PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 6
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG THÉP THẾ GIỚI VÀ KINH
NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN
NGÀNH THÉP
1.1 - NGÀNH THÉP THẾ GIỚI: LỊCH SỬ, HIỆN TẠI VÀ XU
HƯỚNG PHÁT TRIỂN 6
1.1.1 - Vài nét về lịch sử hình thành và phát triển của ngành thép 8
1.1.2 - Điểm qua tình hình tăng trưởng sản xuất và tiêu thụ thép trên
thế giới những năm gần đây. . .10
1.1.3 - Những cường quốc sản xuất thép và những “luật chơi” mang
tính phổ biến trên thị trường thép thế giới hiện nay. . .12
1.1.4 - Động thái mới của thị trường thép thế giới những năm gần đây
và xu hướng phát triển những năm tới. . .14
1.2 - KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC VỀ TỔ CHỨC SẢN
XUẤT-TIÊU THỤ VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA
NGÀNH THÉP. . .19
1.2.1 - Kinh nghiệm của Trung Quốc. . .19
1.2.2 - Kinh nghiệm của Hàn Quốc. . .25
1.2.3 - Kinh nghiệm của một số nước ASEAN. . .27
1.2.4 - Tổng kết bước đầu về một số bài học đối với Việt Nam. . . 36
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA NGÀNH THÉP VIỆT NAM
VÀ NHỮN G VẤN ĐỀ ĐA NG ĐẶT RA. . . .41
2.1- KHÁI QUÁT VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN CỦA NGÀNH THÉP VIỆT NAM. . . 41
2.2 - THỰC TRẠNG CỦA NGÀNH THÉP VIỆT NAM HIỆN NAY.
. . 47
2.2.1 - Về công nghệ sản xuất và năng lực quản lý ngành của Tổng
công ty Thép Việt Nam (VSC) và các doanh nghiệp ngoài VSC. . . .51
2.2.1.2 - Về thiết bị và công nghệ cán thép . . .56
2.2.1.3 - Về năng lực quản lý ngành của VSC. . . 58
2.2.2 - Khả năng cạnh tranh và hội nhập của ngành thép Việt Nam
hiện nay. . . 64
2.3 - ĐÁNH GIÁ TỔNG THỂ VỀ NGÀNH THÉP VIỆT NAM . . .
69
2.3.1 - Những thành tựu nổi bật của ngành thép trong những năm đổi
mới, mở cửa và hội nhập. . . .73
2.3.2 - Những vấn đề đặt ra cho ngành thép Việt Nam trong quá trình
hội nhập. . . 74
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
NGÀNH THÉP VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ GIAI ĐOẠN 2006 - 2010 VÀ ĐẾN NĂM 2020.
. .81
3.1 - VỀ XU HƯỚNG VÀ TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN CỦA
NGÀNH THÉP VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM TỚI3.1 - VỀ
XU HƯỚNG VÀ TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH
THÉP VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM TỚI. . .81
3.1.1 - Những nhân tố mới có ảnh hưởng đến khả năng phát triển của
ngành thép Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI. . . 85
3.1.1.1 - Những biến động mới có thể xảy ra về tiêu thụ và giá thép trên
thị trường thế giới và ảnh hưởng đến ngành thép Việt Nam. . . 88
3.1.1.2 - Nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm thép ở Việt Nam trong giai
đoạn 2006 - 2010 và dự báo đến năm 2020. . . 90
3.1.1.3 - Cơ hội và thách thức đối với ngành thép khi Việt Nam gia
nhập WTO. . . 92
3.1.2 - Triển vọng và định hướng phát triển của ngành thép Việt Nam
giai đoạn 2006 - 2010 và đến năm 2020. . . 95
3.1.2.1 - Khả năng phát triển của khối sản xuất thành viên và liên
doanh với Tổng công ty Thép Việt Nam (VSC). . . 110
3.1.2.2 - Khả năng phát triển của khối sản xuất, kinh doanh ngoài
VSC. . . 113
3.2 - CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN3.2.1 - Giải pháp về cơ chế chính
sách của Nhà nước. . . 116
3.2.1 - Giải pháp về cơ chế chính sách của Nhà nước. . . 117
3.2.2 - Giải pháp để hội nhập quốc tế của ngành thép Việt Nam. . . 118
3.2.3 - Giải pháp bên trong của ngành thép Việt Nam. . .119
KẾT LUẬN . . . 125
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong hai thập kỷ đổi mới 1986-2005, Việt Nam đã thiết lập quan hệ
thương mại với 160 nước và vùng lãnh thổ, trong đó đã ký kết được 90 hiệp
định thương mại song phương, có thoả thuận đối xử tối huệ quốc với 82 quốc
gia; đồng thời còn tham gia nhiều tổ chức kinh tế của khu vực và thế giới. Nhờ
kiên trì thực hiện đường lối đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã
thoát khỏi tình trạng bị bao vây cấm vận, tạo dựng được môi trường quốc tế và
khu vực thuận lợi cho công cuộc phát triển kinh tế đất nước, GDP tăng trưởng
bình quân 7,2%/năm trong giai đoạn 1991-2000, năm 2003 đạt 7,24%, năm
2004 là 7,7%, năm 2005 đạt 8,4%, và năm 2006 ước đạt 8,5% - là nước có tốc
độ tăng trưởng GDP thứ hai thế giới, sau Trung Quốc. Tốc độ tăng trưởng của
nền kinh tế và nhu cầu phát triển của xã hội cũng đã và đang đặt ra hàng loạt
vấn đề đối với ngành thép của Việt Nam.
20 năm đổi mới vừa qua cũng là thời kỳ phát triển khá mạnh của ngành
thép Việt Nam. Trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và thực
hiện chính sách mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, đã dần hình thành một hệ
thống tiêu thụ và cung ứng thép hoàn toàn mới so với thời kỳ kế hoạch hoá tập
trung bao cấp, trong đó có sự tham gia tích cực của hầu hết thành phần kinh tế.
Trong bối cảnh đó, Nhà nước khó kiểm soát được giá cả và chất lượng thép xây
dựng, nếu không có một ngành sản xuất thép đủ mạnh trong nước và những cơ
chế chính sách phù hợp đối với ngành này. Do đó, từ giữa năm 1994, Chính phủ
đã quyết định sáp nhập Tổng công ty Kim khí vào Tổng công ty Thép Việt
Nam, và cũng từ đó, vai trò, vị trí của Tổng công ty Thép Việt Nam (VSC) đã
trở nên quan trọng hơn so với các thời kỳ trước đây, nhất là trong việc đáp ứng
nhu cầu và bình ổn giá thép trong nước.
Ngày 12 tháng 4 năm 1995, Bộ Chính trị đã có văn bản kết luận số 112-
TB/TW về chiến lược phát triển sản xuất thép đến năm 2010, trong đó nhấn
mạnh:
2
"Thép là vật liệu chủ yếu của nhiều ngành công nghiệp, có vai trò quyết
định tới sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong những năm
qua, ngành thép đã có nhiều cố gắng khai thác, cải tạo và mở rộng những cơ sở
sản xuất cũ và liên doanh với nước ngoài tăng năng lực sản xuất và sản lượng
thép hàng năm với tốc độ khá nhanh. Tuy nhiên so với yêu cầu của đất nước thì
mức sản xuất thép hiện nay còn rất thấp. Phát triển nhanh ngành thép là một yêu
cầu khách quan, cấp bách và có ý nghĩa chiến lược Ngoài việc đáp ứng đủ
thép xây dựng, ngành thép phải quan tâm xây dựng nhà máy chuyên sản xuất
các loại thép có chất lượng cao, thép hợp kim, và một số loại thép đặc biệt phục
vụ ngành chế tạo máy và công nghiệp quốc phòng Việc đào tạo đội ngũ cán bộ
quản lý, khoa học kỹ thuật, công nhân lành nghề có đủ trình độ tiếp nhận những
trang thiết bị hiện đại và công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực luyện kim nhằm
thực hiện chiến lược phát triển sản xuất thép tới năm 2010 là một đòi hỏi rất bức
thiết. Ban Cán sự đảng các Bộ, ngành có liên quan cần có kế hoạch đào tạo hàng
năm tại các trường trong nước và gửi đi đào tạo ở nước ngoài "
Các công ty lưu thông thành viên của VSC chuyên kinh doanh các sản
phẩm kim khí đã phải vượt qua nhiều khó khăn để thích ứng với tình hình mới.
Tuy nhiên, qua hoạt động thực tế, các công ty này đã và đang phải đối mặt với
những thách thức mới, đặc biệt là sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Các
phương thức quản lý cũ không còn phù hợp nữa, vì bộc lộ quá nhiều điểm bất
hợp lý, dẫn đến giảm khả năng kinh doanh có lãi. Hiện nay, vẫn chưa có được
sự gắn kết chặt chẽ và hài hoà giữa các đơn vị thành viên của VSC trên lĩnh vực
lưu thông; sự phối hợp giữa các đơn vị còn rời rạc, tình trạng chồng chéo về tổ
chức mạng lưới tiêu thụ, cạnh tranh nội bộ còn khá phổ biến, gây ra không ít
những tổn thất chung, làm giảm sức mạnh tổng hợp và những lợi thế vốn có của
một tổng công ty nhà nước trên thương trường. Mặt khác, trong điều kiện nước
ta phải thực hiện đầy đủ các cam kết tự do hoá thương mại theo AFTA, và nhất
là khi chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì chính sách
bảo hộ của Nhà nước đối với ngành thép sẽ phải thay đổi một cách căn bản.
Những diễn biến này đã và sẽ mang đến những cơ hội, thách thức lớn đối với
các hoạt động sản xuất-kinh doanh của VSC và của ngành thép Việt Nam nói
chung.
3
Những vấn đề bức xúc nêu trên đòi hỏi VSC phải đổi mới các mô hình
hoạt động sản xuất-kinh doanh, cơ cấu và phương thức hoạt động của hệ thống
kinh doanh, khẳng định được vai trò chủ đạo của VSC đối với thị trường thép
Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và
hội nhập kinh tế quốc tế.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU:
Trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, trong những năm gần đây đã có
một số văn kiện của Đảng và Nhà nước, một số công trình khoa học đề cập đến
hoặc nghiên cứu về ngành thép Việt Nam:
Tháng 3 năm 1995, Bộ Chính trị đã thông qua “Chiến lƣợc phát triển
ngành thép Việt Nam đến năm 2010”, và sau đó, Hội đồng thẩm định Nhà
nước đã thẩm định và điều chỉnh quy hoạch phát triển ngành thép Việt Nam đến
năm 2010, trình Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn.
Tháng 6 năm 1997, Chính phủ đã đề nghị Tổ chức Hợp tác quốc tế Nhật
Bản (JICA) kết hợp với Tổng công ty Thép Việt Nam thực hiện "Kế hoạch
nghiên cứu tổng thể phát triển ngành Thép Việt Nam" và hoàn thành vào
tháng 3 năm 1998, giúp ngành thép có định hướng hợp lý hơn trong việc sản
xuất, kinh doanh các sản phẩm thép.
Ngoài ra, còn có một số tài liệu khác dưới dạng các báo cáo chuyên đề
như: "Báo cáo nghiên cứu thị trƣờng thép xây dựng tại Việt Nam" của Công
ty tư vấn thiết kế và dịch vụ đầu tư (INFISCO), thuộc Bộ Công nghiệp; báo cáo
kết quả phân tích, điều tra về ngành thép Việt Nam và những kiến nghị của
Trường Đại học Kinh tế quốc dân; báo cáo của Viện Nghiên cứu chiến lược và
chính sách công nghiệp về “Tăng cƣờng năng lực cạnh tranh của Tổng công
ty Thép Việt Nam”, 2004; đề tài cấp Tổng công ty do Tiến sĩ Phạm Thị Đào,
nguyên Phó Tổng giám đốc Tổng công ty Thép Việt Nam, làm chủ nhiệm về
"Tổ chức hoạt động kinh doanh của Tổng công ty Thép Việt Nam giai đoạn
2002-2005" v.v
4
Trong chừng mực nhất định, các văn kiện và công trình nói trên đã đề cập
đến những cơ sở lý luận và thực tiễn của ngành thép Việt Nam ở một số khía
cạnh và mức độ khác nhau, giúp chúng tôi có thể tham khảo những quan điểm,
nhận thức chung về lý luận và nhiều số liệu cần thiết trong quá trình thực hiện
luận văn. Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách
toàn diện và hệ thống, nhất là dưới góc độ kinh tế chính trị, về vấn đề phát triển
ngành thép Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
- Nghiên cứu tổng quan về thị trường thép thế giới và kinh nghiệm của
một số nước trong việc phát triển ngành thép;
- Đánh giá thực trạng của ngành thép Việt Nam trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
- Dự báo xu hướng, triển vọng phát triển của ngành thép Việt Nam; đề
xuất các giải pháp góp phần thúc đẩy ngành thép Việt Nam phát triển và hội
nhập có hiệu quả hơn.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
- Đánh giá tổng quan về tình hình sản xuất-tiêu thụ của thị trường thép
trên thế giới những năm gần đây.
- Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của ngành thép Việt Nam bao
gồm các doanh nghiệp thuộc VSC, doanh nghiệp liên doanh, và các doanh
nghiệp ngoài VSC, từ năm 1959 đến năm 2005, trong đó tập trung vào 20 năm
đổi mới (1986 – 2005).
- Nghiên cứu, đánh giá, phân tích ảnh hưởng của một số nhân tố lớn đến
sự phát triển của ngành thép Việt Nam; thực trạng của ngành và những vấn đề
đang đặt ra; dự báo xu hướng và đưa ra các giải pháp nhằm thúc đẩy ngành thép
Việt Nam phát triển phù hợp với những đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế ở giai đoạn 2006-2010 và đặt trong tầm nhìn đến năm 2020.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
5
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-
Lênin, luận văn sử dụng các phương pháp logic kết hợp với lịch sử, phân tích,
so sánh, tổng hợp số liệu và tư liệu để làm rõ những luận điểm được nêu ra;
đồng thời, còn sử dụng các quan điểm đổi mới kinh tế ở Việt Nam trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN:
- Cung cấp những thông tin khái quát về thị trường thép thế giới; bước
đầu tổng kết kinh nghiệm của một số nước trong việc phát triển ngành thép và
rút ra bài học tham khảo cho Việt Nam.
- Phân tích thực trạng, chỉ ra những cơ hội và thách thức của ngành thép
Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế gắn với bối cảnh Việt Nam
phải thực hiện đầy đủ các cam kết đối với AFTA và sẽ gia nhập WTO.
- Làm rõ một số vấn đề về quan điểm, mục tiêu, định hướng và giải pháp
phát triển ngành thép Việt Nam đến năm 2010 và đặt trong tầm nhìn 2020.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm ba chương:
Chƣơng 1: Tổng quan về thị trường thép thế giới và kinh nghiệm
của một số nước trong phát triển ngành thép;
Chƣơng 2: Thực trạng của ngành thép Việt Nam và những vấn đề
đang đặt ra;
Chƣơng 3: Định hướng và giải pháp phát triển ngành thép Việt
Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2006 – 2010 và
đến năm 2020.
6
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƢỜNG THÉP THẾ GIỚI VÀ KINH NGHIỆM
CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRONG PHÁT TRI ỂN NGÀNH THÉP
1.1 - NGÀNH THÉP THẾ GIỚI: LỊCH SỬ, HIỆN TẠI VÀ XU HƢỚNG PHÁT
TRIỂN
Sản lượng thép thế giới trong năm 2005 đã đạt mức cao nhất trong lịch
sử, khoảng 1.131 triệu tấn, tăng 6,1% so với năm 2004. Trong khi đó, tiêu thụ
thép thành phẩm trên thế giới đạt gần 935 triệu tấn, tăng 6,4% so với năm 2004.
Tuy nhiên, giá thép đột ngột tăng trở lại vào thời điểm quý đầu năm 2006.
Thị trường Trung Quốc: Sản lượng thép năm 2005 của Trung Quốc đạt
315 triệu tấn, tăng 3,9% so với năm 2004. Đồng thời, nhập khẩu thép ước
khoảng 37 triệu tấn, tăng 50% so với năm 2004. Chính vì vậy, Trung Quốc
đang trở thành trung tâm hút các sản phẩm thép, và đây được xem là nguyên
nhân chủ yếu đẩy giá thép tăng mạnh trong thời gian qua. Để thích nghi với tình
hình trong nước và quốc tế, những năm gần đây Trung Quốc đã áp dụng một số
chính sách điều tiết thị trường thép, đáng lưu ý như:
+ Ngày 20/11/2002, chính thức sửa đổi hệ thống hạn ngạch nhập khẩu.
+ Quyết định áp dụng thuế chống phá giá đối với các sản phẩm thép cán
nguội.
+ Tuyên bố bãi bỏ chế độ bảo hộ trả đũa đối với mặt hàng thép nhập khẩu
(quyết định này được đưa ra ngày 04/12/2003). Ngay sau khi quyết định này của
Trung Quốc có hiệu lực, trên thị trường giao dịch thép thế giới đã xuất hiện một
số diễn biến mới, nổi bật là việc Hoa Kỳ quyết định xóa bỏ việc áp dụng thuế
nhập khẩu thép trên 30% (vào ngày 26/12/2003), sau khi có phán quyết của
WTO.
Nguyên nhân chủ yếu làm tăng giá thép trên thị trường thế giới từ cuối
năm 2003 đến nay là do tác động của nhiều yếu tố:
7
Thứ nhất, nhu cầu thép trên thị trường thế giới tăng mạnh trong các năm
2004-2005, đặc biệt là tại một số thị trường lớn như Trung Quốc và Mỹ. Trong
đó nhu cầu thép của Trung Quốc tăng mạnh được giải thích do thực hiện các dự
án xây dựng chuẩn bị cho Thế vận hội 2008; sự mở rộng của ngành công nghiệp
ô tô; thêm vào đó, việc Trung Quốc xoá bỏ bảo hộ trả đũa đối với thép nhập
khẩu càng kích thích nhập khẩu của Trung Quốc tăng mạnh.
Việc Mỹ thi hành chính sách đồng USD rẻ đã kích thích tiêu dùng trong
nước và gia tăng đầu tư vào xuất khẩu. Do đó, khi Mỹ bỏ thuế nhập khẩu thép
sau phán quyết của WTO, nhu cầu thép ở nước này lên cao, góp phần tạo ra sự
thiếu hụt trên thị trường thế giới.
Thứ hai, nguồn cung ứng nguyên liệu thô như quặng sắt, thép phế và than
cốc trở lên khan hiếm, khiến chi phí sản xuất tăng, buộc các nhà máy thép phải
tăng giá bán để bù đắp chi phí đầu vào tăng cao.
Thứ ba, giá cước vận chuyển vẫn ở mức cao, hơn nữa việc thuê tàu ngày
càng khó khăn do biến động của giá dầu trên thị trường thế giới.
Thứ tư, tỷ giá trao đổi giữa đồng Dollar Mỹ và đồng Euro cũng góp phần
làm tăng giá bán.
Sản lượng sản xuất thép thô trong tháng 6/2006 của toàn thế giới đã đạt
103,8 triệu tấn, tăng cao hơn so với cùng kỳ của năm 2005 là 12,7%. Tổng cộng
6 tháng đầu năm 2006 sản lượng sản xuất trên thế giới đã đạt 595,7 triệu tấn,
tăng 7,9% so với cùng kỳ năm 2005.
Trung Quốc vẫn là quốc gia sản xuất thép lớn nhất với sản lượng đạt 36,6
triệu tấn thép thô trong tháng 6/2006, tăng 18,5% so với cùng thời gian của năm
2005. Tổng cộng 6 tháng đầu năm 2006, Trung Quốc đã sản xuất đạt 199,5 triệu
tấn thép cán các loại, vượt 18,3% so với cùng kỳ năm 2005. Lượng sản xuất
thép thô của Trung Quốc 6 tháng đầu năm 2006 chiếm 33,5% tổng sản lượng
sản xuất trên toàn thế giới. Nhật Bản sản xuất đạt 9,7 triệu tấn, tăng 2,5% so với
cùng kỳ năm trước.
Tổng sản lượng sản xuất thép thô của EU trong tháng 6/2006 đã đạt 17,1
triệu tấn, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm của 2005. Các quốc gia sản xuất chính
của EU bao gồm Đức sản xuất đạt 4 triệu tấn (+8,9% so với tháng 6/2005),
Italia sản xuất đạt 2,7 triệu tấn (+8,2%) và Pháp sản xuất đạt 1,8 triệu tấn
8
(+11,4%). Tính toàn khối EU, 6 tháng đầu năm 2006 đã sản xuất đạt 100,7 triệu
tấn, tăng 4% so với cùng kỳ của năm 2005.
Các quốc gia còn lại, trong 6 tháng đầu năm 2006 đã sản xuất đạt 58,7
triệu tấn, tăng 3,8% so với cùng thời gian năm 2005. Trong tháng 6/2006, Nga
sản xuất đạt 5,8 triệu tấn, tăng 13,5% so với cùng thời gian năm 2005. Ukraine
sản xuất đạt 3,5 triệu tấn, tăng 23% so với cùng kỳ năm 2005.
Riêng Braxin trong tháng 6/2006 đã sản xuất đạt 2,4 triệu tấn, giảm 4,4%
so với cùng kỳ năm 2005.
Bảng số 1.1 : Sản lƣợng tiêu thụ 6 tháng đầu năm 2006 của
62 Quốc gia sản xuất thép hàng đầu thế giới
Đơn vị tính: 1.000 tấn
Nguồn: Viện Nghiên cứu sắt thép quốc tế -www.iisi.org.com/steel in figure
June 2006
1.1.1 - Vài nét về lịch sử hình thành và phát triển của ngành thép
95,261
90,986
100,626
99,860
104,979
103,800
80,000
85,000
90,000
95,000
100,000
105,000
(TriÖu tÊn)
Th¸ng 1 Th¸ng 2 Th¸ng 3 Th¸ng 4 Th¸ng 5 Th¸ng 6
(6 th¸ng ®Çu n¨m 2006)
9
Thép là gì? Trả lời cho câu hỏi này chúng ta sẽ bắt đầu bằng cách tìm
hiểu những khái niệm cơ bản nhất các thành phần hoá học cấu tạo ra thép: Thép
là một dạng hợp kim kết hợp giữa sắt và các bon, thành phần chủ yếu bao gồm
các bon dưới 2%, Mănggan 1%, và một phần các hợp chất khác như Silíc, Phốt
pho, Sun phua, và Ôxy. Thép đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong các
ngành cơ khí và vật liệu xây dựng trên thế giới. Ngoài ra, thép còn đóng một vai
trò hiện hữu trong đời sống hàng ngày của chúng ta và ở trong các ngành như:
Sản xuất ô tô, vật liệu xây dựng, đóng tàu, vỏ thùng máy giặt, tủ lạnh và rất
nhiều các ứng dụng khác.
Ai phát minh ra thép? Người đầu tiên trên thế giới gốc Anh có tên là
Henrry Bessemer đã phát minh và sáng chế ra thép vào năm 1856. Ngay từ khi
phát minh ra thép, ông đã đặt tên cho công ty của mình là Bessemer steel
company và công ty này được đặt trụ sở tại Sheffield nước Anh. Trong giai
đoạn khởi nghiệp vào năm 1859, công ty này bị ngập chìm trong thua lỗ. Không
nản lòng trước những khó khăn và bằng tất cả nhiệt huyết của mình, Henrry
Bessemer tiếp tục nghiên cứu và tìm tòi các công thức sản xuất thép, và cho đến
tận năm 1870 ông mới được công nhận và có được tấm bằng phát minh sáng
chế. Cùng thời gian này, Henrry Bessemer cũng kiếm được hơn một triệu Bảng
Anh. Được tiếp thêm luồng sinh khí mới từ tấm bằng sáng chế được cấp, Henrry
Bessemer tiếp tục nghiên cứu công thức sản xuất ra thép dựa trên các công nghệ
sản xuất cơ bản nhất đó là nấu chảy gang làm ôxy hoá các nguyên liệu và phân
loại các tạp chất.
Sản xuất thép như thế nào? Thép được sản xuất từ hai loại nguyên liệu
chính: từ sắt thép phế thải, hoặc là từ quặng sắt kết hợp với than cốc. Người ta
thường dùng hai phương pháp để nấu chảy - đó là sử dụng lò cao và lò điện.
Hiện nay, trên thế giới có tới 60% sản lượng thép được sản xuất bằng phương
pháp sử dụng lò điện, công nghệ này thường dễ dàng và nhanh hơn nếu sử dụng
nguyên liệu là sắt phế. Người ta tái chế thép bằng cách nấu chảy thép phế qua lò
nung sử dụng điện kết hợp với một số thành phần hoá học khác để sản xuất
thành phôi thép (Steel billet).
10
Phôi thép là nguyên liệu cơ bản nhất để sản xuất ra các loại thép thành
phẩm như: thép tấm, thép lá, thép lá cuộn, thép hình, thép cuộn và các chủng
loại thép tròn cây sử dụng làm cốt bê tông.
Theo thống kê của Viện Nghiên cứu sắt thép thế giới IISI, trên thế giới có
hơn 63 quốc gia sản xuất thép. Sản lượng thép toàn thế giới trong năm 2005 xấp
xỉ 1.132 triệu tấn, và số lượng lao động trong ngành thép thế giới vào khoảng
976 ngàn người.
1.1.2 - Điểm qua tình hình tăng trưởng sản xuất và tiêu thụ thép trên thế giới
những năm gần đây
Viện Nghiên cứu sắt và thép thế giới (IISI) đã đưa ra dự báo về nhu cầu
tiêu thụ thép tới cuối năm 2006. Theo đó, triển vọng sản xuất và tiêu thụ thép
toàn cầu khá sáng sủa, nhu cầu tiêu thụ thép dự báo tăng từ 1.131,8 triệu tấn
năm 2005 lên đến 1.150 triệu tấn vào năm 2006, và mức tăng trưởng của ngành
thép toàn cầu sẽ vào khoảng 5,8% trong năm 2007. Yếu tố chính ảnh hưởng đến
khả năng tăng trưởng này là do sự tăng trưởng nóng của nền kinh tế Trung
Quốc. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế quốc dân ở mức 2 con số thì ngành thép
Trung Quốc được dự đoán sẽ tăng trưởng 13% trong năm 2006 và sẽ giảm
xuống 12,1% trong năm 2007. Sự gia tăng này của ngành thép Trung Quốc thực
chất là do khu vực cán thép của họ đóng vai trò trung tâm trong việc thực hiện
hiện đại hoá nền kinh tế.
Theo xu thế phát triển, nhu cầu sử dụng thép của thị trường Trung Quốc
sẽ tăng 13% (lên 356 triệu tấn) trong năm 2006, tương đương với 32% tổng
nhu cầu của toàn thế giới trong cùng năm. Cùng với Trung Quốc, Ấn Độ cũng
cho thấy khả năng tăng trưởng cao trong tổng cầu về thép với mức 8% trong
năm 2006 và 2007. Tại một số khu vực khác trên thế giới, dự báo mức tăng
trưởng có khả năng đạt tới 4,7% - tương đương với sản lượng khoảng 33 triệu
tấn trong năm 2006. Nhìn tổng thể, mức tăng về tổng cầu thép của thế giới có
thể sẽ giảm xuống còn 2,7% trong năm 2007.
Riêng khu vực châu Âu, do sức ép của khối lượng thép tồn kho từ những
năm trước, mức độ tăng trưởng của ngành thép châu Âu đã giảm 4,6% trong
năm 2005. Tuy nhiên, IISI cũng chỉ ra rằng mức tăng trưởng của ngành thép
châu Âu được dự đoán vẫn đạt 3,9% trong năm 2006 và 1,5% trong năm 2007.
Đồng thời IISI cũng đưa ra dự đoán sự tăng trưởng của nền kinh tế Mỹ sẽ kéo
11
theo nhu cầu sử dụng thép tăng khoảng 5% trong năm 2006 và dừng ở mức
1,7% trong năm 2007.
Sự tăng trưởng trong lĩnh vực xây dựng cơ bản và ngành công nghiệp ô tô
là cơ sở cho sự tăng trưởng 3,2% của ngành thép của Nga trong năm 2006 và dự
báo mức tăng này sẽ đạt 1,6% trong năm 2007; và mức tăng trưởng này tương
đương với mức tăng trưởng đã được dự báo của Ucraina.
Sau một thời gian tuột dốc trong năm 2005, nhu cầu sử dụng thép của
Brazin được dự báo sẽ khôi phục tăng trưởng trở lại vào khoảng 9,5% trong
năm 2006. IISI cũng đưa ra dự báo rằng mức tăng trưởng này của Brazin còn
cao hơn nữa, khoảng 10,9% trong năm 2007. Con số được đưa ra cho khu vực
Trung và Nam Mỹ tương đương với mức dự báo vào khoảng 7,6% trong năm
2006 và 8,7% trong năm 2007. Các dự báo cũng chỉ ra rằng thị trường thép của
Nhật Bản sẽ đạt mức tăng trưởng 3,3% trong tổng cầu của năm 2006 và mức
tăng trưởng này cũng được giữ nguyên trong năm 2007. Mức tăng trưởng nhu
cầu sử dụng thép của toàn bộ khu vực châu Á - Thái Bình Dương (bao gồm cả
Trung Quốc) được đưa ra là 9,1% trong năm 2006 và duy trì ở mức 8% trong
năm 2007.
Giá trị sản lượng thép gia tăng được lý giải bởi thép là nguồn vật liệu
quan trọng cho nhu cầu của toàn xã hội, tiếp theo đó là do sự cải tổ của ngành
công nghiệp thép toàn cầu (sản xuất ra hơn 50% loại sản phẩm mới so với 10
năm trước đây). Đó là những nhân tố có ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng
mạnh mẽ của nhu cầu thép toàn thế giới.
Bảng số 1.2 : Tăng trƣởng của ngành thép thế giới
Đơn vị tính: triệu tấn
Năm
Khu
vực
2004
2005
2006
2007
Mức tăng trƣởng bình quân
(%)
04/05
05/06
06/07
Thế giới
973,6
1.013,4
1.087
1.150
+4,1
+7,3
+5,8
Trung
Quốc
270
315
356
399
+16,7
+13
+12,1
Phần còn
lại của
703,6
698,4
731
751
-0,7
+4,7
+2,7
12
thế giới
Nguồn: Viện Nghiên cứu sắt thép quốc tế – IISI (www. iisi.org.com)
1.1.3 - Những cường quốc sản xuất thép và những “luật chơi” mang tính phổ
biến trên thị trường thép thế giới hiện nay
Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu sắt thép thế giới, tính đến năm 2004,
trên thế giới có 63 quốc gia sản xuất thép, trong đó có các cường quốc có sản
lượng lớn được thống kê dưới đây:
Bảng số 1.3:
Xếp hạng các quốc gia có nền công nghiệp thép lớn trên thế giới
Đơn vị tính: triệu tấn
Tên Quốc gia
2005
2004
Xếp hạng
Sản lƣợng sản xuất
Xếp hạng
Sản lƣợng sản
xuất
Trung Quốc
1
349,4
1
280,5
Nhật Bản
2
112,5
2
112,7
Mỹ
3
94,9
3
99,7
Nga
4
66,1
4
65,6
Nam Triều Tiên
5
47,8
5
47,5
CHLB Đức
6
44,5
6
46,4
Ucraina
7
38,6
7
38,7
Ấn §é
8
38,1
9
32,6
Brazil
9
31,6
8
32,9
Italia
10
29,3
10
28,5
Thæ NhÜ Kú
11
21
11
20,5
CH Ph¸p
12
19,5
12
20,8
§µi Loan
13
18,6
15
19,6
T©y Ban Nha
14
17,8
13
17,6
Mexico
15
16,2
14
16,7
Canada
16
15,3
17
16,3
Anh Quèc
17
13,2
16
13,8
BØ
18
10,4
18
11,7
13
Nam Phi
19
9,5
19
9,5
Iran
20
9,4
20
8,7
Ba Lan
21
8,4
21
10,6
Úc
22
7,8
22
7,4
Áo
23
7,0
23
6,5
Hµ Lan
24
6,9
25
6,8
Nguồn: Viện Nghiên cứu sắt thép thế giới-www.worldsteel.org.com/world Steel
in figures. (Ghi chú: Sản lượng dưới sáu triệu tấn không được tính)
Như vậy, các tư liệu nêu trên cho thấy, trong 63 quốc gia sản xuất thép
trên thế giới có tới 24 quốc gia có sản lượng mạnh nhất thế giới (trên 6 triệu
tấn/năm). Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, các quốc gia có
ngành sản xuất thép đều có những “luật chơi chung” mang tính phổ biến như:
+ Áp dụng việc bảo hộ các nhà sản xuất và bảo bộ quyền sở hữu công
nghiệp trong nước;
+ Luật chống bán phá giá “Anti Dumping”, luật cạnh tranh bình đẳng;
+ Hàng rào phi thuế quan;
+ Áp dụng các biểu thuế quan ưu đãi;
+ Dành cho nhau những quy chế xuất nhập khẩu tốt nhất về áp dụng đối
xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế;
+ Áp dụng những tiêu chuẩn quốc tế phổ biến và các hàng rào kỹ thuật.
Một trong những “luật chơi” mà Mỹ đã từng áp dụng, là từ ngày
4/12/2003 Tổng thống Mỹ đã chính thức huỷ bỏ mức thuế nhập khẩu thép 30%
sớm hơn 16 tháng so với dự định. Bộ Tài chính Mỹ đã khẳng định những biện
pháp bảo hộ đã đạt được mục đích, và nay do hoàn cảnh kinh tế thay đổi nên đã
đến lúc huỷ bỏ biện pháp này.
Quyết định nâng mức thuế nhập khẩu thép nhập khẩu lên 30% được
Chính phủ Mỹ áp đặt từ tháng 3/2002 với thời hạn là 3 năm nhằm bảo hộ các
nhà sản suất thép của Mỹ khi đó đang phải đối phó với cạnh tranh nước ngoài
và có nguy cơ phá sản. Tuy nhiên, các đối tác thương mại lớn nhất của Mỹ như
14
Liên minh châu Âu (EU), Braxin, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc đã đệ
đơn lên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), và cuối cùng WTO đã ra phán
quyết mức thuế suất nói trên của Mỹ là bất hợp pháp và uỷ quyền cho EU tiến
hành biện pháp trả đũa. Sau khi quyết định của Tổng Thống Mỹ được thông
báo, EU ngay lập tức tuyên bố sử dụng biện pháp trả đũa trị giá 2,2 tỷ USD đối
với hàng nhập khẩu từ Mỹ. Đây là một trong những ví dụ điển hình về ngành
thép mà một nước lớn như Mỹ đã mắc phải trong bối cảnh xu thế thị trường mở
và cạnh tranh bình đẳng.
1.1.4 - Động thái mới của thị trường thép thế giới những năm gần đây và xu
hướng phát triển những năm tới
Năm 2005 được coi là một năm làm ăn thành công nhất của các công ty
sản xuất thép trên thế giới. Tuy nhiên, giá quặng sắt tăng mạnh đã có ảnh hưởng
bất lợi đến lợi nhuận của các công ty thép trong năm 2005. Ngoài ra, sản lượng
thép tăng vọt của Trung Quốc có thể là nhân tố chính gây ảnh hưởng theo cả hai
chiều thuận và nghịch đến tình hình sản xuất - kinh doanh của các công ty sản
xuất thép khác trên thế giới.
Biểu đồ 1.1: Nhu cầu thép trên thế giới giai đoạn 2000-2006
Đơn vị tính: triệu tấn
576
124
556
154
565
185
646
234
638
272
640
300
770
330
100
300
500
700
900
1100
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
C¸c n¨m
Nhu cÇu thÐp thÕ giíi tõ 2000-2006
ThÕ giíi China
15
Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu sắt thép thế giới (IISI) có trụ sở tại
Nguồn: Viện Nghiên cứu sắt thép thế giới-www.worldsteel.org.com/world
Steel in figures
Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu sắt thép Thế giới (IISI) có trụ sở tại
Brussel-Bỉ, do nhu cầu thép quá lớn của Trung Quốc, thị trường thế giới thiếu
thép nghiêm trọng, gieo tai họa cho các ngành công nghiệp của Mỹ và buộc
nhiều nước châu Á phải thực hiện nhiều biện pháp điều chỉnh giá thép. Trên thị
trường Mỹ, giá thép tăng gấp đôi trong vòng 2 năm, từ 156USD/tấn lên
312USD/tấn vào tháng 12 năm 2004. gần đây, giá thép tăng vọt chưa từng thấy,
tương đương 395USD/tấn. Thép phế liệu xuất khẩu của Mỹ tăng từ 63 triệu tấn
trong năm 2004 đã tăng gấp đôi, đạt khoảng 126 triệu tấn vào năm 2005. Liên
minh các nhà sản xuất thép, phụ tùng ô tô và một số ngành khác của Mỹ đã từng
phải nhận xét bi quan rằng “giá cả leo thang và nguy cơ thiếu thép đang ảnh
hưởng nghiêm trọng tới lĩnh vực sản xuất của nền kinh tế Mỹ và các công ty sản
xuất của nước Mỹ đang phải đối mặt với nạn thiếu nguồn cung thép. Tương lai
hoạt động sản xuất bị ngừng trệ, nhà máy phải đóng cửa và công nhân mất việc
làm sẽ xảy ra chỉ trong ngày một ngày hai”.
Tình trạng tương tự cũng đã xảy ra ở châu Á. Hàn Quốc vừa qua cũng đã
ban hành qui định cấm xuất khẩu sắt thép phế liệu và thép thanh, và các nhà
phân tích đã đưa ra khuyến cáo rằng nếu giá nguyên liệu thô tiếp tục tăng có thể
cản trở tiêu dùng phục hồi và giảm đà tăng trưởng. Năm 2005 giá thép tăng vọt,
đã giúp một số công ty hoạt động theo kiểu đầu cơ trong ngành công nghiệp
thép thế giới đạt được lợi nhuận kỷ lục. Chẳng hạn lợi nhuận của công ty Mittal
Steel đã tăng gần gấp 4 lần, đạt 4,7 tỷ USD năm 2005. Tuy nhiên, mức lợi
nhuận này chắc chắn không ổn định lâu dài và các đối thủ cạnh tranh sẽ phải
cùng chia sẻ “vận may lợi nhuận”. Trong tháng 2/2006, các công ty khai thác
quặng sắt đã thương lượng bước đầu với các công ty sản xuất thép Nhật Bản để
tăng giá quặng sắt lên 71,5%. Trước đây, các cuộc thương lượng như vậy đã
được coi là chuẩn mực trên thế giới. Nhưng lần này, các tập đoàn thép thế giới
không chấp nhận với lý do các công ty thép Nhật Bản hiện chỉ là các công ty
tương đối nhỏ và thiếu khả năng đàm phán. Tuy nhiên, tập đoàn thép Arcelor có
16
trụ sở ở Lucxămbua - từng là công ty sản xuất thép lớn nhất thế giới, đã thông
báo chấp nhận mức chào bán quặng sắt của CVRD (Tập đoàn khai thác quặng
sắt lớn nhất thế giới). Điều này có thể buộc các công ty sản xuất khác phải chấp
nhận theo.
Không chỉ bị sức ép về giá quặng sắt, tháng 12 năm 2004, các công ty sản
xuất thép còn phải chịu mức tăng gấp đôi giá bán than cốc - nhiên liệu chính của
các lò luyện thép. Chắc chắn, các công ty thép sẽ phải chuyển mức tăng chi phí
này sang người tiêu dùng. Và như vậy, giá thép cán nóng (HRC- Hot roll coil) –
một trong những sản phẩm thép thông dụng nhất, có thể tăng thêm chừng 15%
và là mức tăng giá nhiều nhất kể từ năm 2002 trở lại đây. Triển vọng phát triển
của ngành công nghiệp thép thế giới trong năm 2006 được đánh giá là tiếp tục
khả quan, nhu cầu thép thế giới sẽ tiếp tục tăng ở mức 5%. Bên cạnh đó, Trung
Quốc tiếp tục duy trì mức sản lượng tiêu thụ thép và nhu cầu vẫn ở mức cao sẽ
đạt tăng trưởng tiêu thụ bình quân 10,7%. Đồng thời sản lượng sản xuất thép
thô trên toàn cầu tăng trưởng đạt mức 1.131,8 triệu tấn trong năm 2005 và đến
năm 2006 ước đạt 1.150 triệu tấn. Đặc biệt, trong ngắn hạn có ba lý do để khẳng
định các mức tăng trưởng này là có cơ sở:
Thứ nhất, các khu vực thị trường mới nổi sẽ tăng cường mở rộng qui mô
khả năng sản xuất và tiêu thụ thép.
Thứ hai, mức khai thác quặng và mức cung thép thế giới tăng cao.
Thứ ba, các khu vực giàu tiềm năng và có nhu cầu tăng cao về thép như
Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ La tinh, và NIS (các quốc gia mới tách khỏi Liên Xô
cũ). Với tốc độ tăng trưởng về thép trên thế giới như hiện nay, thì vấn đề khủng
hoảng thép trên thế giới trong vòng vài thập kỷ tới là sẽ là khó tránh khỏi.
Viện Nghiên cứu sắt thép thế giới (IISI) đã đưa ra dự báo về triển vọng
nhu cầu tiêu thụ thép tới cuối năm 2006.
Triển vọng tiêu thụ thép trong năm 2006 trên toàn cầu rất sáng sủa. Nhu
cầu tiêu thụ thép dự báo sẽ tăng từ 1.131,8 triệu tấn năm 2005 đến 1.150 triệu
tấn vào năm 2006, so với tổng mức 972 triệu tấn trong năm 2004. Mức tăng
trong 2 năm này là từ 4 đến 5%. Mức cầu về thép của Trung Quốc được dự báo
là tăng mạnh nhất, với tỷ lệ tăng 10% trong năm 2005 và sẽ tăng thêm từ 7%
đến 10% trong các năm tới. Tại các nước khác trên thế giới, nhu cầu tiêu thụ
17
thép trong năm 2005 gần như ngang bằng với mức tiêu thụ năm 2004. Tồn kho
thép xây dựng tăng mạnh trong năm 2004, song đã giảm trong năm 2005. Năm
2006, nhu cầu tiêu thụ thép dự báo sẽ lại tăng tới 20-25 triệu tấn trong phần còn
lại của thế giới. Và Trung Quốc cũng sẽ tăng sản lượng tiêu thụ hơn 20-30 triệu
tấn.
Dự báo triển vọng năm 2006 tăng trưởng kinh tế không chắc chắn do tác
động bởi việc tăng mạnh giá dầu và năng lượng mới đây. Tuy nhiên, các dự báo
cũng chỉ ra rằng xu hướng tăng sử dụng thép của những năm vừa qua gắn liền
với sự tăng trưởng kinh tế nói chung và tốc độ tăng trưởng mạnh nhất tại các
nước có tỷ lệ tăng GDP cao nhất như Ấn Độ và Trung Quốc. Giá nguyên liệu
thô và năng lượng tiếp tục ảnh hưởng tới ngành thép thế giới.
Bảng số 1.4: Khối lƣợng thép tiêu thụ giai đoạn 2004-2006
Đơn vị tính: triệu
tấn
Khu vực
2004
2005
2006
2004/2005
2005/2006
Trung Quốc
272
300
320-330
+28
10,3%
20-30
7,0-10%
Các nƣớc còn lại
699
698
720-725
-1,4
-0,2%
20-25
3,0-3,5%
Toàn thế giới
971
998
1.040-1.055
26,6
2,7%
40-55
4,0-5,5%
Nguồn: www.vinanet.com.vn
Bảng số 1.5: Sản lƣợng sản xuất thép trên thế giới
giai đoạn (1995 - 2005) và ƣớc đạt các năm tiếp theo
Đơn vị tính: triệu tấn
Năm
Sản lƣợng
Tăng/giảm (%)
1995
753
+3,7%
1996
750
- 0,3%
1997
799
+6,5%
1998
777
-2,7%
18
1999
789
+1,5%
2000
847
+7,4%
2001
851
+0,4%
2002
903
+6,2%
2003
863
+6,6%
2004
1.067
+6,1%
2005
1.131
+5,9%
2006
1.150
+1,68%
2007
1.161
+0,95%
2008
1.170
+0,86%
Nguồn: Viện Nghiên cứu sắt thép quốc tế-www.iisi.org.com/world steel in figures
Trong những năm gần đây, ngành thép của Mỹ cũng như ngành thép thế
giới đã và đang cố gắng tìm tòi các cách thức mới đối phó với những biến động
của giá cả nguyên liệu và giá năng lượng.
Một trong những biện pháp này là các công ty xích lại gần nhau để cùng
nâng cao khả năng cạnh tranh. Trong 6 tháng đầu năm 2005, ngành thép toàn
cầu đã chứng kiến 278 vụ sáp nhập và bán công ty với trị giá lên tới 12,68 tỷ
USD, chỉ kém kim ngạch mua bán và sáp nhập công ty của cả năm 2005 hơn 2
tỷ USD. Tuy nhiên, xét về tổng thể thì ngành công nghiệp thép của thế giới hiện
nay vẫn khá phân tán và phát triển rất không đồng đều, trong đó 5 công ty thép
hàng đầu thế giới bao gồm Arcelor (Lúc Xăm Bua), Mittal (Pháp), Nippon, JPE
(Nhật Bản) và Posco (Hàn Quốc) chỉ kiểm soát được 20% sản lượng thép toàn
cầu. Các công ty sản xuất thép của Mỹ, trong đó có US Steel đã phải giảm sản
xuất và sa thải công nhân.
Để có thể thấy rõ hơn động thái mới của ngành thép thế giới, ở đây chúng
tôi xin cung cấp những dự đoán mới nhất của Công ty Tư vấn thép MEPS
(Anh). Các số liệu do MEPS đưa ra có khác so với số liệu của IISI. Theo MEPS,
sản lượng thép thô trên thế giới năm 2006 dự đoán sẽ đạt 1,215 tỷ tấn, tăng
7,5% so với năm 2005. Đây là năm thứ 5 liên tiếp sản lượng thép trên thế giới
tăng với tốc độ trên 5%. Nhu cầu tiêu thụ thép ở các nước đang phát triển, đặc
19
biệt là các nền kinh tế mới nổi, tăng mạnh; một số nước công nghiệp phát triển
xây dựng lại kho dự trữ thép sau khi cắt giảm đáng kể sản lượng năm 2005.
Năm 2006, châu Á tiếp tục là khu vực có tốc độ tăng trưởng sản lượng
thép cao nhất thế giới, ở mức 11% so với năm trước. Trong đó Trung Quốc vẫn
chi phối mức tăng sản lượng thép của khu vực, với sản lượng dự đoán đạt 407,5
triệu tấn, tăng 16,5% so với năm trước. Năm 2006, sản lượng thép thô của Liên
minh châu Âu (EU) dự đoán tăng 3,8% so với năm 2005, lên 193,5 triệu tấn;
của Liên xô cũ tăng 4,2%, lên 117,5 triệu tấn; của Bắc Mỹ tăng 4,4%, lên 132,5
triệu tấn; của Trung Đông tăng 4%, lên 16 triệu tấn; riêng của châu Phi và Nam
Mỹ dự đoán sẽ giảm (Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 171, 28-8-2006, tr. 19).
1.2 - KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC VỀ TỔ CHỨC SẢN XUẤT-TIÊU THỤ
VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA NGÀNH THÉP
Việt Nam là một nước đang phát triển, và cùng với hầu hết các ngành
khác, ngành thép Việt Nam đang trong quá trình thích nghi với các điều kiện để
hội nhập với nền kinh tế thế giới. Trong bối cảnh đó, ngành thép Việt Nam rất
cần đúc rút những kinh nghiệm của các nước đi trước đã có nền kinh tế hội nhập
sâu hơn, từ đó vận dụng vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
1.2.1 - Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trong nửa cuối thế kỷ XX, đặc biệt là trong gần ba thập kỷ gần đây nhờ
thực hiện chính sách cải cách và mở cửa, ngành công nghiệp thép Trung Quốc
luôn đạt được tốc độ phát triển cao. Tốc độ phát triển trung bình của nền công
nghiệp Trung Quốc luôn đạt mức lớn hơn 13,5%. Thép cũng là một ngành công
nghiệp có tốc độ phát triển cao trong thời kỳ này. Mức tiêu thụ thép trên đầu
người của Trung Quốc đã tăng một cách nhanh chóng, từ mức 83,5kg/người
năm 1995 lên gần xấp xỉ 320,8 kg/người trong năm 2005.
Trong những năm gần đây, bất chấp những biến động thất thường của nền
kinh tế toàn cầu, Trung Quốc vẫn duy trì được sức phát triển mạnh mẽ. Bằng
việc thúc đẩy nhu cầu nội địa gia tăng mạnh thông qua việc thực hiện chính
sách tài chính mở rộng và chính sách tiền tệ thích hợp, GDP trong năm 2001
của Trung Quốc đạt mức tăng trưởng 7,3% và tính chung cho cả giai đoạn 2001
– 2005 đạt trên 8%.
Ngành thép Trung Quốc liên tục tăng trưởng, từ năm 1995 đến năm 2005,
sản lượng thép Trung Quốc đã tăng gần 4 lần (sản lượng thép năm 1995 của
20
Trung Quốc là 95 triệu tấn, tới năm 2005 đã lên đến con số 350 triệu tấn). Sản
lượng thép của Trung Quốc theo dự báo của Viện sắt thép Quốc tế IISI là 318
triệu tấn, nhưng thực tế Trung Quốc đạt sản lượng 350 triệu tấn trong năm 2005.
Do phát triển quá nhanh, Trung Quốc trở thành nước nhập khẩu quặng lớn nhất
thế giới, năm 2005 nhập khẩu 33 triệu tấn. Việc cung cấp than luyện kim (than
cốc) cũng trở nên căng thẳng. Trung Quốc vốn là nước xuất khẩu than cốc lớn
nhất trên thế giới, nhưng từ năm 2004, việc xuất khẩu than cốc đã được kiểm
soát chặt chẽ và phải được phép của Chính phủ. Do phát triển kinh tế với tốc độ
quá nhanh (tăng trưởng nóng), tình trạng mất cân đối về cung - cầu nguyên liệu
và năng lượng có xu hướng ngày càng nghiêm trọng, đặc biệt là dẫn tới dư thừa
công suất trong ngành sản xuất thép cũng như những ngành công nghiệp khác
như xi măng, điện, than…Trước tình hình đó, Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra
các chính sách nhằm điều chỉnh ngành thép, cụ thể là:
+ Kiểm soát chặt chẽ hơn tổng mức đầu tư cho ngành thép; đình chỉ hoạt
động các cơ sở sản xuất thép không đủ điều kiện về vốn, môi trường, quy mô
sản xuất và công suất.
+ Hạn chế đầu tư nước ngoài vào ngành thép Trung Quốc.
+ Giảm bớt tốc độ đầu tư ở một số vùng kinh tế trọng điểm như Thượng
Hải, Triết Giang, Giang Tô, Quảng Đông.
+ Trong giai đoạn 2006 – 2010, sẽ hợp nhất một số công ty lớn sản xuất
thép của Trung Quốc và cả với các công ty sản xuất thép của nước ngoài để
nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Bảng số 1.6: Sản lƣợng thép của thế giới và Trung Quốc
giai đoạn 2000 -2005 và dự báo đến năm 2010
Đơn vị tính: triệu tấn
Năm
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Dự báo
2007
Dự báo
2010
Dự báo
Sản lƣợng thép
thế giới
848
850
904
969
1.055
1.142
1.171
1.193
1.263
Sản lƣợng thép
Trung Quốc
127
151
183
221
272
350
371
385
430
Sản lƣợng thép
727
699
721
748
783
792
800
808
833
21
các nƣớc còn
lại
Nguồn: Chuyên đề đặc biệt thông tin công nghiệp số 9, ngày 6/03/2006.
Tình hình chung hiện nay đối với Trung Quốc là quá dư thừa các chủng
loại sản phẩm thép thông dụng nhưng lại thiếu các sản phẩm thép đặc biệt, đòi
hỏi kỹ thuật - công nghệ cao có giá trị gia tăng lớn. Hằng năm, Trung Quốc vẫn
phải nhập khẩu một khối lượng lớn sản phẩm thép đặc biệt cho các ngành cơ khí
chế tạo và cho ngành xây dựng ở các công trình lớn.
Chính phủ Trung Quốc coi kiểm soát sản xuất như một yếu tố quyết định
để vực dậy thị trường thép trong nửa cuối năm 2004 và là yếu tố chính để bình
ổn thị trường này trong những năm tiếp theo. Trong khi đó, kinh tế của nhiều
nước công nghiệp phát triển bắt đầu hồi phục, làm cho thị trường thép trên toàn
cầu sôi động hơn, giá bán của nhiều chủng loại thép tăng gần như đồng thời với
việc công bố kế hoạch “Đại khai phát miền Tây” của Chính phủ Trung Quốc.
Những yếu tố này đã hỗ trợ nhiều cho thị trường thép nội địa của Trung Quốc.
Giá bán các sản phẩm thép của Trung Quốc tăng cao với mức trung bình là 640
NDT/tấn. Tuy nhiên, việc tăng giá mạnh của các sản phẩm thép như vậy lại trở
thành vấn đề nghiêm trọng, ảnh hưởng tiêu cực đến nỗ lực của Chính phủ Trung
Quốc thực hiện kế hoạch đóng cửa các nhà máy thép nhỏ. Các nhà máy thép
nhỏ đã có kế hoạch đóng cửa từ trước nhưng lại tận dụng giá thép cao để gia
tăng sản xuất, và chỉ riêng trong quí 1/2006 họ đã sản xuất được 2,11 triệu tấn
thép cán, vượt 39% so với mục tiêu đề ra. Chính phủ Trung Quốc đã có nhiều
thành công trong việc điều tiết sản xuất tại các nhà máy lớn, điển hình như đã
phê chuẩn để Tập đoàn gang thép Thủ Đô chuyển hầu hết các thiết bị sản xuất
đến Caofeidien ở tỉnh Hồ Bắc (Tập đoàn này đã tồn tại trên 80 năm nay, và đã
có nhiều đóng góp trong công cuộc kiến thiết và phát triển đất nước và thành
phố Bắc Kinh). Tuy nhiên, Chính phủ Trung Quốc cũng đã phải đầu tư khá
nhiều tiền để xử lý ô nhiễm môi trường do các cơ sở sản xuất thép gây ra nhưng
chưa đáp ứng yêu cầu của Thế vận hội sẽ được tổ chức ở Bắc Kinh vào năm
2008.
Chính phủ Trung Quốc đã đề nghị các công ty kinh doanh và sản xuất
phôi thép ngừng cung cấp cho các nhà máy nhỏ phôi thép sử dụng để cán ra các
22
sản phẩm thép xây dựng nhằm buộc họ phải đóng cửa và thay vào đó sẽ bán
trực tiếp cho các công ty ty thép quốc doanh lớn nhất nước. Tuy nhiên, chính
sách này đã làm bùng nổ nhu cầu nhập phôi thép cán và thép cuộn cán nóng vào
các tháng 1 và 2 năm 2005, khiến cho giá bán các sản phẩm này đột ngột tăng
do nguồn dự trữ của các nước cung cấp không đủ để đáp ứng nhanh nhu cầu.
Chính phủ Trung Quốc cũng đã ban hành chính sách thuế mới và có hiệu
lực kể từ ngày 01/04/2005, cụ thể mức hoàn thuế VAT đang được áp dụng cho
các sản phẩm xuất khẩu là 13% và mức thuế này sẽ giảm tới 0%, nhằm giảm
bớt sự khan hiếm tài nguyên trong nước. Đồng thời, họ cũng đang xem xét khả
năng tăng thuế VAT đối với các sản phẩm xuất khẩu, và có thể giá xuất khẩu
gang của Trung Quốc sẽ tăng lên 20%. Bên cạnh các biện pháp trên, từ đầu
tháng 5/2005, Trung Quốc đã hạn chế nhập khẩu quặng sắt - vật liệu chính để
sản xuất thép, giảm số công ty được phép nhập khẩu quặng sắt từ 500 xuống
118 công ty, giảm mức ưu đãi về thuế xuất khẩu các sản phẩm thép từ 13%
xuống 11%.
Bắt đầu từ ngày 19/5/2005, Chính phủ Trung Quốc cấm các công ty sản
xuất các sản phẩm sắt thép xuất khẩu quặng sắt, thép phế hoặc cung cấp cho các
khách hàng nước ngoài. Như vậy, những động thái mới trong chính sách của
Trung Quốc chắc chắn đã và sẽ tác động mạnh đến thị trường thép thế giới nói
chung và ngành thép Việt Nam nói riêng.
“Trung Quốc cảm mạo, cả thế giới hắt hơi theo” - đó là lời nhận xét của
nhà kinh tế Rob Subbaraman/John Lewellyn. Trên thực tế, ảnh hưởng của
Trung Quốc đối với sản lượng sản xuất công nghiệp thế giới còn rất lớn: đất
nước này tiêu thụ khoảng 20 ~ 40% tất cả nguyên liệu thô của thế giới. Việt
Nam một đất nước với hơn 80 triệu dân, theo dự báo của Bộ Công nghiệp, trong
năm 2006 nhu cầu toàn xã hội cần từ 6 đến 6,2 triệu tấn thép thành phẩm. Trong
khi trong nước mới sản xuất được nhu cầu khoảng 3,7 triệu tấn, số còn lại 2,3
đến 2,5 triệu tấn thép thành phẩm phải nhập khẩu hoàn toàn (vì Việt Nam chưa
sản xuất được các chủng loại thép này). Trong số 3,7 triệu tấn tự sản xuất, trong
nước mới chỉ đáp ứng được 1,2 triệu tấn phôi thép, số phôi thép còn lại phải
nhập khẩu hoàn toàn, mà nguồn nhập khẩu chính lại từ Trung Quốc (chiếm đến
40%). Do đó, những chính sách điều tiết của Chính phủ Trung Quốc đối với
ngành thép của họ đều có ảnh hưởng nhất định đến ngành thép Việt Nam. Ở