng khi xảy ra rủi ro, khi đó nguồn vốn của ngân hàng vẫn được đảm
Nguyễn Thị Nhung Lớp: NHC – LTĐH 8
21
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
bảo an toàn.
1.2.6.5. Doanh số thu nợ
Chỉ tiêu doanh số thu nợ phản ánh số tiền thu được từ việc trả nợ của khách
hàng trong một thời kỳ nhất định. Thời hạn trả nợ lãi cũng như nợ gốc của từng
khoản vay luôn được ngân hàng theo dõi chặt chẽ. Qua đó, mỗi ngân hàng đều tính
toán được số nợ mình phải thu theo tháng, quý, năm là bao nhiêu để từ đó đặt ra chỉ
tiêu doanh số thu nợ. Rõ ràng, doanh số thu nợ thực tế trong kỳ đạt được càng gần
chỉ tiêu bao nhiêu thì ngân hàng càng ít rủi ro bấy nhiêu.
1.2.6.6. Mức độ tập trung tín dụng
Thông thường, cơ cấu tín dụng trong các ngân hàng được phân chia theo các
tiêu chí như: thời gian, loại tiền cho vay, ngành kinh doanh, đối tượng khách hàng,
khu vực địa lý… từ đó định hướng ra các rủi ro trong hoạt động tín dụng theo mức
độ tập trung tín dụng.
- Mức độ tập trung tín dụng theo thời gian:
Là tỷ trọng giữa dư nợ tín dụng phân chia theo các hình thức tín dụng ngắn
hạn, trung hạn và dài hạn trên tổng dư nợ. Các ngân hàng thường duy trì tỷ lệ cơ
cấu dư nợ tín dụng ngắn, trung và dài hạn theo một tỷ lệ nhất định nào đó phù hợp
với đặc điểm, mục tiêu kinh doanh và khẩu vị rủi ro riêng của từng ngân hàng.
- Mức độ tập trung tín dụng theo loại tiền:
Mức độ tập trung tín dụng theo loại tiền là mức độ cho vay bằng VND hay
ngoại tệ. Điều này ảnh hưởng tới khả năng xảy ra rủi ro tín dụng của ngân hàng khi
có những thay đổi phức tạp về tỷ giá.
- Mức độ tập trung tín dụng theo đối tượng khách hàng:
Mức độ tập trung tín dụng theo tiêu chí này được xem xét trên hai khía cạnh,
đó là dư nợ tín dụng với một khách hàng và một nhóm khách hàng.
Dư nợ TD với 1 KH
Tỷ trọng dư nợ TD với một KH =
Tổng dư nợ
Dư nợ TD với 1 nhóm KH
Nguyễn Thị Nhung Lớp: NHC – LTĐH 8
22
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
Tỷ trọng dư nợ TD với một nhóm KH =
Tổng dư nợ
Theo khoản 1, 2, 3 Điều 8 Thông tư của ngân hàng nhà nước số 13/2010/TT-
NHNN ngày 20 tháng 5 năm 2010, Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong
hoạt động của tổ chức tín dụng thì:
“Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng không
được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng.
Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với một nhóm khách hàng có
liên quan không được vượt quá 50% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trong đó tổng
dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15%.”
Nếu ngân hàng tập trung mức dư nợ tín dụng vào một khách hàng hay một
nhóm khách hàng quá cao thì khi khách hàng hoặc nhóm khách hàng này gặp rủi ro
hay mất khả năng thanh toán thì ngân hàng cũng gặp phải tổn thất nghiêm trọng. Vì
vậy, ngân hàng phải tuân thủ nghiêm túc việc phân tán rủi ro, tránh việc tập trung
quá nhiều vốn tín dụng vào một khách hàng hay một nhóm khách hàng nào đó.
- Mức độ tập trung theo ngành nghề kinh doanh:
Mức độ tập trung tín dụng theo ngành nghề kinh doanh là mức độ cấp tín
dụng cho các ngành nghề kinh doanh như: nông nghiệp, công nghiệp, thương
nghiệp, bất động sản, dịch vụ… Mức độ tập trung này phụ thuộc vào các nhân tố
như định hướng của nhà nước, chính sách tín dụng, mục tiêu kinh doanh của ngân
hàng và trạng thái của nền kinh tế trong từng thời kỳ. Khi tập trung tín dụng vào
ngành nghề thì rủi ro tín dụng của ngân hàng gắn liền với rủi ro của ngành nghề đó.
Dựa vào mức độ tập trung tín dụng mà ta có thể xác định được rủi ro tín dụng
của ngân hàng cao hay thấp. Điều cần thiết đối với các ngân hàng là không được tập
trung vốn vào một số khách hàng, doanh nghiệp hoặc thành phần kinh tế chuyên sản
xuất kinh doanh trong một hoặc một số lĩnh vực nhất định, luôn thực hiện phân tán
rủi ro một cách hợp lý để tránh các hậu quả từ rủi ro tín dụng
1.3. Khái niệm và sự cần thiết phải phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng
Nguyễn Thị Nhung Lớp: NHC – LTĐH 8
23
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
1.3.1. Khái niệm
Trên thực tế, có nhiều quan điểm về phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng
ngân hàng. Tùy theo từng quan điểm cũng như góc độ xem xét vấn đề, phòng ngừa
và hạn chế rủi ro tín dụng lại có những khái niệm khác nhau. Trong khóa luận này,
phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng được hiểu như sau:
“Phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng của NHTM là quá trình tiếp cận
rủi ro một cách khoa học, toàn diện và có hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát,
phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thất, mất mát và những ảnh hưởng bất lợi
của rủi ro.”
Hoạt động tín dụng là hoạt động đặc trưng của NHTM và tạo phần lớn lợi
nhuận cho ngân hàng. Tuy nhiên RRTD lại luôn tiềm ẩn trong hoạt động tín dụng
của ngân hàng. Trên thực tế, các ngân hàng chỉ ra quyết định cho vay khi đã phân
tích đầy đủ các yếu tố liên quan đến khả năng trả nợ và thiện chí trả nợ của khách
hàng; mặc dù vậy sự phân tích tín dụng không thể đạt được mức có thể dự đoán
hoàn toàn chính xác về một khoản vay có được hoàn trả như đã thỏa thuận hay
không, bên cạnh đó thiện chí và khả năng trả nợ có thể thay đổi khi khoản vay đã
được thực hiện vì nhiều lý do khác nhau. Do đó, RRTD vẫn thường xuyên xảy ra và
không thể tránh khỏi và dẫn đến những hậu quả nặng nề cho ngân hàng. Ngân hàng
có thể bị mất uy tín, làm ăn thua lỗ, suy giảm lợi nhuận và có thể dẫn đến phá sản
và ảnh hưởng đến sự ổn định của thị trường tiền tệ.
Chính vì vậy, đối với các NHTM, việc phòng ngừa và hạn chế RRTD đóng vai
trò vô cùng quan trọng. Các nhà quản lý tín dụng có nhiệm vụ xác định một mức rủi
ro có thể chấp nhận được (được gọi là khẩu vị rủi ro) trên cơ sở đó đưa ra các biện
pháp để đảm bảo RRTD của ngân hàng không vượt quá mức quy định cho phép, từ
đó nâng cao mức độ an toàn, chất lượng hoạt động tín dụng của NHTM ngay cả khi
điều kiện thị trường biến động.
1.3.2. Sự cần thiết phải phòng ngừa và hạn chế RRTD trong hoạt động kinh
Nguyễn Thị Nhung Lớp: NHC – LTĐH 8
24
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
doanh của NHTM.
- Đối với ngân hàng
Việc phòng ngừa và hạn chế RRTD giúp cho ngân hàng có những biện pháp
phù hợp để tránh RRTD làm giảm lợi nhuận kinh doanh, giảm khả năng thanh toán.
Tránh RRTD giúp ngân hàng mở rộng tín dụng dễ dàng hơn. Những cơ hội kinh
doanh tốt của ngân hàng không bị bỏ qua vì các khoản cho vay bị mất hoặc khó đòi.
Ngân hàng không phải trích lập dự phòng và có thể thu lợi nhuận từ khoản trích lập
đó, tránh việc thiếu vốn khả dụng, không mất lòng tin của khách hàng.
- Đối với nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của ngân hàng liên
quan đến rất nhiều thành phần kinh tế từ cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức kinh tế
cho tới các tổ chức tín dụng khác. Vì vậy, kết quả kinh doanh của ngân hàng phản
ánh kết quả sản xuất kinh doanh của nền kinh tế và đương nhiên nó phụ thuộc rất
lớn vào tình hình tổ chức sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và khách hàng.
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng không thể có kết quả tốt khi hoạt động kinh
doanh của nền kinh tế chưa tốt hay nói cách khác hoạt động kinh doanh của ngân
hàng sẽ có nhiều rủi ro. Rủi ro xảy ra dẫn tới tình trạng mất ổn định trên thị trường
tiền tệ, gây khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, làm ảnh hưởng
tiêu cực đối với nền kinh tế và đời sống xã hội. Do đó, phòng ngừa và hạn chế rủi ro
tín dụng không những là vấn đề sống còn đối với ngân hàng mà còn là yêu cầu cấp
thiết của nền kinh tế góp phần vào sự ổn định và phát triển của toàn xã hội.
1.3.3. Các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng
1.3.3.1. Nhóm biện pháp truyền thống
- Thực hiện việc phân loại đánh giá khách hàng khoản vay
Để hạn chế RRTD, việc đánh giá và phân lọai KH là hết sức cần thiết. Trên
cơ sở đánh giá, phân loại khách hàng, ngân hàng sẽ có chính sách tín dụng cụ thể
áp dụng cho từng đối tượng khách hàng. Do hoạt động kinh doanh của khách
hàng luôn biến động vì vậy việc thu thập thông tin đánh giá khách hàng phải
thường xuyên có chính sách linh hoạt, phù hợp với từng thời kì cụ thể, tránh
Nguyễn Thị Nhung Lớp: NHC – LTĐH 8
25