Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Phát triển kinh tế khu vực miền núi Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.09 MB, 129 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
****





ĐỖ THỊ MỸ DUNG






PHÁT TRIỂN KINH TẾ KHU VỰC MIỀN NÚI
THANH HOÁ







LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ










HÀ NỘI - 2008

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
****







ĐỖ THỊ MỸ DUNG




PHÁT TRIỂN KINH TẾ KHU VỰC MIỀN NÚI
THANH HOÁ



Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01




LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Vũ Đức Thanh






HÀ NỘI - 2008




MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN
KINH TẾ KHU VỰC MIỀN NÚI 1
1.1. Lý luận chung về phát triển kinh tế 1
1.1.1. Khái niệm phát triển kinh tế 1
1.1.2. Nội dung phát triển kinh tế 8

1.1.3. Các nhân tố ảnh hƣởng đến phát triển kinh tế 17
1.2. Tình hình phát triển kinh tế một số khu vực miền núi nước ta hiện nay
21
1.2.1. Tình hình phát triển kinh tế khu vực miền núi phía bắc 21
1.2.2. Tình hình phát triển kinh tế khu vực Tây Nguyên 25
1.2.3. Đánh giá chung về tình hình kinh tế khu vực miền núi cả nƣớc thời kỳ
đổi mới 30
Tóm tắt chương 1 39
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ KHU VỰC MIỀN NÚI
THANH HOÁ 40
2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế khu vực 40
2.1.1. Điều kiện tự nhiên 40
2.1.2. Điều kiện kinh tế – xã hội 45
2.1.3. Các chính sách, chƣơng trình phát triển kinh tế miền núi Thanh Hoá
53
2.2. Thực trạng phát triển kinh tế khu vực những năm qua 63
2.2.1. Về tăng trƣởng kinh tế 63
2.2.2. Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế 67
2.3. Đánh giá quá trình phát triển kinh tế khu vực miền núi Thanh Hoá
72
2.3.1. Những thành tựu đạt đƣợc 72


2.3.2. Những mặt hạn chế 74
Tóm tắt chương 2 79
CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
KINH TẾ KHU VỰC MIỀN NÚI THANH HOÁ 80
3.1. Bối cảnh hiện nay và định hướng phát triển kinh tế khu vực miền núi
Thanh Hoá 80
3.1.1. Bối cảnh mới ảnh hƣởng đến sự phát triển kinh tế khu vực miền núi

Thanh Hoá 80
3.1.2. Quan điểm định hƣớng và mục tiêu phát triển khu vực miền núi Thanh
Hoá những năm tới 83
3.2. Giải pháp đẩy mạnh phát triển kinh tế khu vực miền núi Thanh Hoá 90
3.2.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khai thác tốt tiềm năng thế mạnh của khu
vực 90
3.2.2. Đào tạo, nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực 95
3.2.3. Phát triển thị trƣờng và nâng cao sức tiêu thụ sản phẩm 96
3.2.4. Xây dựng cơ sở hạ tầng 97
3.2.5. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật, tạo động lực mới cho sản xuất
kinh doanh 98
3.2.6. Huy động và sử dụng vốn đầu tƣ 98
Tóm tắt chương 3 101
KẾT LUẬN 102
PHỤ LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển kinh tế – xã hội miền núi, nâng cao mức sống dân cư, giảm dần
khoảng cách chênh lệch giữa miền núi với đồng bằng, hướng tới phát triển bền
vững là một trong những định hướng chiến lược phát triển theo lãnh thổ ở nước
ta. Trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam, Thanh Hoá có một vị trí
đầy tiềm năng, hứa hẹn sẽ trở thành một trong những trung tâm phát triển của
đất nước trong thế kỷ XXI.
Thanh Hoá là một tỉnh miền Trung, cách thủ đô Hà Nội 153 km về phía
nam. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 11.106 km
2

chiếm 3,37% diện tích cả nước.
Trong đó, khu vực miền núi có diện tích trên 8.000 km
2
(chiếm trên 2/3 diện tích
toàn tỉnh). Khu vực miền núi Thanh Hoá gồm 105 xã vùng cao, 102 xã đặc biệt
khó khăn, thuộc chương trình 135 và 15 xã biên giới với chiều dài đường biên
giới 192 km.
Những năm đầu của thế kỷ XX, kinh tế miền núi tỉnh Thanh Hoá cơ bản
là sản xuất tự cung, tự cấp. Lao động nông nghiệp chiếm tới 90%, tỷ lệ đói
nghèo chiếm 60%. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều
chủ trương, chính sách tạo điều kiện thuận lợi để khai thác các nguồn lực để
phát triển kinh tế, nâng cao dân trí, xoá đói giảm nghèo, ổn định và nâng dần
mức sống cho đồng bào các dân tộc khu vực miền núi, giữ vững ổn định chính
trị và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng biên giới.
Do có vị trí chiến lược quan trọng cả về kinh tế – xã hội và an ninh, quốc
phòng, trong những năm qua miền núi Thanh Hoá luôn nhận được sự quan tâm
của Đảng và Nhà nước. Công cuộc đổi mới đã trực tiếp tạo thế và lực cho miền
núi phát triển trong những năm vừa qua. Tuy nhiên, đến nay khu vực miền núi
Thanh Hoá vẫn còn nhiều khó khăn, yếu kém; kinh tế phát triển chậm và vẫn là
một trong những vùng nghèo nhất của cả nước, sức phát triển kinh tế chưa tương
xứng với tiềm năng của bản thân khu vực nói riêng và của toàn tỉnh nói chung.
Đứng trước nhu cầu, đòi hỏi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất


nước vấn đề phát triển kinh tế, nâng cao mức sống cho đồng bào ở vùng miền
núi Thanh Hoá đang ngày càng trở thành một đòi hỏi bức thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều bài viết, công trình nghiên
cứu về vấn đề phát triển kinh tế khu vực miền núi cả nước nói chung và khu vực
miền núi tỉnh Thanh Hoá nói riêng dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong đó có

những công trình chủ yếu như :
“Giải pháp cải thiện đời sống cho đồng bào dân tộc thiểu số”. Kỷ yếu
khoa học của Viện Dân tộc – Uỷ ban Dân tộc, Nxb. Văn hoá - Thông tin, Hà
Nội - 2005. Cuốn sách là bản tổng tập những tham luận có giá trị, phản ánh sự
hưởng ứng, xây dựng và triển khai chương trình xoá đói giảm nghèo của các bộ,
ngành, đoàn thể và nhân dân ở những địa phương có các dân tộc thiểu số. Đồng
thời kiến nghị những giải pháp thiết thực nhằm cải thiện đời sống cho đồng bào
các dân tộc thiểu số trong cả nước. Tuy nhiên, đây chưa phải là công trình
nghiên cứu chuyên sâu về phát triển kinh tế khu vực miền núi tỉnh Thanh Hoá.
“Thực hiện chương trình phát triển kinh tế – xã hội các xã đặc biệt khó
khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa” của Hội đồng khoa học – Uỷ ban Dân
tộc, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2006. Cuốn sách đã tiếp cận và trình bày
một cách có hệ thống những nội dung cơ bản của chương trình phát triển kinh tế
– xã hội khu vực miền núi, vùng sâu và vùng xa. Nội dung cuốn sách giới hạn
trong phạm vi các xã đặc biệt khó khăn và chủ yếu tập trung giải quyết các vấn
đề thuộc Chương trình 135.
“Báo cáo tóm tắt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội miền núi
tỉnh Thanh Hoá đến năm 2020” của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thanh Hoá
tháng 5 năm 2006. Đây là kết quả của quá trình khảo sát và đưa ra những quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội miền núi tỉnh Thanh Hoá đến năm 2020.
Báo cáo của Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá về “Chiến lược phát triển
lâm nghiệp tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 2001 - 2010” và “Quy hoạch tổng thể phát
triển nông nghiệp tỉnh Thanh Hoá đến năm 2015 và định hướng 2020”…
Ngoài ra cũng có một số đề tài luận văn, luận án viết về vấn đề phát triển


kinh tế khu vực miền núi ở các tỉnh như: Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Tĩnh, Kiên
Giang… Song cho đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu vấn đề
giải pháp phát triển kinh tế khu vực miền núi tỉnh Thanh Hoá.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.

Mục đích:
Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế ở khu vực miền núi tỉnh Thanh Hoá,
qua đó tìm ra các giải pháp phát triển kinh tế phù hợp với thời kỳ mới nhằm khai
thác hiệu quả các tiềm năng kinh tế góp phần nâng cao chất lượng đời sống của
đồng bào khu vực miền núi tỉnh Thanh Hoá.
Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế.
- Nghiên cứu đường lối, chính sách phát triển kinh tế ở Việt Nam nói
chung và Thanh Hoá nói riêng.
- Đánh giá thực trạng tình hình phát triển kinh tế khu vực miền núi tỉnh
Thanh Hoá.
- Đề xuất quan điểm định hướng và những giải pháp chủ yếu góp phần
thúc đẩy sự phát triển kinh tế khu vực miền núi tỉnh Thanh Hoá.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu tình hình phát triển kinh tế khu vực miền núi tỉnh
Thanh Hoá.
Phạm vi nghiên cứu:
Khu vực miền núi Thanh Hoá thời kỳ đổi mới, tập trung nghiên cứu chủ
yếu từ năm 2000 đến nay. Liên quan đến vấn đề này, luận văn đề cập đến phát
triển kinh tế ở Việt Nam và một số khu vực miền núi khác trong cả nước.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phương pháp duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử; phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích…
Đồng thời luận văn dựa trên các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về


phát triển kinh tế khu vực miền núi. Ngoài ra tác giả còn kế thừa và sử dụng một
số đề xuất và số liệu thống kê của một số công trình có liên quan của các tác giả

trong và ngoài nước.

6. Đóng góp của luận văn
- Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế khu vực miền núi tỉnh Thanh Hoá
từ 2000 đến nay.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế khu vực miền
núi tỉnh Thanh Hoá từ nay đến năm 2010.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển kinh tế khu vực
miền núi.
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế khu vực miền núi Thanh Hoá.
Chương 3: Quan điểm định hướng và giải pháp phát triển kinh tế khu vực
miền núi Thanh Hoá.



1
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ
KHU VỰC MIỀN NÚI

1.1. Lý luận chung về phát triển kinh tế
1.1.1. Khái niệm phát triển kinh tế
1.1.1.1. Phát triển kinh tế
Mục tiêu của các quốc gia là tạo ra sự tiến bộ toàn diện, mà tăng trƣởng
kinh tế chỉ là một điều kiện quan trọng. Thành quả của sự phát triển phải mang
lại cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần cho con ngƣời. Con ngƣời làm cho nền
kinh tế phát triển, đến lƣợt mình sự phát triển của nền kinh tế làm cho con

ngƣời ngày càng hoàn thiện hơn.
Nói đến phát triển là nói đến sự vận động theo chiều hƣớng tiến bộ của
một hệ thống và trong điều kiện một thế giới rộng lớn. Theo quan điểm của
triết học, phát triển là khái niệm chỉ sự thay đổi về quy mô và chất lƣợng của
một sự vật, một hiện tƣợng trong thời gian và không gian nhất định. Nó bao
hàm cả tăng lên và giảm đi về quy mô và sự thay đổi về chất của sự vật, hiện
tƣợng. Nhƣ vậy, phát triển là khái niệm về sự tồn tại và vận động không
ngừng của sự vật, hiện tƣợng trong một thời gian và không gian cụ thể.
Phát triển kinh tế là việc tổ chức và thúc đẩy những hoạt động của con
ngƣời làm cho nền kinh tế tăng lên cả về quy mô và chất lƣợng; nó đƣợc xem
là con đƣờng dẫn tới ấm no, hạnh phúc và cải biến xã hội đi tới tiến bộ. Phát
triển kinh tế ngoài việc bao hàm quá trình gia tăng kinh tế còn có một nội hàm
phản ánh rộng lớn hơn, sâu sắc hơn, đó là những biến đổi về mặt chất của nền
kinh tế – xã hội. Trình độ phát triển văn minh xã hội thể hiện ở hàng loạt tiêu
chí nhƣ: thu nhập thực tế, tuổi thọ trung bình, tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh, trình


2
độ dân trí, bảo vệ môi trƣờng và khả năng áp dụng các thành tựu khoa học –
kỹ thuật vào phát triển kinh tế – xã hội…
Phát triển kinh tế là một phạm trù kinh tế – xã hội rộng lớn, trong khuôn
khổ một định nghĩa hay một khái niệm gắn gọn không thể diễn đạt hết đƣợc
nội dung. Song, nhất thiết khái niệm đó phải phản ánh đƣợc những nội dung
cơ bản sau:
- Sự tăng lên về quy mô sản xuất, làm tăng thêm giá trị sản lƣợng của
cải vật chất, dịch vụ và sự biến đổi tích cực về cơ cấu kinh tế, tạo ra một cơ
cấu kinh tế hợp lý có khả năng khai thác các nguồn lực trong nƣớc và nƣớc
ngoài.
- Sự tác động của tăng trƣởng kinh tế làm thay đổi cơ cấu xã hội, cải
thiện đời sống dân cƣ.

- Sự phát triển là quy luật tiến hoá, song nó chịu tác động của nhiều
nhân tố, trong đó nhân tố nội lực của nền kinh tế có ý nghĩa quyết định, còn
nhân tố bên ngoài có vai trò quan trọng.
Đánh giá về tầm quan trọng của phát triển, Amrtya Sen nhận xét:
“không thể xem sự tăng trƣởng kinh tế nhƣ một mục đích cuối cùng. Cần phải
quan tâm nhiều hơn đến sự phát triển cùng với việc cải thiện cuộc sống và nền
tự do mà ta đang hƣởng” [15, tr. 38]. Đỗ Hoài Nam
Vậy, “Phát triển kinh tế” là sự thay đổi về mọi mặt của nền kinh tế
trong một thời kỳ nhất định. Đó là sự tăng giảm về quy mô sản lượng, chất
lượng của sự thay đổi nền kinh tế và cả sự tiến bộ của xã hội loài người. Sự
phát triển kinh tế bao giờ cũng là mong muốn của con ngƣời về sự tiến hoá
của nền kinh tế từ trình độ thấp đến trình độ cao hơn và kết quả, lợi ích do nó
mang lại ngày một lớn hơn.
1.1.1.2. Phát triển bền vững
Ngày nay, bàn về vấn đề phát triển không thể không nói tới phát triển


3
bền vững. Với nội hàm rộng lớn, về cơ bản khái niệm phát triển kinh tế đã đáp
ứng đƣợc các nhu cầu đặt ra cho sự phát triển toàn diện nhiều lĩnh vực kinh tế,
văn hoá, xã hội… Tuy nhiên, xu hƣớng hội nhập, khu vực hoá, toàn cầu hoá
ngày càng mạnh mẽ đã nảy sinh nhiều vấn đề có phạm vi ảnh hƣởng đến tầm
khu vực và toàn thế giới nhƣ vấn đề môi trƣờng, thiên tai, dịch bệnh… Từ đó
đòi hỏi sự phát triển của mỗi quốc gia, lãnh thổ phải đƣợc nâng lên tầm cao
mới cả về chiều rộng và chiều sâu của sự hợp tác, phát triển. Thực tiễn đó đã
thúc đẩy sự ra đời một khái niệm mới, khái niệm phát triển bền vững. Khái
niệm phát triển bền vững phản ánh một cách tổng hợp hơn, đẩy đủ và toàn
diện hơn tất cả các khái niệm về tăng trƣởng kinh tế hay phát triển kinh tế.
Khái niệm phát triển bền vững xuất hiện trong phong trào bảo vệ môi
trƣờng từ những năm đầu của thập niên 70 của thế kỷ 20. Hội nghị Thƣợng

đỉnh Trái đất về Môi trƣờng và phát triển tổ chức ở Rio de Janeiro (Braxin)
năm 1992 và Hội nghị Thƣợng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững tổ chức ở
Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi) năm 2002 đã xác định: phát triển bền vững
là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa 3 mặt của
sự phát triển, gồm: phát triển kinh tế (nền tảng là tăng trƣởng kinh tế), phát
triển xã hội (mục tiêu là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; xoá đói giảm
nghèo và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (mục tiêu là xử lý, khắc
phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lƣợng môi trƣờng; khai thác hợp lý
và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên). Tiêu chí để đánh giá sự phát triển
bền vững là sự tăng trƣởng kinh tế ổn định; thực hiện tốt tiến bộ và công bằng
xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và
nâng cao đƣợc chất lƣợng môi trƣờng sống.
“Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng với những nhu cầu của hiện
tại mà không phương hại đến khả năng đáp ứng của thế hệ sau với những vấn
đề của thế hệ này” (Hội nghị Rio de Janeiro, 1992) [15, tr. 51].


4
Nói cách khác, phát triển bền vững là tăng trƣởng đƣợc duy trì mà
không làm giảm trữ lƣợng các nguồn lực hiệu quả. Đây là sự lựa chọn cách
thức phát triển nhằm thoả mãn các nhu cầu của thế hệ hiện tại nhƣng không
làm phƣơng hại đến việc thoả mãn nhu cầu của các thế hệ trong tƣơng lai. Đó
là quá trình mà con ngƣời hy vọng rằng sẽ giải quyết đƣợc những nhƣợc điểm
của quá trình phát triển vừa qua trên khắp trái đất.
“Phát triển bền vững không phải là một khái niệm trừu tƣợng… mà
mang một bộ mặt con ngƣời qua hình ảnh các nông dân ngày càng phải đi xa
hơn để kiếm thức ăn và củi đốt hoặc những cƣ dân các khu ổ chuột với những
điều kiện vệ sinh bệnh hoạn hoặc những ngƣời lao động trong những khu thị
tứ đầy ô nhiễm” (Kofi Annan, 2002) [15, tr. 53].
Nói tóm lại, phát triển bền vững là một quá trình toàn diện, bao gồm

những biến đổi về kinh tế cũng nhƣ những biến đổi về xã hội, văn hoá - giáo
dục, khoa học – công nghệ, về môi trƣờng và sự phát triển con ngƣời. Phát
triển bền vững đang là thách thức cho mọi quốc gia, việc lựa chọn con đƣờng,
biện pháp và thể chế, chính sách bảo đảm phát triển bền vững luôn là mối
quan tâm hàng đầu của các nƣớc trong quá trình phát triển.
1.1.1.3. Một số lý thuyết tiêu biểu về phát triển kinh tế
Trải qua thực tiễn hàng trăm năm, các học giả phƣơng tây đã cống hiến
cho nhân loại nhiều học thuyết về phát triển kinh tế có giá trị. Những lý thuyết
phát triển kinh tế hiện đại tiêu biểu nhƣ lý luận về giai đoạn phát triển kinh tế,
lý luận về cơ cấu kinh tế:
Lý luận về giai đoạn phát triển kinh tế:
Lý luận về giai đoạn phát triển kinh tế là một bộ phận hợp thành quan
trọng của lý luận phát triển kinh tế. Đại biểu nổi bật của lý luận này là nhà
kinh tế học ngƣời Mỹ W.W. Rostow. Ông cho rằng, sự phát triển của xã hội
loài ngƣời có thể phân chia thành 5 giai đoạn “trƣởng thành về kinh tế”: Giai


5
đoạn xã hội truyền thống; giai đoạn tạo tiền đề để cất cánh; giai đoạn cất cánh;
giai đoạn trƣởng thành (quần chúng tiêu dùng ở mức độ cao) và cuối cùng là
giai đoạn theo đuổi chất lƣợng cuộc sống. Trong đó then chốt nhất là hai giai
đoạn “cất cánh” và “theo đuổi chất lƣợng cuộc sống”. Vấn đề tiêu điểm mà
Rostow quan tâm là phải làm thế nào để chuẩn bị điều kiện “cất cánh” và sớm
thực hiện “cất cánh kinh tế”. Rostow chỉ rõ “cất cánh” đòi hỏi phải có đủ ba
điều kiện liên quan đến nhau: Một là, phải có tích luỹ tƣ bản tƣơng đối cao
(khi đó ông cho rằng phải làm cho đầu tƣ mang tính sản xuất chiếm ít nhất trên
10% thu nhập quốc dân); Hai là, phải “có một hoặc nhiều ngành chế tạo thực
chất” làm ngành chủ đạo cho “cất cánh”; Ba là, phải xây dựng đƣợc một thể
chế đảm bảo cho “cất cánh”, tức là phải tạo đƣợc một kết cấu xã hội và thể chế
về chính trị – kinh tế; với kết cấu nhƣ thế sẽ có thể khai thác đƣợc những nhân

tố kinh tế tiềm tàng ở bên ngoài. Rostow nhấn mạnh yếu tố mang tính quyết
định của sự cất cánh là kỹ thuật mới đƣợc áp dụng mà kỹ thuật mới thì bao giờ
cũng đƣợc áp dụng vào ngành công nghiệp cụ thể. Khi kỹ thuật mới đƣợc áp
dụng vào ngành công nghiệp cụ thể thì nó sẽ giúp cho ngành ấy giảm chi phí,
mở rộng thị trƣờng, tăng lợi nhuận, tăng nhu cầu đối với sản phẩm của các
ngành khác và mở rộng ảnh hƣởng kinh tế của nó ở nơi sở tại, từ đó thúc đẩy
sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Rostow gọi ngành công nghiệp
cụ thể giữ vai trò đầu tàu này là ngành chủ đạo. Ý tƣởng về khái niệm “đầu
tàu” và “chủ đạo” xuất hiện và có giá trị cho tới ngày nay. Sự chuyển giai
đoạn phát triển kinh tế biểu hiện ở sự thay đổi tuần tự các ngành chủ đạo.
Rostow cũng nhấn mạnh vai trò quan trọng của tích luỹ tƣ bản và chế độ xã
hội đối với sự “cất cánh” và các giai đoạn trƣởng thành phát triển từ thấp đến
cao. Ngày nay khoa học – công nghệ gắn với trí tuệ giữ vai trò này.
Đối với từng quốc gia, vấn đề các giai đoạn phát triển cần phải đƣợc
xem xét một cách sáng tạo trong điều kiện cụ thể của nƣớc mình và trong bối


6
cảnh thế giới biến động không ngừng, khó lƣờng. Các giai đoạn phát triển do
Rostow đề xuất phù hợp khi xem xét nền kinh tế thế giới hơn là xem xét nền
kinh tế của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, lý luận về các giai đoạn phát triển
của nền kinh tế theo tƣ tƣởng của Rostow cho thấy việc xác định vị trí nền
kinh tế Việt Nam trong hệ thống kinh tế thế giới là điều quan trọng và việc “đi
tắt đón đầu” là một ý tƣởng sáng tạo có tính lịch sử.

Lý luận về cơ cấu kinh tế:
Athur Lewis là ngƣời đầu tiên đƣa ra mô hình “kinh tế nhị nguyên”. Mô
hình này có ba giả thiết cơ bản: Nền kinh tế kém phát triển có hai nhóm
ngành, một nhóm hiện đại ở thành thị lấy ngành chế tạo làm trung tâm và
nhóm ngành truyền thống ở nông thôn lấy nông nghiệp và thủ công nghiệp

làm chính. Lewis cho rằng, chỉ cần ngành công nghiệp ở thành thị tăng tích
luỹ tƣ bản thì có thể thu hút đƣợc lao động dƣ thừa trong ngành nông nghiệp;
do trong nền kinh tế kém phát triển, lao động dƣ thừa so với các yếu tố sản
xuất khác, do đó chỉ có thể cung cấp vô hạn độ lao động với giá cả đủ để duy
trì sự sống còn; Mức lƣơng không thay đổi, tiền lƣơng mà các ngành sản xuất
tƣ bản chủ nghĩa mở rộng tuỳ thuộc vào việc ngƣời ta có thể kiếm thêm đƣợc
thu nhập ngoài ngành mà họ đang làm việc hay không. Sức lao động nông
nghiệp dƣ thừa rất nhiều, thu nhập bình quân theo đầu ngƣời thấp, điều đó
quyết định mức tiền lƣơng tối thiểu trong ngành công nghiệp. Dựa trên cơ sở
những giả thiết này, Lewis cho rằng, trong hai nhóm ngành kinh tế của các
nƣớc kém phát triển chỉ có ngành công nghiệp hiện đại ở thành thị mới là
ngành chủ đạo của sự phát triển, còn ngành nông nghiệp truyền thống ở nông
thôn chỉ giữ vai trò bị động. Động lực phát triển của ngành công nghiệp do
tích luỹ tƣ bản mà ra.


7
Quan sát mô hình của Lewis, hai học giả Fellner và Ranis thấy rằng mô
hình của Lewis có hai khuyết điểm lớn: Một là, không coi trọng vai trò của
nông nghiệp trong việc thúc đẩy công nghiệp tăng trƣởng, điều đó sẽ làm sao
nhãng đầu tƣ trong nông nghiệp và dẫn đến nền sản xuất nông nghiệp bị trì trệ;
Hai là, coi nhẹ điều kiện tiên quyết để sức lao động trong nông nghiệp chuyển
sang công nghiệp và nâng cao mức sản xuất nông nghiệp để có sản phẩm
thặng dƣ, nếu không thì sẽ không có lƣơng thực và các nông sản khác cung
cấp cho số lao động nông nghiệp mới đƣợc thu hút vào công nghiệp. Vì vậy,
trên cơ sở mô hình của Lewis họ đã xây dựng mô hình nhị nguyên mới gọi là
mô hình “Lewis – Fellner - Ranis”. Mô hình này biến cơ cấu nhị nguyên thành
ba giai đoạn: Giai đoạn I về cơ bản giống với mô hình Lewis, trong nông
nghiệp có thất nghiệp bị che đậy, năng suất lao động cận biên bằng “0” hoặc
gần bằng “0”, độ co giãn về cung cấp sức lao động rất lớn. Ở giai đoạn II và

III, nông nghiệp dần dần có sản phẩm thặng dƣ có thể thoả mãn nhu cầu tiêu
dùng của các ngành sản xuất phi nông nghiệp, từ đó giúp cho lao động nông
nghiệp có thể chuyển dịch sang công nghiệp. Ý tƣởng phân nền kinh tế thành
khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp đến ngày nay vẫn có ý nghĩa to lớn
khi phân tích cơ cấu kinh tế.
Trong những năm 50, 60 của thế kỷ XX, “mô hình kinh tế nhị nguyên”
đƣợc công nhận là nguyên lý phổ biến để giải thích quá trình và cơ chế phát
triển của những nƣớc có dƣ thừa sức lao động, tới nay vẫn đƣợc một số nhà
kinh tế học phát triển ủng hộ; về cơ bản nó cũng phản ánh và chuyển hoá đƣợc
một số quy luật khách quan của sự vận động đối lập và chuyển hoá giữa công
nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn, giữa chuyển dịch dân số
và đô thị hoá trong quá trình phát triển kinh tế của các nƣớc đang phát triển.
Nhƣng do đƣợc xây dựng trên cơ sở giả thiết cung cấp sức lao động vô hạn
của kinh tế học cổ điển, đồng thời dựa vào kinh nghiệm lịch sử của các nƣớc


8
phát triển do đó mô hình này còn nhiều khiếm khuyết: Một là, ba giả thiết cơ
bản của mô hình này không phù hợp với thực tiễn của nhiều nƣớc đang phát
triển. Trƣớc hết, ở đại đa số các nƣớc đang phát triển, sức lao động nông
nghiệp quả là có dƣ thừa nhƣng thành thị cũng tồn tại thất nghiệp; thứ hai, mô
hình này giả định rằng tỷ lệ chuyển dịch lao động sang ngành công nghiệp
hiện đại hoặc tỷ lệ tạo việc làm tỷ lệ thuận với tỷ lệ tích luỹ tƣ bản, nhƣng nếu
lợi nhuận của nhà tƣ bản đƣợc đầu tƣ lại vào thiết bị tiên tiến hơn, tiết kiệm
lao động hơn trƣớc thì giả định này không hợp lý; cuối cùng, tại các nƣớc
đang phát triển, tiền lƣơng ở thành thị luôn có xu hƣớng tăng lên. Hai là, do
mô hình kinh tế nhị nguyên lấy tình trạng trì trệ về mức lƣơng thực tế làm tiền
đề lý luận, chỉ chú ý tới việc thoả mãn các nhu cầu của ngành công nghiệp
hiện đại, không chú ý nhu cầu sản phẩm của các ngành công nghiệp ấy bắt
nguồn từ đâu. Học giả Nhật Bản Cát Xuyên Dƣơng cho rằng, đó là một trong

những vấn đề lớn nhất mà ngƣời ta gặp phải trên con đƣờng thực hiện mục
tiêu phát triển kinh tế. Đối với Việt Nam, cơ chế phát triển của mô hình Lewis
không mấy tác dụng, điều đó thể hiện ở quy mô chuyển dịch nhân khẩu từ
nông thôn ra thành thị chƣa hẳn đã lớn, hơn nữa khi đã chuyển dịch thì cũng
chƣa chắc đƣợc các ngành công nghiệp hiện đại, đòi hỏi hàm lƣợng chất xám
và kỹ thuật cao thu hút giống nhƣ trong lý luận đã dự tính mà lại tồn đọng
thành tầng lớp nghèo khổ ở thành thị. Nguyên nhân lớn nhất gây ra tình trạng
này là do chƣa xây dựng đƣợc thị trƣờng phù hợp với nhu cầu tăng trƣởng sản
phẩm công nghiệp hiện đại.
Tuy nhiên, cho dù lý luận phát triển kinh tế phù hợp hay không phù hợp
với điều kiện cụ thể của Việt Nam thì việc nghiên cứu những lý luận đó đều là
cần thiết để có thể đƣa ra những chiến lƣợc phù hợp và đúng đắn đối với sự
phát triển kinh tế ở nƣớc ta nói riêng.
1.1.2. Nội dung phát triển kinh tế


9
1.1.2.1. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trƣởng kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi nhất của lý luận
về phát triển kinh tế. Sự tiến bộ của mỗi quốc gia trong một giai đoạn nhất
định đƣợc xem xét trên hai mặt: sự gia tăng về kinh tế và sự tiến bộ về xã hội.
Sự gia tăng về kinh tế còn đƣợc thay bằng thuật ngữ tăng trƣởng kinh tế. Tăng
trƣởng kinh tế tác động thúc đẩy sự tiến bộ về mọi mặt xã hội, hình thành cơ
cấu kinh tế hợp lý là nội dung của phát triển kinh tế.
Theo lý thuyết tăng trƣởng và phát triển của kinh tế học phát triển, tăng
trưởng kinh tế là một phạm trù kinh tế diễn tả động thái biến đổi về mặt lƣợng
của nền kinh tế của một quốc gia. Nghĩa là: Tăng trưởng kinh tế là sự tăng
thêm về quy mô, sản lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ trong một thời kỳ
nhất định (thường là một năm).
Để biểu thị sự tăng trƣởng kinh tế, ngƣời ta thƣờng dùng mức tăng thêm

tổng sản phẩm trong nƣớc, tức GDP (Gross Domestic Product). Mức tăng đó
thƣờng tính trên toàn bộ nền kinh tế hay tính bình quân theo đầu ngƣời của
thời kỳ sau so với thời kỳ trƣớc.
Những lý luận đƣợc coi là tiêu biểu cho hệ thống lý luận về tăng trƣởng
kinh tế hiện đại có thể kể đến nhƣ lý luận của Roseph Schumpeter; Roy
Harrod - E. Domar; mô hình tăng trƣởng kinh tế cổ điển mới do các nhà kinh
tế học ngƣời Mỹ Robert Solow, Paul. Samuelson và nhà kinh tế học ngƣời
Anh S. Meade sáng lập… Trƣờng phái lý luận tăng trƣởng kinh tế hiện đại coi
trọng sự chuyển biến trạng thái của nền kinh tế, chú trọng diễn biến của nền
kinh tế, phân tích các đặc trƣng của các trạng thái kinh tế để đƣa ra những
khuyến cáo về sự thay đổi.
- Roseph Schumpeter cho rằng quá trình tăng trƣởng kinh tế là quá trình
kinh tế chuyển biến từ trạng thái cân bằng này sang trại thái cân bằng khác mà
sự chuyển biến ấy chỉ có thể thực hiện đƣợc dựa vào sự thay đổi và đổi mới kỹ


10
thuật. Khi kinh tế đang ở trạng thái cân bằng, không có thay đổi cũng không
có tăng trƣởng và phát triển, trạng thái cân bằng này sẽ do các nhà doanh
nghiệp thông qua “đổi mới” phá vỡ. Đổi mới đƣợc thực hiện trong 5 trƣờng
hợp: (1) du nhập một loại sản phẩm mới hoặc cung cấp chất lƣợng mới cho
một loại sản phẩm; (2) áp dụng một phƣơng pháp sản xuất mới; (3) mở ra một
thị trƣờng mới; (4) có đƣợc nguồn cung cấp mới về nguyên liệu hoặc bán
thành phẩm; (5) thực hiện một hình thức tổ chức doanh nghiệp mới. R.
Shumpeter cho rằng, kinh tế tăng trƣởng chủ yếu là do các nhà doanh nghiệp
tiến hành đổi mới (đổi mới kỹ thuật hoặc đổi mới tổ chức) hết lần này đến lần
khác nhằm theo đuổi lợi nhuận siêu ngạch và thoả mãn tâm lý đặc thù. Đồng
thời theo đà mô phỏng, khuyếch tán sự đổi mới ấy, không ngừng phá vỡ trạng
thái tĩnh trong kinh tế. Do đó, kinh tế tăng trƣởng nhanh hay chậm chủ yếu
đƣợc quyết định bởi vận tốc, quy mô ra đời của các doanh nghiệp và môi

trƣờng chế độ xã hội có ảnh hƣởng đến hoạt động đổi mới của họ.
- Mô hình Harrod – Domar, nhà kinh tế học ngƣời Anh Roy Harrod và
nhà kinh tế học ngƣời Mỹ E. Domar đã tiến hành phân tích trạng thái tĩnh
ngắn hạn những vấn đề kinh tế học vĩ mô của Keynes ở góc độ động thái và
dài hạn để nghiên cứu vấn đề tăng trƣởng kinh tế dài hạn của một nƣớc, xây
dựng nên mô hình tăng trƣởng kinh tế hiện đại đầu tiên, mô hình Harrod –
Domar.
Công thức cơ bản của R. Harrod là: G = S/V
Ở đây, G biểu thị tỷ lệ tăng thu nhập hoặc sản lƣợng, tức là so sánh giữa
lƣợng tăng thu nhập của thời kỳ hiện tại với thu nhập của thời kỳ trƣớc
(Y/Y); S biểu thị so sánh khuynh hƣớng tiết kiệm bình quân tức là giữa tổng
tiết kiệm với tổng thu nhập; V biểu thị hệ số gia tốc tức là so sánh giữa đầu tƣ
với sản lƣợng (I/Y).
Công thức cơ bản của E. Domar là: F = S.∂


11
Ở đây, F biểu thị tỷ lệ tăng trƣởng đầu tƣ (I/I), tức là lƣợng tăng đầu
tƣ trong thời kỳ hiện tại so với đầu tƣ trong thời kỳ trƣớc; S biểu thị khuynh
hƣớng tiết kiệm cận biên tức là tỷ lệ mà lƣợng tăng tiết kiệm chiếm trong
lƣợng tăng thu nhập (S/Y), ∂ biểu thị tỷ lệ sản xuất tƣ bản, tức là tỷ lệ giữa
sản lƣợng hoặc thu nhập với tổng đầu tƣ tƣ bản (Y/K).
Mô hình Harrod – Domar có tính chất sáng tạo cho lý luận tăng trƣởng
kinh tế phát triển theo hƣớng động thái hoá, định lƣợng hoá. Tuy nhiên, mô
hình này giả định chỉ có tỷ lệ tiết kiệm s (tỷ lệ tiết kiệm cận biên hoặc tỷ lệ tiết
kiệm bình quân) và tỷ lệ V giữa tƣ bản và sản lƣợng (hoặc tỷ lệ sản xuất tƣ
bản ∂) quyết định. Hơn nữa, V và ∂ lại đƣợc giả định là không thay đổi, do đó
tỷ lệ tăng trƣởng kinh tế chỉ do một biến lƣợng ∂ quyết định. Trên thực tế, tăng
trƣởng kinh tế chịu ảnh hƣởng của nhiều biến lƣợng. Vì vậy, mô hình Harrod
– Domar còn nhiều hạn chế.

- Lý luận tăng trưởng mới
Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, việc nghiên cứu lý luận tăng
trƣởng kinh tế bƣớc vào một giai đoạn mới. Những đại biểu cho trƣờng phái
này xây dựng lý luận tăng trƣởng mới trên cơ sở “thuyết tƣ bản nhân lực quyết
định”. Đồng thời vạch rõ nguyên nhân căn bản của sự tăng trƣởng lâu dài của
nền kinh tế nằm ở chỗ tích luỹ và tăng trƣởng liên tục của tƣ bản nhân lực. Nó
dần dần trở thành trƣờng phái chủ đạo trong các trƣờng phái tăng trƣởng kinh
tế.
Học giả Romer đã đƣa ra “mô hình tăng trƣởng lâu dài với lợi ích tăng
dần”. Ông coi lợi ích của các yếu tố sản xuất là một trong những nhân tố quan
trọng có ảnh hƣởng tới tăng trƣởng kinh tế, đổi mới kỹ thuật không những là
biến số nội sinh của tăng trƣởng kinh tế mà còn là kết quả tích luỹ tri thức và
tăng tƣ bản nhân lực, chúng trở thành nhân tố chủ yếu và động lực của tăng
trƣởng kinh tế.


12
Nhà kinh tế học ngƣời Mỹ Lucass cho rằng, mô hình tăng trƣởng kinh tế
không nên chỉ để phù hợp với thực tế tăng trƣởng kinh tế đã qua mà còn phải
vạch ra cơ chế động thái của sự tăng trƣởng kinh tế, lý luận tăng trƣởng không
nên chỉ dự đoán tăng trƣởng kinh tế trong vài chục năm sắp tới mà phải vạch
ra một cơ chế tăng trƣởng lâu dài, nó không thể chỉ vạch ra sự tăng trƣởng
kinh tế của một nƣớc nào đó mà phải suy nghĩ đến sự tăng trƣởng kinh tế của
nhiều nƣớc, thậm chí của toàn cầu.

Có thể nói, việc nghiên cứu về tăng trƣởng kinh tế ngày càng có hệ
thống và hoàn thiện hơn. Nhận thức đúng đắn về tăng trƣởng kinh tế và sử
dụng hiệu quả những kinh nghiệm về nghiên cứu, hoạch định chính sách tăng
trƣởng kinh tế là rất quan trọng. Các nhà khoa học đều thống nhất cho rằng,
tăng trƣởng kinh tế trƣớc hết là một vấn đề kinh tế, song nó mang tính chính

trị, xã hội sâu sắc. Quy mô nền kinh tế lớn lên theo tốc độ tăng trƣởng của nó;
hiệu quả của nền kinh tế tăng lên theo chất lƣợng phát triển. Bàn luận về tăng
trƣởng kinh tế mà chỉ chú trọng vào các yếu tố, tác nhân kinh tế mà không chú
ý đúng mức tới các yếu tố, tác nhân chính trị, xã hội thì chƣa đầy đủ.
Tăng trƣởng kinh tế là mong muốn thƣờng trực và hy vọng của nhân
loại, của tất cả các quốc gia trên thế giới. Tăng trƣởng kinh tế đến đâu và nhƣ
thế nào là hai vấn đề có tính chiến lƣợc của tất cả các nƣớc dù đã phát triển,
đang phát triển hay chƣa phát triển. Tăng trƣởng là phạm trù gắn liền với hiện
đại. Tất cả các quốc gia trên thế giới đều xác lập cho mình mục tiêu chiến lƣợc
hay đƣờng lối phát triển kinh tế – xã hội. Những mục tiêu đề ra đều dựa vào
khả năng khai thác nguồn lực trong nƣớc và nƣớc ngoài. Sự kết hợp và khả
năng khai thác có hiệu quả các nguồn lực mỗi quốc gia có sự khác nhau. Song,
quan niệm chung nhất là phải tạo ra đƣợc sự tiến bộ toàn diện cả về kinh tế và
xã hội nhƣng coi tăng trƣởng là tiền đề cần thiết cho sự phát triển.


13
1.1.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Hệ thống kinh tế này khác với hệ thống kinh tế kia là bởi cơ cấu của nó.
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành với vị trí, tỷ trọng tương ứng
của mỗi bộ phận và mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận ấy trong quá
trình phát triển kinh tế – xã hội.
Cơ cấu của nền kinh tế là kết quả của sự phân công lao động xã hội, từ
góc độ phân công lao động xã hội và tổ chức sản xuất xã hội, ngƣời ta chia cơ
cấu của nền kinh tế theo 3 loại hình chủ yếu: cơ cấu thành phần kinh tế, cơ
cấu lãnh thổ của nền kinh tế và cơ cấu ngành kinh tế.
Cơ cấu thành phần kinh tế là kết quả việc tổ chức nền kinh tế theo các
hình thức sở hữu. Ở nƣớc ta sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, cơ cấu
thành phần kinh tế đƣợc xác định có 4 loại: kinh tế nhà nƣớc, kinh tế tập thể,
kinh tế tƣ nhân, kinh tế có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài.

Cơ cấu lãnh thổ của nền kinh tế là kết quả của sự phân công lao động xã
hội theo lãnh thổ. Các lãnh thổ nhỏ hơn trong một lãnh thổ lớn tạo nên cơ cấu
kinh tế của lãnh thổ lớn đó. Cơ cấu kinh tế lãnh thổ thƣờng đƣợc phân chia
thành cơ cấu giữa thành thị và nông thôn, cơ cấu lãnh thổ giữa các tiểu vùng.
Ví dụ, ở Việt Nam, tiểu vùng Tây Bắc kết hợp với tiểu vùng Đông Bắc tạo nên
cơ cấu kinh tế lãnh thổ của khu vực miền núi Bắc Bộ; vùng Đồng bằng sông
Hồng kết hợp với các vùng miền núi Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam
Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long tạo nên cơ
cấu nền kinh tế Việt Nam.
Trong luận văn này chúng tôi tập trung vào phân tích cơ cấu và chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Cơ cấu ngành kinh tế là kết quả của sự phân công lao động xã hội theo
ngành. Các ngành kết cấu với nhau tạo nên cơ cấu của nền kinh tế. Dƣới góc
độ ngành, cơ cấu kinh tế đƣợc xem xét theo các mặt chủ yếu:


14
- Cơ cấu theo ba nhóm ngành lớn: nông nghiệp – công nghiệp và dịch
vụ
- Cơ cấu theo hai nhóm ngành dựa trên phƣơng thức sản xuất: nông
nghiệp và phi nông nghiệp
- Cơ cấu theo hai nhóm ngành dựa vào tính chất sản phẩm cuối cùng:
nhóm ngành sản xuất vật chất và nhóm ngành sản xuất sản phẩm dịch vụ.
Các yếu tố tạo nên cơ cấu của nền kinh tế không ngừng thay đổi, do đó
cơ cấu kinh tế cũng thay đổi theo từng thời kỳ phát triển. Quá trình thay đổi đó
của cơ cấu kinh tế gọi là chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nói một cách cụ thể,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình cơ cấu kinh tế chuyển từ trạng thái này
sang trạng thái khác. Nếu cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hƣớng, hợp lý thì
kết quả đem lại sẽ có lợi cho con ngƣời và ngƣợc lại cơ cấu kinh tế chuyển
dịch sai sẽ đƣa tới kết quả xấu, gây tốn kém, trở ngại, làm trì trệ sự phát triển

và để lại hậu quả tệ hại cho xã hội.
Có hai xu hƣớng lớn của sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đang diễn
ra trên thế giới:
Xu hướng thứ nhất: Chuyển dịch từ khu vực sản xuất vật chất sang khu
vực dịch vụ. Xu hƣớng này thƣờng diễn ra ở các nƣớc có nền kinh tế phát triển
cao, dƣới ảnh hƣởng của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện đại.
Xu hướng thứ hai: Chuyển dịch trong nội bộ khu vực sản xuất vật chất,
chủ yếu là chuyển dịch cơ cấu từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công
nghiệp. Xu hƣớng này chủ yếu ở các nƣớc đang phát triển, gắn liền với quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố,
trong đó nhu cầu của con ngƣời và tiến bộ khoa học – công nghệ có vai trò
quyết định. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình tích luỹ về lƣợng, dẫn
đến sự biến đổi về chất của cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo


15
hƣớng tiến bộ là một quy luật tất yếu để phát triển trong điều kiện cụ thể của
bối cảnh toàn cầu hoá, khu vực hoá. Quá trình chuyển dịch đó biểu hiện cụ thể
ở những điểm sau đây:
Thay đổi cơ cấu kinh tế theo hƣớng tỷ trọng ngành dịch vụ và công
nghiệp trong GDP tăng lên, còn tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm xuống
(nhƣng giá trị tuyệt đối của ngành đều tăng). Tức là tỷ trọng các ngành có
năng suất lao động cao, chứa đựng hàm lƣợng công nghệ cao và chất xám cao
ngày càng lớn và tỷ trọng các ngành có năng suất lao động thấp giảm đi trong
toàn bộ bức tranh phân công lao động xã hội. Xu hƣớng tăng, giảm này diễn ra
càng nhanh càng tốt.
Trong nội bộ các ngành, tỷ trọng sản xuất hàng hoá cũng nhƣ tỷ lệ sản
phẩm chứa hàm lƣợng công nghệ cao, chƣa nhiều chất xám tăng lên, làm cho
độ mở của nền kinh tế lớn lên. Độ mở cửa nền kinh tế càng lớn càng chứng tỏ

nền kinh tế hội nhập cành mạnh với bên ngoài. Bên cạnh mặt tích cực của xu
hƣớng này cũng phải chú ý tới vấn đề phụ thuộc vào bên ngoài khi mở cửa hội
nhập sâu.
Xu hƣớng chuyển dịch cơ cấu các loại hình kinh tế cũng diễn ra đồng
thời: tỷ trọng của bộ phận kinh tế tƣ nhân ngày càng tăng; tỷ trọng của kinh tế
nhà nƣớc có thể giảm xuống một cách tƣơng đối, song vai trò then chốt và chủ
đạo của nó trong nền kinh tế vẫn đƣợc đảm bảo. Hình thức kinh tế hỗn hợp mà
tiêu biểu là kinh tế cổ phần sẽ trở nên thịnh hành.
- Cơ cấu kinh tế hiện đại, hợp lý phải đảm bảo khai thác tối đa mọi tiềm
năng của đất nƣớc; gắn với phân công lao động quốc tế và phát huy lợi thế so
sánh.
Với điều kiện của nƣớc ta, đang trong quá trình công nghiệp hoá, mở
cửa nền kinh tế, với xu hƣớng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới và do tác động
của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện đại, chúng ta có thể thực hiện


16
cùng một lúc hai bƣớc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên, rút ngắn quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng hiện đại hoá.
Hiện nay, theo các chuyên gia kinh tế, cơ cấu kinh tế của nƣớc ta đang ở
trình độ chƣa cao; còn có nhiều yếu điểm, rõ nhất và quan trọng là hiệu quả
thấp, sức cạnh tranh kém, giá trị quốc gia trong sản phẩm chiếm tỉ trọng ít,
phát triển chƣa bền vững, gặp nhiều bất lợi trong hội nhập kinh tế quốc tế. Một
trong những nguyên nhân chính là do sự thiếu kinh nghiệm về xây dựng cơ
cấu kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trƣờng mang đặc tính xã hội chủ nghĩa
và trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
1.1.2.3. Tiến bộ xã hội
Mỗi quốc gia trong quá trình phát triển đều hƣớng tới sự phát triển toàn
diện và phát triển con ngƣời phải là mục tiêu cuối cùng của sự phát triển. Chất
lƣợng cuộc sống tăng lên không chỉ là tăng GDP/ngƣời mà còn là sự phân

phối hợp lý kết quả của tăng trƣởng, ổn định lạm phát, ngăn ngừa khủng
hoảng, bảo vệ môi trƣờng… hƣớng tới mục tiêu làm cho con ngƣời có cuộc
sống tốt đẹp hơn, văn minh, hiện đại hơn.
Mục tiêu cuối cùng của phát triển kinh tế là phải cải thiện đƣợc chất
lƣợng cuộc sống của đại bộ phận dân cƣ. Tăng trƣởng và phát triển kinh tế
một cách có chất lƣợng, bền vững, đảm bảo đƣợc yêu cầu hiện đại và công
bằng xã hội. Chất lƣợng tăng trƣởng và phát triển thể hiện ở chính hiệu quả
kinh tế – xã hội của tăng trƣởng và phát triển; ở sự bền vững, ở sức cạnh tranh
trên cơ sở thế và lực của sự phát triển trong thời gian dài; đồng thời thể hiện sự
ổn định và chất lƣợng cuộc sống của dân cƣ cũng nhƣ khả năng thích ứng và
chống chọi với các diễn biến và áp lực từ bên ngoài quốc gia.
Phát triển để tạo ra tiến bộ xã hội và tiến bộ xã hội trƣớc hết phải đƣợc
thể hiện thông qua mức sống dân cƣ. Mức sống dân cƣ đƣợc đo bằng nhiều chỉ
tiêu, nhƣng chỉ tiêu quan trọng nhất là GDP bình quân/ngƣời. Tăng trƣởng ở


17
mức độ cao đòi hỏi việc khai thác các nguồn lực một cách có hiệu quả hơn,
giải quyết đƣợc nhiều việc làm cho ngƣời lao động… Chỉ số HDI cùng nhiều
chỉ tiêu khác về phát triển dân số, đô thị hoá, công nghiệp hoá nông thôn, xoá
đói giảm nghèo, nâng cao mức hƣởng thụ nhu cầu vật chất và phi vật chất là
những tiêu chí để đánh giá mức độ phát triển con ngƣời.
Chỉ số HDI theo định nghĩa bao gồm thu nhập bình quân đầu ngƣời, tỷ
lệ ngƣời lớn đi học, tuổi thọ… nhƣ vậy, bao hàm trong nó là mối quan hệ mật
thiết giữa phát triển kinh tế để đạt đƣợc thu nhập bình quân cao và hƣởng thụ
về giáo dục cũng nhƣ y tế. “Mặc dù đƣợc chào đón với nhiều ý kiến khác nhau
khi đƣợc giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1990, sau này ngƣời ta ngày càng
thấy rằng HDI là một chỉ số đơn giản về phát triển con ngƣời. HDI đƣa ra một
sự bổ sung cho GNP trong việc đánh giá vị trí của một quốc gia về phát triển
con ngƣời qua thời gian. Chỉ số này không loại bỏ các chỉ số kinh tế nhƣng có

thể coi là một sự kết hợp với các chỉ số khác nhƣ GNP”. [18, tr.168]. Ngân
hàng thế giới.
Bàn về tiến bộ xã hội không chỉ bàn đến mức sống dân cƣ, mức độ
hƣởng thụ đời sống vật chất và tinh thần của con ngƣời mà còn là hƣớng tới sự
dân chủ và bình đẳng của xã hội.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau, quá trình phát triển kinh tế – xã hội
đã dẫn đến sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế – xã hội giữa các tầng
lớp dân cƣ, giữa các vùng miền khác nhau. Hệ số GINI thƣờng đƣợc sử dụng
để nghiên cứu sự bình đẳng hay không giữa các tầng lớp dân cƣ. Hệ số nằm
giữa 0 và 1, nếu bằng 0 tức là không có sự bất bình đẳng, càng tiến tới 1 thì
mức độ bất bình đẳng càng cao. Thực tế cho thấy những vùng có thu nhập cao
thì chỉ số bất bình đẳng cao hơn và tăng nhanh hơn so với vùng có thu nhập
thấp. Nhƣ vậy, phải chăng có tỷ lệ nghịch giữa trình độ phát triển và mức độ

×