Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Phát triển các siêu thị bán lẻ Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 125 trang )




2
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
Mở đầu
1
Chương 1: Phát triển siêu thị bán lẻ – Một số vấn đề lý luận và kinh
nghiệm quốc tế
6
1.1. Lý luận chung về phát triển siêu thị bán lẻ
6
1.1.1. Bản chất, vai trò của siêu thị bán lẻ
6
1.1.1.1. Khái niệm và phân loại siêu thị bán lẻ
6
1.1.1.2. Đặc điểm và mô hình tổ chức của siêu thị bán lẻ
15
1.1.1.3. Chức năng của siêu thị bán lẻ
17
1.1.1.4. ưu và nhược điểm của siêu thị bán lẻ
19
1.1.2. Điều kiện phát triển siêu thị bán lẻ
21
1.1.3. Phát triển các siêu thị bán lẻ trong hội nhập kinh tế quốc tế
23
1.1.3.1. Tập trung hóa hình thành các tập đoàn lớn chuyên kinh doanh
siêu thị bán lẻ
23


1.1.3.2. Mở rộng mạng lưới siêu thị bán lẻ ra ngoài biên giới quốc gia
24
1.1.3.3. Xu hướng sử dụng ngày càng phổ biến công nghệ thông tin trong
hoạt động kinh doanh siêu thị
25
1.1.3.4. Hợp nhất chức năng bán buôn và bán lẻ
26
1.1.3.5. Phát triển các dịch vụ phục vụ khách hàng
26
1.1.3.6. Nhượng quyền thương mại phát triển sâu rộng
26
1.2. Kinh nghiệm phát triển siêu thị bán lẻ của một số nước trên thế giới
27
1.2.1. Tình hình phát triển siêu thị hệ thống bán lẻ ở một số nước
27
1.2.2. Một số bài học kinh nghiệm phát triển siêu thị bán lẻ cho Việt Nam
36
Chương 2: Thực trạng phát triển các siêu thị bán lẻ Việt Nam trong hội
nhập kinh tế quốc tế
43
2.1. Thực trạng hoạt động của hệ thống siêu thị bán lẻ Việt Nam thời gian
qua
43
2.1.1. Số lượng siêu thị bán lẻ
45



3
2.1.2. Quy mô siêu thị bán lẻ

48
Nội dung
Trang
2.1.3. Thành phần kinh tế tham gia kinh doanh siêu thị bán lẻ
50
2.1.4. Mô hình hoạt động của siêu thị bán lẻ
51
2.1.5. Hàng hóa trong siêu thị bán lẻ
52
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường bán lẻ Việt Nam
53
2.2.1. Môi trường pháp lý
53
2.2.2. Môi trường kinh doanh
57
2.2.3. Các nhân tố khác
58
2.3. Đánh giá chung về thực trạng phát triển của các siêu thị bán lẻ Việt
Nam thời gian qua
60
3.1. Những thành tựu đạt được
60
3.2. Những hạn chế, tồn tại
67
2.3.3. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế
72
Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển
các siêu thị bán lẻ Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế
75
3.1. Bối cảnh và điều kiện mới đối với việc phát triển các siêu thị bán lẻ

Việt Nam
75
3.1.1. Những xu hướng mới của môi trường kinh doanh quốc tế và trong
nước
75
3.1.2. Những cơ hội và thách thức đối với việc phát triển các siêu thị bán
lẻ Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế
90
3.1.2.1. Cơ hội
90
3.1.2.2. Thách thức
92
3.2. Quan điểm phát triển các siêu thị bán lẻ Việt Nam trong hội nhập
kinh tế quốc tế
95
3.2.1. Phát triển siêu thị bán lẻ Việt Nam phải đảm bảo phù hợp với
những quy luật khách quan của kinh tế thị trường
95
3.2.2. Đảm bảo kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại
96



4
3.2.3. Huy động sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế

97
Nội dung
Trang
3.2.4. Nâng cao hiệu quả điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với hoạt động

của các siêu thị bán lẻ
98
3.2.5. Phát triển siêu thị bán lẻ Việt Nam phải phù hợp với đặc điểm kinh
tế, văn hóa, tập quán của người Việt Nam
99
3.3. Những giải pháp cơ bản nhằm phát triển hệ thống siêu thị bán lẻ Việt
Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế
100
3.3.1. Nhóm giải pháp về phía Nhà nước
100
3.3.1.1. Triển khai xây dựng và phê duyệt quy hoạch phát triển tổng thể
hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại
100
3.3.1.2. Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý Nhà nước trong
lĩnh vực siêu thị bán lẻ
101
3.3.1.3. Hỗ trợ trực tiếp của Nhà nước từ ngân sách trung ương
103
3.3.1.4. Ban hành một số chính sách khuyến khích nhằm phát triển các
siêu thị bán lẻ nội địa
104
3.3.1.5. Thành lập hiệp hội các doanh nghiệp kinh doanh siêu thị bán lẻ
105
3.3.2. Nhóm giải pháp từ phía doanh nghiệp kinh doanh siêu thị bán lẻ
105
3.3.2.1. Củng cố hoạt động kinh doanh của các siêu thi hiện tại
105
3.3.2.2. Phát triển mạng lưới siêu thị nhằm chiếm lĩnh thị trường nội địa
108
3.3.2.3. Chính sách giá cả hợp lý

109
3.3.2.4. Tăng cường hoạt động quảng cáo, chất lượng phục vụ khách hàng
109
3.3.2.5. Vấn đề hậu cần
110
3.3.2.6. Đào tạo và quản lý nhân viên
110
Kết luận
112
Tài liệu tham khảo






5


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dịch vụ bán lẻ là hoạt động quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Nó là mắt
xích không thể thiếu trong hệ thống phân phối hàng hóa từ khâu sản xuất tới
người tiêu dùng cuối cùng, từ đó thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế và gia
tăng lợi ích cho người tiêu dùng. Khi xã hội càng phát triển, phân công lao động
xã hội và trình độ chuyên môn hóa càng cao thì nhu cầu của người tiêu dùng
càng được cá biệt hóa thì vai trò của dịch vụ bán lẻ càng trở nên quan trọng.
Sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã có bước phát triển
kinh tế – xã hội vượt bậc với tốc độ tăng trưởng bình quân 2001 – 2007 trên
7,5%. Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao thứ hai trên thế giới là sự ổn định

chính trị - xã hội, quy mô thị trường với hơn 85 triệu dân, mức độ tiêu dùng
ngày càng lớn khiến cho Việt Nam được đánh giá là thị trường bán lẻ hấp dẫn
nhất thế giới hiện nay trong số 20 nước mới nổi (Theo hãng tư vấn quản lý hàng
đầu thế giới – AT Kearney đưa ra vào tháng 6/2008). Việc nghiên cứu và áp
dụng kênh phân phối hàng hóa qua hệ thống siêu thị bán lẻ tới người tiêu dùng
cuối cùng sao cho hiệu quả, phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng đã trở nên
cấp thiết.
Việc phân phối theo kiểu truyền thống thông qua các chợ, cửa hàng tạp hóa
nhỏ, các tiểu thương có vai trò rất quan trọng trong lưu thông hàng hóa nhưng
cũng không tránh khỏi những bất cập như: giá cao, hàng hóa lưu thông chậm,
bán hàng mang tính tự phát, thiếu chuyên nghiệp và khó quản lý,… Chính vì
vậy, việc phát triển các siêu thị bán lẻ Việt Nam theo theo hướng thuận tiện,
hiện đại và hiệu quả là nhu cầu cấp thiết hiện nay.
Cùng với sự phát triển mạnh của nền kinh tế, trước yêu cầu của hội nhập
sâu rộng trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế xã hội, các siêu thị bán lẻ Việt
Nam đã và đang bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập như: Hoạt động kinh doanh của



6
các siêu thị bán lẻ Việt Nam còn bộc lộ nhiều yếu kém từ khâu tổ chức, thiết lập
mạng lưới bán hàng, hậu cần, chiến lược kinh doanh chưa thực sự phù hợp cho
sự phát triển lâu dài; Kết cấu hạ tầng phục vụ cho hoạt động kinh doanh nhìn
chung còn yếu kém, lạc hậu và thiếu thốn; Nguồn nhân lực còn yếu về kỹ năng,
nghiệp vụ và thiếu chuyên nghiệp. Vì vậy, việc nghiên cứu và đưa ra giải pháp
nhằm phát triển các siêu thị bán lẻ Việt Nam trong điều kiện hiện nay là vấn đề
mang tính cấp thiết.
Trước yêu cầu của thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội, trước áp lực của
cạnh tranh khốc liệt khi Việt Nam đã gia nhập WTO, các siêu thị bán lẻ Việt
Nam phải thực sự đổi mới, hiện đại hóa mới có thể đứng vững và phát triển.

Mặt khác, với lộ trình đã cam kết khi gia nhập WTO, Việt Nam thực sự mở cửa
trong lĩnh vực bán lẻ vào ngày 1.1.2009 khi các tập đoàn lớn được thành lập
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (hiện nay chỉ được phép liên doanh) - điều
đó đặt các doanh nghiệp phân phối bán lẻ trong nước, các kênh phân phối
truyền thống có nguy cơ bị “xâm lấn” từ đó ảnh hưởng đến sản xuất và cả nền
kinh tế. Vì thế, việc nghiên cứu để tìm ra những giải pháp thực sự cần thiết
nhằm phát triển các siêu thị bán lẻ Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế là vấn đề cần được nghiên cứu.
Việc nghiên cứu nhằm thúc đẩy sự phát triển của các siêu thị bán lẻ Việt
Nam sẽ góp phần tạo thêm giá trị gia tăng cho nền kinh tế, giúp tăng tỷ trọng
của dịch vụ trong cơ cấu ngành kinh tế nước nhà, góp phần thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
2. Tình hình nghiên cứu:
* Phát triển siêu thị bán lẻ đã được Nhà nước, các Bộ, ngành và các địa
phương quan tâm nhất là trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương
mại thế giới. Các chủ trương, chính sách lớn của Nhà nước như:
- Nghị định 02/2003/NĐ - CP của Chính phủ ngày 14/1/2003 về phát triển
và quản lý chợ.
- Quyết định 311/QĐ-TTg ngày 20/3/2003 của Thủ tướng Chính phủ về
việc thực hiện những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển mạnh thị trường nội địa



7
đã chứa đựng các nội dung quan trọng về phát triển dịch vụ bán buôn, bán lẻ ở
Việt Nam.
- Quyết định 1371/2004/QĐ-BTM ngày 24/9/2004 của Bộ Thương mại ban
hành “Quy chế siêu thị và trung tâm thương mại ở Việt Nam”.
- Quyết định 27/2007/QĐ-TTg ngày 15/2/2007 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt đề án “Phát triển thương mại trong nước 2006 – 2010, định hướng

đến 2020”.
* Các công trình nghiên cứu như đề tài khoa học cấp Bộ, các bài viết đăng
trên các tạp chí, luận văn, luận án đều đã trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập tới
việc phát triển các siêu thị bán lẻ Việt Nam như:
- Đề tài khoa học cấp bộ “Thực trạng và giải pháp phát triển hệ thống
siêu thị của Việt Nam hiện nay” – do Viện nghiên cứu thương mại thực hiện
năm 2005.
- Đề tài khoa học cấp bộ “Hệ thống siêu thị trên địa bàn Hà Nội” –
PGS.TS Trần Hùng 2004, Đại học thương mại
- Đề tài khoa học cấp bộ “Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động các chợ
đầu mối trên trên địa bàn thành phố Hà Nội” – TS. Nguyễn Thị Bích Loan,
Đại học Thương mại 2005.
- Đề tài khoa học cấp bộ “Phát triển chuỗi cửa hàng tiện lợi tại các khu đô
thị mới trên địa bàn Hà Nội” – TS. Lêdi a Quân, Đại học Thương mại 2008
- Luận văn Thạc sỹ “Những yếu tố quyết định đến thị trường bán lẻ Việt
Nam” – Nguyễn Thị Uyên, Đại học Thương mại 2006.
- Ngoài ra, rất nhiều bài viết đăng trên các báo, tạp chí, interner… đều có đề
cập đến siêu thị bán lẻ đặc biệt sau khi Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức
thương mại thế giới.
Tuy đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, đề tài, luận văn, luận án đề cập
trực tiếp hoặc gián tiếp đến phát triển các siêu thị bán lẻ nhưng những công
trình này chỉ dừng lại ở việc mô tả thực trạng và xu hướng phát triển của hệ
thống siêu thị trên lãnh thổ Việt Nam (bao gồm cả siêu thị nội địa và siêu thị
ngoại); trên một địa bàn cụ thể (một địa phương, một khu vực…); một doanh



8
nghiệp bán lẻ cụ thể…Việc tách riêng hệ thống siêu thị bán lẻ mang quốc tịch
Việt Nam để nghiên cứu thì chưa có đề tài nào đề cập tới. Mặt khác, đề tài được

thực hiện trong bối cảnh Việt Nam đã trở là thành viên của WTO - điều này có
ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của hệ thống siêu thị Việt trong bối cảnh hội
nhập kinh tế sâu rộng, sự cạnh tranh từ các siêu thị nước ngoài là rất khốc liệt.
Vì vậy, việc thực hiện đề tài này sẽ không trùng lắp, đảm bảo tính độc lập
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao đối với việc phát triển các siêu thị bán lẻ Việt
Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1. Mục đích:
Đề xuất các giải pháp đổi mới và hoàn thiện mô hình, phương thức tổ chức
kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh cho các siêu thị bán lẻ Việt Nam
trong hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về dịch vụ bán lẻ tại
các siêu thị trong hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra hiện nay của hệ thống siêu thị
bán lẻ Việt Nam về hệ thống pháp lý, chính sách của Nhà nước; các mô hình
hoạt động và cách thức tổ chức kinh doanh
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm góp phần đổi mới và hoàn thiện hệ
thống chính sách, vận dụng và phát triển các mô hình và phương thức tổ chức
kinh doanh vào việc phát triển các siêu thị bán lẻ Việt Nam một cách hiệu quả,
hiện đại và phù hợp với điều kiện thực tiễn hội nhập sâu rộng ở Việt Nam hiện
nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tượng:
Luận văn nghiên cứu siêu thị bán lẻ với tư cách là một hình thức lưu thông
hàng hóa, dịch vụ – một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:




9
- Nghiên cứu hoạt động kinh doanh của các siêu thị bán lẻ Việt Nam (Quốc
tịch Việt Nam) chủ yếu ở 2 thị trường lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí
Minh.
- Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng hoạt động của hệ thống siêu thị bán lẻ
Việt Nam từ 1996 đến nay và đề xuất giải pháp phát triển các siêu thị bán lẻ
Việt Nam đến 2010, định hướng đến 2020.


5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
làm phương pháp tiếp cận và nghiên cứu chủ đạo với những phương pháp cụ
thể:
- Phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh và dự báo.
- Nghiên cứu tài liệu trên cơ sở nguồn tài liệu thứ cấp là sách, báo,
websites đặc biệt là các nguồn tài liệu của Bộ Thương mại, các chính sách,
Quyết định, đề án nhất là các báo cáo khảo sát hệ thống phân phối của các
nước Trung Quốc, Thái Lan do Vụ chính sách thị trường trong nước thực hiện.
6. Dự kiến đóng góp mới của luận văn:
- Hệ thống hóa và làm rõ hơn những lý luận về siêu thị bán lẻ trong hội
nhập kinh tế quốc tế.
- Phân tích nhằm làm rõ thực trạng hoạt động của siêu thị bán lẻ Việt Nam
hiện nay
- Đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển các siêu thị bán lẻ Việt
Nam trong thời gian tới.
7. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Phát triển siêu thị bán lẻ – Một số vấn đề lý luận và kinh
nghiệm quốc tế




10
Chương 2: Thực trạng phát triển các siêu thị bán lẻ Việt Nam trong hội
nhập kinh tế quốc tế
Chương 3: Phƣơng hƣớng và một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển
siêu thị bán lẻ Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế

CHƢƠNG 1
PHÁT TRIỂN SIÊU THỊ BÁN LẺ
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
1.1. Lý luận chung về phát triển siêu thị bán lẻ
1.1.1. Bản chất, chức năng của siêu thị bán lẻ
1.1.1.1. Khái niệm và phân loại siêu thị bán lẻ
a. Các khái niệm
* Khái quát về hệ thống phân phối
Hoạt động phân phối có thể được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau.
Đối với người sản xuất, phân phối là những cách thức và những tổ chức giúp họ
đạt tới các khách hàng cuối cùng. Lựa chọn một chính sách phân phối có nghĩa
là lựa chọn những phương thức phân phối phù hợp nhất cho việc bán một hàng
hóa hoặc dịch vụ. Đối với người tiêu dùng, hoạt động phân phối được thể hiện
chủ yếu tại các cửa hàng bán lẻ – mắt xích cuối cùng của quá trình biến đổi, vận
chuyển, dự trữ và đưa hàng hóa, dịch vụ đến tay người tiêu dùng. Còn đối với
bản thân các nhà phân phối, hoạt động phân phối là một lĩnh vực kinh tế riêng
biệt có chức năng trung gian giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Tuy nhiên,
có thể định nghĩa hoạt động phân phối như sau:
Phân phối là quá trình lưu thông hàng hóa từ nhà chế tạo/sản xuất hay nhập
khẩu tới các nhà phân phối trực tiếp/các đại lý bán hàng hay các công ty thương
mại, các đối tác thu mua tới tay người tiêu dùng/các khách hàng kinh doanh,

nhà chuyên môn (các trung gian phân phối).
Các trung gian phân phối bao gồm các thể nhân và pháp nhân kinh tế hợp
thức đứng giữa nhà sản xuất và nhà tiêu dùng thực hiện chức năng phân phối
hàng hóa để tìm kiếm lợi nhuận cho họ. Theo chức năng của các trung gian



11
phân phối, thường có hai loại trung gian phân phối là trung gian bán buôn và
trung gian bán lẻ. Tuy nhiên, trong thực tế lại có trung gian thương mại vừa bán
buôn và kiêm cả bán lẻ, khi đó họ sẽ được coi là trung gian bán buôn hay bán lẻ
là tùy thuộc vào tỷ trọng bán buôn hay bán lẻ cao thấp khác nhau.
Như vậy, phân phối bao gồm toàn bộ các quá trình hoạt động theo thời gian
và không gian từ lúc kết thúc sản xuất cho đến lúc kết thúc khách hàng cuối
cùng nhận được sản phẩm tiêu dùng. Đó là các khâu đóng gói, vận chuyển, lưu
kho, dự trữ và đem bán cho người tiêu dùng. Dù hoạt động phân phối có thể do
chính người sản xuất thực hiện hay do các trung gian đảm nhiệm theo yêu cầu
của người sản xuất, nó luôn được coi là chiếc cầu nối giữa người sản xuất và
người tiêu dùng. Nó giúp cho hàng hóa và dịch vụ có thể thực hiện được giá trị
và giá trị sử dụng được tạo ra trong giai đoạn sản xuất. Nhờ có phân phối, hàng
hóa và dịch vụ mới được lưu thông rộng khắp trên toàn xã hội, đáp ứng nhu cầu
ngày một đa dạng hơn của người tiêu dùng.
Hệ thống phân phối sản phẩm hay dịch vụ từ người sản xuất đến người tiêu
thụ có thể là trực tiếp hay gián tiếp, có thể đi qua các kênh phân phối dài hay
ngắn như sau:
Bảng 1.1: Sơ đồ các kênh phân phối sản phẩm từ nhà sản xuất cho tới
người tiêu thụ cuối cùng




12

- Kênh trực tiếp (còn gọi là kênh cực ngắn): Khi nhà sản xuất trực tiếp đưa
sản phẩm của mình đến người tiêu dùng, không qua trung gian nào cả. Bán
hàng tại các cửa hàng giới thiệu sản phẩm của công ty hay bán hàng qua điện
thoại, qua catalogue chính là những kênh phân phối trực tiếp.
- Kênh ngắn: Nhà sản xuất đưa hàng hóa đến các nhà bán lẻ và từ đó đưa
hàng hóa đến với người tiêu dùng thông qua vai trò trung gian của những người
bán lẻ.
- Kênh trung bình: Hàng hóa qua hai cấp độ trung gian là nhà sản xuất –
người bán buôn, ngưới bán lẻ, người tiêu dùng.
- Kênh dài: Hàng hóa đi từ nhà sản xuất đến các đại lý hoặc môi giới rồi
mới đến người bán buôn, bán lẻ để đến được người tiêu dùng cuối cùng.
* Khái niệm bán buôn
Căn cứ công văn 4660 TCT/NV6 ngày 19/10/2000 của Tổng cục thuế thì
khái niệm bán buôn được hiểu là các hộ kinh doanh thương mại ở các chợ đầu
mối, các trung tâm thương mại ở tỉnh, thành phố, thị xã bán hàng với số lượng
lớn cho những người kinh doanh mua về để bán lại.
Người
tiêu
dùng
Người
sản
xuất
Người
sản
xuất
Người
bán lẻ
Người

tiêu
dùng
Người
sản
xuất
Người
tiêu
dùng
Người
bán lẻ
Người
bán
buôn
Người
sản
xuất
Người
bán lẻ
Người
tiêu
dùng
Người
bán
buôn
Đại lý
môi
giới




13
Theo Quyết định của hội đồng Bộ trưởng số 318/CT ngày 23/12/1988 về
việc ban hành quy định về tổ chức kinh doanh bán buôn hàng tiêu dùng ở thị
trường trong nước thì bán buôn hàng tiêu dùng là một khâu trong quá trình lưu
thông hàng hóa nối liền sản xuất với bán lẻ.
Bán buôn không giới hạn ở mức độ bán đến người bán lại mà nó còn bao
gồm vả việc bán hàng đến tất cả các loại hình kinh doanh bất kể họ có bán lại,
có chế biến hay chỉ sử dụng cho mục đích chuyên môn nào đó.
* Khái niệm bán lẻ
Bán lẻ là bán hàng hóa hay dịch vụ cho khách hàng riêng lẻ. Nói cách
khác, bán lẻ là hoạt động cung cấp hàng hóa hay dịch vụ trực tiếp đến tay người
tiêu dùng.
b. Phân loại bán buôn, bán lẻ
* Bán buôn
Các trung gian bán buôn bao gồm các doanh nghiệp và cá nhân mua hàng
hóa để bán lại cho các doanh nghiệp hoặc tổ chức khác (Các nhà bán lẻ, các nhà
bán buôn khác, các doanh nghiệp sản xuất, các tổ chức xã hội và cơ quan nhà
nước).
Trong thực tế, các doanh nghiệp có thể vừa bán buôn, vừa bán lẻ. Họ được
coi là nhà bán buôn nếu tỷ trọng bán buôn là chủ yếu trong doanh số. Những
nhà bán buôn được chia làm 3 loại chính:
- Người bán buôn sở hữu hàng hóa thực sự
- Đại lý, môi giới và nhà bán buôn hưởng hoa hồng
- Chi nhánh và đại diện bán của nhà sản xuất. Sở dĩ coi chi nhánh và đại
diện bán của nhà sản xuất như người bán buôn là do họ thực hiện các chức năng
bán buôn là chủ yếu.
* Bán lẻ
Các trung gian bán lẻ bao gồm các doanh nghiệp và cá nhân bán hàng hóa
trực tiếp cho người tiêu dùng cá nhân hoặc hộ gia đình. Những nhà bán lẻ có thể
được phân chia thành nhiều loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Các trung gian




14
bán lẻ thường có số lượng lớn hơn, lĩnh vực hoạt động và các hình thức tổ chức
lại đa dạng hơn. Có thể chia thành:
- Các nhà bán lẻ truyền thống, các nhà bán lẻ áp dụng phương thức kinh
doanh hiện đại
- Các nhà bán lẻ độc lập và các nhà bán lẻ liên kết
- Các cửa hàng bán lẻ độc lập và các doanh nghiệp bán lẻ
- Cửa hàng chuyên doanh và cửa hàng tổng hợp
- Siêu thị chuyên doanh và siêu thị tổng hợp, đại siêu thị
-
c. Siêu thị
* Khái niệm siêu thị
"Siêu thị" là từ được dịch ra từ các thuật ngữ nước ngoài - "Supermarket"
(tiếng Anh) hay "Supermarché" (Tiếng Pháp), trong đó "Super" nghĩa là "Siêu"
và "Market" là "Chợ". Siêu thị ra đời lần đầu tiên vào năm 1930 tại Mỹ và chính
những ưu thế nổi trội của nó đã làm nên cuộc cách mạng trong lĩnh vực phân
phối bán lẻ của thế giới hiện đại. Hiện nay, khái niệm siêu thị được định nghĩa
theo nhiều cách khác nhau tùy theo từng quốc gia, ví dụ:
- Nước Mỹ coi siêu thị là "cửa hàng tự phục vụ tương đối lớn có mức chi
phí thấp, tỷ suất lợi nhuận không cao và khối luợng hàng hóa bán ra lớn, đảm
bảo thỏa mãn đầy đủ nhu cầu của người tiêu dùng về thực phẩm, bột giặt, các
chất tẩy rửa và những mặt hàng chăm sóc nhà cửa" (Philips Kotler, "Marketing
căn bản").
- Siêu thị ở Pháp được định nghĩa là "cửa hàng bán lẻ theo phương thức tự
phục vụ có diện tích từ 400m
2
đến 2500m

2
chủ yếu bán hàng thực phẩm" (Marc
Benoun,"Marketing: Savoir et savoir - faire",1991).
- Siêu thị ở Anh: "Siêu thị là cửa hàng tự phục vụ bày bán nhiều mặt hàng
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hàng ngày của người tiêu dùng như thực phẩm, đồ
uống, dụng cụ gia đình và các loại vật dụng cần thiết khác" (Từ điển kinh tế thị
trường từ A đến Z)



15
Ở Việt Nam, bản chất của siêu thị cũng được thấy rõ trong quy chế “Siêu
thị, trung tâm thương mại” của Bộ công thương, trước là Bộ thương mại: “Siêu
thị là loại cửa hàng hiện đại, kinh doanh tổng hợp hoặc chuyên doanh; có cơ
cấu chủng loại hàng hoá phong phú, đa dạng, đảm bảo chất lượng; đáp ứng
các tiêu chuẩn về diện tích kinh doanh, trang bị kỹ thuật và trình độ quản lý, tổ
chức kinh doanh; có phương thức phục vụ văn minh thuận tiện nhằm thỏa mãn
nhu cầu mua sắm hàng hóa của khách hàng”.
Tóm lại, có thể có rất nhiều định nghĩa khác nhau về siêu thị nhưng từ các
định nghĩa khác nhau này, người ta vẫn thấy những nét chung nhất cho phép
phân biệt siêu thị với các dạng cửa hàng bán lẻ khác. Đó là siêu thị áp dụng
phương thức tự phục vụ và hàng hóa chủ yếu đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hàng
ngày.
* Những đặc trƣng nổi bật của siêu thị
- Siêu thị trước hết là cửa hàng bán lẻ: Mặc dù được định nghĩa là "chợ"
song đây được coi là loại "chợ" ở mức phát triển cao, được quy hoạch và tổ
chức kinh doanh dưới hình thức những cửa hàng bề thế, có trang thiết bị và cơ
sở vật chất hiện đại, văn minh, do thương nhân đầu tư và quản lý, được Nhà
nước cấp phép hoạt động. Siêu thị chủ yếu thực hiện chức năng bán lẻ - bán
hàng hóa trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng để họ sử dụng chứ không phải

để bán lại.
- Siêu thị áp dụng phương thức tự phục vụ:
Khi nói đến siêu thị người ta không thể không nghĩ tới "tự phục vụ", một
phương thức bán hàng do siêu thị sáng tạo ra, được ứng dụng trong nhiều loại
cửa hàng bán lẻ khác và là phương thức kinh doanh chủ yếu của xã hội văn
minh công nghiệp hóa ở đây cũng cần phân biệt giữa phương thức tự chọn và
tự phục vụ:
+ Tự chọn: khách hàng sau khi chọn mua được hàng hoá sẽ đến chỗ người
bán để trả tiền hàng, tuy nhiên trong quá trình mua vẫn có sự giúp đỡ, hướng
dẫn của người bán.



16
+ Tự phục vụ: khách hàng xem xét và chọn mua hàng, bỏ vào giỏ hoặc xe
đẩy đem đi và thanh toán tại quầy tính tiền đặt gần lối ra vào. Người bán gần
như vắng bóng trong quá trình mua hàng.
Chính thức ra đời từ những năm 1930, tự phục vụ đã trở thành công thức
chung cho ngành công nghiệp phân phối ở các nước phát triển. Tự phục vụ
đồng nghĩa với văn minh thương mại hiện đại. Nó có nhiều ưu điểm so với cách
bán hàng truyền thống: doanh nghiệp có thể tiết kiệm được chi phí bán hàng,
đặc biệt là chi phí tiền lương cho nhân viên bán hàng (thường chiếm tới 30%
tổng chi phí kinh doanh). Tự phục vụ giúp người mua cảm thấy thoải mái khi
được tự do lựa chọn, ngắm nghía, so sánh hàng hóa mà không cảm thấy bị ngăn
trở từ phía người bán.
Do áp dụng phương thức tự phục vụ, giá cả trong các siêu thị được niêm
yết rõ ràng để người mua không phải tốn công mặc cả, tiết kiệm được thời gian
và hàng hóa bày bán trong siêu thị thường là những hàng hóa tiêu dùng phổ
biến.
Ngoài ra, phương thức thanh toán tại các siêu thị rất thuận tiện. Hàng hóa

gắn mã vạch, mã số được đem ra quầy tính tiền ở cửa ra vào, dùng máy quét
scanner để đọc giá, tính tiền bằng máy và tự động in hóa đơn. Hình ảnh các
quầy tính tiền tự động luôn là biểu tượng cho các cửa hàng tự phục vụ. Đây
chính là tính chất "siêu" của siêu thị, đem đến cảm giác thoải mái, hài lòng, tự
tin và sự thỏa mãn cao nhất cho người mua sắm
Có thể khẳng định rằng phương thức tự phục vụ là sáng tạo kỳ diệu của
kinh doanh siêu thị và là cuộc đại "cách mạng" trong lĩnh vực thương mại bán lẻ
mà người tiên phong không ai khác là những người kinh doanh siêu thị.
- Siêu thị sáng tạo nghệ thuật trưng bày hàng hoá
Ngoài việc sáng tạo ra phương thức bán hàng tự phục vụ, đóng góp của
siêu thị cho hệ thống bán lẻ còn là nghệ thuật trưng bày hàng hoá. Các siêu thị
cũng là những nhà bán lẻ đầu tiên nghĩ đến tầm quan trọng của nghệ thuật trình
bày hàng hoá và nghiên cứu cách thức vận động của người mua hàng khi vào
cửa hàng. Nhiều cửa hàng bán lẻ khác, dựa trên cơ sở các nghiên cứu của siêu



17
thị để tiến hành các hoạt động nghiên cứu khách hàng sâu sắc hơn nhằm tối đa
hoá hiệu quả của không gian bán hàng.
Do người bán không có mặt tại các quầy hàng nên hàng hóa phải có khả
năng "tự quảng cáo", lôi cuốn người mua. Siêu thị làm được điều này thông qua
các nguyên tắc sắp xếp, trưng bày hàng hóa (merchandising) nhiều khi được
nâng lên thành những thủ thuật. Chẳng hạn, hàng có tỷ suất lợi nhuận cao được
ưu tiên xếp ở những vị trí dễ thấy nhất, được trưng bày với diện tích lớn; những
hàng hóa có liên quan đến nhau được xếp gần nhau; hàng khuyến mại phải thu
hút khách hàng bằng những kiểu trưng bày đập vào mắt; hàng có trọng lượng
lớn phải xếp ở bên dưới để khách hàng dễ lấy; bày hàng với số lượng lớn để tạo
cho khách hàng cảm giác là hàng hoá đó được bán rất chạy
- Hàng hóa trong siêu thị chủ yếu là hàng tiêu dùng thường ngày như thực

phẩm, quần áo, bột giặt, đồ gia dụng điện tử với chủng loại rất phong phú, đa
dạng. Điều này thể hiện đúng tính chất "chợ" của siêu thị. Xem xét ở khía cạnh
danh mục hàng hóa thì siêu thị thuộc hệ thống các cửa hàng kinh doanh tổng
hợp, khác với các cửa hàng chuyên doanh chỉ chuyên sâu vào một hoặc một số
mặt hàng nhất định. Theo quan niệm của nhiều nước, siêu thị phải là nơi mà
người mua có thể tìm thấy mọi thứ họ cần ở "dưới một mái nhà" và với một
mức giá "ngày nào cũng thấp" (everyday-low-price). Chủng loại hàng hóa của
siêu thị có thể lên tới hàng nghìn, thậm chí hàng chục nghìn loại hàng. Thông
thường, một siêu thị có thể đáp ứng được 70 - 80% nhu cầu hàng hóa của người
tiêu dùng về ăn uống, trang phục, mỹ phẩm, đồ làm bếp, chất tẩy rửa, vệ sinh
Chưa bàn đến vấn đề chất lượng, ta có thể thấy siêu thị là loại cửa hàng phục vụ
cho quảng đại công chúng và phần nhiều là tầng lớp bình dân có thu nhập từ
mức thấp trở lên.
* Siêu thị trong mạng lƣới phân phối bán lẻ hiện đại
Siêu thị là một dạng cửa hàng bán lẻ thuộc mắt xích trung gian gần với
người tiêu dùng nhất. Tuy nhiên, khi nói đến siêu thị, ta ngầm hiểu đó là cách
tiếp cận từ góc độ phân loại mang tính tổ chức đối với những cửa hàng bán lẻ
theo phương thức hiện đại. Hệ thống các cửa hàng này ở các nước phương Tây



18
bao gồm cửa hàng tiện dụng (Convenience store), siêu thị nhỏ (Mini-super),
siêu thị (Supermarket), đại siêu thị (Hypermarket), cửa hàng bách hoá lớn
(Department store), cửa hàng bách hoá thông thường, cửa hàng đại hạ giá (Hard
discounter), trung tâm thương mại (Commercial center)
Những loại hình cửa hàng này với quy mô ngày càng lớn, trang hoàng đẹp
và mua bán nhanh chóng, thuận tiện đã tạo nên diện mạo của ngành thương
nghiệp bán lẻ hiện đại tại các nước công nghiệp phát triển.
Trong hệ thống các cửa hàng bán lẻ hiện đại, siêu thị được xếp ở vị trí cao

hơn các cửa hàng tự phục vụ nhỏ, cửa hàng tiện dụng và thấp hơn so với đại
siêu thị, cửa hàng đại hạ giá(hard discounter), cửa hàng bách hoá, trung tâm
thương mại xét về mặt quy mô, diện tích và phương thức kinh doanh. Những
cửa hàng bán lẻ này đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài, có suy thoái và
có diệt vong tùy theo từng thời kỳ.
Chính phương thức bán hàng tự phục vụ và nghệ thuật trưng bày hàng hoá
của siêu thị đã mở ra kỷ nguyên thương mại bán lẻ văn minh hiện đại.
Cùng với khái niệm siêu thị là chuỗi siêu thị, chỉ một tập hợp các siêu thị
của một nhà phân phối được đặt ở các địa bàn khác nhau nhưng áp dụng
phương thức kinh doanh thống nhất. Trong chuỗi siêu thị, diện mặt hàng, giá cả,
phương thức quản lý quầy hàng, gian hàng, cách trưng bày hàng hoá, biển hiệu
và hình thức bên ngoài là tương tự nhau. Ở nước ta, thuật ngữ chuỗi siêu thị
mới xuất hiện trong thời gian gần đây.
Chính sự phát triển ngày sàng sâu rộng của siêu thị đã hình thành một
khái niệm mới liên quan là hệ thống siêu thị. Hệ thống siêu thị là thuật ngữ chỉ
mạng lưới cửa hàng bán lẻ hợp nhất áp dụng phương pháp bán hàng tự phục vụ
các hàng hoá phổ biến của người dân. Căn cứ vào quy mô, diện tích mặt bằng
kinh doanh và tập hợp hàng hoá, hệ thống siêu thị gồm siêu thị nhỏ, siêu thị và
đại siêu thị. Trong đó:
- Siêu thị nhỏ: là cửa hàng bán lẻ nhỏ, chủ yếu bán hàng thực phẩm theo
phương thức tự phục vụ, hợp nhất, thường nằm giữa các khu dân cư đô thị.



19
- Đại siêu thị: là cửa hàng thương mại bán lẻ khối lượng lớn tại một địa
điểm, dựa trên nguyên tắc bán hàng tự phục vụ và quy mô lớn hơn nhiều so với
siêu thị, thường nằm ở ngoại ô các thành phố lớn có bãi xe rộng.
Như vậy, hệ thống siêu thị được cấu thành bởi các siêu thị nhỏ, siêu thị
và các đại siêu thị áp dụng phương thức bán hàng tự phục vụ, hợp nhất các hàng

hóa tiêu dùng phổ biến cho người dân.
Nhưng cần phải nói thêm, do sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống phân
phối ngày nay, khái niệm siêu thị hay hệ thống siêu thị cũng có những bước
phát triển mới, siêu thị có thể được dùng để chỉ tất cả các dạng cửa hàng bán lẻ
áp dụng phương thức bán hàng hiện đại.
* Phân loại siêu thị ở Việt Nam (Tiêu chuẩn siêu thị bán lẻ của bộ thương
mại nay là Bộ công thương)
- Siêu thị hạng 1:
Diện tích từ 1000 m
2
trở lên với siêu thị chuyên doanh, có 2000 tên hàng
hóa trở lên và từ 5000 m
2
trở lên với siêu thị tổng hợp có số lượng hàng hóa
kinh doanh từ 20000 tên hàng trở lên.
- Siêu thị hạng 2:
500 m
2
với siêu thị chuyên doanh có 1000 tên hàng hóa và 2000 m
2
với
siêu thị tổng hợp có 10000 tên hàng hóa trở lên.
- Siêu thị hạng 3:
250 m
2
với siêu thị chuyên doanh có 500 tên hàng và 500 m
2
trở lên với
siên thị tổng hợp có từ 4000 tên hàng trở lên.
Bên cạnh đó, các siêu thị phải có đầy đủ các thiết bị cần thiết khác như:

Phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an ninh. Có kiến trúc công trình
thẩm mỹ, thiết bị kỹ thuật tiên tiến, hàng hóa phải được để trong kho đảm bảo
an toàn vệ sinh thực phẩm
1.1.1.2. Đặc điểm và mô hình tổ chức của siêu thị bán lẻ
a. Đặc điểm
- Những siêu thị bán lẻ có thể được phân chia thành nhiều loại theo nhiều
tiêu thức khác nhau. Ví dụ, theo những mặt hàng mà siêu thị bán, người ta chia



20
ra siêu thị chuyên doanh hoặc siêu thị tổng hợp Siêu thị chuyên doanh bán
những dòng sản phẩm hẹp và chuyên sâu. Siêu thị tổng hợp bày bán nhiều mặt
hàng khác nhau, mỗi mặt hàng là một quầy riêng.
- Hàng hóa, dịch vụ của các siêu thị bán lẻ thường là các hàng hóa tiêu
dùng hằng ngày.
- Các loại siêu thị bán lẻ khác nhau có quy mô, phương thức kinh doanh và
sức mạnh chi phối thị trường khác nhau, tất nhiên họ cũng có khả năng điều
khiển hệ thống phân phối khác nhau.
- Đối tượng khách hàng của các siêu thị bán lẻ thường là người tiêu dùng
cuối cùng. Các nhà cung cấp cho các nhà phân phối bán lẻ thường là các nhà
bán buôn, các đại lý vừa bán buôn vừa bán lẻ.
- Trong hệ thống các kênh phân phối hàng hóa từ nhà sản xuất đến tay
người tiêu dùng cuối cùng thì hoạt động của siêu thị bán lẻ chỉ thực hiện ở 3
kênh đó là kênh ngắn, kênh trung bình và kênh dài. Đối với 2 kênh trung bình
và dài, thông thường các nhà bán lẻ phải mua hàng hóa của các nhà bán buôn và
từ đó bán trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng.
b. Mô hình tổ chức của hệ thống siêu thị bán lẻ
Mô hình tổ chức hoạt động của siêu thị bán lẻ có thể dựa trên xác định sự
lặp lại của quan hệ kinh doanh, mức độ phụ thuộc lẫn nhau và liên kết dài hạn

giữa các thành viên trong hoạt động.
Để tăng hiệu quả kinh doanh và sức mạnh cạnh tranh trên thị trường các
doanh nghiệp cần hướng tới phát triển hình thức phân phối theo liên kết dọc.
Các hệ thống marketing liên kết dọc là các mạng lưới được thiết lập gồm các
liên kết dọc và các phối hợp ngang. Mỗi loại hệ thống phân phối liên kết dọc có
một cách khác nhau để thiết lập hoặc sử dụng quyền lãnh đạo hệ thống phân
phối. Trong hệ thống liên kết dọc tập đoàn, doanh nghiệp sở hữu tất cả các
thành viên trong hệ thống phân phối nên đảm bảo sự hợp tác và giải quyết xung
đột một cách chủ động. Trong hệ thống phân phối liên kết dọc hợp đồng, các
nhiệm vụ và quan hệ giữa các thành viên của hệ thống phân phối được xác định
qua những hợp đồng thỏa thuận phân chia công việc phân phối và lợi ích. Trong



21
hệ thống phân phối liên kết dọc được quản lý, sự lãnh đạo thuộc một hoặc một
vài thành viên có sức mạnh nhất trong hệ thống phân phối.
- Liên kết dọc tập đoàn
Liên kết dọc tập đoàn là sự kết hợp các giai đoạn sản xuất và phân phối về
cùng một chủ sở hữu. Ví dụ, người sở hữu có thể sở hữu các trung gian thương
mại ở phía tiếp sau (cấp bán buôn) trong hệ thống phân phối hoặc thậm chí xây
dựng cả những cửa hàng bán lẻ của họ. Các hệ thống phân phối này là kết quả
của sự mở rộng của một doanh nghiệp bán lẻ theo chiều dọc ngược lên phía trên
(nhà bán lẻ có thể phát triển các cơ sở sản xuất để cung cấp hàng cho họ) hoặc
của sự phát triển của một nhà sản xuất xuôi xuống phía dưới (mua hoặc lập các
đơn vị bán buôn và bán lẻ của họ). Tổng công ty xăng dầu là một ví dụ về kênh
phân phối tập đoàn khi họ sở hữu toàn bộ hệ thống phân phối từ nhập khẩu đến
bán buôn và bán lẻ.
Người sở hữu và điều khiển các thành viên khác nhau trong hệ thống phân
phối có thể là nhà sản xuất, bán buôn hay bán lẻ. Khi người sản xuất sở hữu và

điều khiển các tổ chức bán buôn hoặc các nhà bán lẻ, hệ thống phân phối là kết
quả của một sự phát triển xuôi chiều theo quá trình kinh doanh. Khi các nhà bán
lẻ hay bán buôn sở hữu và quản lý các đơn vị sản xuất của họ, các hệ thống
phân phối hàng hóa hòa nhập ngược chiều xuất hiện. Trong các hệ thống phân
phối tập đoàn, sự hợp tác và giải quyết xung đột được thực hiện qua mệnh lệnh
hành chính và quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp.
- Liên kết dọc hợp đồng
Một hệ thống phân phối liên kết dọc hợp đồng bao gồm các doanh nghiệp
kinh doanh độc lập ở nhiều khâu sản xuất và phân phối khác nhau cùng thống
nhất phân chia công việc phân phối nhằm đạt hiệu quả kinh tế trong phân phối.
Các doanh nghiệp tham gia hệ thống phân phối ký kết các bản hợp đồng trong
đó chỉ rõ trách nhiệm thực hiện các công việc phân phối của mỗi người và lợi
ích họ sẽ nhận được. Trên thị trường thế giới hiện nay hệ thống phân phối liên
kết dọc hợp đồng là phổ biến nhất, ước đạt khoảng 40% tổng doanh số bán lẻ.
- Hệ thống phân phối dọc được quản lý



22
Hệ thống phân phối liên kết dọc được quản lý đạt được sự liên kết giữa các
thành viên trong hệ thống nhờ khả năng chi phối của một thành viên trong hệ
thống phân phối tới hoạt động của những thành viên khác. Ví dụ các nhà sản
xuất có những nhãn hiệu nổi tiếng có thể nhận được sự hợp tác kinh doanh
mạnh mẽ từ những người bán lẻ. Những thành viên khác trong hệ thống phân
phối liên kết dọc dạng này sẵn sàng chấp nhận thực hiện những chính sách phân
phối do thành viên có sức mạnh lãnh đạo yêu cầu.
Sự hình thành và phát triển các hệ thống phân phối liên kết dọc là một xu
thế của thế giới. Có thể nói trên thị trường hiện nay, sự cạnh tranh không phải
xảy ra giữa các doanh nghiệp độc lập nữa mà là giữa các hệ thống phân phối
liên kết dọc hoàn chỉnh được quản lý theo chương trình chủ động để đạt được

hiệu quả kinh tế cao nhất và đáp ứng được mong muốn của những người mua
tốt nhất.
1.1.1.3. Chức năng của siêu thị bán lẻ
Các hình thức tổ chức quá trình phân phối sản phẩm của các trung gian
bán lẻ đã giải quyết các mâu thuẫn cố hữu của nền kinh tế. Các chức năng chính
của siêu thị bán lẻ là mua, bán, vận chuyển, lưu kho, tiêu chuẩn hóa và phân
loại, tài chính, chịu rủi ro, thông tin thị trường.
- Hoạt động trao đổi gồm chức năng mua và chức năng bán. Chức năng
mua có nghĩa là tìm kiếm và đánh giá giá trị của các hàng hóa và dịch vụ. Chức
năng bán liên quan đến tiêu thụ sản phẩm. Nó bao gồm việc sử dụng lực lượng
bán hàng, quảng cáo và các công cụ marketing khác.
- Tiêu chuẩn hóa và phân loại liên quan đến sắp xếp hàng hóa theo chủng
loại và số lượng mà khách hàng mong muốn. Chức năng này tạo điều kiện cho
việc mua bán được dễ dàng và giảm được nhu cầu kiểm tra và lựa chọn. Tiêu
chuẩn hóa là công việc tìm kiếm các sản phẩm đồng nhất từ các nhà sản xuất có
thể thay thế cho nhau. Sau đó sản phẩm được tập trung thành khối lượng lớn ở
những địa điểm nhất định. Để thỏa mãn nhu cầu của khách hàng, sản phẩm
được chia theo nhóm giống nhau hoặc có liên quan mà người tiêu dùng có thể



23
sử dụng. Phân loại đã giúp giải quyết vấn đề khác biệt sản phẩm giữa sản xuất
và tiêu dùng.
- Hệ thống siêu thị bán lẻ còn có chức năng vận tải thông qua quá trình
mua hàng hóa của các nhà cung cấp để bán lại cho người tiêu dùng, nhà bán lẻ
có thể tự mình thực hiện chức năng vận tải hàng hóa trong hệ thống phân phối.
- Để có thể phục vụ khách hàng một cách hiệu quả, các nhà bán lẻ cũng
được thực hiện chức năng lưu kho nhằm đảm bảo sự ăn khớp giữa sản xuất và
tiêu dùng và thỏa mãn nhu cầu của khách hàng đúng thời gian. Thước đo khả

năng đảm bảo sự ăn khớp về thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng là tốc độ quay
vòng của hàng tồn kho.
- Hệ thống siêu thị bán lẻ còn đóng vai trò chức năng tài chính cung cấp
tiền mặt và tín dụng cần thiết cho hoạt động sản xuất/cung cấp hàng hóa. Thực
hiện chức năng này đến đâu tùy thuộc vào tiềm lực tài chính của nhà phân phối
bán lẻ và quan hệ giữa họ với nhà cung cấp.
- Hệ thống siêu thị bán lẻ còn đóng vai trò như là người chia sẻ rủi ro với
các nhà sản xuất. Nếu như trước kia các nhà sản xuất tự phân phối hàng hóa và
tự gánh chịu rủi ro đối với hàng hóa của mình thì hiện nay một số nhà bán lẻ đã
bắt đầu tự kinh doanh rủi ro. Họ thường mua đứt các hàng hóa của doanh
nghiệp (với giá thấp) sau đó tự chịu trách nhiệm về bảo hành, vận chuyển hàng
hóa cho khách hàng nhằm thu được lợi nhuận cao hơn.
- Hệ thống siêu thị bán lẻ còn có chức năng cung cấp thông tin thị trường,
do bán hàng trực tiếp cho khách hàng nên các nhà bán lẻ là người hiểu rõ nhất
nhu cầu của khách hàng, những thay đổi về thị hiếu của khách hàng để từ đó
cung cấp thông tin phản hồi đối với nhà sản xuất, tác động tới sản xuất để các
nhà sản xuất có thể tạo ra các sản phẩm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách
hàng.
- Ngoài ra, các siêu thị bán lẻ còn có một số chức năng khác như: Hoàn
thiện sản phẩm: bao gói, gắn nhãn mác hoặc đóng hộp. Đặc biệt, hệ thống siêu
thị bán lẻ còn thực hiện một số công đoạn chế biến nhất là đối với hàng thực



24
phẩm. Họ còn giữ vai trò tạo dựng và duy trì mối liên hệ với những người mua
tiềm tàng
Tóm lại, có thể nói các siêu thị bán lẻ đóng vai trò quan trọng trong hệ
thống lưu thông hàng hóa. Nó có thể thực hiện một hay nhiều chức năng của hệ
thống phân phối tùy theo quy mô và cách thức hoạt động kinh doanh của từng

loại hình bán lẻ. Với việc thực hiện các chức năng quan trọng nêu trên, các siêu
thị bán lẻ ngày càng củng cố vai trò quan trọng như là một mắt xích không thể
thiếu của quá trình tái sản xuất mở rộng xã hội đảm bảo cho quá trình này diễn
ra thông suốt và đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội chung.
1.1.1.4. Ƣu và nhƣợc điểm của siêu thị bán lẻ
* Ưu điểm của siêu thị bán lẻ
- Sản xuất càng phát triển, quy mô sản xuất càng mở rộng, các xí nghiệp
ngày càng lớn lên làm cho các chức năng quản lý kinh tế ngày càng phức tạp.
Vì vậy, mỗi cá nhân, tổ chức chỉ có khả năng hoạt động trong một số khâu nào
đó thôi. Điều đó đòi hỏi phải có một số người chuyên sản xuất, còn một số
người khác thì chuyên tiêu thụ hàng hóa. Sự xuất hiện của siêu thị bán lẻ là một
tất yếu hợp lý cho sự phân công lao động xã hội ngày càng sâu rộng.
- Hệ thống siêu thị bán lẻ chuyên trách nhiệm vụ đưa hàng hóa đến tay
người tiêu dùng cuối cùng, phục vụ cùng một lúc cho rất nhiều nhà sản xuất,
nhà cung ứng cho nên chi phí bỏ ra cho việc lưu thông hàng hóa sẽ giảm đi rất
nhiều. Từ đó làm tăng hiệu quả cho toàn xã hội.
- Do chuyên môn tiêu thụ hàng hóa nên các nhà kinh doanh siêu thị am
hiểu thị trường hơn, có nhiều kinh nghiệm hơn, tiêu thụ hàng hóa nhanh hơn,
nhờ vậy, thời gian tiêu thụ hàng hóa được rút ngắn. Về phía người sản xuất mà
xét thì nhờ đó mà họ rảnh tay trong khâu lưu thông, chỉ tập trung vào sản xuất,
năng suất lao động sẽ tăng lên, quá trình sản xuất được đẩy nhanh, tăng tốc độ
chu chuyển của vốn.
- Thông qua khâu bán lẻ ở các siêu thị, nắm vững nhu cầu thị trường mà
chủ động đặt hàng với các cơ sở sản xuất, thúc đẩy và hỗ trợ các cơ sở sản xuất



25
cải tiến và phát triển sản xuất, đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu tiêu dùng của xã
hội.

- Hoạt động bán lẻ tại các siêu thị liên tục phát triển với tốc độ cao nhờ đó
đã đáp ứng nhu cầu của sản xuất, phục vụ tiêu dùng, phát triển xuất khẩu, góp
phần vào tăng trưởng chung của nền kinh tế và quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Sự phát triển của hệ thống siêu thị bán lẻ sẽ tác động đến biến đổi sâu sắc
đến cơ cấu thương mại, từng bước tạo ra một thị trường ngày càng cạnh tranh
và hoạt động thương mại ngày càng hiệu quả
- Mặc dù mô hình bán lẻ truyền thống thông qua hệ thống cửa hàng khu
phố, cửa hàng tạp hóa tại nhà, các sạp bán lẻ ở các chợ có mặt trên khắp địa bàn
cả nước vẫn đóng vai trò quan trọng trong hệ thống phân phối cả nước hiện nay.
Tuy nhiên, sự phát triển của hoạt động bán lẻ sẽ làm cho các mô hình tổ chức
kinh doanh phát triển ngày càng đa dạng. Quá trình tích tụ, liên kết, liên doanh
trong hoạt động của hệ thống siêu thị bán lẻ đã và sẽ góp phần làm thay đổi cấu
trúc, diện mạo thị trường trong nước theo hướng văn minh, hiện đại, phù hợp
với xu hướng phát triển của khu vực và thế giới.
- Vai trò của bán lẻ nói chung và hệ thống siêu thị nói riêng không chỉ thể
hiện ở các khu vực thành thị, khu công nghiệp tập trung, khu kinh tế lớn mà nó
còn có vai trò điều tiết hàng hóa cho nhu cầu ở khu vực nông thôn, vùng sâu,
vùng xa, biên giới và hải đảo.
- Sự phát triển của hệ thống siêu thị bán lẻ sẽ góp phần nâng cao khả năng
tự điều tiết của thị trường trước sự tác động của thị trường thế giới, cùng với
Nhà nước kiểm soát sự biến động của giá cả tiêu dùng và là công cụ để Nhà
nước điều chỉnh chỉ số giá hàng tiêu dùng phù hợp với tăng trưởng và phát triển
kinh tế.
- Kinh tế xã hội càng phát triển, thu nhập của dân cư càng tăng lên, nhu cầu
của người tiêu dùng ngày càng đa dạng và phức tạp bởi vô số những người tiêu
dùng với những nhu cầu và mong muốn rất khác nhau. Trong khi đó, các doanh
nghiệp sản xuất phải sản xuất với khối lượng lớn để đạt hiệu quả kinh tế theo




26
quy mô, chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm thấp. Hơn nữa, các kỹ năng
sản xuất hiện đại có thể giúp tạo ra số lượng hàng hóa và dịch vụ lớn để thỏa
mãn đông đảo khách hàng. Hệ thống siêu thị bán lẻ ra đời là nhằm đáp ứng nhu
cầu trên cho cả hai phía – cả người sản xuất và người tiêu dùng.
* Nhược điểm của siêu thị bán lẻ
Mặc dù có nhiều ưu điểm nhưng siêu thị bán lẻ cũng có những nhược điểm
như:
- Giá bán hàng hóa ở siêu thị bán lẻ thường cao hơn các cửa hàng tạp hóa
nhỏ, chợ truyền thống. Thực tế cho thấy, hầu hết giá các hàng hóa trong siêu thị
đều cao hơn từ khoảng 5 – 15%.
- Các siêu thị bán lẻ cũng thường xuyên vi phạm pháp luật, gây khó khăn
cho quản lý nhà nước, vi phạm quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm như: Bán
hàng giả, hàng nhái, hàng nhập lậu, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ, hàng đã
hết hạn sử dụng, hàng có sử dụng chất phụ gia bảo quản gây hại đối với sức
khỏe người tiêu dùng,
- Mức độ nào đó các hệ thống siêu thị gây nên tình trạng độc quyền. Với
những ưu điểm vượt trội của mình thì hệ thống siêu thị đã làm ảnh hưởng, thậm
chí tiêu diệt đến hoạt động của các hình thức bán lẻ khác đặc biệt là hình thức
bán lẻ truyền thống.
Một ví dụ sinh động từ Trung Quốc là: trong bán kính 35 km, ngay sau khi
Carrefour (nhà bán lẻ thứ hai thế giới của Pháp) vào nước này và mở một đại
siêu thị thì 3 đại gia phân phối Trung Quốc phá sản.
1.1.2. Điều kiện phát triển các siêu thị bán lẻ
1.1.2.1. Môi trƣờng kinh doanh
- Hoạt động bán lẻ qua hệ thống siêu thị đòi hỏi phải được điều chỉnh bởi
một hệ thống luật pháp chung và cả các luật đặc thù cho riêng hoạt động của
siêu thị bán lẻ. Cụ thể nó không chỉ bị điều chỉnh bởi các luật như: Luật Thương
mại, Luật đầu tư, Luật dân sự, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật bản

quyền, Luật cạnh tranh…mà nó còn bị điều chỉnh bởi các luật, quy định đặc thù
như: Quy định về không gian, thời gian mở cửa, quy định về địa điểm mở thêm

×