Tải bản đầy đủ (.pdf) (144 trang)

Sử dụng chính sách tài chính - tiền tệ nhằm thúc đẩy xuất khẩu ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 144 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ



BÙI THỊ TRINH




SỬ DỤNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ
NHẰM
THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU Ở VIỆT NAM





L
L
U
U


N
N


V
V
Ă


Ă
N
N


T
T
H
H


C
C


S
S
Ĩ
Ĩ


K
K
I
I
N
N
H
H



T
T











HÀ NỘI - 2005


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ



BÙI THỊ TRINH



SỬ DỤNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ
NHẰM
THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU Ở VIỆT NAM


Chuyên ngành: Kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế
Mã số: 5.02.12




L
L
U
U


N
N


V
V
Ă
Ă
N
N


T
T
H
H



C
C


S
S
Ĩ
Ĩ


K
K
I
I
N
N
H
H


T
T






Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Quang Vinh






HÀ NỘI - 2005

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ XUẤT KHẨU VÀ
CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH TIỀN TỆ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
XUẤT KHẨU


5
1.1
Xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu đối với sự phát triển kinh
tế-xã hội

5
1.1.1
Khái quát một số lý thuyết về nguồn gốc của xuất khẩu
5
1.1.1.1
Lý thuyết cổ điển về lợi thế so sánh
5
1.1.1.2

Lý thuyết tân cổ điển về lợi thế so sánh
7
1.1.1.3
Lý thuyết về chu kỳ sống của sản phẩm
10
1.1.2
Vai trò của xuất khẩu đối với sự phát triển kinh tế
11
1.1.2.1
Xuất khẩu tạo điều kiện cho quốc gia tận dụng tối đa được lợi thế
so sánh của mình.

12
1.1.2.2
Xuất khẩu tạo nguồn vốn ngoại tệ chủ yếu cho nhập khẩu công
nghệ, máy móc và những nguyên vật liệu cần thiết phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.


12
1.1.2.3
Xuất khẩu góp phần đẩy mạnh vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
thúc đẩy sản xuất phát triển

13
1.1.2.4
Xuất khẩu có tác động tích cực đến giải quyết công ăn việc làm và
tạo thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân.

14

1.1.2.5
Xuất khẩu là cơ sở, nền tảng để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ
kinh tế đối ngoại, tăng cường địa vị kinh tế của quốc gia trên thị
trường khu vực và thế giới.


14
1.1.3
Các yếu tố tác động đến quá trình xuất khẩu hàng hoá
14
1.1.3.1
Nhóm yếu tố bên trong
14
1.1.3.2
Nhóm yếu tố bên ngoài
16
1.2
Các chính sách tài chính - tiền tệ và vai trò của nó đối với
hoạt động xuất khẩu

17
1.2.1
Khái quát về các chính sách tài chính - tiền tệ
17
1.2.1.1
Chính sách tỷ giá hối đoái
20
1.2.1.2
Chính sách thuế đối với hoạt động xuất nhập khẩu
25

1.2.1.3
Chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu
30
1.2.2
Vai trò của chính sách tài chính - tiền tệ đối với hoạt động xuất
khẩu

35
1.2.2.1
Vai trò của chính sách tỷ giá hối đoái đối với hoạt động xuất khẩu
35
1.2.2.2
Vai trò của chính sách thuế đối với hoạt động xuất khẩu
36
1.2.2.3
Vai trò của chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu đối với hoạt động
xuất khẩu

38
1.3
Kinh nghiệm một số nƣớc về sử dụng công cụ tài chính -tiền tệ
đối với hoạt động xuất khẩu

39
1.3.1
Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới sử dụng chính sách tài
chính tiền tệ để thúc đẩy xuất khẩu:

39
1.3.2

Một số kinh nghiêm rút ra từ việc sử dụng chính sách tài chính –
tiền tệ để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hoá của một số nước
trên thế giới


46
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG VỀ CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
NHẰM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU Ở VIỆT NAM TRONG
NHỮNG NĂM VỪA QUA


49
2.1
Khái quát hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong
thời gian qua

49
2.1.1
Những thành tựu chủ yếu trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá của
Việt Nam trong thời gian qua

49
2.1.2
Những hạn chế chủ yếu trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá của
Việt Nam trong thời gian qua

55
2.2
Thực trạng sử dụng chính sách tài chính - tiền tệ và tác động

đến hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam

57
2.2.1
Thực trạng sử dụng chính sách tỷ giá hối đoái và tác động của nó
đến hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam

57
2.2.1.1
Thực trạng sử dụng chính sách tỷ giá hối đoái
57
2.2.1.2
Tác động của chính sách tỷ giá hối đoái đến hoạt động xuất khẩu
hàng hoá của Việt Nam

66
2.2.2
Thực trạng sử dụng chính sách thuế và tác động của nó đến hoạt
động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam

69
2.2.2.1
Thực trạng sử dụng chính sách thuế
69
2.2.2.2
Tác động của chính sách thuế đến hoạt động xuất khẩu hàng hoá

của Việt Nam
75
2.2.3

Thực trạng sử dụng chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu và tác
động của nó đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam

77
2.2.3.1
Thực trạng sử dụng chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu
77
2.2.3.2
Tác động của chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu đến hoạt động
xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam

87
2.3
Đánh giá chung về chính sách tài chính - tiền tệ đối với hoạt
động xuất khẩu hàng hoá ở Việt Nam trong thời gian qua

89
2.3.1
Những thành công chủ yếu của chính sách tài chính – tiền tệ
89
2.3.1.1
Chính sách tỷ giá hối đoái đã góp phần kích thích xuất khẩu, kiểm
soát nhập khẩu, cải tiện cán cân thanh toán và tăng dự trữ ngoại
hối cho đất nước.


89
2.3.1.2
Chính sách thuế đã góp phần khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ sản
xuất trong nước, chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu.


90
2.3.1.3
Chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu đã góp phần cơ cấu lại mặt
hàng một cách hợp lý, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá
Việt Nam trên thị trường quốc tế .


91
2.3.2
Những hạn chế, bất cập của chính sách tài chính tiền tệ hiện nay
92
2.3.2.1
Những hạn chế của chính sách tỷ giá hối đoái
93
2.3.2.2
Những hạn chế của chính sách thuế quan
93
2.3.2.3
Những hạn chế của chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu
94
Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH
SÁCH TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ ĐỂ ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG
XUẤT KHẨU Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI


97
3.1
Định hƣớng hoàn thiện chính sách tài chính - tiền tệ để đẩy

mạnh hoạt động xuất khẩu ở Việt Nam trong thời gian tới.

97
3.1.1
Bối cảnh và những vấn đề đặt ra đối với việc hoàn thiện các công
cụ kinh tế để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu ở Việt Nam trong
thời gian tới.


97
3.1.1.1
Bối cảnh quốc tế
97
3.1.1.2
Bối cảnh trong nước
101
3.1.2
Định hướng hoàn thiện chính sách tài chính - tiền tệ
111
3.2
Giải pháp chủ yếu hoàn thiện chính sách chính - tiền tệ để đẩy

mạnh hoạt động xuất khẩu ở Việt Nam trong thời gian tới
112
3.2.1
Giải pháp chủ yếu hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái
112
3.2.2
Giải pháp hoàn thiện chính sách thuế quan
117

3.2.3
Giải pháp hoàn thiện chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu
123
3.2.3.1
Hoàn thiện cơ chế huy động vốn
123
3.2.3.2
Hoàn thiện chính sách, cơ chế cho vay HTXK
125
3.2.3.3
Hoàn thiện chính sách, cơ chế bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực
hiện hợp đồng

125
3.2.3.4
Thực hiện cho vay đối với các nhà nhập khẩu nước ngoài
126
3.2.3.5
Thực hiện cho vay dự án theo Hiệp định của Chính phủ
127

KẾT LUẬN
129

Tài liệu tham khảo
130


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AFTA : Khu vực thương mại tự do ASEAN

APEC : Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
GATT: Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội
GTGT: Giá trị gia tăng
L/C: Thư tín dụng
KT- XH: Kinh tế – xã hội
KTQT: Kinh tế quốc tế
HNKTQT: Hội nhập Kinh tế quốc tế
HTXK: Hỗ trợ xuất khẩu
HTPT: Hỗ trợ phát triển
L/C: Thư tín dụng
NHKQT: Hội nhập kinh tế quốc tế
NSNN: Ngân sách nhà nước
NK: Nhập khẩu
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
% : Phần trăm
TTĐB: Tiêu thụ đặc biệt
TGHĐ: Tỷ giá hối đoái
TTGDNT: Trung tâm giao dịch ngoại tệ
TNCs: Công ty xuyên quốc gia
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
XK : Xuất khẩu
XNK : Xuất khẩu, nhập khẩu
USD: Đô la mỹ
WTO : Tổ chức thương mại thế giới

1
MỞ ĐẦU


1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế quan trọng của mỗi quốc gia, bởi xuất
khẩu không chỉ là một kênh tiêu thụ hàng hoá lớn, mà còn là tiền đề để nhập khẩu
thiết bị kỹ thuật - công nghệ, nhập nguyên nhiên vật liệu và hàng hóa thiết yếu; góp
phần cải thiện cán cân thanh toán, bình ổn giá cả, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng kinh
tế. Do vậy, thúc đẩy xuất khẩu có thể coi là con đường để đạt tăng trưởng và là con
đường; giải pháp quan trọng để khai thác lợi thế so sánh của đất nước, khai thác và
sử dụng những thành tựu về khoa học và công nghệ của các nước để phát triển kinh
tế và là con đường nhanh nhất để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong
những năm qua, cùng với chủ trương đẩy mạnh và mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại, hoạt động xuất khẩu ở Việt Nam ngày càng giữ vai trò quan trọng.
Khẳng định tầm quan trọng của xuất khẩu đối với phát triển kinh tế - xã hội
trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII đã
khẳng định dứt khoát đường lối chiến lược là “Xây dựng nền kinh tế “mở”, hướng
về xuất khẩu”. Đại hội lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định: “Xuất khẩu là
hướng ưu tiên trọng điểm hàng đầu của hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta”.
Để thúc đẩy xuất khẩu, Nhà nước đã có chủ trương khuyến khích xuất khẩu
bằng cách sử dụng chính sách tài chính tiền tệ như: sử dụng chính sách tỷ giá hối
đoái, chính sách thuế ưu đãi đối với hoạt động xuất khẩu, chính sách tín dụng hỗ trợ
xuất khẩu để giảm giá thành nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam
trên thị trường thế giới. Đây là chủ chương đúng đắn thể hiện quyết tâm của Đảng
và Nhà nước ta trong việc thực hiện chính sách hỗ trợ nhằm thúc đẩy hoạt động
xuất khẩu.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, chính sách tài chính - tiền tệ của Việt
Nam đã có nhiều cải cách, đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển KT
- XH và thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, song vẫn bộc lộ nhiều hạn chế,kém hiệu quả.
Mặt khác, để hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế cũng đòi hỏi phải hoàn thiện

2

chính sách tài chính - tiền tệ để tác động tích cực đến tăng trưởng xuất khẩu bền
vững của các ngành kinh tế, vừa phù hợp với các nguyên tắc và quy định của WTO.
Do vậy, việc nghiên cứu đề tài “Sử dụng chính sách tài chính - tiền tệ nhằm thúc
đẩy xuất khẩu ở Việt Nam” không những có tính cấp thiết, mà còn có ý nghĩa
quan trọng cả về lý luận và thực tiễn trong quá trình thúc đẩy xuất khẩu, phát triển
kinh tế ở nước ta.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Hiện nay, có một số đề tài đã nghiên cứu một vài tác động của chính sách tài
chính - tiền tệ tác động đến xuất khẩu ở Việt Nam :
- Luận văn thạc sĩ kinh tế “Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động tín dụng ngắn hạn HTXK ở Quỹ HTPT” của tác giả Trần Anh Tú - Đại học
Thương mại (năm 2004).
- Luận án tiến sĩ kinh tế “Vận dụng mô hình phân tích tỷ giá ở Việt Nam”
của tác giả Dương Thị Thanh Mai - Đại học kinh tế quốc dân (năm 2001)
- Luận án tiến sĩ kinh tế “Hoàn thiện hệ thống thuế XHCN VN để thuế thực
sự trở thành công cụ chính của Nhà nước, điều tiết vĩ mô nền kinh tế” của tác giả
Chu Văn Tuấn - Đại học kinh tế quốc dân (năm 2000).
Các đề tài trên chỉ nghiên cứu và tập trung làm rõ một số tác động của chính
sách tài chính - tiền tệ đến hoạt động xuất khẩu ở Việt Nam. Mặt khác, tình hình KT
- XH nước ta có nhiều thay đổi quan trọng, tham gia ngày càng sâu vào hệ thống
phân công và hợp tác kinh tế quốc tế đang đặt ra nhiều vấn đề cần phảI nghiên cứu
và hoàn thiện. Như vậy, chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách tổng thể về việc sử
dụng chính sách tài chính - tiền tệ nhằm thúc đẩy xuất khẩu ở Việt Nam hiện nay.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Làm rõ những vấn đề lý luận của hoạt động xuất khẩu và vai trò của hoạt
động xuất khẩu đối với việc tăng trưởng và phát triển kinh tế, đồng thời cũng làm rõ
vai trò của chính sách tài chính - tiền tệ đối với hoạt động xuất khẩu.

3
- Đánh giá thực trạng sử dụng chính sách tài chính tiền tệ, chỉ rõ những đóng

góp tích cực và những mặt hạn chế của nó trong việc hỗ trợ, thúc đẩy xuất khẩu ở
Việt Nam trong những năm qua.
- Đề xuất phương hướng, các giải pháp chủ yếu hoàn thiện chính sách tài
chính - tiền tệ ở nước ta hiện nay cho phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế,
nhằm đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu trong thời gian tới, góp phần thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế và thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại
hoá đất nước.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là việc sử dụng chính sách tài chính -
tiền tệ nhằm thúc đẩy xuất khẩu ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, chính sách tài
chính - tiền tệ là vấn đề rộng lớn, bao gồm nhiều chính sách cụ thể; trong phạm vi
nghiên cứu của đề tài chỉ tập trung làm rõ một số chính sách chủ yếu như: chính
sách tỷ giá hối đoái, chính sách thuế, chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu; chính
sách thuế rộng lớn, phạm vi đề tài chỉ nghiên cứu chính sách thuế tác động đến hoạt
động xuất khẩu. Từ đó đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện chính sách
tài chính - tiền tệ để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá ở Việt Nam. Mặt
khác, đề tài nghiên cứu việc sử dụng chính sách tài chính - tiền tệ để đẩy mạnh xuất
khẩu trên phạm vi toàn quốc.
- Về thời gian: nghiên cứu từ năm 1990 trở lại đây. Việc trình bày các quan
điểm, phương hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính - tiền tệ nhằm
thúc đẩy xuất khẩu chủ yếu tập trung vào giai đoạn hiện nay.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm
phương pháp luận cơ bản.
- Sử dụng các số liệu thống kê để phân tích, so sánh, tham khảo các ý kiến
của các chuyên gia để rút ra kết luận, giải pháp.
6. DỰ KIẾN NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN

4
- Làm rõ tác động của chính sách tài chính - tiền tệ đối với hoạt động xuất

khẩu.
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp về chính sách tài chính - tiền tệ
nhằm thúc đẩy xuất khẩu ở Việt Nam hiện nay.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ biểu, danh mục tài liện tham khảo, luận
văn được kết cấu thành 3 chương:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về xuất khẩu và chính sách tài
chính - tiền tệ đối với hoạt động xuất khẩu.
Chƣơng 2: Thực trạng chính sách tài chính - tiền tệ trong việc thúc đẩy xuất
khẩu ở Việt Nam những năm vừa qua.
Chƣơng 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu để hoàn thiện chính sách tài
chính - tiền tệ nhằm đẩy mạnh xuất khẩu ở Việt Nam trong thời gian tới.


5
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ XUẤT KHẨU VÀ CHÍNH SÁCH
TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU

1.1. XUẤT KHẨU VÀ VAI TRÕ CỦA XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1.1 Khái quát một số lý thuyết về nguồn gốc của xuất khẩu
Thương mại quốc tế ra đời cách đây từ hàng ngàn năm với qui mô ngày càng
được mở rộng, đặc biệt thương mại quốc tế hiện đại đã phủ kín toàn cầu. Các nhà
nghiên cứu đã góp nhiều công sức vào việc lý giải nguyên nhân, những điều kiện
cần thiết cũng như lợi ích đạt được của các nước tham gia thương mại quốc tế. Có
nhiều lý thuyết khác nhau đề cập đến vấn đề này, có thể kể đến một số lý thuyết chủ
yếu như lý thuyết cổ điển, lý thuyết tân cổ điển về lợi thế so sánh, lý thuyết chu kỳ
sống của sản phẩm. Đây là những lý thuyết căn bản nhằm giải thích nguồn gốc và
lợi ích mà xuất khẩu mang lại cho mỗi nước tham gia thương mại quốc tế.

1.1.1.1 Lý thuyết cổ điển về lợi thế so sánh
Trong xã hội, con người có những khả năng và các nguồn lực khác nhau và
có thể muốn tiêu dùng hàng hoá theo những tỷ lệ khác nhau. Những sở thích khác
nhau và những lợi thế về vật chất và tài chính khác nhau đã mở ra những khả năng
buôn bán sinh lời. Con người thường thấy có lời khi đem buôn bán những thứ mà
họ có số lượng lớn để đổi lấy những thứ mà họ có nhu cầu. Vì trên thực tế, mỗi cá
nhân hay gia đình đều không thể tự đáp ứng tất cả các nhu cầu tiêu dùng của cuộc
sống, họ thường thấy có lợi khi tham gia hoạt động phù hợp với họ nhất hoặc có
một “lợi thế so sánh” nào đó về khả năng tự nhiên hay những lợi thế về nguồn lực
của mình. Khi đó họ có thể trao đổi bất cứ lượng dư thừa nào về hàng hoá tự sản
xuất để lấy những sản phẩm mà người khác làm ra có thể tương đối dễ dàng hơn.
Do đó, trong một chừng mực nào đó, hiện tượng chuyên môn hoá dựa trên lợi thế so
sánh đã nảy sinh, thậm chí ngay cả trong thời kỳ nguyên thuỷ nhất của những xã
hội tự cung tự cấp.

6
Thương mại quốc tế xuất hiện từ sự đa dạng hoá tự nhiên của nền sản xuất
giữa các nước. Khi tham gia thương mại quốc tế, các nước đều có xu hướng chuyên
môn hoá một số sản phẩm mà mình có điều kiện sản xuất thuận lợi nhất hoặc thuận
lợi hơn để nhờ đó có thể giảm giá bán sản phẩm, tạo lợi thế về chi phí so với các
nước khác. Nghĩa là mỗi nước nên nhập khẩu những sản phẩm mà trong nước
không có điều kiện sản xuất hoặc hiệu quả thấp và xuất khẩu những sản phẩm có
điều kiện thuận lơị, hiệu quả cao. Tuy nhiên cũng cần quan tâm đến cầu của thị
trường quốc tế cả về chất lượng của sản phẩm đó. Đây là vấn đề cốt lõi để đảm bảo
khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Khái niệm về chi phí tương đối và giá cả khác
nhau là cơ sở của lý thuyết ngoại thương.
Trên thực tế một nước có nền kinh tế kém phát triển vẫn có thể có sản phẩm
bán ra thị trường thế giới, trong khi đó một nước có đầy đủ điều kiện để sản xuất ra
một mặt hàng (như Mỹ, Nhật Bản ) lại vẫn đi nhập mặt hàng đó từ nước khác (ví
dụ như sản phẩm dệt may, giầy dép ). Các nhà kinh tế học quốc tế vẫn chấp nhận

học thuyết lợi thế so sánh của Adam Smith và David Ricardo, hai nhà kinh tế học cổ
điển của Anh cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19.
Lý thuyết về lợi thế so sánh cho rằng phúc lợi của thế giới (bao gồm cả hai
nước tham gia tham gia thương mại quốc tế ) là lớn nhất khi mỗi nước xuất khẩu
những sản phẩm mà chi phí sản xuất trong nước thấp hơn ở nước ngoài và nhập
những hàng hoá mà chi phí so sánh ở nước ngoài thấp hơn ở trong nước.
Thương mại quốc tế và chuyên môn hoá được quyết định bởi chi phí so sánh
chứ không phải do chi phí tuyệt đối. Muốn so sánh chi phí tuyệt đối thì phải có đơn
vị chuẩn nào đó (ví dụ, một đồng tiền chung như USD). Mặt khác, chúng ta không
thể so sánh chi phí tuyệt đối nếu không có một tỷ giá hối đoái.
Năm 1817, David Ricardo nhà kinh tế học người Anh đã giải thích hiện
tượng kinh tế trên bằng học thuyết lợi thế so sánh, trong đó có nhận định rằng: “Nếu
một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong việc sản xuất tất
cả các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia thương mại quốc tế để tạo
ra lợi ích” [31, tr12]. Đối với David Ricardo, thương mại thực sự là động lực của

7
tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn, nhưng trong dài hạn nền kinh tế sẽ điều chỉnh
tới điểm cân bằng trong trạng thái ổn định.
Theo Samuelson, nguyên tắc lợi thế so sánh cho phép mỗi nước sẽ có lợi nếu
việc chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các hàng hoá của mình có thể sản xuất
với chi phí tương đối thấp (tức là các hàng hoá mà họ sản xuất tương đối có hiệu
quả hơn so với nước khác); ngược lại, mỗi nước sẽ có lợi nếu nhập khẩu những
hàng hoá mà mình sản xuất với chi phí tương đối cao (tức là những hàng hoá mà họ
sản xuất tương đối kém hiệu quả hơn các nước khác).
1.1.1.2 Lý thuyết tân cổ điển về lợi thế so sánh
Lý thuyết về lợi thế so sánh của David Ricardo không giải thích được
nguyên nhân xuất hiện lợi thế so sánh, bởi các nước khác nhau lại có chi phí cơ hội
khác nhau. Để khắc phục được hạn chế này, hai nhà kinh tế học Thuỵ Điển là
Heckscher và Ohlin đã phát triển lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo, bằng

việc xác định nguồn gốc của lợi thế so sánh chính là sự ưu đãi về các yếu tố sản
xuất, hay còn gọi là nguồn lực sản xuất. Do đó, lý thuyết Heckscher - Ohlin còn gọi
là lý thuyết so sánh các nguồn lực sản xuất vốn có. Lý thuyết Heckscher Ohlin đã
xét tới những khác biệt về cung ứng yếu tố sản xuất (chủ yếu là đất đai, lao động và
vốn) khi chuyên môn hoá quốc tế.
Lý thuyết này chứng minh rằng, một nước sẽ thu lợi qua buôn bán nếu xuất
khẩu một hàng hoá được sản xuất bằng việc sử dụng ở mức độ cao yếu tố sản xuất
mà nước đó có tương đối nhiều, rẻ và nhập những hàng hoá mà việc sản xuất đòi
hỏi sử dụng ở mức cao những yếu tố sản xuất mà ở nước mình có rất ít.
Thương mại quốc tế dựa vào những khác biệt về yếu tố sản xuất hiện có của
mỗi nước, ví dụ Việt Nam có nhiều lao động và Nhật Bản có nhiều vốn. Việt Nam
có lợi thế so sánh về những hàng hoá đòi hỏi nhiều lao động (dệt) và Nhật có lợi thế
so sánh về những hàng hoá đòi hỏi nhiều vốn (thép), và điều đó có nghĩa là chi phí
cơ hội của hàng dệt (đo bằng sản lượng thép để sản xuất ra một đơn vị hàng dệt) ở
Nhật cao hơn ở Việt Nam .

8
Lý thuyết Heckscher - Ohlin dựa trên hai giả định quan trọng : Một là, các
sản phẩm khác nhau cần các yếu tố sản xuất ở các tỷ lệ khác nhau. Ví dụ, sản phẩm
nông nghiệp nói chung cần tỷ lệ lao động tương đối lớn hơn trên mỗi đơn vị vốn,
trong khi sản phẩm công nghiệp cần nhiều thời gian máy (vốn) hơn trên mỗi nhân
công so với hầu hết sản phẩm nguyên khai. Hai là, các nước sẵn có các yếu tố sản
xuất khác nhau. Một số nước có số vốn lớn trên mỗi công nhân gọi là nước “dư
thừa vốn” trong khi các nước khác có ít vốn và nhiều lao động gọi là các nước “ dư
thừa lao động”
Lý thuyết này đã giải thích hiện tượng thương mại quốc tế là do trong một
nền kinh tế “mở cửa”, mỗi nước đều hướng đến chuyên môn hoá các ngành sản xuất
cho phép sử dụng nhiều nhất các nhân tố sản xuất mà đối với nước đó là thuận lợi
nhất (ví dụ như tài nguyên, lao động, vốn ). Nói cách khác, theo lý thuyết
Heckscher - Ohlin, một số nước có lợi thế so sánh hơn trong việc xuất khẩu một số

sản phẩm hàng hoá của mình là do việc sản xuất những mặt hàng đã sử dụng nhiều
yếu tố sản xuất mà nước đó có ưu thế hơn so với một số nước khác. Chính ưu thế về
các lợi thế tự nhiên các yếu tố sản xuất này (gồm vốn, lao động, tài nguyên) đã
khiến một số nước có chi phí cơ hội thấp hơn (so với việc sản xuất các sản phẩm
hàng hoá khác) khi sản xuất các sản phẩm hàng hoá đó.
Từ mô hình Heckscher - Ohlin cho thấy, tất cả các nước đều có lợi và sản
lượng của thế giới tăng lên. Tuy nhiên, ngoài hai kết luận cơ bản này, còn có một số
kết luận khác. Thứ nhất, do chi phí cơ hội tăng gắn liền với nguồn lực di chuyển
giữa các hàng hoá có nhiều yếu tố sản xuất khác nhau, nên việc chuyên môn hoá
hoàn toàn sẽ không xẩy ra như trong mô hình chi phí lao động đơn giản. Các nước
có xu hướng chuyên môn hoá sản xuất các sản phẩm đòi hỏi sử dụng nhiều nguồn
lực dư thừa của mình. Họ sẽ bù đắp cho các nguồn lực khan hiếm của mình bằng
việc nhập khẩu các sản phẩm có sử dụng các nguồn lực khan hiếm đó. Nhưng chi
phí trong nước sẽ tăng, do đó giá cả hàng hoá sẽ vượt quá giá trên thế giới, điều đó
làm cản trở việc chuyên môn hoá hoàn toàn. Thứ hai, do công nghệ sản xuất giống
nhau trên khắp thế giới, việc cân bằng tỷ số giá sản phẩm trong nước với tỷ số giá

9
mậu dịch tự do quốc tế sẽ có xu hướng dẫn tới cân bằng giá nhân tố giữa các nước
tham gia buôn bán. Thứ ba, đối với từng nước, lý thuyết Heckscher - Ohlin tiên
đoán rằng, lợi nhuận kinh tế đối với những chủ sở hữu các nguồn lực dự thừa sẽ
tăng lên so với chủ sở hữu các nguồn lực khan hiếm, vì yếu tố dư thừa được sử
dụng với cường độ nhiều hơn. Ở các nước đang phát triển, điều này có nghĩa là
phần thu nhập quốc dân dành cho lao động sẽ tăng lên. Khi không có thương mại, tỷ
phần của lao động có thể nhỏ hơn. Do vậy, thương mại có xu hướng thúc đẩy sự
công bằng hơn về phân phối thu nhập trong nước. Cuối cùng, bằng việc tạo cho các
nước có thể di chuyển ra đường giới hạn khả năng sản xuất của mình và tìm kiếm
được vốn cũng như hàng hoá từ các nước khác, thương mại được coi là đóng vai trò
kính thích hay là “động cơ” của tăng trưởng kinh tế. Nó cũng tạo cho một nước có
thể tìm kiếm được với giá trị thị trường quốc tế thấp hơn những nguyên liệu và các

giá trị sản phẩm khác ở trong nước mà nước này ít sẵn có hơn. Do đó, thương mại
tạo điều kiện cho sự tăng trưởng sản lượng công nghiệp quốc gia có cơ sở vững
chắc và rộng rãi hơn.
Lý thuyết Heckscher - Ohlin còn đưa ra quy luật về tỷ lệ cân đối các yếu tố
sản xuất mà về sau các nhà kinh tế học tiếp tục mở rộng và phát triển. Quy luật này
phát biểu khái quát như sau : Một nước sẽ xuất khẩu loại hàng hoá mà việc sản xuất
nó cần sử dụng yếu tố rẻ và tương đối sẵn có của nước đó và nhập khẩu những hàng
hoá mà việc sản xuất ra nó cần nhiều yếu tố đắt và tương đối khan hiếm hơn ở nước
đó.
Tuy nhiên, còn có những khiếm khuyết về lý luận trước thực tiễn phát triển
phức tạp của thương mại quốc tế ngày nay, song quy luật này vẫn đang là quy luật
chi phối động thái phát triển của thương mại quốc tế và có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn
quan trọng đối với các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là đối với các nước chưa
phát triển, bởi vì đa số những nước này là những nước đông dân, thừa lao động
nhưng lại nghèo vốn, do đó trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá đất nước cần tập
trung xuất khẩu hàng hoá sử dụng nhiều lao động và nhập khẩu những hàng hoá sử
dụng nhiều vốn. Sự lựa chọn những hàng hoá xuất khẩu phù hợp với các lợi thế so

10
sánh về các nguồn lực sản xuất vốn; có như vậy sẽ là điều kiện cần thiết để các
nước phát triển, đang phát triển có thể nhanh chóng hội nhập vào sự phân công lao
động và hợp tác thương mại quốc tế. Và trên cơ sở lợi ích thương mại thu được sẽ
thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng và phát triển kinh tế ở những nước này.
1.1.1.3 Lý thuyết về chu kỳ sống của sản phẩm
Lý thuyết chu kỳ sống của sản phẩm được đưa ra để giải thích những hiện
tượng mới gắn liền với những thay đổi của thương mại quốc tế. Nó cũng phản ánh
sự phát triển nhanh chóng của tiến bộ khoa học công nghệ và quyền lợi của các tập
đoàn đa quốc gia trong thương mại quốc tế.
Mô hình chu kỳ sản phẩm cho thấy rằng, một sản phẩm đòi hỏi tay nghề lao
động rất cao ở giai đoạn đầu, sau đó khi thị trường đã phát triển và kỹ thuật phổ

biến hơn thì sản phẩm được chuẩn hoá. Và do đó, các nước có trình độ kém tinh vi
hơn có thể sản xuất hàng loạt với những lao động kém hơn về kỹ năng. Các nền
kinh tế tiên tiến có lợi thế so sánh với những mặt hàng chưa chuẩn hoá, còn các
nước kém phát triển lại có lợi thế so sánh về các hàng hoá đã chuẩn hoá.
Chu kỳ sống của sản phẩm có 4 giai đoạn: xâm nhập, tăng trưỏng, chín muồi
và suy thoái. Thời gian tồn tại của mỗi giai đoạn không giống nhau ở mỗi thị
trường; bởi vì sản phẩm mới ở thị trường này không phải là mới ở thị trường khác.
Cho nên các quốc gia tiến hành buôn bán với nhau do sự đổi mới các sản phẩm ở
mỗi quốc gia khác nhau.
- Giai đoạn xâm nhập: Thông thường sự xuất hiện sản phẩm mới thường ở
các nước phát triển vì một số lý do sau đây: (i)Do thu nhập cao nên cho phép có
điều kiện chi tiêu vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển ra sản phẩm mới;
(ii)Sự cạnh tranh khách hàng ở các quốc gia đó rất gay gắt; (iii)Số lượng người tiêu
dùng có mức thu nhập cao rất lớn; (iv)Những quốc gia này có nhiều nhà khoa học
và đầy đủ các phương tiện nên thuận lợi cho việc nghiên cứu. Các sản phẩm được
phát triển do nhu cầu thị trường, tính từ sản phẩm xuất hiện đến khi không bán được
trên thị trường gọi là vòng đời một sản phẩm. Khi sản phẩm mới ra đời thông
thường được bán ở thị trường nội địa với số lượng không nhiều, trước khi sản phẩm

11
được đưa vào thị trường quốc tế thì điều này rất thuận lợi cho công ty sản xuất. Thứ
nhất, vì địa điểm sản xuất và tiều thụ gần nhau nên chi phí lưu chuyển nhỏ. Thứ hai,
công ty sản xuất nhận được thông tin phản hồi nhanh từ thị trường hay người tiêu
dùng, từ đó giúp cho công ty có thể hoàn thiện thêm sản phẩm trước khi bán ra thị
trường nước ngoài.
- Giai đoạn tăng trưởng: Đặc điểm nổi bật của giai đoạn này là nhu cầu tiêu
dùng sản phẩm mới hướng gia tăng ở thị trường nước ngoài, đặc biệt là những nước
phát triển. Các nhà kinh doanh sẽ đầu tư vốn ở thị trường nước ngoài và tiêu thụ sản
phẩm đó nhằm tiết kiệm chi phí. Việc đầu tư thường có hai phương pháp: Nếu công
ty sản suất ra sản phẩm mới là công ty đa quốc gia có chi nhánh ở thị trường nước

ngoài thì công ty sẽ thông tin sang chi nhánh để sản xuất sản phẩm đó; Nếu chỉ là
công ty muốn sản xuất sản phẩm đó thì họ sẽ mua bản quyền (bằng sáng chế) để sản
xuất. Khi khả năng tiêu thụ được gia tăng ở nhiều thị trường, công ty sẽ thay đổi và
điều chỉnh công nghệ của quá trình sản xuất cho phù hợp với thị trường.
- Giai đoạn chín muồi: Đến với giai đoạn này, nhu cầu về sản phẩm trên thị
trường bắt đầu dừng lại. Các cơ sở sản xuất ở nước ngoài có thể sản xuất chậm lại,
công nghệ được thay đổi. Giá nhân công ở từng quốc gia có ảnh hưởng rất lớn đến
chi phí sản xuất ra sản phẩm ở quốc gia đó.
- Giai đoạn suy thoái: Đối với một nước công nghiệp phát triển, sản phẩm
không còn hấp dẫn người tiêu dùng nữa, nó bắt đầu đi vào suy thoái và triệt tiêu.
Người tiêu dùng mong muốn có những sản phẩm hoàn hảo hơn. Lúc này công ty
kinh doanh di chuyển sản phẩm sang những nước kém phát triển để khắc phục và
bắt đầu một vòng đời mới của sản phẩm nhằm sử dụng và phát triển có hiệu quả các
nguồn lực vốn có của công ty để đạt được các mục tiêu đề ra như mục tiêu lợi
nhuận và tăng trưởng.
1.1.2 Vai trò của xuất khẩu đối với sự phát triển kinh tế
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới ngày nay, các quan hệ kinh tế quốc tế
ngày càng được phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu thì thương mại quốc tế
được coi là động lực của tăng trưởng, là chìa khoá để mở ra con đường đi tới sự

12
giàu có và thịnh vượng của mỗi quốc gia. Thương mại quốc tế thực sự và yếu tố
góp phần làm tăng của cải của các nước, tạo điều kiện cho quá trình phân công lao
động quốc tế một cách hợp lý, khai thác và sử dụng được các lợi thế của quốc gia,
tận dụng những thành tựu về khoa học - công nghệ của thế giới để phát triển kinh tế,
xác lập những cân đối trong nền kinh tế, bảo đảm cho sự phát triển nhanh, bền
vững. Thương mại quốc tế gắn liền với quá trình hội nhập và có vai trò quyết định
đến lợi thế của một quốc gia trên thị trường khu vực và thế giới. Vì vậy, việc đẩy
mạnh giao lưu thương mại quốc tế nói chung và thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá, dịch
vụ nói riêng là mục tiêu phát triển kinh tế hàng đầu của các quốc gia. Tuy nhiên,

việc tham gia càng sâu vào hệ thống phân công chuyên môn hoá và hợp tác quốc tế
có tác động xấu đối với việc kinh tế như tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh
tế gia tăng, những biến động “nóng lạnh” của nền kinh tế thế giới đều dồn dập vào
nền kinh tế, đe dọa và phá vỡ sự ổn định trong phát triển kinh tế. Việc gặt hái những
thành tựu từ quan hệ thương mại quốc tế đưa lại phụ thuộc vào tính hiệu quả trong
hoạt động của từng doanh nghiệp và vai trò quốc tế, điều hành nền kinh tế của Nhà
nước. Đối với xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ thì điều quan trọng là tận dụng được lợi
thế so sánh, gia tăng tổng cầu, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Vì vậy, có thể
nói thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ là một động lực của sự phát triển kinh
tế.
1.1.2.1 Xuất khẩu tạo điều kiện cho quốc gia tận dụng tối đa được lợi thế so
sánh của mình
Lợi thế so sánh của một quốc gia nằm trong lực lượng lao động, tài nguyên
thiên nhiên, di sản văn hoá và tri thức của quốc gia đó. Xuất khẩu đã góp phần
nâng cao hiệu quả của việc sử dụng triệt để những khả năng và lợi thế của phân
công lao động quốc tế nhằm nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm,
nâng cao chất lượng sản phẩm, khai thác tối đa các nguồn lực.

13
1.1.2.2 Xuất khẩu tạo nguồn vốn ngoại tệ chủ yếu cho nhập khẩu công
nghệ, máy móc và những nguyên vật liệu cần thiết phục vụ cho sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Hoạt động xuất khẩu đã kích thích các ngành kinh tế phát triển, góp phần
tăng tích luỹ vốn, mở rộng sản xuất, tăng thu nhập cho nền kinh tế, cải thiện mức
sống của các tầng lớp dân cư. Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu là điều kiện quan
trọng để mỗi quốc gia thu được lượng ngoại tệ đáng kể, cải thiện cán cân thanh toán
quốc tế tăng nguồn dự trữ ngoại hối của quốc gia đó.
Dự trữ ngoại hối dồi dào là điều kiện cần thiết để giúp cho quốc gia nhập
khẩu công nghệ, máy móc và những nguyên vật liệu phục vụ cho sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, đặc biệt đối với những nước đang phát triển như Việt

Nam. Mặt khác, sự gia tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước là điều kiện quan trọng để
điều tiết những thất thường ngoại hối góp phần làm bình ổn giá cả và kiểm soát lạm
phát.
1.1.2.3 Xuất khẩu góp phần đẩy mạnh vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc
đẩy sản xuất phát triển
Hoạt động xuất khẩu của một quốc gia phải gắn chặt với thị trường thế giới,
chiến lược xuất khẩu của quốc gia phải dựa trên sự lựa chọn khoa học của thị
trường xuất khẩu, phải phù hợp với đặc điểm và khả năng của từng nền kinh tế, lấy
thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất, nhằm xuất khẩu những
gì mà thị trường thế giới đang cần. Quan điểm này chính là xuất phát từ nhu cầu thị
trường thế giới để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này được thể hiện:
- Các ngành sản xuất hàng xuất khẩu tạo điều kiện cho một số ngành khác có
cơ hội phát triển thuận lợi. Ví dụ như khi phát triển ngành chế tạo ô tô tạo cơ hội
cho ngành cơ khí, điện tử, công nghiệp chế biến (cao su, chất dẻo) phát triển. Sự
phát triển của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu đã kéo theo sự phát
triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó.

14
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp yếu tố đầu vào cho sản
xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
- Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao
năng lực sản xuất trong nước. Điều này nhằm nói đến xuất khẩu là phương tiện
quan trọng tạo nguồn vốn và kỹ thuật, công nghệ từ thế giới bên ngoài vào Việt
Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước để tạo ra những năng lực sản xuất
mới.
- Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của nước xuất khẩu sẽ tham gia vào cuộc
cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi
hỏi các nhà sản xuất phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích
ứng được với những thay đổi của thị trường.

- Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới công nghệ, đổi
mới cách quản lý công việc sản xuất và kinh doanh của mình.
- Đến lượt nó xuất khẩu chính là thúc đẩy, mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm cho các ngành, thúc đẩy quá trình tái sản xuất với quy mô, tốc độ, chất lượng
ngày càng cao trong các ngành này.
1.1.2.4 Xuất khẩu có tác động tích cực đến giải quyết công ăn việc làm và
tạo thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân
Xuất khẩu đã tác động tích cực đến nhiều mặt đời sống con người. Trước hết
sản xuất hàng xuất khẩu đã giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động.
Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật
liệu và hàng hoá tiêu dùng thiết yếu để đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất và đáp
ứng ngày càng phong phú thêm các nhu cầu tiều dùng của nhân dân. Xuất khẩu
cũng tác động tích cực đến trình độ tay nghề và thay đổi thói quen của những người
sản xuất hàng xuất khẩu.

15
1.1.2.5 Xuất khẩu là cơ sở, nền tảng để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ
kinh tế đối ngoại, tăng cường địa vị kinh tế của quốc gia trên thị trường
khu vực và thế giới
Xuất khẩu là một loại hình kinh tế đối ngoại; do vậy sự phát triển của xuất
khẩu thúc đẩy sự phát triển của hoạt động kinh tế đối ngoại. Thông qua hoạt động
xuất khẩu tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại phát triển. Chẳng
hạn, hoạt động xuất khẩu thúc đẩy quan hệ ngoại giao, quan hệ tín dụng, đầu tư, vận
tải quốc tế giữa các nước với nhau. Mặt khác chính các quan hệ kinh tế đối ngoại
này lại tạo điều kiện mở rộng hoạt động xuất khẩu.
1.1.3 Các yếu tố tác động đến quá trình xuất khẩu hàng hoá
Có nhiều yếu tố tác động đến quá trình xuất khẩu hàng hoá, có thể khái uát
thành hai nhóm yếu tố cơ bản là yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài.
1.1.3.1. Nhóm yếu tố bên trong
Nhóm yếu tố bên trong là những yếu tố trong nước tác động trực tiếp đến

quá trình sản xuất và xuất khẩu hàng hoá như: khả năng xuất khẩu của một nước,
độ mở của nền kinh tế, thể chế Nhà nước, hệ thống tài chính – tiền tệ, khoa học và
công nghệ , kết cấu hạ tầng, khả năng cạnh tranh của quốc gia.
Khả năng xuất khẩu của một quốc gia phụ thuộc vào sự rồi rào các yếu tố tài
nguyên, thiên nhiên cũng như con người và nguồn vốn. Các yếu tố này thể hiện
được lợi thế so sánh của một quốc gia theo nghĩa hẹp.
Độ mở của nền kinh tế: phản ánh mức độ hội nhập của một nước vào nền
kinh tế thế giới xét về mức độ tự do hoá thương mại quốc tế, được thể hiện ở việc
mở rộng hợp tác quốc tế, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ với nước ngoài. .
Ngoài ra độ mở nền kinh tế còn được thể hiện chính sách về xuất nhập khẩu, chính
sách về tỷ giá, các dịch vụ trợ giúp cho hoạt động xuất khẩu, khả năng chuyển đổi
của đồng tiền với các giao dịch vãng lai. Như vậy, độ mở nền kinh tế càng cao thì
khả năng xuất khẩu càng lớn và ngược lại.
Thể chế Nhà nước được thể hiện ở hiệu lực pháp luật và thể chế của xã hội
đặt nền móng cho cho nền kinh tế hiện đại và mang tính cạnh tranh cao, bao gồm

16
các yếu tố về thể chế, hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật. Hệ thống pháp luật
khuyến khích xuất khẩu, ví dụ: Luật thuế khuyến khích hoạt động xuất khẩu bằng
các quy định về ưu đãi, miễn giảm thuế đối với hoạt động xuất khẩu, miễn giảm
thuế đối với nhập khẩu thiết bị để sản xuất hàng xuất khẩu; Luật doanh nghiệp với
các chính sách hướng về xuất khẩu.
Hệ thống tài chính – tiền tệ phát triển sẽ thúc đẩy xuất khẩu. Nó thể hiện ở
vai trò của thị trường tài chính trong việc điều chỉnh tương quan tối ưu giữa tiết
kiệm và đầu tư, thị trường chứng khoán, vai trò của các chính sách tài chính – tiền
tệ trong việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, được thể hiện ở các chính sách cụ thể
như chính sách thuế, chính sách tỷ giá hối đoái, chính sách lãi suất, chính sách tín
dụng hỗ trợ xuất khẩu, và sự đa dạng của của các loại hình dịch vụ tài chính – tiền
tệ như hệ thống thanh toán quốc tế. Ngược lại hệ thống tài chính tiền tệ kém phát
triển thì nó sẽ kìm hãm xuất khẩu.

Nguồn lao động dồi dào và trình độ cao (được thể hiện ở kỹ thuật, công
nghệ, trình độ quản lý, trình độ ngoại ngữ, trình độ tin học), sức khoẻ của người lao
động đáp ứng được nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá động đến quá trình xuất
khẩu.
Sự phát triển của khoa học công nghệ đã chuyển đổi căn bản và toàn diện các
hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo ra năng suất lao động cao, hạ giá thành sản
phẩm, từng bước tạo ra những giá trị vật chất mới nhằm nâng cao sức cạnh tranh
của hàng hoá trên thị trường thế giới. Đối với những quốc gia mà nền kinh tế chỉ
bảo đảm đủ sản phẩm thiết yếu thì ít cống hiến cho hoạt động xuất khẩu, còn những
quốc gia thường xuyên xuất khẩu nguyên liệu thô, có nền kinh tế đang công nghiệp
hoá hay đã có nền kinh tế công nghiệp phát triển sẽ tạo triển vọng, mở ra nhiều thời
cơ kinh doanh cho các công ty kinh doanh quốc tế. Công ty nào đặc biệt nhậy cảm
với vấn đề lợi nhuận thì khôn ngoan đầu tư vào việc dự báo thị trường quốc tế. Với
sự dự báo khoa học, họ có thể quyết định những bước đi cần thiết để làm giảm các
khoản chi không đáng có và vượt qua được những biến động kinh tế.

17
Khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ là cơ sở tạo nên sức cạnh tranh
của doanh nghiệp, của ngành và tổng thể nó tạo nên sức cạnh tranh của quốc gia;
khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ được tập trung ở 4 yếu tố là chất
lượng, giá cả, tổ chức tiêu thụ và uy tín của doanh nghiệp. Cạnh tranh về chất
lượng, giá cả hàng hoá: trong chiến lược cạnh tranh các doanh nghiệp muốn nâng
cao chất lượng hàng hoá dịch vụ của mình bằng cách áp dụng c ác công nghệ mới,
sử dụng các yếu tố đầu vào mới hoặc thay thế nhằm nâng cao chất lượng và giảm
giá thành hàng hoá và dịch vụ của mình trên thị trường quốc tế nhằm chiếm lĩnh
được thị trường quốc tế . Ngoài ra trong chiến lược cạnh tranh các doanh nghiệp
còn xây dựng mạng lưới phân phối phù hợp và các dịch vụ sau bán hàng như bảo
hành sản phẩm, các phương thức khuyến mại. Như vậy, yếu tố cạnh tranh là hết sức
quan trọng đối với hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá: nó loại bỏ các doanh nghiệp
hoạt động kém hiệu quả, xác lập các môi trường kinh doanh buộc các doanh nghiệp

phải cải cách để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất của mình.
1.1.3.2. Nhóm yếu tố bên ngoài
Nhóm yếu tố bên ngoài là những yếu tố của nền kinh tế thế giới tác động trực
tiếp đến quá trình sản xuất và xuất khẩu hàng hoá như: chính sách kinh tế của các
nước, xu hướng tự do hoá và toàn cầu hoá.
Chính sách kinh tế vĩ mô của các nước có tác động mạnh đến qúa trình xuất
khẩu hàng hoá, được thể hiện ở các chính sách nhập khẩu, của các nước trong các
hiệp định thương mại song phương và đa phương sẽ tạo điều kiện cho hàng hoá các
nước này xâm nhập được vào thị trường nước ngoài một cách dễ dàng hơn. Các rào
cản về thuế quan và phi thuế quan của các nước cũng tác động trực tiếp đến quá
trình xuất khẩu hàng hoá, chẳng hạn như một số mặt hàng hàng nông sản của Việt
Nam nhập khẩu vào thị trường Hàn quốc đánh thuế nhập khẩu đến 700% nhưng
đến nay do đàm phán các mặt hàng này có thể giảm xuống còn 50% , vì vậy khả
năng xâm nhập của hàng nông sản vào thị trường Hàn quốc sẽ được tăng lên.
- Xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế cũng là nhân tố tác động trực tiếp đến
quá trình xuất khẩu hàng hoá. Hội nhập kinh tế quốc tế có hàm ý hướng về xuất

18
khẩu, mở cửa thị trường nội địa cho các sản phẩm và các doanh nghiệp nước ngoài.
Vì vậy, nó tạo ra cơ hội cho hoạt động xuất khẩu, như tạo điều kiện sử dụng những
lợi thế so sánh ở những lĩnh vực, những mặt hàng có lợi thế cạnh tranh; Ngoài ra tự
do hoá và toàn cầu hoá xoá bỏ các rào cản về thuế quan, tạo điều kiện cho hàng xuất
khẩu xâm nhập vào thị trường quốc tế một cách dễ dàng.
Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những yêu cầu gay gắt đối với hoạt động xuất
khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu và hàng hoá xuất khẩu. Hội nhập kinh tế quốc
tế đòi hỏi sản phẩm xuất khẩu và doanh nghiệp xuất khẩu phải tham gia vào cuộc
cạnh tranh công bằng, bình đẳng với những sản phẩm hàng hoá, dịch vụ cùng loại
của các nước khác trên các khu vực của thị trường thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế
đặt ra những yêu cầu khắt khe đối với việc sử dụng các chính sách kinh tế nhằm
thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, hàng rào thuế quan bị giảm dần, các biện pháp bảo vệ

sản xuất trong nước theo hướng minh bạch và giảm dần.
1.2. CÁC CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ VÀ VAI TRÕ CỦA NÓ ĐỐI
VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
1.2.1 Khái quát về chính sách tài chính - tiền tệ
Chính sách tài chính được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm: chính sách tài
chính công của Nhà nước, tài chính doanh nghiệp, tài chính dân cư. Để phù hợp với
phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn chỉ đề cập đến chính sách tài chính theo
nghĩa hẹp là chính sách tài chính công của Nhà nước.
Chính sách tài chính công là những chính sách liên quan đến những điều
chỉnh trong hoạt động thu - chi của ngân sách Nhà nước, cơ cấu thu chi ngân sách.
Thông qua những điều chỉnh của chính sách tài chính đã tác động đến làm thay đổi
tổng cầu của nền kinh tế, làm thay đổi mức giá cả, việc làm, sản lượng của nền kinh
tế, hướng nền kinh tế đến mục tiêu mong muốn. Thông qua chính sách thuế, chính
sách ưu đãi đầu tư, chính sách tài chính có thể tác động làm thay đổi các yếu tố đầu
vào của sản xuất, làm thay đổi giới hạn khả năng sản xuất của nền kinh tế, kích
thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu.

×