1
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã trải qua hành trình gần 12 năm
phát triển với vai trò quan trọng là công cụ thu hút vốn đầu tư vào hoạt động
sản xuất kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế. Trong quan điểm
phát triển thị trường được nêu tại Quyết định 252/QĐ-TTg ngày 1 tháng 3
năm 2012 về việc Phê duyệt Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán
Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 đã nêu rõ: “Nhà nước thực hiện quản lý
bằng công cụ pháp luật, có các chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện để thị trường
chứng khoán phát triển ổn định, vững chắc; phát huy vai trò của các tổ chức
tự quản, hiệp hội nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp và khuyến khích
các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán’’
Qua gần 12 năm hình thành và phát triển, các chính sách về thuế áp
dụng cho các chủ thể tham gia TTCK bước đầu đã đáp ứng là công cụ điều
chỉnh đối với thị trường, góp phần đảm bảo thị trường vận hành trơn trôi
chảy. Sau một thời gian vận hành, thị trường chứng khoán đã có nhưng bước
phát triển nhất định và các đối tượng tham gia thị trường đã ít nhiều có
những kinh nghiệm, kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Các quy định đã được ban hành trước đây chỉ đáp ứng được yêu cầu trước
mắt và cần thiết phải có sự điều chỉnh cho phù hợp với thông lệ quốc tế và
hỗ trợ (ưu đãi) với thị trường.
Chính vì vậy tác giả chọn đề tài “Chính sách thuế đối với các chủ thể
trên thị trường chứng khoán Việt Nam” nhằm phân tích các mặt tồn tại của
chính sách thuế đối với chứng khoán và đưa ra biện pháp nhằm hoàn thiện
hệ thống chính sách thuế thúc đẩy sự phát triển ổn định của thị trường chứng
khoán Việt Nam.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Chính sách thuế nói chung và chính sách thuế đối với TTCK nói riêng
đang được Quốc hội và Chính phủ từng bước hoàn thiện để sớm đưa vào
thực tế. Hiện có một số công trình nghiên cứu về thuế đối với TTCK, tuy
nhiên các đề xuất chưa bao quát và toàn diện, do đó đề tài sẽ bổ sung thêm
các luận điểm nhằm hoàn thiện hơn chính sách thuế chứng khoán.
2
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Mục tiêu chính của đề tài là nghiên cứu các chính sách về thuế đối với
TTCK ; phân tích những tồn tại của chính sách thuế đối với chứng khoán
trong thời gian qua áp dụng ở Việt Nam và đồng thời đưa ra các giải pháp
nhằm hoàn thiện chính sách thuế đối với chứng khoán.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng chính của đề tài là chính sách thuế áp dụng đối với các chủ
thể tham gia trên thị trường chứng khoán;
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập chung phân tích tác động của thuế
đối với chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp :
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp chuyên gia
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
Luận văn dự kiến sẽ đóng góp các luận điểm khoa học về chính sách
thuế hiện hành đối với thị trường chứng khoán Việt Nam. Những đóng góp
này tổng hợp các vấn đề đã được nêu trên báo chí thời gian qua để đưa ra
quan điểm độc lập về chính sách thuế. Trên cơ sở đó luận văn có hy vọng sẽ
đóng góp ý kiến để hoàn thiện chính sách thuế đối với thị trường chứng
khoán Việt Nam trong thời gian tới.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Nội dung của đề tài gồm 3 chương sau đây:
Chương 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán và chính sách thuế
đối với thị trường chứng khoán
Chương 2: Thực trạng chính sách thuế đối với thị trường chứng khoán
Việt Nam.
Chương 3: Hoàn thiện chính sách thuế đối với thị trường chứng khoán
Việt Nam.
3
CHƢƠNG 1 :
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ CHÍNH
SÁCH THUẾ ĐỐI VỚI THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1. Tổng quan về thị trƣờng chứng khoán
1.1.1. Khái quát chung
1.1.1.1. Khái niệm: Thị trường chứng khoán (TTCK) được định
nghĩa theo từ điển tiếng Anh Longman Dictionary Business English, như
sau: một thị trường có tổ chức là nơi các chứng khoán được mua bán tuân
theo những quy tắc đã được ấn định. Tại điều 6 Luật chứng khoán số
70/2006/QH11 ngày 29/06/2006 thì thị trường chứng khoán được định nghĩa
là địa điểm hoặc hình thức trao đổi thông tin để tập hợp lệnh mua, bán và
giao dịch chứng khoán.
1.1.1.2. Phân loại thị trường chứng khoán
Cấu trúc của TTCK có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác
nhau. Thông thường, ta có thể xem xét ba cách thức cơ bản là phân loại theo
hàng hoá, phân loại theo hình thức tổ chức của thị trường và phân loại theo
quá trình luân chuyển vốn.
Phân loại theo hàng hoá của thị trƣờng chứng khoán
Theo các loại hàng hoá được mua bán trên thị trường, người ta có thể
phân TTCK thành thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu và thị trường các
công cụ phái sinh.
Thị trường trái phiếu: là thị trường mà hàng hoá được giao dịch trao
đổi, mua bán tại đó là các trái phiếu.
Thị trường cổ phiếu là thị trường mà hàng hoá được giao dịch trao đổi,
mua bán tại đó là các cổ phiếu.
Thị trường các công cụ phái sinh là thị trường mà hàng hoá được giao
dịch trao đổi, mua bán tại đó là chứng khoán phái sinh. Ví dụ: hợp đồng
tương lai, hợp đồng quyền chọn.
4
Phân loại theo quá trình luân chuyển vốn
Theo cách thức này, thị trường được phân thành thị trường sơ cấp và
thị trường thứ cấp.
Thị trường sơ cấp:
- Thị trường sơ cấp là thị trường nơi các chứng khoán được phát
hành và bán cho những người mua đầu tiên (vì vậy còn được gọi là thị
trường phát hành). Giá của các chứng khoán được bán trên thị trường sơ cấp
gọi là giá phát hành, các chứng khoán được gọi là chứng khoán mới phát
hành.
- Thị trường sơ cấp là thị trường cung cấp vốn cho nhà phát hành.
Thông qua việc phát hành chứng khoán, các nhà phát hành có thêm nguồn
vốn để tái đầu tư vào sản xuất và nền kinh tế, gia tăng khả năng tiêu dùng.
Giải quyết được tình trạng mất cân đối cung cầu vốn.
Thị trường thứ cấp
- Thị trường thứ cấp là thị trường giao dịch mua bán, trao đổi
những chứng khoán đã được phát hành nhằm mục đích kiếm lời, di chuyển
vốn đầu tư hay di chuyển tài sản xã hội.
- Thị trường thứ cấp làm tăng tính lỏng của các chứng khoán đã
phát hành. Việc này làm tăng sự ưa chuộng của chứng khoán và làm giảm
rủi ro cho các nhà đầu tư. Việc tăng tính lỏng cho các chứng khoán tạo điều
kiện cho việc thay đổi thời hạn của vốn, từ vốn ngắn hạn sang trung và dài
hạn, đồng thời tạo điều kiện cho việc phân phối vốn một cách hiệu quả.
- Thị trường thứ cấp xác định giá của chứng khoán đã được phát
hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp được xem là thị trường định
giá các công ty.
- Thông qua việc xác định giá, thị trường thứ cấp cung cấp một
danh mục chi phí vốn tương ứng với các mức độ rủi ro khác nhau của từng
phương án đầu tư, tạo cơ sở tham chiếu cho các nhà phát hành cũng như các
5
nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp. Vốn sẽ được chuyển tới những công ty
nào làm ăn có hiệu quả cao nhất, qua đó làm tăng hiệu quả kinh tế xã hội.
Điểm khác nhau căn bản giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp:
ở thị trường sơ cấp, nguồn vốn tiết kiệm được thu hút vào công cuộc đầu tư
phát triển kinh tế. Còn ở thị trường thứ cấp, việc giao dịch không làm tăng
quy mô đầu tư vốn, không thu hút thêm được các nguồn tài chính mới mà
chỉ có tác dụng phân phối lại quyền sở hữu chứng khoán từ chủ thể này sang
chủ thể khác, đảm bảo tính thanh khoản của chứng khoán.
Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ mật thiết, hỗ
trợ lẫn nhau. Nếu không có thị trường sơ cấp thì không có chứng khoán để
lưu thông trên thị trường thứ cấp. Ngược lại, nếu không có thị trường thứ
cấp thì thị trường sơ cấp khó hoạt động trôi chảy. Chính sự có mặt của thị
trường thứ cấp đã giúp cho các chứng khoán có tính thanh khoản, làm tăng
tính hấp dẫn của chứng khoán; từ đó làm tăng tiềm năng huy động vốn của
các chủ thể phát hành chứng khoán. Mục đích cuối cùng của các nhà quản lý
là phải tăng cường hoạt động huy động vốn trên thị trường sơ cấp, vì chỉ có
tại thị trường này, vốn mới thực sự vận động từ người tiết kiệm sang người
đầu tư, còn sự vận động của vốn trên thị trường thứ cấp chỉ là tư bản giả,
không tác động trực tiếp tới việc tích tụ và tập trung vốn.
Phân loại theo hình thức tổ chức của thị trƣờng
Theo cách phân loại này, TTCK được tổ chức thành các Sở giao dịch,
TTCK phi tập trung và thị trường tự do.
Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK)
- SGDCK là thị trường giao dịch chứng khoán được thực hiện tại
một địa điểm tập trung.
- Các chứng khoán được niêm yết giao dịch tại SGDCK thông
thường là chứng khoán của các công ty lớn, có danh tiếng, đã trải qua nhiều
thử thách trên thị trường và đáp ứng được các yêu cầu, tiêu chuẩn niêm yết
do SGDCK đặt ra.
6
- SGDCK được tổ chức và quản lý một cách chặt chẽ bởi
UBCKNN, các giao dịch chịu sự điều tiết của luật chứng khoán và TTCK.
Thị trường chứng khoán phi tập trung
- Thị trường chứng khoán phi tập trung là thị trường không có
trung tâm giao dịch tập trung, đó là một mạng lưới các nhà môi giới và tự
doanh chứng khoán mua bán với nhau và với các nhà đầu tư, các hoạt động
giao dịch của TTCK phi tập trung được diễn ra tại các quầy (sàn giao dịch)
của các ngân hàng và công ty chứng khoán thông qua điện thoại hay máy vi
tính diện rộng.
- Khối lượng giao dịch của thị trường này thường lớn hơn rất
nhiều lần so với SGDCK.
- Thị trường chứng khoán phi tập trung chịu sự quản lý của Sở
giao dịch và Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán.
Thị trường tự do
Thị trường tự do là thị trường giao dịch tất cả các loại cổ phiếu được
phát hành thông qua việc thương lượng và thoả thuận trực tiếp giữa bên mua
và bên bán tại bất cứ nơi đâu, vào bất kỳ lúc nào.
1.1.2. Các chủ thể tham gia vào thị trƣờng chứng khoán
Trên thị trường chứng khoán có nhiều loại chủ thể tham gia hoạt động
theo nhiều mục đích khác nhau: chủ thể phát hành, chủ thể đầu tư, chủ thể
quản lý và giám sát các hoạt động của TTCK, và các tổ chức có liên quan.
Chủ thể phát hành
Chủ thể phát hành là người cung cấp các chứng khoán - hàng hoá của
TTCK. Các chủ thể phát hành bao gồm: Chính phủ, các doanh nghiệp và
một số tổ chức khác như Quỹ đầu tư
Chính phủ
- Chính phủ là chủ thể phát hành các chứng khoán: trái phiếu Kho
bạc, trái phiếu công trình, tín phiếu Kho bạc nhằm mục đích tìm vốn tài trợ
7
cho những công trình lớn thuộc cơ sở hạ tầng, phát triển sự nghiệp văn hoá
giáo dục, y tế, hoặc bù đắp thiếu hụt Ngân sách Nhà nước.
- Chính quyền địa phương là chủ thể phát hành trái phiếu địa
phương để vay nợ nhằm huy động vốn phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương.
Doanh nghiệp
Doanh nghiệp là chủ thể phát hành các cổ phiếu hoặc trái phiếu doanh
nghiệp để tìm vốn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Quỹ đầu tư
Quỹ đầu tư là những tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, được hình thành
bằng vốn góp của các nhà đầu tư để tiến hành đầu tư vào chứng khoán và
các loại hình đầu tư khác. Mục đích thành lập quỹ đầu tư là tập hợp và thu
hút những nhà đầu tư nhỏ, lẻ tham gia kinh doanh. Đặc trưng cơ bản nhất
của Quỹ đầu tư là quỹ vừa đóng vai trò là tổ chức phát hành bằng việc phát
hành ra các chứng khoán như chứng chỉ quỹ đầu tư; vừa đóng vai trò là tổ
chức đầu tư, kinh doanh các loại chứng khoán.
Nhà đầu tƣ
Chủ thể đầu tư là những người có tiền, thực hiện việc mua và bán
chứng khoán trên TTCK để tìm kiếm lợi nhuận. Nhà đầu tư có thể chia
thành 2 loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
- Các nhà đầu tư cá nhân: Nhà đầu tư cá nhân là các cá nhân và hộ
gia đình, những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên
TTCK với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, trong đầu tư thì lợi
nhuận lại luôn gắn với rủi ro, kỳ vọng lợi nhuận càng cao thì mức độ chấp
nhận rủi ro phải càng lớn và ngược lại. Chính vì vậy các nhà đầu tư cá nhân
luôn phải lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với khả năng cũng như
mức độ chấp nhận rủi ro của mình.
8
- Các nhà đầu tư có tổ chức: Nhà đầu tư có tổ chức là các định chế
đầu tư, thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường.
Một số nhà đầu tư chuyên nghiệp chính trên TTCK là các ngân hàng thương
mại, công ty chứng khoán, công ty đầu tư, các công ty bảo hiểm, quỹ tương
hỗ, các quỹ bảo hiểm xã hội khác. Đầu tư thông qua các tổ chức đầu tư có
ưu điểm là có thể đa dạng hoá danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư
được thực hiện bởi các chuyên gia có chuyên môn và có kinh nghiệm.
Các tổ chức kinh doanh trên thị trƣờng chứng khoán
Công ty chứng khoán:
Công ty chứng khoán là các công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm
hữu hạn hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán. Đó là những tổ chức kinh tế
có tư cách pháp nhân, có vốn riêng và hạch toán kinh tế độc lập. Tuỳ theo
vốn điều lệ và đăng ký kinh doanh mà một công ty có thể thực hiện một
hoặc một số nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán: môi giới chứng khoán, tự
doanh, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư và lưu ký
chứng khoán.
Các ngân hàng thương mại (NHTM):
Tại một số nước, các NHTM có thể sử dụng vốn tự có để tăng và đa
dạng hoá lợi nhuận thông qua đầu tư vào các chứng khoán. Tuy nhiên, các
ngân hàng chỉ được đầu tư vào chứng khoán trong những giới hạn nhất định
để bảo vệ ngân hàng trước những biến động của giá chứng khoán. Một số
nước cho phép ngân hàng thương mại thành lập công ty con độc lập để kinh
doanh chứng khoán và thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh.
Cơ quan quản lý và giám sát các hoạt động thị trƣờng chứng
khoán
Lịch sử hình thành và phát triển TTCK đã cho thấy, đầu tiên TTCK
hình thành một cách tự phát khi có sự xuất hiện của cổ phiếu, trái phiếu và
hầu như chưa có sự quản lý. Nhưng nhận thấy cần có sự bảo vệ lợi ích cho
các nhà đầu tư và đảm bảo sự hoạt động của thị trường được thông suốt, ổn
9
định và an toàn, bản thân các nhà kinh doanh chứng khoán và các quốc gia
có TTCK hoạt động cho rằng cần phải có cơ quan quản lý và giám sát về
hoạt động phát hành và kinh doanh chứng khoán.
Cơ quan quản lý và giám sát TTCK được hình thành dưới nhiều mô
hình tổ chức hoạt động khác nhau, có nước do các tổ chức tự quản thành lập,
có nước cơ quan này trực thuộc Chính phủ, nhưng có nước lại có sự kết hợp
quản lý giữa các tổ chức tự quản và Nhà nước. Cơ quan quản lý Nhà nước
về TTCK do Chính phủ của các nước thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích
của người đầu tư và bảo đảm cho TTCK hoạt động lành mạnh, an toàn và
phát triển bền vững.
Các tổ chức có liên quan
Ngoài các chủ thể trên, trên TTCK còn có các tổ chức quan trọng
khác có liên quan đến tổ chức và hoạt động của TTCK như Sở giao dịch
chứng khoán; Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán; Tổ chức lưu ký và
thanh toán bù trừ chứng khoán; các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm.
Sở giao dịch chứng khoán
Sở giao dịch chứng khoán thực hiện vận hành thị trường thông qua bộ
máy tổ chức bao gồm nhiều bộ phận khác nhau phục vụ cho các hoạt động
giao dịch trên Sở giao dịch. Ngoài ra, Sở giao dịch cũng ban hành những
quy định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán trên Sở, phù hợp
với các quy định của luật pháp và Uỷ ban chứng khoán.
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán: Hiệp hội các nhà kinh
doanh chứng khoán là tổ chức của các công ty chứng khoán và một số thành
viên khác hoạt động trong ngành chứng khoán, được thành lập với mục đích
bảo vệ lợi ích cho các công ty chứng khoán nói riêng và cho toàn ngành
chứng khoán nói chung.
Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán: là tổ chức nhận lưu
giữ các chứng khoán và tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các
giao dịch chứng khoán.
10
Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm: là công ty chuyên cung cấp dịch vụ
đánh giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và theo
những điều khoản đã cam kết của công ty phát hành đối với một đợt phát
hành cụ thể. Các mức hệ số tín nhiệm vì thế thường được gắn cho một đợt
phát hành, chứ không phải cho công ty. Vì thế, một công ty phát hành có thể
mang nhiều mức hệ số tín nhiệm cho các phát hành nợ của nó.
1.1.3. Các loại hàng hóa trên thị trƣờng chứng khoán
1.1.3.1. Cổ phiếu
Cổ phiếu là một loại chứng khoán được phát hành dưới dạng chứng
chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu cổ phiếu đối với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần [2,
tr72]
Khi mua cổ phiếu, những người đầu tư (các cổ đông) sẽ trở thành
những người chủ sở hữu đối với công ty. Mức sở hữu đó tùy thuộc vào tỷ lệ
cổ phần mà cổ đông nắm giữ. Là chủ sở hữu, các cổ đông cùng nhau chia sẽ
mọi thành quả cũng như tổn thất trong quá trình hoạt động của công ty.
Cổ phiếu gồm 2 loại chính: cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu ưu đãi
1.1.3.2. Trái phiếu
Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát
hành (người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho
vay) một khoản tiền xác định, thường là trong những khoảng thời gian cụ
thể, và phải hoàn trả cho khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn. [2, tr82]
Nếu căn cứ vào tính chất có thể chia trái phiếu ra làm bốn loại:[2,
tr85-86]
- Trái phiếu vô danh: là trái phiếu không mang tên trái chủ, cả trên
chứng chỉ cũng như trên sổ sách của người phát hành
- Trái phiếu ghi danh: là loại trái phiếu có ghi tên và địa chỉ của
trái chủ, cả trên chứng chỉ cũng như trên sổ sách của người phát hành.
11
- Trái phiếu chính phủ: là những trái phiếu do chính phủ phát hành.
Chính phủ phát hành trái phiếu (hay các công cụ nợ nói chung) nhằm mục
đích bù đắp thâm hụt ngân sách; tài trợ cho các công trình công ích hoặc làm
công cụ điều tiết tiền tệ.
- Trái phiếu công ty: là những trái phiếu do các công ty phát hành
(có đủ điều kiện của uỷ ban chứng khoán) nhằm mục đích đầu tư dài hạn
cho doanh nghiệp, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Trái phiếu của
công ty cổ phần rất đa dạng và phong phú về chủng loại đáp ứng nhu cầu và
thị hiếu của các nhà đầu tư, là nguồn vốn vay chủ yếu cho các công ty cổ
phần ở các nước phát triển.
1.1.3.3. Chứng chỉ quỹ đầu tƣ:
Chứng chỉ quỹ đầu tư là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của
nhà đầu tư đối với một phần vốn góp trong quỹ đại chúng. Quỹ đại chúng
bao gồm hai loại là quỹ đóng và quỹ mở
- Quỹ mở là quỹ đại chúng mà chứng chỉ quỹ đã chào bán ra công
chúng phải được mua lại theo yêu cầu của nhà đầu tư.
- Quỹ đóng là quỹ đại chúng mà chứng chỉ quỹ đã chào bán ra
công chúng không được mua lại theo yêu cầu của nhà đầu tư.
1.1.3.4. Chứng khoán có thể chuyển đổi
Chứng khoán có thể chuyển đổi là những chứng khoán cho phép
người nắm giữ nó, tùy theo lựa chọn và trong những điều kiện nhất định, có
thể đổi nó lấy một chứng khoán khác.
Thông thường có cổ phiếu ưu đãi được chuyển đổi thành cổ phiếu
thường và trái phiếu được chuyển đổi thành cổ phiếu thường.
1.1.3.5. Các chứng khoán phái sinh
- Quyền mua cổ phiếu (hay quyền mua trước) là quyền ưu tiên
mua trước dành cho các cổ đông hiện hữu của một công ty cổ phần được
mua một số lượng cổ phần trong một đợt phát hành cổ phiếu phổ thông mới
tương ứng với tỷ lệ cổ phần hiện có của họ trong công ty, tại một mức giá
12
xác định, thấp hơn mức giá chào mời ra công chúng và trong một thời hạn
nhất định, đôi khi chỉ vài tuần.
- Chứng quyền là một loại chứng khoán trao cho người nắm giữ nó
quyền được mua một số lượng xác định một loại chứng khoán khác, thường
là cổ phiếu thường, với một mức giá xác định và trong một thời hạn nhất
định.
- Hợp đồng kỳ hạn: là thoả thuận trong đó một người mua và một
người bán chấp thuận thực hiện một giao dịch hàng hóa với khối lượng xác
định, tại một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá được ấn
định vào ngày hôm nay.
- Hợp đồng tương lai: là một thỏa thuận đòi hỏi một bên của hợp
đồng sẽ mua hoặc bán một hàng hóa nào đó tại một thời hạn xác định trong
tương lai theo một mức giá đã định trước.
- Quyền lựa chọn: là một hợp đồng cho phép người nắm giữ nó
được mua (nếu là quyền chọn mua) hoặc được bán (nếu là quyền chọn bán)
một khối lượng nhất định hàng hóa tại một mức giá xác định và trong một
thời hạn nhất định. Các hàng hóa cơ sở này có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ
phiếu, trái phiếu, chỉ số trái phiếu, thương phẩm, đồng tiền hay hợp đồng
tương lai.
1.2. Chính sách thuế đối với thị trƣờng chứng khoán
1.2.1. Chính sách thuế chung
1.2.1.1. Tổng quan thuế
a. Khái niệm
Sự tồn tại và phát triển của nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử, đặc
điểm của phương thức sản xuất, kết cấu giai cấp là những nhân tố chủ yếu
ảnh hưởng đến vai trò, nội dung, đặc điểm của thuế. Do đó, cơ cấu và nội
dung của cả hệ thống và từng luật thuế phải được nghiên cứu, sửa đổi bổ
sung, cải tiến và đổi mới kịp thời nhằm thích hợp với tình hình, nhiệm vụ
của từng giai đoạn. Đồng thời phải tổ chức bộ máy phù hợp, đủ sức đảm bảo
13
thực hiện các quy định pháp luật về thuế đã được Nhà nước ban hành trong
từng thời kỳ.
Hệ thống pháp luật thuế được coi là phù hợp không chỉ nhìn một cách
phiến diện vào số lượng các luật thuế nhiều hay ít, vào mục tiêu đơn thuần
là động viên tài chính vào ngân sách Nhà nước mà phải được phân tích một
cách toàn diện, chặt chẽ với yêu cầu phát triển kinh tế, với đời sống xã hội,
không đối lập với quyền lợi và khả năng đóng góp của nhân dân.
Tuy nhiên, cho đến nay tuy chưa có một định nghĩa về thuế thống
nhất nào về thuế, nhưng các nhà kinh tế đều nhất trí cho rằng để làm rõ được
bản chất của thuế thì định nghĩa về thuế cần phải nêu bật được các khía cạnh
sau:
Thứ nhất: Nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các quan hệ
tiền tệ giữa Nhà nước với các pháp nhân và các thể nhân, không mang tính
hoàn trả trực tiếp.
Thứ hai: Những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một
cách khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt - việc chuyển giao thu nhập
có tính chất bắt buộc theo mệnh lệnh của Nhà nước.
Thứ ba: Các pháp nhân và thể nhân chỉ phải nộp cho nhà nước những
khoản thuế đã được pháp luật quy định.
Dù trải qua nhiều giai đoạn và được nhận định trên nhiều giác độ khác
nhau, nhưng hiện nay một định nghĩa về thuế theo xu hướng cổ điển vẫn còn
đang được áp dụng phổ biến, đặc biệt trong cơ chế kinh tế thị trường, điển
hình là khái niệm về thuế của Gaston Jèze đưa ra trong giáo trình tài chính
công. Dựa vào định nghĩa này và các yêu cầu nêu trên, có thể đưa ra một
khái niệm tổng quát về thuế phù hợp với giai đoạn hiện nay như sau: Thuế
là một khoản nộp bằng tiền mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ
bắt buộc phải thực hiện theo luật đối với Nhà nước; không mang tính
chất đối khoản, không hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế và dùng để
trang trải cho các nhu cầu chi tiêu công cộng.[10, tr7]
14
b. Phân loại
Căn cứ vào phương thức đánh thuế: thuế được phân ra làm hai
loại chung đó là thuế trực thu và thuế gián thu.[10, tr26, 27]
Thuế trực thu: Là loại thuế thu trực tiếp vào khoản thu nhập của các
tổ chức kinh tế hoặc cá nhân; người chịu thuế đồng thời là người nộp thuế
cho nhà nước.
Thuế trực thu có tính công bằng hơn và mang tính chất của thuế luỹ
tiến vì phần đóng góp về thuế thường phù hợp đối với khả năng của từng đối
tượng; thuế trực thu có nhược điểm là hạn chế phần nào sự cố gắng tăng thu
nhập của các đối tượng, vì thu nhập càng cao thì phải nộp thuế càng nhiều.
Ngoài ra, thuế trực thu do người có thu nhập phải trả một cách trực tiếp và
có ý thức cho nhà nước nên họ cảm nhận ngay được gánh nặng về thuế và
có thể dẫn tới những phản ứng từ chối hoặc trốn, lậu thuế. Việc quản lý thu
thuế này thường phức tạp và chi phí bỏ ra thường cao so với thuế gián thu.
Thuế gián thu: Là loại thuế không trực tiếp đánh vào thu nhập hay tài
sản của người nộp thuế mà đánh một cách gián tiếp thông qua giá cả hàng
hoá, dịch vụ. Người chịu thuế là những người tham gia tiêu dùng những dịch
vụ, hàng hoá đó.
Trong thực tế, thuế gián thu là loại thuế đánh vào tiêu dùng, thuế này
do người hoạt động sản xuất kinh doanh nộp cho nhà nước, nhưng người
tiêu dùng phải là người phải chịu thuế (tức là mang tính chất gián thu). Thuế
này dễ thu hơn thuế trực thu vì tránh được quan hệ trực tiếp giữa người chịu
thuế (người tiêu dùng) với cơ quan thu thuế, dễ điều chỉnh hơn thuế trực thu
vì những người chịu thuế thường không cảm nhận đầy đủ gánh nặng của
loại thuế này. Hiện nay, các nước trên thế giới có xu hướng coi trọng thuế
gián thu hơn thuế trực thu vì nó có phạm vi rất lớn, đem lại số thu lớn cho
ngân sách, dễ thu, dễ quản lý, đồng thời chi phí bỏ ra để thu thuế rất thấp.
Thuế gián thu mang tính chất của thuế lũy thoái vì nó không tính đến khả
năng thu nhập của người nộp thuế, người có thu nhập cao hay thấp đều phải
15
chịu thuế như nhau nếu cùng mua một loại hàng hoá, dịch vụ. Tuy nhiên, sự
ảnh hưởng của thuế gián thu không những chịu sự chi phối của mối quan hệ
cung cầu trên thị trường, mà còn phụ thuộc vào bản chất của thị trường,
trong đó có sự tác động của TTCK .
Căn cứ vào đối tượng đánh thuế.
Theo cách phân loại này thuế được chia thành:
- Thuế đánh vào hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ như thuế
giá trị gia tăng.
- Thuế đánh vào sản phẩm hàng hoá như thuế xuất nhập khẩu, thuế
tiêu thụ đặc biệt
- Thuế đánh vào thu nhập như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế
thu nhập đối với người có thu nhập cao.
- Thuế đánh vào tài sản như thuế nhà đất.
- Thuế đánh vào việc khai thác hoặc sử dụng một số tài sản quốc
gia như thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất, sử dụng vốn của ngân sách Nhà
nước.
- Thuế khác và lệ phí, phí.
1.2.1.2. Vai trò của chính sách thuế và các nhân tố tác động tới chính
sách thuế
a. Vai trò của chính sách thuế
Các nhà kinh tế học thường đề cập vai trò của thuế đối với ngân sách
Nhà nước và đời sống xã hội. Bởi vì trên thực tế, thông qua hoạt động thu
thuế, Nhà nước tập trung được một bộ phận của cải của xã hội từ đó hình
thành nên quỹ ngân sách Nhà nước và thực hiện các chính sách kinh tế - xã
hội.
Về phương diện luật học, thuế là một thực thể do Nhà nước đặt ra
thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp
luật không chỉ quy định nội dung các loại thuế mà còn xác lập các quyền,
nghĩa vụ của các chủ thể, các biện pháp đảm bảo thực hiện thu, nộp thuế.
16
Pháp luật thuế là sự thể chế hoá các chính sách kinh tế - xã hội của Nhà
nước. Chính vì vậy pháp luật thuế là nhân tố quyết định ý nghĩa kinh tế - xã
hội của thuế và có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế và đời sống xã hội.
Vai trò của thuế là sự biểu hiện cụ thể các chức năng của thuế trong
những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định. Trong điều kiện nền kinh tế thị
trường, với sự thay đổi phương thức can thiệp của Nhà nước vào hoạt động
kinh tế, thuế đóng vai trò hết sức quan trọng đối với qúa trình phát triển kinh
tế - xã hội. Vai trò của thuế được thể hiện trên các khía cạnh sau đây:
Pháp luật thuế là công cụ chủ yếu của Nhà nước nhằm huy động
tập trung một phần của cải vật chất trong xã hội vào ngân sách Nhà nước.
Nhà nước ban hành pháp luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng
đối với các pháp nhân và thể nhân trong xã hội. Việc các chủ thể nộp thuế -
thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật thuế đã tạo ra
nguồn tài chính quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu ngân
sách Nhà nước.
Cũng như pháp luật nói chung, Pháp luật thuế có chức năng điều
chỉnh các quan hệ xã hội. Mục đích chủ yếu và quan trọng nhất của sự điều
chỉnh quan hệ pháp luật thu - nộp thuế là nhằm tạo lập qũy ngân sách Nhà
nước. Hầu hết ở các quốc gia, thuế là hình thức chủ yếu mà pháp luật quy
định để thu ngân sách Nhà nước.
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn
thu nội bộ của nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường,
xuất phát từ phạm vi hoạt động mà đòi hỏi Nhà nước phải ban hành và tổ
chức thực hiện pháp luật thuế để tập trung nguồn tài chính vào ngân sách
Nhà nước từ đó mới đáp ứng được nhu cầu chi ngày càng tăng.
Thuế là công cụ quan trọng nhất để phân phối lại tổng sản phẩm xã
hội và thu nhập quốc dân theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Hiện nay nguồn thu nước ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối ngoại
chuyển thành có vay có trả. Trước tiên, thuế là một công cụ quan trọng để
17
góp phần ổn định trật tự xã hội, chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho việc
phát triển lâu dài.
Với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, hệ thống pháp luật thuế mới
được áp dụng thống nhất giữa các thành phần kinh tế. Thuế đã điều chỉnh
được hầu hết các hoạt động sản xuất, kinh doanh, các nguồn thu nhập, mọi
tiêu dùng xã hội. Ðây là nguồn thu chính của ngân sách Nhà nước.
Pháp luật thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với
nền kinh tế và đời sống xã hội.
Ngoài việc huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, pháp luật
thuế còn có vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế.
Ðiều 26 Hiến pháp 1992 ghi nhận: Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế
quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách. Là một bộ phận của hệ thống
pháp luật Việt Nam, pháp luật thuế đóng vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô
của Nhà nước. Thông qua việc ban hành và thực hiện pháp luật thuế, Nhà
nước thể chế hoá và thực hiện chính sách điều tiết đối với nền kinh tế, điều
tiết thu nhập và tiêu dùng xã hội.
Ðiều tiết đối với nền kinh tế là yêu cầu khách quan, thường xuyên của
Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Thông qua các quy định
của pháp luật thuế về cơ cấu các loại thuế, phạm vi đối tượng nộp thuế, thuế
suất, miễn giảm thuế Nhà nước chủ động phát huy vai trò điều tiết đối với
nền kinh tế. Vai trò này của pháp luật thuế được thể hiện ở chỗ pháp luật
thuế là công cụ tác động đến tư duy đầu tư, hành vi đầu tư của các chủ thể
kinh doanh, hành vi tiêu dùng của các thành viên trong xã hội. Dựa vào
công cụ thuế, Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc đầu tư, tiêu dùng.
Thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước chủ động can
thiệp đến cung - cầu của nền kinh tế. Sự tác động của Nhà nước để điều
chỉnh cung - cầu của nền kinh tế một cách hợp lý sẽ có tác động lớn đến sự
ổn định và tăng trưởng kinh tế. Bằng các quy định của pháp luật thuế, Nhà
18
nước tác động tích cực đến cung - cầu của nền kinh tế trong tất cả các giai
đoạn từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Ðiều tiết tiêu dùng là hoạt động quan trọng của Nhà nước đối với nền
kinh tế thị trường. Thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước tác
động đến các quan hệ tiêu dùng của xã hội. Nhằm hạn chế việc tiêu dùng đối
với một số hàng hóa, dịch vụ, Nhà nước tăng thuế suất thuế giá trị gia tăng,
thuế xuất nhập khẩu đối với việc sản xuất kinh doanh, tiêu dùng các loại
hàng hóa đó.
Ðể thực hiện chính sách bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nước và
khuyến khích xuất khẩu, pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có các
quy định khuyến khích hoặc hạn chế việc xuất, nhập khẩu đối với một số
hàng hóa. Sự khuyến khích hoặc hạn chế này thể hiện tập trung ở biểu thuế
áp dụng có tính chất phân biệt đối với các loại hàng hóa xuất nhập khẩu.
Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường tất yếu dẫn đến tình trạng suy thoái về tài chính ở một số doanh
nghiệp. Ðối với những ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cần
khuyến khích, ngoài các quy định chung, pháp luật thuế còn có các quy định
ưu đãi, miễn, giảm thuế nhằm khắc phục sự suy thoái về tài chính, tạo sự ổn
định và phát triển của các doanh nghiệp.
Thuế góp phần khuyến khích khai thác nguyên liệu, vật tư trong nước
để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Thông qua pháp luật thuế, Nhà
nước có tác động tích cực trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển trên cơ sở
tận dụng và sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực của đất nước trong
việc điều chỉnh cung - cầu và cơ cấu kinh tế.
Pháp luật thuế là công cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa
các thành phần kinh tế và công bằng xã hội.
Hệ thống pháp luật thuế được áp dụng thống nhất chung cho các
ngành nghề, các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo sự
19
bình đẳng và công bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi thế
nhân và pháp nhân.
Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông qua chính sách động
viên giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có
những điều kiện hoạt động giống nhau, đảm bảo sự bình đẳng và công bằng.
Vai trò điều tiết thu nhập của pháp luật thuế thể hiện ở sự tác động
của pháp luật thuế đối với các quan hệ phân phối và sử dụng thu nhập trong
xã hội.
Sự vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường đòi hỏi Nhà nước
phải sử dụng đồng bộ nhiều công cụ khác nhau để khắc phục những sự mất
cân đối về mặt xã hội trong đó có mất cân đối về thu nhập. Nhà nước sử
dụng pháp luật thuế làm công cụ để điều hòa vĩ mô thu nhập trong xã hội.
Sự điều tiết này thể hiện ở chỗ thông qua các quy định của pháp luật thuế,
Nhà nước thực hiện việc điều tiết thu nhập của các đối tượng nộp thuế và
các thành viên trong xã hội. Sự thay đổi của pháp luật thuế về cơ cấu các
loại thuế trong hệ thống thuế, vế thuế suất đều có tác động đến thu nhập và
sử dụng thu nhập trong xã hội.
Hiện nay, xu hướng chung của các quốc gia là xây dựng các quy
phạm pháp luật thuế theo hướng hội nhập quốc tế, đơn giản hóa cơ cấu hệ
thống thuế và thuế suất Tuy vậy, việc thực hiện xu hướng chung đó không
làm triệt tiêu vai trò của pháp luật thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà
nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
b. Các nhân tố tác động đến chính sách thuế
* Tác động từ phía Nhà nước
Các sắc thuế nói chung và thuế trong lĩnh vực chứng khoáng nói riêng
được coi là nguồn thu chủ yếu cho Ngân sách Nhà nước. Ở một số nước trên
thế giới thì thuế đối với TTCK gồm các hình thức sau: thuế đánh trên mỗi
giao dịch (thuế tem), thuế đánh vào tài sản ròng khi nắm giữ chứng khoán,
thuế đánh vào thu nhập từ cổ tức, trái tức và thuế đánh vào thu nhập từ
20
chênh lệch mua bán chứng khoán (hay còn gọi là thuế đánh vào thặng dư
vốn). Còn Việt Nam, tuỳ theo địa vị của nhà đầu tư (tổ chức, cá nhân) mà
chính sách thuế cho TTCK có mức chịu thuế khác nhau:
- Nhà đầu tư là cá nhân trong và nước ngoài tạm thời được miễn
và giảm thuế thu nhập từ cổ tức, trái tức và thu nhập từ chênh lệch mua bán
chứng khoán đến hết năm 2012.
- Nhà đầu tư là tổ chức: nếu tổ chức trong nước và nước ngoài
được đăng ký và hoạt động theo Luật pháp Việt Nam (hiện diện tại Việt
Nam) thì phải kê khai, nộp thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) đối với thu
nhập từ chênh lệch mua bán chứng khoán; nếu tổ chức nước ngoài, quỹ đầu
tư nước ngoài không có tư cách pháp nhân Việt Nam nhưng có mở tài khoản
đầu tư chứng khoán tại Việt Nam thì phải nộp thuế TNDN theo phương thức
khoán bằng 0,1% trên tổng giá trị chứng khoán bán ra.
Như vậy, chính sách thuế đối với TTCK Việt Nam khác với quốc tế,
đòi hỏi sự tác động mạnh từ phía Nhà nước để việc đánh thuế vào thu nhập
đối với cá nhân, tổ chức theo đúng mục tiêu và nâng cao hiệu quả công tác
thu thuế đối với TTCK nói chung, góp phần quan trọng trong việc điều tiết
vĩ mô nền kinh tế.
*Tác động của nền kinh tế
Tuỳ từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế, chính sách thuế sẽ được
điều chỉnh cho phù hợp để thể hiện sự phát triển, trình độ phát triển, ngành
nghề khu vực cần ưu đãi đầu tư, bộ phận dân cư cần điều tiết thu nhập, các
cam kết song phương và đa phương mà Chính phủ đã tham gia liên quan đến
chính sách đầu tư và mức độ mở cửa thị trường. Nền kinh tế càng phát triển,
chính sách thuế càng phải đảm bảo mức độ công bằng, hợp lý, phù hợp với
thông lệ quốc tế, ít phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của Nhà nước. Mặt khác,
chính sách thuế cũng cần phản ánh mức độ phức tạp của các quan hệ kinh tế
vì mỗi đối tượng tham gia thị trường có thể cùng lúc đóng nhiều vai trò
trong nhiều mối quan hệ kinh tế đan xen, phức tạp. Ví dụ, một tổ chức có
21
thể vừa phát hành cổ phiếu, vừa phát hành trái phiếu, vừa là nhà đầu tư
chứng khoán, vừa cung cấp dịch vụ cho các đối tượng tham gia thị trường.
Do tác động của nền kinh tế nhiều thành phần và sự phân chia giai
cấp, đặc biệt trước tình hình nền kinh tế lạm phát, đồng tiền Việt Nam liên
tục bị mất giá so với USD, các nguồn vốn FDI, ODA hết sức hạn chế, các
Ngân hàng ngày một mở rộng quy mô nhưng thu hẹp cho vay tín dụng để
đầu tư chứng khoán, đòi hỏi công tác thu thuế phải có sự hỗ trợ liên ngành
trong đó có các tổ chức nhà nước. Một ví dụ điển hình là việc áp dụng trả
lương cho cán bộ nhân viên qua thẻ ATM, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
truy thu khấu trừ thuế trực tiếp của các tổ chức, cá nhân khi áp dụng thu
thuế đối với người có thu nhập cao hay thuế thu nhập cá nhân
Nền kinh tế phát triển, ý thức của người dân đối với nghĩa vụ nộp thuế
cũng được nâng cao, chính vì vậy, cách thức, hình thức thu thuế cũng theo
đó được quy định cho phù hợp. Nhà nước có thể cho phép các đối tượng nộp
thuế kê khai và nộp thuế thu nhập một cách trực tiếp hay khấu trừ tại nguồn
(nộp gián tiếp tại công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại) tuỳ thuộc
vào sự phát triển của hệ thống ngân hàng cũng như khả năng về nghiệp vụ
và nhân sự của các công ty chứng khoán phục vụ cho công tác này.
* Tác động của các yếu tố bên ngoài khác: các cam kết đa phương,
song phương, chính sách thương mại, chính sách thuế quan và phi thuế quan
chung … khi tham gia các hiệp định WTO, Trips, CVA, SPS, TBT …
1.2.1.3. Mục tiêu xây dựng một chính sách thuế
Khi nói đến chính sách thuế của một đất nước là nói về quan điểm,
cách nhìn nhận chính thống của Nhà nước đó về một lĩnh vực, một hoạt
động trong một giai đoạn. Hệ thống chính sách thuế là tổng hợp các quan
điểm chính thống của Nhà nước về các loại thuế trong một giai đoạn nhất
định để sử dụng chức năng của thuế nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược
chung của đất nước. Dựa trên khái niệm đó thì khi xây dựng chính sách thuế
tốt thì cần đảm bảo các yêu cầu sau:
22
Tính hiệu quả kinh tế
Trong việc xem xét tính hiệu quả kinh tế của hệ thống thuế, người ta
xem xét hệ thống thuế mang lại hiệu quả hay hậu quả cho nền kinh tế khi
tồn tại các yếu tố và các mỗi quan hệ hiện hành. Mối quan tâm đầu tiên là
liệu chính sách thuế của Nhà nước trong giai đoạn hiện nay tác động tích
cực hay tiêu cực đến nền kinh tế. Nhiều trường hợp, có thể trong ngắn hạn,
một chính sách thuế mang lại hiệu quả nhưng về lâu dài chính sách thuế đó
sẽ làm tổn hại đến nhịp độ phát triển kinh tế của đất nước.
Mối quan tâm kế tiếp của việc xác định hiệu quả của nền kinh tế khi
xác lập hệ thống thuế là liệu khi thừa nhận một yếu tố mới trong hệ thống thì
các yếu tố mới này tác động đến các yếu tố khác tích cực hay tiêu cực. Đặc
biệt trong giai đoạn kinh tế thị trường hội nhập quốc tế, việc thừa nhận các
yếu tố khác ảnh hưởng thế nào đến hiệu quả của nền kinh tế.
Tính linh hoạt
Với mọi hệ thống, trong một môi trường thay đổi, hệ thống cũng thay
đổi để thích ứng. Hệ thống thuế cũng có những diễn biến thay đổi nhất định
khi môi trường kinh tế, chính trị, xác hội thay đổi. Trong việc thay đổi để
thích ứng của hệ thống thuế có hai loại diễn biến thay đổi khác nhau: những
thay đổi tự động trong hệ thống và những thay đổi mang tính chính trị. Một
hệ thống thuế tốt phải đảm bảo cơ chế linh hoạt ở cả hai mặt để các quy luật
thị trường chi phối trong một môi trường thông thường và cũng để cho nhà
nước có thể can thiệp khi cần thiết mà không gây xáo trộn cả hệ thống. Việc
tuân thủ tính linh hoạt của hệ thống thuế cần chú ý đến tốc độ điều chỉnh và
độ trễ của các điều chỉnh
Tính minh bạch
Một hệ thống thuế chính sách thuế chính xác thể hiện sự rõ ràng và
minh bạch. Tức là, hệ thống thuế trước hết phải chỉ rõ ai chịu thuế, mức thuế
phải nộp và thời hạn nộp thuế. Việc minh bạch phải tính đến từ công khai
23
các nội dung cam kết quốc tế về thuế cho tất cả các đối tượng nộp thuế và
công dân được biết để họ có thể tính toán và thực hiện nghĩa vụ của mình.
Việc minh bạch phải xuất phát từ việc ban hành và công bố cho công
chúng các chính sách về thuế có ảnh hưởng đến đời sống và hoạt động kinh
doanh của họ. Việc minh bạch còn đòi hỏi khả năng tiếp cận các dự thảo và
góp ý các dự thảo về chính sách thuế của Nhà nước trước khi ban hành.
Một hệ thống thuế rõ ràng và minh bạch sẽ tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư
tính toán được hiệu quả kinh doanh và nghĩa vụ nộp thuế. Đây là yếu tố
quan trọng để các nhà đầu tư trong và ngoài nước yên tâm bỏ tiền đầu tư
vào các dự án phát triển sản xuất, kinh doanh. Ngược lại hệ thống thuế
không rõ ràng và minh bạch sẽ gây khó khăn cho các nhà đầu tư trong việc
xác định hiệu quả kinh doanh và nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, do đó
làm cản trở việc thu hút vốn đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài để
phát triển kinh tế.
Tính công bằng
Tính công bằng đòi hỏi khách quan trong công việc phân chia gánh
nặng thuế cho các tầng lớp dân cư trong xã hội. Có công bằng thì việc nộp
thuế mới trở thành niềm tự hào và không tác động tiêu cực đến các nỗ lực
kinh doanh của công chúng. Hệ thống thuế được coi là công bằng theo chiều
ngang, nếu các cá nhân có điều kiện về mọi mặt đều như nhau thì được đối
xử ngang bằng nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế. Hệ thống thuế được
coi là công bằng theo chiều dọc, nếu người có khả năng nộp thuế nhiều hơn
thì phải nộp thuế cao hơn những người khác có khả năng nộp thuế ít hơn.
Việc cho rằng hệ thống thuế là công bằng hay không công bằng, phụ thuộc
rất nhiều vào việc nhận định các vấn đề kinh tế, xã hội của các Nhà nước và
nền tảng đạo đức, truyền thống của mỗi dẫn tộc. Nhưng cho dù ở không gian
và thời gian nào thì việc ứng dụng tính công bằng trong hệ thống thuế cũng
chỉ mang tính tương đối. Các hiện tượng công bằng rồi sẽ trở nên bất công
24
và xã hội sẽ lại thiết lập một sự công bằng mới ở mức độ nhận thức cao hơn,
phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia.
1.2.2. Chính sách thuế đối với các đối tƣợng trên thị trƣờng chứng
khoán
Thị trường chứng khoán hoạt động được là nhờ hoạt động của các chủ
thể tham gia TTCK. Các chủ thể này là các pháp nhân hoặc thể nhân. Để xác
định nghĩa vụ thuế trước hết cần xác định những chủ thể hoạt động trên
TTCK. Xem xét một cách tổng hợp, thì trên TTCK chính sách thuế điều
chỉnh 4 nhóm tác nhân lớn sau :
a. Chủ thể phát hành hay chủ thể đi vay .
Là những người huy động vốn bằng cách phát hành và bán các chứng
khoán trên thị trường sơ cấp. Thuộc loại này có: Chính phủ, các cơ quan
Chính phủ, các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp và các công ty cổ phần.
Trong số đó chủ yếu là Chính phủ và các công ty cổ phần.
Đối với Nhà nước, toàn bộ các khoản chi tiêu khổng lồ đều trông chờ
vào các khoản thu có hạn của Ngân sách (trong đó chủ yếu là các loại thuế),
nhưng rất nhiều trường hợp Ngân sách không đủ chi. Để giải quyết nhu cầu
vốn cho các dự án đầu tư và bù đắp thiếu hụt Ngân sách quốc gia, Chính phủ
phải huy động vốn thông qua việc phát hành trái phiếu Chính phủ. Các
Chính phủ thường giao Bộ Tài chính, Bộ Ngân khố hoặc kho bạc nhà nước
phát hành trái phiếu Chính phủ. Bộ Tài chính cũng là người chịu trách
nhiệm trả nợ các loại trái phiếu này. Các loại trái phiếu trung và dài hạn trở
thành nguồn cung cấp chứng khoán trên TTCK. Ngoài ra, nhằm thực hiện
chính sách tiền tệ, Ngân hàng Trung ương thường phát hành loại trái phiếu
ngắn hạn (còn gọi là tín phiếu kho bạc) để thực hiện nghiệp vụ thị trường
mở (open market). Khi Ngân hàng Trung ương thấy cần rút bớt khối lượng
tiền tệ trong lưu thông về thì Ngân hàng Trung ương thực hiện bán tín phiếu
ra. Ngược lại, khi cần thiết phải đưa thêm tiền vào lưu thông thì Ngân hàng
25
Trung ương mua tín phiếu về. Số tín phiếu này thường được giao dịch trên
thị trường tiền tệ.
Sau Nhà nước, loại chủ thể thứ hai cũng có nhu cầu rất lớn và thường
xuyên về vốn tiền tệ là các doanh nghiệp, bất luận doanh nghiệp đó thuộc
loại hình tổ chức theo mô hình quản lý nào: doanh nghiệp tư nhân, công ty
liên doanh hay công ty cổ phần. Tuy nhiên, ở đây đề cập tới loại hình công
ty cổ phần, loại hình có liên quan nhiều đến hoạt động phát hành chứng
khoán trên thị trường.
Công ty cổ phần biến những hoạt động kinh doanh chỉ có tính chất cá
nhân và riêng lẻ trở thành những tổ chức mà trong đó tài năng, tiền bạc,
nhân lực và vốn liếng các loại được quy tụ lại, kết hợp với nhau hướng về
mục đích chung như lợi nhuận, phát triển sản phẩm và phát triển cuộc sống.
Chính tính liên đới giữa các cá nhân trong công ty cổ phần đã giúp con
người thêm điều kiện để ý thức về sự cần thiết và phụ thuộc lẫn nhau. Công
ty cổ phần phát hành cổ phiếu và gắn chặt với TTCK. Công ty cổ phần là
công ty mà số vốn là sở hữu chung của nhiều người đóng góp dưới hình
thức cổ phần, do đó vốn tự có của công ty cổ phần là vốn cổ phần. Người
mua cổ phần gọi là cổ đông cũng đồng thời là chủ sở hữu một phần doanh
nghiệp tương đương với tỷ lệ góp vốn.
Công ty cổ phần hoàn toàn tự chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm
hoàn toàn về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn dùng vào sản xuất
kinh doanh của các công ty cổ phần bao gồm các loại: vốn cổ phần, vốn vay,
lợi nhuận tích lũy.
Như vậy, chủ thể đi vay là pháp nhân kinh doanh hoặc không kinh
doanh: là pháp nhân kinh doanh việc huy động vốn để đầu tư mới hoặc đầu
tư mở rộng trong chính sách ưu đãi thuế TNDN đã đề cập là được miễn và
giảm thuế thu nhập trong một thời gian. Đối với thuế GTGT, thực hiện
chính sách ưu đãi đầu tư thì toàn bộ thuế GTGT đầu vào cấu thành nên tài
sản đầu tư đều không tính vào giá trị tài sản đầu tư mà kê khai thuế đầu vào