Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 102 trang )







ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ


LÊ NGỌC LÂN


SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN
TỆ Ở VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP




LUẬN VĂN THẠC SỸ



Người hướng dẫn: TS. Vũ Đức Thanh






Hà nội - 2005








99

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: 4
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH 4
TIỀN TỆ- LÝ LUẬN VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 4
1.1. KHÁI QUÁT VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ. 4
1.1.1. Quan niệm về chính sách tiền tệ. 4
1.1.2. Các mục tiêu của chính sách tiền tệ. 5
1.1.3. Mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ và các chính sách kinh tế vĩ
mô khác. 8
1.2. NHỮNG CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ. 10
1.2.1. Những công cụ phổ biến. 10
1.2.2. Một số công cụ khác. 14
1.3. KINH NGHIỆM SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở MỘT SỐ
QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI. 17
1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước. 17
1.3.2. Bài học rút ra cho Việt nam. 21
Chương 2: 22
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM 22
2.1. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM TỪ
1990 ĐẾN NAY. 23
2.1.1. Mục tiêu của chính sách tiền tệ. 23

2.1.2. Điều hành chính sách tiền tệ: 23
2.1.3. Quyết định và thực hiện Chính sách tiền tệ quốc gia. 24
2.2. QUÁ TRÌNH SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT
NAM TỪ NĂM 1990 ĐẾN NAY. 24
2.2.1. Công cụ tái cấp vốn. 25
2.2.2. Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc. 31
2.2.3. Công cụ lãi suất tín dụng 39

100
2.2.4. Công cụ tỷ giá hối đoái. 56
2.2.5. Công cụ hạn mức tín dụng. 63
2.2.6. Công vụ nghiệp vụ thị trường mở. 65
2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA. 68
2.3.1. Những thành công chủ yếu. 68
2.3.2. Những hạn chế còn tồn tại. 72
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế. 74
Chương 3: 77
MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở
VIỆT NAM 77
3.1. MỤC TIÊU HOÀN THIỆN CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ . 77
3.1.1. Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn 2001-2010. 77
3.1.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ trong thời gian tới. 79
3.1.3. Yêu cầu của việc xây dựng và phát triển hệ thống công cụ chính
sách tiền tệ ở Việt Nam. 81
3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT
NAM 83
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện các công cụ chủ yếu. 84
3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện các công cụ bổ trợ. 88
3.3. THỰC HIỆN SỰ PHỐI HỢP CÁC CÔNG CỤ TRONG ĐIỀU HÀNH CHÍNH

SÁCH TIỀN TỆ. 96
3.3.1. Phối hợp NVTTM, DTBB và chính sách tái chiết khấu. 96
3.3.2. Phối hợp công cụ tỷ giá với công cụ lãi suất. 97
KẾT LUẬN Error! Bookmark not defined.





1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang chuyển dần sang hoạt động theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc
điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) của Ngân hàng Trung ương (NHTW) càng
trở nên quan trọng đối với quá trình điều tiết nền kinh tế. Bởi vì, CSTT là một
trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng nhất của mọi quốc gia.
Lịch sử phát triển nền kinh tế thế giới đã chứng tỏ rằng : Để có được một
CSTT phù hợp với từng thời kỳ luôn là một vấn đề không đơn giản. Việt Nam,
sau những năm đổi mới hoạt động ngân hàng, các công cụ của CSTT đã được
vận hành. Tuy nhiên, trong quá trình vận hành vẫn còn bộc lộ nhiều vấn đề bất
cập, chưa đáp ứng được đầy đủ những yêu cầu của thực tiễn. Việc nắm vững
những vấn đề cơ bản về công cụ của CSTT là yêu cầu thiết yếu. Việc sử dụng
công cụ nào trong hệ thống các công cụ của CSTT hay sử dụng đồng thời tất cả
những công cụ đó, hoặc xác định công cụ nào là chính, công cụ nào là bổ trợ cho
phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, nhằm đạt đựơc mục tiêu cuối cùng
là ổn định hệ thống tiền tệ, kiềm chế lạm phát và góp phần thúc đẩy sự phát triển
bền vững của nền kinh tế.
Đây là vấn đề đòi hỏi bức xúc cả về lý luận và thực tiễn trong giai đoạn
hiện nay cũng như chiến lược lâu dài. Vì vậy, tác giả luận văn chọn đề tài: “Sử

dụng các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Trong những năm gần đây đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực
tiền tệ, chính sách tiền tệ. Trong đó nổi bật là:
- Đề tài NCKH cấp ngành: Vận dụng nghiệp vụ thị trường mở trong điều
hành chính sách tiền tệ, mã số KNH/95-07, 4/2001.

2
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, (2002), Định hướng điều hành lãi suất cơ
bản, tài liệu hội thảo.
- Lê Vinh Danh (1997), chính sách tiền tệ và sự điều tiết vĩ mô của Ngân hàng
Trung ương ở các nước tư bản phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- J.M.Keynes, (1994), Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ,
Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
- David Begg (1995), Kinh tế học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
- Samuelson (1995), Kinh tế học, Nxb Thống kê, Hà Nội.
- N.Gregory Mankew (1996), Kinh tế học vĩ mô, Nxb Thống kê, Hà Nội.
- M.Friedman (1995), Lý thuyết số lượng tiền, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
- Fredrics Mishkin(1994,1997), Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính,
Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
- David Cook, Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, Nxb Chính trị quốc gia Hà
Nội, 1997.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên hoặc là chủ yếu mang tính chất lý
thuyết, hoặc là những nghiên cứu thực tiễn nhưng chưa có tính hệ thống và khái
quát cao.Vì vậy, cần phải có những nghiên cứu kỹ hơn cả trên phương diện lý
luận và thực tiễn về CSTT và các công cụ của CSTT trong điều kiện thực tiễn
của nền kinh tế Việt Nam. Trên cơ sở đó, đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện việc
sử dụng các công cụ CSTT ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
- Mục đích nghiên cứu:

Đưa ra giải pháp góp phần hoàn thiện việc sử dụng các công cụ của CSTT ở
Việt nam.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:

3
+ Hệ thống hoá các vấn đề lý luận cơ bản về công cụ của CSTT, chỉ ra các
đặc trưng và việc sử dụng từng loại công cụ trong vận hành CSTT.
+ Phân tích một số kinh nghiệm quốc tế về việc sử dụng các công cụ của
CSTT. Từ đó, rút ra các bài học cho Việt nam.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng việc sử dụng các công cụ CSTT ở Việt
Nam, chỉ ra những thành công và những vấn đề còn tồn tại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu lý luận về các công cụ CSTT và việc sử dụng các công cụ đó ở
Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
Tập trung vào nghiên cứu việc sử dụng các công cụ của CSTT ở Việt Nam
giai đoạn (1990-2004). Ngoài ra, còn đề cập đến việc sử dụng các công cụ của
CSTT ở một số nước trên thế giới.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu phổ biến được áp
dụng trong nghiên cứu khoa học kinh tế như: Phương pháp duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, phương pháp trừu tượng hoá, phương pháp điều tra phân tích,
tổng hợp. Luận văn cũng sử dụng phương pháp đối chiếu so sánh và sử dụng một
số biểu bảng để minh hoạ.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn.
- Hệ thống hoá, phân tích, đánh giá, chỉ ra những vấn đề còn bất cập trong
quá trình sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam.
- Đưa ra các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện việc sử dụng các công cụ
của chính sách tiền tệ ở Việt Nam.

7. Kết cấu luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành ba chương.
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về các công cụ chính sách tiền tệ - lý luận
và một số kinh nghiệm quốc tế.

4
Chương 2: Thực trạng việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt
Nam.
Chương 3: Mục tiêu và giải pháp hoàn thiện việc sử dụng các công cụ
chính sách tiền tệ ở Việt Nam.




Chương 1:

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ- LÝ LUẬN VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

1.1. KHÁI QUÁT VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ.
1.1.1. Quan niệm về chính sách tiền tệ.
Như chúng ta đã biết, ở bất kỳ một quốc gia nào có nền kinh tế thị trường
phát triển, để đạt được các mục tiêu về tăng trưởng và phát triển kinh tế đều phải
sử dụng các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tài khoá, chính
sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại và chính sách tiền tệ (CSTT). Thông
qua việc sử dụng, điều hành các công cụ này để tác động đến các mục tiêu như
tăng trưởng, lạm phát, việc làm Như vậy, CSTT đóng vai trò là một bộ phận
quan trọng và không thể thiếu trong hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô cũng như
trong quá trình điều hành vĩ mô cảu nhà nước. Tuy nhiên, tuỳ theo trình độ phát
triển kinh tế và góc độ nghiên cứu, người ta có thể phân biệt CSTT theo nghĩa

rộng và CSTT theo nghĩa hẹp; CSTT của ngân hàng trung ương và CSTT quốc
gia.
Chính sách tiền tệ theo nghĩa rộng: là chính sách điều hành toàn bộ khối
lượng tiền trong nền kinh tế nhằm phân bổ một cách có hiệu quả các nguồn tài

5
nguyên, thực hiện các mục tiêu tăng trưởng, cân đối kinh tế, trên cơ sở đó ổn
định giá trị đồng tiền.
Chính sách tiền tệ theo nghĩa hẹp: là chính sách bảo đảm sao cho khối
lượng tiền cung ứng tăng thêm trong một năm tương ứng với mức tăng trưởng
kinh tế và chỉ số lạm phát nhằm ổn định giá trị của đồng tiền, góp phần đạt được
các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương: là tổng thể tất cả các biện
pháp, công cụ mà ngân hàng trung ương (NHTW) sử dụng nhằm điều tiết khối
lượng tiền tệ, tín dụng, ổn định tiền tệ, góp phần đạt được các mục tiêu kinh tế
vĩ mô.
Chính sách tiền tệ quốc gia: là tổng thể các biện pháp của nhà nước pháp
quyền nhằm cung ứng đầy đủ các phương tiện thanh toán cho nền kinh tế, trên cơ
sở đó không ngừng ổn định giá trị đồng tiền quốc gia.
Dù quan niệm CSTT theo nghĩa nào thì CSTT đều nhằm mục tiêu cuối cùng
là ổn định tiền tệ, góp phần đạt được các mục tiêu của chính sách kinh tế. Trong
một khoảng thời gian nhất định, tuỳ theo điều kiện cụ thể của nền kinh tế, CSTT
có thể được hoạch định theo hai hướng:
Chính sách tiền tệ mở rộng : Theo hướng này, CSTT nhằm tăng lượng tiền
cung ứng, khuyến khích đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh và tạo việc làm.
Trong trường hợp này, CSTT nhằm chống suy thoái kinh tế và thất nghiệp.
Chính sách tiền tệ thắt chặt : Theo hướng này, CSTT nhằm giảm lượng tiền
cung ứng, hạn chế đầu tư, kìm hãm sự phát triển quá cao của nền kinh tế. Trường
hợp này, CSTT nhằm chống lạm phát kìm hãm sự phát triển “quá nóng” của nền
kinh tế.


1.1.2. Các mục tiêu của chính sách tiền tệ.

Chính sách tiền tệ là một bộ phận trong tổng thể các chính sách kinh tế vĩ
mô. Tuy nhiên, CSTT cũng có mục tiêu và tính chất riêng khi hướng tới mục tiêu

6
chung. Tuỳ từng quốc gia và những giai đoạn khác nhau, CSTT có thể có những
mục tiêu khác nhau. Ví dụ: Ngân hàng trung ương Mỹ (hệ thống dự trữ liên bang
Mỹ) thường đưa ra sáu mục tiêu của CSTT là công ăn việc làm cao, tăng trưởng
kinh tế, ổn định giá cả, ổn định lãi suất, ổn định thị trường tài chính, ổn định thị
trường ngoại hối. Các mục tiêu CSTT của một số nước ASEAN như Malaysia,
Thai Lan, Singapore là duy trì sự ổn định tiền tệ, ổn định tỷ giá, thúc đẩy sự phát
triển hệ thống tài chính, ngân hàng và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.
Mặc dù mục tiêu cụ thể của CSTT ở các nước có thể khác nhau ở một vài
điểm nhưng cơ bản đều thống nhất là hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế, ổn
định giá trị đồng tiền, tạo việc làm cho người lao động.
1.1.2.1. Ổn định giá trị đối nội của đồng tiền trên cơ sở kiểm soát lạm phát.
Chúng ta thấy rằng, lạm phát là căn bệnh kinh niên của nền kinh tế thị
trường, tuỳ theo quan điểm và giác độ nghiên cứu mà các nhà kinh tế đã đưa ra
những quan niệm khác nhau về lạm phát, nhìn chung có thể hiểu: Lạm phát là sự
gia tăng giá cả trung bình của hàng hoá theo thời gian.
Lạm phát tác động đến nền kinh tế theo cả hai hướng, tích cực và tiêu cực.
Khi lạm phát gia tăng nó sẽ làm sai lệch các chỉ tiêu kinh tế, phân phối lại thu
nhập, kích thích tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hoá, bất động sản, vàng bạc, gây nên
tình trạng khan hiếm hàng hoá giả tạo, gây khó khăn cho hoạt động của hệ thống
tài chính, ngân hàng và ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh
những tác hại mà lạm phát gây ra cho nền kinh tế ở một mức nào đó, với tỷ lệ
lạm phát vừa phải, lạm phát lại là yếu tố kích thích kinh tế tăng trưởng. Khi đó,
lạm phát trở thành công cụ điều tiết. Do vậy, cần chấp nhận sự tồn tại của lạm

phát trong nền kinh tế, vấn đề là cần phải kiểm soát được lạm phát, ổn định tiền
tệ, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển.
1.1.2.2. Ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền trên cơ sở ổn định tỷ giá
hối đoái.
Một quốc gia muốn phát triển trong điều kiện kinh tế thị trường thì không
phải chỉ có các yếu tố kinh tế nội bộ nước đó mà còn liên quan đến xu thế phát

7
triển của nền kinh tế quốc tế. Trong nền kinh tế mở, tốc độ toàn cầu hoá kinh tế
diễn ra nhanh chóng, tác động của hệ thống tài chính vượt ra khỏi ranh giới quốc
gia để tác động đến hoạt động của các nền kinh tế khác. Sự tác động này lớn hay
nhỏ phụ thuộc vào mức độ hướng ngoại của nền kinh tế đó. Một sự biến động
của tỷ giá sẽ tác động đến hoạt động kinh tế trong nước, đặc biệt là hoạt động
xuất nhập khẩu. Như vậy, việc ổn định tỷ giá hối đoái là mục tiêu quan trọng của
CSTT.
Một tỷ giá hối đoái quá thấp sẽ khuyến khích nhập khẩu, gây bất lợi cho
xuất khẩu vì lúc này hàng xuất khẩu sẽ trở nên đắt hơn, khó bán cho nước ngoài,
khi đó khối lượng dự trữ ngoại tệ sẽ bị giảm. Ngược lại, một tỷ giá hối đoái cao,
có tác động bất lợi cho nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu và làm cho hàng nhập
khẩu trở nên đắt hơn, hàng xuất khẩu rẻ đi, lầm tăng khả năng cạnh tranh. Lượng
ngoại tệ có khuynh hướng chuyển vào trong nước nhiều hơn, dự trữ ngoại tệ có
cơ hội gia tăng. Tuy nhiên, nó sẽ gây khó khăn cho nhập khẩu làm ảnh hưởng
trực tiếp đến các doanh nghiệp mà quá trình sản xuất phụ thuộc vào nguồn
nguyên liệu nhập ngoại.
Như vậy, một tỷ giá hối đoái cao hay thấp đều xuất hiện những tác động cả
tích cực và tiêu cực. Do đó, nhiệm vụ của NHTW là sử dụng các công cụ CSTT
để ổn định thị trường hối đoái, tránh gây sự bất ổn trong nền kinh tế.
1.1.2.3. Tạo công ăn việc làm, giảm thất nghiệp
Tạo ra nhiều việc làm cho người lao động là một trong các mục tiêu của
CSTT. Để đạt được mục tiêu này, CSTT hướng vào việc tác động đến đầu tư sản

xuất, mở rộng hoạt động kinh tế nhằm chống suy thoái để đạt được mức tăng
trưởng ổn định. Tuy nhiên, giữa lạm phát, tăng trưởng kinh tế và việc làm đôi khi
có những mâu thuẫn với nhau, khi kiềm chế được lạm phát thì có nguy cơ tăng
trưởng kinh tế giảm, dẫn đến nguy cơ suy thoái và thất nghiệp. Ngược lại, khi
mở rộng đầu tư khắc phục suy thoái, tạo việc làm và tăng trưởng kinh tế thì lại có
nguy cơ lạm phát. Vấn đề đặt ra là đối với từng giai đoạn cụ thể, CSTT phải tìm

8
giải pháp để vừa có thể đạt được mục tiêu trọng tâm, vừa dung hòa được các mục
tiêu trên.
1.1.2.4. Kích thích tăng trưởng kinh tế.
Bất cứ một quốc gia nào cũng muốn một nền kinh tế có mức tăng trưởng
cao và bền vững, để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế, NHTW có thể
thông qua một số mục tiêu trung gian như : ổn định khối lượng tiền tệ, điều
tiết lãi suất, việc thay đổi khối lượng tiền tệ cung ứng sẽ tác động đến nền
kinh tế. Khi khối lượng tiền tệ tăng, lãi suất có xu hướng giảm, kích thích đầu
tư mở rộng sản xuất làm cho GDP tăng. Mặt khác, tăng khối lượng tiền tệ sẽ
làm tăng tổng cầu, sức mua hàng hoá trên thị trường tăng lên tạo điều kiện để
các doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó làm tăng
GDP. Ngược lại, khi khối lượng tiền tệ giảm xuống, lãi suất có xu hướng tăng
lên, vốn đầu tư chịu áp lực lãi suất cao nên đầu tư có xu hướng giảm dẫn đến
làm giảm GDP. Mặt khác, giảm khối lượng tiền tệ, sẽ làm giảm tổng cầu,
giảm sức mua dẫn đến các doanh mghiệp không có cơ hội mở rộng sản xuất và
khi đó GDP giảm.
Như vậy, việc tăng hay giảm bớt khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế ở mỗi
thời kỳ cần phải sử dụng các công cụ CSTT cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh
cụ thể nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
1.1.3. Mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ và các chính sách kinh tế vĩ
mô khác.
Trong mỗi một quốc gia, để đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô thì cần phải

sử dụng một hệ thống công cụ kinh tế trong đó có bốn chính sách kinh tế là:
Chính sách tài khoá, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại và chính
sách tiền tệ.
Chính sách tài khoá(CSTK) là chính sách thu chi của chính phủ hay còn gọi
là chính sách ngân sách. Tiền tệ đi vào lưu thông qua nhiều kênh, trong đó có hai
kênh chính là ngân sách và tín dụng. Vì vậy, ổn định tiền tệ gắn chặt với thu chi
ngân sách và tín dụng. NHTW chỉ thực hiện được sự ổn định tiền tệ thực sự khi

9
CSTK của chính phủ theo đuổi mục tiêu thăng bằng ngân sách. Một CSTK bành
trướng dựa trên thâm hụt ngân sách xét về trung và dài hạn đều ảnh hưởng đến
mục tiêu ổn định tiền tệ của CSTT.
Nhìn theo sự phát triển thì giữa các mục tiêu có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Như vậy, trong quá trình thực hiện CSTT không tuyệt đối hoá mục tiêu
này hay mục tiêu khác, không thể giải quyết độc lập các mục tiêu trên ở tầm vĩ
mô. Tuy nhiên, trong từng thời gian nhất định, trong những điều kiện và hoàn
cảnh cụ thể, các mục tiêu của CSTT nhiều khi không có sự thống nhất. Ví dụ:
Khi nền kinh tế đang tăng trưởng, thất nghiệp giảm xuống, nhu cầu chi tiêu cho
đầu tư và tiêu dùng ở mức cao thì lạm phát có xu hướng tăng lên. Khi NHTW
muốn giảm lạm phát thì mức cung tiền sẽ được giảm xuống, đẩy lãi suất tăng cao
làm hạn chế chi tiêu, nền kinh tế có thể sẽ thu hẹp, thất nghiệp tăng. Sự mâu
thuẫn giữa các mục tiêu đòi hỏi NHTW phải linh hoạt trong quá trình thực hiện
CSTT. Tuỳ vào điều kiện cụ thể để lựa chọn mục tiêu ưu tiên hơn và điều kiện
quan trọng là NHTW phải luôn nắm bắt được thực tế diễn biến của quá trình
thực hiện các mục tiêu để kịp thời điều chỉnh khi cần thiết với những giải pháp
thích hợp. Từ thực tiễn cũng như lý luận khi vận hành CSTT, để đạt được các
mục tiêu CSTT cần có sự phối hợp, hỗ trợ của các chính sách vĩ mô khác.
Cần phối hợp với CSTK trong quá trình thực thi CSTT, mục tiêu của CSTK
là nhằm điều chỉnh thu chi của chính phủ, hướng nền kinh tế vào việc tăng sản
lượng và sử nguồn lực có hiệu quả, nhưng điều đó lại phụ thuộc vào thu, chi

ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước vững mạnh sẽ là cơ sở quan trọng để
ổn định giá trị đồng tiền. Ngược lại, sự thiếu hụt ngân sách dù bất kể được bù
đắp bằng hình thức nào cũng đều ảnh hưởng trực tiếp hoạc gián tiếp đến sự ổn
định của hệ thống tiền tệ.
Thông qua CSTK và CSTT tác động tới tổng cầu, trong thực tế, CSTK và
CSTT có thể làm tăng nhu cầu, giảm thất nghiệp, nhưng sẽ làm gia tăng lạm
phát. Để giải quyết mâu thuẫn này, cần có sự phối hợp chặt chẽ với chính sách

10
thu nhập trong quá trình thực thi CSTT. Cụ thể, chính sách thu nhập của nhà
nước phải có khả năng kiểm soát về tiền lương và giá cả.
Đối với các nước kém phát triển và đang phát triển, thường ngân sách nhà
nước bị bội chi lớn, cán cân thanh toán bị thâm hụt kéo dài, tốc độ tăng trưởng
kinh tế không ổn định thì cần thiết phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các chính
sách kinh tế đối nội với chính sách kinh tế đối ngoại của nhà nước. Đó là một
chính sách kinh tế mở, trong đó đặc biệt là quan hệ với các tổ chức kinh tế, tài
chính quốc tế. Vì vậy, việc kết hợp chặt chẽ giữa các chính sách kinh tế vĩ mô
với CSTT trên cơ sở đảm bảo tính độc lập tương đối trong vận hành các chính
sách kinh tế là một yêu cầu đảm bảo cho nền kinh tế không rơi vào tình trạng trì
trệ, suy thoái hay phát triển quá nóng.
1.2. NHỮNG CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ.
Để đạt được các mục tiêu đã đề ra của CSTT, NHTW phải sử dụng một hệ
thống các công cụ để điều tiết lượng tiền cung ứng như công cụ tái cấp vốn,
nghiệp vụ thị trường mở, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lái suất…, việc sử dụng công cụ
nào, mức độ nào là tuỳ thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của từng quốc
gia. Tuy nhiên, có một số công cụ được sử dụng mang tính phổ biến ở tất cả các
quốc gia có nền kinh tế thị trường, một số công cụ khác thì được sử dụng ít phổ
biến hơn và chỉ một số quốc gia sử dụng.
1.2.1. Những công cụ phổ biến.
1.2.1.1. Nghiệp vụ thị trường mở.

Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động mà NHTW mua, bán giấy tờ có giá
ngắn hạn như tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHTW, chứng chỉ tiền gửi trên thị
trường tiền gửi, từ đó tác động đến khối lượng dự trữ của các ngân hàng thương
mại(NHTM) và tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các NHTM dẫn
đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ.
- Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng.

11
Bằng cách mua hay bán các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, NHTW có thể mở
rộng hoặc thu hẹp tín dụng, tăng hoặc giảm khối lượng tiền tệ theo ý muốn để
đạt được các mục tiêu của mình.
Sơ đồ 1.1: Cơ chế tác động vào dự trữ của NHTM khi NHTW mua, bán tín
phiếu kho bạc.
NHTW mua, bán tín phiếu kho bạc Dự trữ NH Dự trữ để mở
rộng cho vay Khối lượng tín dụng MS
- Tác động qua lãi suất.
Hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường mở của NHTW có ảnh
hưởng gián tiếp đến mức lãi suất thị trường thông qua hai con đường:
Thứ nhất, khi dự trữ của ngân hàng bị ảnh hưởng nó tác động đến cung cầu
vốn của NHTW trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Đến lượt nó, cung cầu tiền
trung ương thay đổi sẽ dẫn đến lãi suất thị trường tiền tệ liên ngân hàng thay đổi.
Mức lãi suất ngắn hạn này sẽ chuyền tác động của nó đến các mức lãi suất trung
và dài hạn trên thị trường tài chính.
Thứ hai, việc mua bán chứng khoán sẽ làm ảnh hưởng ngay đến quan hệ
cung cầu về loại chứng khoán đó trên thị trường mở và do đó tác động đến giá cả
của nó. Khi giá cả chứng khoán thay đổi, tỷ lệ sinh lời của chúng cũng thay đổi.
Nếu đó là loại chứng khoán chiếm tỷ trọng lớn trong giao dịch trên thị trường tài
chính thì sự thay đổi tỷ lệ sinh lời của nó sẽ tác động trở lại lãi suất thị trường.
Sơ đồ 1.2: Cơ chế tác động qua lãi suất khi NHTW mua, bán tín phiếu
kho bạc.

Cung TPKB Giá TPKB LS thị trường

NHTW mua, bán TPKB Đầu tư

Dự trữ Cung vốn NHTW LS ngắn hạn LS thị trường


12
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở dã được các nước như Anh, Mỹ, Thuỵ
Sỹ… sử dụng từ những năm đầu của thế kỷ 20, cho đến nay nó đã trở thành công
cụ quan trọng bậc nhất để vận hành CSTT. Ở Việt Nam, chính thức sử dụng
công cụ này từ ngày 12/7/2000.
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở thể hiện một số ưu điểm sau:
- NHTW có thể chủ động can thiệp vào thị trường tiền tệ, từ đó tác động
trực tiếp vào khả năng cung ứng tín dụng của các tổ chức tín dụng.
- Độ linh hoạt và chính sác cao, có thể sử dụng ở bất kỳ mức độ nào để thay
đổi dự trữ hoặc cơ số tiền lớn hay nhỏ. NHTW có thể thực hiện bằng cách mua,
bán khối lượng lớn hay nhỏ chứng khoán.
- NHTW dễ dàng đảo ngược tình thế khi có một quyết định sai lầm về việc
sử dụng công cụ này bằng cách lập tức đảo ngược lại việc sử dụng công cụ đó.
Ví dụ: Nếu NHTW thấy rằng cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do mua quá nhiều
giấy tờ có giá trên thị trường mở thì nó có thể sửa chữa ngay bằng cách tiến hành
nghiệp vụ bán trên thị trường mở.
- Việc tác động đến khối lượng tiền tệ có thể được hoàn thành nhanh chóng,
không gây nên những chậm chễ về mặt hành chính. Khi muốn thay đổi cơ số tiền
hoặc dự trữ, NHTW có thể quyết định và thực hiện ngay trong phiên giao dịch.
1.2.1.2. Tái cấp vốn.
Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của NHTW đối với các NHTM. Tuỳ
từng quốc gia mà công cụ này được áp dụng dưới các hình thức khác nhau. Đối
với những nước có nền kinh tế thị trường phát triển, công cụ tái cấp vốn được

thực hiện dưới hình thức tái chiết khấu các giấy tờ có giá. Vì vậy, đối với các nước
này thì công cụ tái cấp vốn gọi là tái chiết khấu. Một số quốc gia khác (trong đó có
Việt nam), việc tái cấp vốn đối với các NHTM được thực hiện không chỉ dưới
hình thức tái chiết khấu mà còn nhiều hình thức khác nữa như : Chiết khấu, tái
chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác, cho vay dưới hình
thức cầm cố, thế chấp các chứng từ có giá ngắn hạn v v…

13
Với công cụ này, NHTW có thể điều chỉnh tăng, giảm lãi suất tái cấp vốn và
lãi suất chiết khấu phụ thuộc vào việc CSTT theo hướng thắt chặt hay nới lỏng.
Khi NHTW thấy cấn tăng thêm tiền cho lưu thông họ có thể hạ thấp lãi suất tái
cấp vốn xuống, khi đó khuyến khích các NHTM đến NHTW để vay vì giá cả tín
dụng giảm và dung lượng tín dụng được cấp đối với các NHTM tăng lên. Ngược
lại, khi NHTW cần giảm lượng tiền trong lưu thông, họ sẽ tăng lãi suất tái cấp
vốn và làm tăng chi phí tín dụng để hạn chế NHTM có ý định vay.
Ưu điểm và nhược điểm của công cụ tái cấp vốn.
Công cụ này có ưu điểm là qua nó, NHTW là người cho vay cuối cùng,
kiểm tra được chất lượng tín dụng của các NHTM, bơm tiền ra lưu thông theo
mức độ đã được khống chế để kiểm soát lạm phát hoặc kích thích tăng trưởng
kinh tế. Đối với các NHTM, với tư cách là người đi vay để cho vay, khi vốn khả
dụng bị đe doạ thì NHTW là chỗ dựa. Bởi vì, với số tiền NHTW cung ứng, họ có
khả năng điều tiết được vốn khả dụng, phục hồi khả năng sẵn sàng thanh toán.
Tuy nhiên, nhược điểm của công cụ này là NHTW không thể nắm chắc được kết
quả của sự điều tiết. Trong trường hợp này, quyền lực của NHTW và NHTM gần
như nhau. NHTW có quyền cho vay và để khuyến khích cho vay, họ hạ lãi suất
tái cấp vốn xuống, nhưng NHTM không vay thì mục đích điều tiết của công cụ
này không thực hiện được.
1.2.1.3. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện thanh toán cần vô
hiệu hoá trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán

(hoặc cho vay ) của các NHTM. Thông qua công cụ dự trữ bắt buộc, NHTW tác
động đến cả khối lượng và giá cả tín dụng của các NHTM từ đó tác động đến khả
năng cung úng tín dụng và khả năng tạo tiền của hệ thống NHTM. Về mặt số
lượng, việc tăng hay giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc có nghĩa là giải phóng hay phong
toả, cho hoặc không cho các NHTM sử dụng khối lượng tiền tệ trung ương bị coi
là thiếu hay thừa, cũng chính là thắt chặt hay nới lỏng khả năng tạo tiền của các

14
NHTM. Về mặt chi phí, tăng hay giảm dự trữ bắt buộc sẽ làm giảm hoặc tăng chi
phí tín dụng của các NHTM.
Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc được áp dụng lần đầu tiên tại Mỹ năm 1913,
nhằm đảm bảo vốn khả dụng tối ưu cho hệ thống NHTM, để các NHTM có thể
thoả mãn nhu cầu rút tiền mặt từ các khoản tiền gửi.
Ưu điểm và nhược điểm của công cụ này.
- Ưu điểm:
+ Nó thể hiện tác động mạnh mẽ đến lượng tiền cung ứng.
+ Tạo nên mối quan hệ giữa tạo tiền do NHTM thực hiện và nhu cầu tái cấp
vốn của NHTW.
+ Tăng cường quyền lực cho NHTW vì tuỳ theo mục đích của CSTT, NHTW
có quyền điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc và các NHTM có trách nhiệm thực hiện.
+ Đảm bảo sự cạnh tranh giữa các ngân hàng vì nó áp dụng không phân biệt
mọi ngân hàng trong toàn hệ thống.
+ Đảm bảo khả năng thanh toán cho NHTM, giúp NHTM tránh được rủi ro
do mất khả năng thanh toán.
- Nhược điểm:
+ Mặc dù có thể đạt được những thay đổi trong cung ứng tiền tệ bằng những
thay đổi trong dự trữ bắt buộc nhưng lại khá tốn kém về chi phí quản lý.
+ Việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây nên vấn đề khả năng thanh khoản
ngay đối với một ngân hàng có dự trữ vượt mức thấp.
+ Việc không ngừng thay đổi dự trữ bắt buộc cũng gây ra tình trạng kém ổn

định cho các ngân hàng và làm cho việc quản lý khả năng thanh khoản của
những ngân hàng đó gặp khó khăn hơn.
1.2.2. Một số công cụ khác.
1.2.2.1. Lãi suất tín dụng.
Lãi suất được xem là một công cụ gián tiếp thực hiện CSTT trong việc điều
chỉnh mức cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế. Sở dĩ nói rằng lãi suất là công cụ
gián tiếp vì, lãi suất không trực tiếp làn tăng hay giảm khối lượng tiền tệ trong

15
lưu thông nhưng sự tăng hay giảm lãi suất có thể kích thích hoặc kìm hãm sản
suất.
Việc điều hành lãi suất chủ yếu được thực hiện thông qua hai cơ chế và các
mức lãi suất thường được công bố như sau:
- Cơ chế điều hành gián tiếp: Thông qua cơ chế tái cấp vốn ( chiết khấu, tái
chiết khấu…) của NHTW đối với các tổ chức tín dụng, NHTW thực hiện việc
quản lý gián tiếp lãi suất cho vay cúa các NHTM đối với nền kinh tế.
Cơ chế này được thực hiện theo nguyên tắc: Trong điều hành chính sách lãi
suất, NHTW chỉ công bố mức lãi suất áp dụng đối với các khoản cho vay tái chiết
khấu hoặc cho vay cầm cố chứng từ có giá của mình đối với các tổ chức tín dụng.
Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể theo từng kỳ hạn, từng đối tượng của
các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế sẽ được tổ chức tín dụng ấn định, dựa trên
cơ sở cung - cầu về vốn và sự cạnh tranh trên thị trường.
Khi muốn điều chỉnh lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng đối với
nền kinh tế, phù hợp với mục tiêu của CSTT từng giai đoạn, NHTW sẽ thực hiện
thông qua việc điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu đối với các tổ chức tín dụng. Từ
đó, tác động đến lãi suất thị trường tiền tệ liên ngân hàng và cuối cùng sẽ tác
động đến lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng đối với các chủ thể trong
nền kinh tế.
- Cơ chế điều hành trực tiếp: Thông qua các hình thức quản lý lãi suất của
các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, như quy định các mức lãi suất cụ thể về

tiền gửi, cho vay, khung lãi suất, trần lãi suất cho vay…Thực chất là NHTW quy
định mức lãi suất cho vay tối đa của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế.
Trong phạm vi lãi suất được phép, các tổ chức tín dụng được quyền ấn định lãi
suất kinh doanh phù hợp. Khi có thay đổi về kinh tế vĩ mô, NHTW có thể xem
xét để điều chỉnh giới hạn lãi suất tối đa hợp lý. Nhìn chung trong các nền kinh
tế phát triển, lãi suất ngày càng được tự do hoá, còn ở các nước có hệ thống tài
chính chưa phát triển, các quy định mang tính chất quản lý trực tiếp được áp
dụng phổ biến và xu hướng chung là ngày càng giảm dần sự quản lý trực tiếp.

16
1.2.2.2. Hạn mức tín dụng.
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các NHTM phải tôn
trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Mức dư nợ quy định cho từng ngân hàng
căn cứ vào đặc điểm kinh doanh mà ngân hàng đó trong định hướng cơ cấu kinh
tế tổng thể và nằm trong giới hạn của tổng dư nợ tín dụng dự tính của toàn bộ
nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định.
Thông qua việc sử dụng hạn mức tín dụng NHTW nhằm điều chỉnh khả
năng tạo tiền của các NHTM cho phù hợp với việc phát triển kinh tế, tránh làm
tăng tổng khối lượng tiền quá mức trong nền kinh tế, NHTW quy định hạn mức
tín dụng tối đa cho từng NHTM.
Hạn mức tín dụng là một công cụ trực tiếp điều tiết lượng tiền cung ứng, nó
được NHTW sử dụng khi các công cụ gián tiếp khác tỏ ra kém hiệu lực. Bằng
việc quy định hạn mức tín dụng, NHTW có thể kiểm soát khá chặt chẽ tổng
lượng tiền cung ứng.
Tuy vậy, kiểm soát trực tiếp tín dụng có nhiều hạn chế. Vì thế, hiện nay ở
các nước phát triển và đang phát triển đang từ bỏ cách kiểm soát này để chuyển
sang kiểm soát tổng khối lượng tiền cung ứng. Sử dụng công cụ hạn mức tín
dụng có một số bất lợi:
- Hạn mức tín dụng có thể làm cho lãi suất tăng lên, bởi vì cung về vốn bị
giới hạn không thoả mãn nhu cầu về vốn cho nền kinh tế.

- Hạn mức tín dụng có xu hướng làm giảm cạnh tranh giữa các NHTM vì
khi đã cho vay hết hạn mức tín dụng thì ngân hàng đó không còn muốn huy động
vốn nữa.
- Hạn mức tín dụng có thể làm sai lệch cơ cấu đầu tư của các NHTM, ảnh
hưởng đến cơ cấu nền kinh tế.
- Hạn mức tín dụng gây khó khăn cho các doanh nghiệp đặc biệt là các
doanh nghiệp nhỏ khó có khả năng tiếp cận với nguồn vốn tín dụng.
Công cụ hạn mức tín dụng thường được sử dụng trong trường hợp lạm phát
cao nhằm khống chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tín dụng cung ứng. Trong

17
trường hợp các công cụ gián tiếp không phát huy hiệu quả do thị trường tiền tệ
chưa phát triển, hoặc do mức cầu tiền tệ không nhạy cảm với sự biến động của
lãi suất, hay NHTW không có khả năng khống chế và kiểm soát được sự biến
động của lượng vốn khả dụng của hệ thống NHTM thì công cụ hạn mức tín dụng
là cứu cánh của NHTW trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên, như
những hạn chế đã nêu, hiệu quả điều tiết của công cụ này không cao và thiếu linh
hoạt.
1.2.2.3. Tỷ giá hối đoái.
Trong xu thế hội nhập của nền kinh tế thế giới quan hệ thương mại của mỗi
nước ngày càng mở rộng và phát triển thông qua các hoạt động xuất nhập khẩu
hàng hoá, dịch vụ…những hoạt động này đều có liên quan đến ngoại tệ. Vì vậy,
tỷ giá có tác động mạnh đến phát triển kinh tế.
Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ.
Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiện của quan hệ cung cầu
về ngoại tệ. Đến lượt mình, tỷ giá hối đoái lại là công cụ, là đòn bẩy điều tiết
cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh mẽ đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất
kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động mạnh mẽ đến sản xuất, xuất
nhập khẩu hàng hoá, tình trạng tài chính, tiền tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu
hút vốn đầu tư, dự trữ ngoại hối của quốc gia. Về thực chất, tỷ giá không phải là

công cụ của CSTT bởi lẽ tỷ giá không làm tăng hay giảm lượng tiền trong lưu
thông. Tuy nhiên, có nhiều quốc gia đặc biệt là các quốc gia có nền kinh tế đang
phát triển, đang chuyển đổi, lại coi tỷ giá là công cụ bổ trợ quan trọng cho việc
điều hành CSTT.
Tóm lại, NHTW các nước có thể sử dụng nhiều công cụ để điều hành
CSTT, mỗi công cụ khi sử dụng đều có những ưu nhược điểm nhất định. Tuỳ
theo từng điều kiện cụ thể với những mục tiêu của CSTT đã được xác định mà
NHTW sử dụng công cụ này hay công cụ khác hoặc đồng thời sử dụng tất cả hay
một nhóm các công cụ để thực hiện mục tiêu CSTT.

18
1.3. KINH NGHIỆM SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở MỘT SỐ
QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI.
1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước.
1.3.1.1. Kinh nghiệm của Mỹ.
Hệ thống dự trữ liên bang Mỹ ( thường gọi là Fed ) đặt ra mục tiêu cho
CSTT là đảm bảo đủ công ăn việc làm, tăng trưởng kinh tế, ổn định giá cả, ổn
định thị trường tài chính, thị trường ngoại hối. Để đạt được mục tiêu này, Fed đã
sử dụng ba công cụ để điều hành CSTT là : nghiệp vụ thị trường mở, chính sách
chiết khấu và tái chiết khấu, dự trữ bắt buộc.
- Nghiệp vụ thị trường mở: Công cụ này được Fed sử dụng hàng ngày để
làm thay đổi cung - cầu tiền và cơ số tiền tệ, từ đó tác động vào lãi suất thị
trường liên ngân hàng ( Mỹ gọi là lãi suất vốn liên bang ). đây là công cụ được
Fed sử dụng chủ yếu trong điều hành vì những lợi thế sau:
Mỹ là quốc gia có hệ thống thị trường tài chính rất phát triển, đặc biệt là thị
trường thứ cấp, đây là điều kiện tốt để sử dụng công cụ này. Mặt khác, Fed có
khả năng dự báo và quản lý vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng rất tốt, với
những lợi thế đó Mỹ là quốc gia đầu tiên phát hiện và sử dụng công cụ này, nó
trở thành công cụ điều hành CSTT chủ yếu của Fed.
- Chính sách chiết khấu: Đối với Fed thì công cụ này cùng với công cụ dự

trữ bắt buộc là những công cụ có tính chất hỗ trợ cho nghiệp vụ thị trường mở.
Khi cần có một sự thay đổi sâu rộng và mạnh mẽ đến cung ứng tiền thì Fed sử
dụng chính sách tái chiết khấu kết hợp với các công cụ khác. Trong chính sách
tái chiết khấu, lãi suất tái chiết khấu được xây dựng hai tuần một lần và hoàn
toàn dựa vào lãi suất vốn liên bang. Lãi suất tái chiết khấu và lãi suất vốn liên
bang bao giờ cũng vận hành cùng chiều để tác động hữu hiệu vào lãi suất thị
trường, còn hạn mức tái chiết khấu ( Mỹ gọi là cửa sổ chiết khấu ) được phép
thực hiện theo mục tiêu ưu tiên. Cửa sổ chiết khấu chỉ hoạt động khi các ngân
hàng cần vay để bù đắp thiếu hụt dự trữ bắt buộc, vay để bổ sung tín dụng thời
vụ hoặc vay theo các dự án đặc biệt. Với tính chất hỗ trợ, chính sách tái chiết
khấu của Fed thực sự có hiệu quả trong thời gian qua và đặc biệt là lãi suất tái

19
chiết khấu đóng vai trò như đèn báo hiệu sự chuyển hướng trong chính sách điều
tiết của Fed.
- Công cụ dự trữ bắt buộc: Đây là công cụ hỗ trợ cho các công cụ khác trong
điều hành CSTT của Fed. Fed rất ít khi thay đổi dự trữ bắt buộc. Trong trường
hợp cần điều tiết ở mức độ lớn và đặc biệt là cần tác động vào M1 thì Fed mới sử
dụng công cụ này.
1.3.1.2. Ngân hàng trung ương Hàn Quốc. ( BOK )
Ngân hàng trung ương Hàn Quốc đặt ra mục tiêu hàng đầu của CSTT là
đem lại sự tăng trưởng liên tục cho GDP, ổn định giá cả. Để đạt được các mục
tiêu đó, BOK đã sử dụng các công cụ chủ yếu sau.
- Tái chiết khấu và lãi suất tái chiết khấu: Tái chiết khấu được coi là công cụ
quan trọng hàng đầu để BOK điều tiết vốn trong hệ thống ngân hàng. Với việc
mở rộng hay thu hẹp hạn mức tái chiết khấu, BOK đã làm thay đổi dự trữ của hệ
thống ngân hàng, thực hiện tín dụng ưu đãi cho các khu vực ưu tiên để tác động
vào đầu tư và tổng cầu, kích thích nền kinh tế tăng trưởng. BOK cung ứng tín
dụng cho hệ thống ngân hàng bằng hai cách là tái chiết khấu và cho vay có đảm
bảo bằng tài sản ký quỹ của hệ thống ngân hàng. Cả hai loại cho vay này luôn

hướng vào các khu vực ưu tiên của nhà nước cho đầu tư phát triển. Lãi suất tái
chiết khấu được điều chỉnh linh hoạt theo hạn mức tái chiết khấu để tác động vào
lãi suất thị trường và khả năng cho vay của hệ thống ngân hàng.
- Nghiệp vụ thị trường mở: BOK áp dụng công cụ này vào cuối những năm
80 khi trái phiếu của chính phủ được phát hành một khối lượng lớn vào thị
trường tài chính. Cùng với trái phiếu chính phủ, BOK còn sử dụng cả trái phiếu
của quỹ ổn định tiền tệ để can thiệp trên thị trường mở. Việc mua bán trái phiếu
hướng vào việc kiểm soát dự trữ bắt buộc của hệ thống ngân hàng. Như vậy, đây
cũng là công cụ có tính chất hỗ trợ cho việc kiểm soát dự trữ của hệ thống ngân
hàng.
- Dự trữ bắt buộc: BOK quy định dự trữ bắt buộc chủ yếu là để tác động vào
hệ số gia tăng tiền cung ứng, qua đó để kiểm soát tín dụng của hệ thống ngân

20
hàng. Cũng như lãi suất tái chiết khấu, dự trữ bắt buộc được quy định không
đồng nhất vì các mục tiêu ưu tiên. Nếu khu vực kinh tế nào cần được ưu đãi thf
hệ thống ngân hàng phục vụ cho khu vực kinh tế đó có tỷ lệ dự trữ bắt buộc thấp
hơn các khu vực khác. Đây cũng là một đặc điểm trong chính sách điều hành của
BOK để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
1.3.1.3. Ngân hàng nhân dân Trung Quốc ( NHTWTQ ).
Ngân hàng nhân dân Trung Quốc đặt ra mục tiêu cuối cùng của CSTT là ổn
định giá trị đồng nhân dân tệ để từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trên cơ sở
theo dõi thường xuyên các biến động của tiền tệ để NHTWTQ tác động vào mục
tiêu trung gian là lượng cung ứng tiền tệ. Để điều hành CSTT, NHTWTQ sử
dụng một số công cụ sau.
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Chế độ dự trữ bắt buộc ở Trung Quốc và các nước
khác cơ bản là giống nhau nhưng về chức năng lại khác nhau. Đặc điểm chính
của chế độ dự trữ bắt buộc ở Trung Quốc là không chú trọng đến khống chế tổng
lượng tiền, mà thực tế lại phát huy tác dụng của việc tập trung nguồn vốn, điều
chỉnh cơ cấu cho vay. Vì vậy, trong một thời gian dài, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được

quy định cao. Mục tiêu ban đầu của chế độ dự trữ bắt buộc là làm suy yếu năng
lực tự cân đối vốn và tăng giá thành kinh doanh của NHTM. Tháng 3/1998
Trung Quốc đã tiến hành cải cách công cụ này hướng vào việc điều chỉnh quan
hệ vốn giữa NHTW và NHTM, tăng khả năng tự điều chỉnh về vốn của các
NHTM, phát huy đầy đủ tác dụng điều tiết của tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổng
lượng cung ứng tiền tệ. Tuy nhiên, cho đến nay công cụ này vẫn đang tiếp tục
được hoàn thiện.
- Tái chiết khấu: Công cụ này hầu như chưa phát huy tác dụng. Nguyên
nhân chính là hoạt động tín dụng ở Trung Quốc chỉ mới được khôi phục từ sau
cải cách. Trước đó, Trung Quốc đã đi một đoạn đường vòng không theo quy
phạm với trình độ chứng từ hoá rất kém, thương phiếu của các doanh nghiệp nhà
nước phát hành một thời kỳ đã trở thành “ nợ tam giác” khó thanh toán. Vì vậy,
NHTM không dám hoặc không thể chiết khấu các thương phiếu này. Muốn triển
khai đầy đủ hoạt động tái chiết khấu nhằm phát huy tác dụng công cụ này

21
NHTWTQ đã xác định cần phải nắm chắc khâu cơ bản của tín dụng thương mại,
tiến tới cải cách lãi suất, tăng cường chất lượng hoạt động tín dụng của các
doanh nghiệp với nhau, giữa các doanh nghiệp với ngân hàng.
- Nghiệp vụ thị trường mở: Công cụ này được NHTWTQ áp dụng từ tháng
4/1996 thông qua việc mua bán trái phiếu chính phủ. Tuy nhiên, trong giai đoạn
đầu lượng giao dịch rất thấp, không có tác dụng điều tiết nhưng sơ bộ đã xây
dựng cơ chế thao tác nghiệp vụ, đặt cơ sở cho việc mở rộng và hoàn thiện công
cụ này.
Định hướng của NHTWTQ là phát triển công cụ nghiệp vụ thị trường mở
thành công cụ chủ yếu để điều tiết linh hoạt lượng tiền cung ứng. Muốn vậy, điều
kiện kèm theo là phải phát triển và hoàn thiện thị trường trái phiếu chính phủ.
Giải quyết hợp lý các vấn đề về quy mô phát hành trái phiếu chính phủ, quy mô
luồng vốn, tình hình phát triển tín dụng nhà nước…Tất nhiên đây không phải là
vấn đề có thể giải quyết trong ngắn hạn mà phải được thực hiện mang tính dài

hạn.
Ngoài ba công cụ chủ yếu trên, NHTWTQ còn sử dụng một số công cụ bổ trợ
khác như lãi suất, quản lý tiền mặt, các biện pháp này mang tính hành chính.
1.3.2. Bài học rút ra cho Việt nam.
Thông qua việc nghiên cứu ở trên, chúng ta có thể thấy với Fed, để điều
hành CSTT thì công cụ quan trọng nhất được sử dụng thường xuyên và hàng
ngày đó là nghiệp vụ thị trường mở. Để tác động một cách mạnh mẽ và sâu rộng
đến cung ứng tiền tệ, Fed kết hợp sử dụng với chính sách tái chiết khấu và dự trữ
bắt buộc, trong đó chính sách tái chiết khấu được chú trọng sử dụng hơn và thực
tế đã phát huy hiệu quả tốt hơn so với dự trữ bắt buộc.
Đối với ngân hàng trung ương Hàn Quốc, BOK đã sử dụng ba công cụ là tái
chiết khấu và lãi suất tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc.
Trong đó công cụ trọng tâm là tái chiết khấu và lãi suất tái chiết khấu.
Lãi suất tái chiết khấu được điều chỉnh linh hoạt theo hạn mức tái chiết khấu
để tác động vào lãi suất thị trường và khả năng cho vay của hệ thống ngân hàng.

22
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở và dự trữ bắt buộc được sử dụng để điều tiết
một số lĩnh vực được coi là ưu tiên để nhằm phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh
tế.
Ngân hàng nhân dân Trung Quốc sử dụng ba công cụ chủ yếu để điều hành
CSTT dó là nghiệp vụ thị trường mở, tái chiết khấu và dự trữ bắt buộc. Tuy nhiên,
cả ba công cụ này cũng đang trong quá trình hoàn thiện. Ngoài ra, NHTWTQ còn
sử dụng một số công cụ bổ trợ như lãi suất, quản lý tiền mặt…Sự phối hợp các công
cụ của CSTT đã được thực hiện nhưng vẫn ở mức độ nhất định.
Trên cơ sở xem xét việc sử dụng các công cụ CSTT ở một số nước đã gợi ý
những vấn đề trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ đó là:
Thứ nhất, hầu như quốc gia nào cũng sử dụng tối thiểu ba công cụ để điều
hành CSTT là nghiệp vụ thị trường mở, tái chiết khấu và dự trữ bắt buộc.
Thứ hai, tuỳ điều kiện thực tiễn của từng quốc gia và từng giai đoạn để xác

định công cụ quan trọng nhất trong điều hành CSTT, các công cụ còn lại mang
tính bổ trợ.
Thứ ba, khi xây dựng các mục tiêu CSTT quốc gia, cần phải đặt CSTT
trong tổng thể và cần phối kết hợp với hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô của
nhà nước, đặc biệt là chính sách tài chính. Từ đó, lựa chon công cụ CSTT phù
hợp trong từng thời kỳ.
Thứ tư, điều hành CSTT chỉ có thể mang lại hiệu quả khi có sự phối hợp
giữa các công cụ của CSTT.
Thứ năm, cần nâng cao vị thế và tính độc lập của NHTW với chính phủ, có
như vậy NHTW mới có thể đưa ra các quyết định điều hành CSTT một cách
nhanh chóng và tác động đến nền kinh tế một cách kịp thời.
Thứ sáu, nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chứa đựng nhiều ưu điểm
trong điều hành CSTT. Tuy nhiên, để sử dụng một cách có hiệu quả đồng thời
đưa nó trở thành công cụ quan trọng bậc nhất trong hệ thống các công cụ thì cần
phải có các điều kiện như: Thị trường tài chính phát triển, môi trường pháp lý
phải đồng bộ và lành mạnh…

×