TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
MÔN: LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Đề tài thuyết trình số 4
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
GVHD: TS. Diệp Gia Luật
Lớp: Đêm 4 Cao học Khóa 23
Nhóm: 2
Học viên:
Nguyễn Trung Cang
Hà Thị Thanh Hải
Phan Kim Ngọc
Lê Văn Tài
Dương Bỉnh Thắng
Trần Quang Thanh
Trương Minh Tình
Phạm Minh Tú
Trần Minh Tùng
Phan Kim Tuyền
DANH SÁCH NHÓM 2
ST
T MSHV Họ Tên Ngày sinh Nơi sinh
1 7701230335 Nguyễn Trung Cang 5/2/1986 Long An
2 7701230454 Hà Thị Thanh Hải 18/4/1988 Vĩnh Long
3 7701231588 Phan Kim Ngọc 22/02/1988
4 7701231450 Lê Văn Tài 6/5/1989 Long An
5 7701230981 Dương Bỉnh Thắng 2/9/1990 TP.HCM
6 7701230933 Trần Quang Thanh 13/2/1983 Lâm Ðồng
7 7701230894 Trương Minh Tình 8/12/1986 Phú Yên
8 7701230901 Phạm Minh Tú 14/1/1988 Thái Nguyên
9 7701230919 Trần Minh Tùng 12/11/1988 Long An
10 Phan Kim Tuyền 11/8/1991 Tiền Giang
MỤC LỤC
KÝ HIỆU, CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
DTBB: Dự trữ bắt buộc
NHTW: ngân hàng trung ương
NHNN: ngân hàng nhà nước
NVTTM: nghiệp vụ thị trường mở
NHTM: ngân hàng thương mại
HMTD: hạn mức tín dụng
3
GDP: tổng sản phẩm quốc nội
C: tiêu dùng
I: đầu tư
G: chi tiêu chính phủ
NX: cán cân thương mại
IMF: quỹ tiền tệ quốc tế
CSTT: chính sách tiền tệ
CSTK: chính sách tài khóa
TCTD: tổ chức tín dụng
OMO: nghiệp vụ thị trường mở
TPCP: trái phiếu chính phủ
VAT: thuế giá trị gia tăng
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH
Hình 1.1: tỷ lệ dự trữ bắt buộc với tiền gởi vnđ tại các tổ chức tài chính từ năm 2007 đến
2011 tr12
Bảng 1.1: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND áp dụng theo QĐ 379/QĐ-
NHNN ngày 24/2/2009 (áp dụng từ kỳ dự trữ tháng 3/2009), tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với
4
tiền gửi bằng USD áp dụng theo QĐ 1925/QĐ-NHNN ngày 26/8/2011(áp dụng từ kỳ dự
trữ tháng 9/2011). Tr13
Bảng 1.2: lãi suất tái chiết khấu từ 2008 đến nay. Tr16
Hình 1.2: Biểu đồ các lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước . tr32
Bảng 1.3: Lãi suất cơ bản. tr34
Hình 2.1: Chu kỳ kinh tế. tr41
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế biến động liên tục ngày nay Việt Nam đang cố gắng đạt mục tiêu
phát triển kinh tế một cách ổn định và hiệu quả. Để đạt được mục tiêu đó, có nhiều chính
sách được áp dụng như chính sách thương mại, chính sách thu nhập, chính sách tài khóa,
5
chính sách tiền tệ, … . Tuy nhiên chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa có tác dụng rất
lớn, đây là hai trong nhiều công cụ chính của nhà nước để điều tiết nền kinh tế. Để sử
dụng hai chính sách này có hiệu quả đòi hỏi ngân hàng trung ương cũng như nhà nước
phải nghiên cứu lý thuyết và áp dụng một cách linh hoạt chúng vào thực tiễn. Mục đích
của bài viết này nhằm tìm hiểu về chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và thực tế áp
dụng các chính sách này ở Việt Nam từ 2008 đến nay.
Do giới hạn về thời gian và kiến thức nên bài viết còn sơ sài và nhiều thiếu sót, rất
mong thầy và các bạn góp ý để bài viết được hoàn chỉnh hơn. Xin chân thành cảm ơn
thầy và các bạn.
CHƯƠNG 1: CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1.1 Định nghĩa
1.1.1 Chính sách
6
Chính sách là tập hợp các chủ trương và hành động về phương diện nào đó của chính
phủ nó bao gồm các mục tiêu mà chính phủ muốn đạt được và cách làm để thực hiện các
mục tiêu đó. (Wikipedia.org)
1.1.2 Tiền tệ
Tiền là hàng hóa, có 2 thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng. Kim
loại vàng chính là tiền thực chất.
Tiền khác với tài sản hay thu nhập. Tiền là những thứ gì nói
chung là được chấp nhận khi thanh toán cho hàng hóa, dịch vụ hoặc hoạt động thanh toán
nợ.
Sau khi chế độ tiền tệ Brettonwoods sụp đổ,
chế độ lưu thông tiền giấy vận hành trên cơ sở đảm bảo vàng nhường chỗ cho chế độ tiền
giấy bất khả hoán.
Nhiều loại tiền dưới dạng tài sản tài chính xuất hiện. Tiền tệ được hiểu theo:
Tiền theo nghĩa hẹp: tiền giấy, kim khí… .
Tiền theo nghĩa rộng: Các loại tài sản tài chính.
1.1.3 Chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là những biện pháp can thiệp của ngân hàng trung ương lên cung
tiền tệ nhằm thực hiện các mục tiêu của mình bằng các công cụ của chính sách tiền tệ như
lãi suất cơ bản, lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở, … .
Chính sách tiền tệ, là một bộ phận trong tổng thể hệ thống chính sách kinh tế của nhà
nước để thực hiện việc quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu
kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn nhất định.
Chính sách tiền tệ có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa thông thường. Theo
nghĩa rộng thì chính sách tiền tệ là chính sách điều hành toàn bộ khối lượng tiền trong
nền kinh tế quốc dân nhằm tác động đến 4 mục tiêu lớn của kinh tế vĩ mô, trên cơ sở đó
đạt được mục tiêu cơ bản là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá
cả hàng hoá. Theo nghĩa thông thường là chính sách quan tâm đến khối lượng tiền cung
ứng tăng thêm trong thời kỳ tới (thường là một năm) phù hợp với mức tăng trưởng kinh
7
tế dự kiến và chỉ số lạm phát nếu có, tất nhiên cũng nhằm ổn định tiền tệ và ổn định giá
cả hàng hoá.
Chúng ta có thể khẳng định rằng, nếu như chính sách tài chính chỉ tập trung vào thành
phần. Kết cấu các mức chi phí thuế khoá của nhà nước, thì chính sách tiền tệ quốc gia lại
tập trung vào mức độ khả năng thanh toán cho toàn bộ nền KTQD, bao gồm việc đáp ứng
khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông, điều khiển hệ thống tiền tệ và khối lượng tín
dụng đáp ứng vốn cho nền kinh tế , tạo điều kiện và thúc đẩy hoạt động của thị trường
tiền tệ, thị trường vốn theo những quỹ đạo đã định, kiểm soát hệ thống các ngân hàng
thương mại, cùng với việc xác định tỷ giá hối đoái hợp lý nhằm ổn định và thúc đẩy kinh
tế đối ngoại và kinh tế ngoại thương nhằm mục tiêu cuối cùng là ổn định tiền tệ, giữ vững
sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hoá .
Chính vì vậy chính sách tiến tệ tác động nhạy bén tới lạm phát và đây là giải pháp khá
hữu hiệu trong việc kiểm soát lạm phát.
1.2 Các dạng chính sách tiền tệ
1.2.1 Chính sách tiền tệ mở rộng
Chính sách này sẽ làm tăng cung tiền, giảm lãi suất từ đó kích thích mở rộng đầu tư
và sản suất kinh doanh, tăng sản lượng, công ăn việc làm đồng thời làm gia tăng lạm
phát.
1.2.2 Chính sách tiền tệ thu hẹp (thắt chặt)
Được áp dụng khi nền kinh tế phát triển quá nhanh, lạm phát ngày càng gia tăng. Chính
sách này làm giảm cung tiền, tăng lãi suất nhằm hạn chế đầu tư vào sản xuất kinh doanh,
kìm hãm sự phát triển thái quá của nền kinh tế nhưng sẽ làm thất nghiệp tăng. Chính sách
này có tác dụng ổn định giá trị đồng tiền.
1.3 Mục tiêu, ưu điểm và nhược điểm của chính sách tiền tệ
1.3.1 Mục tiêu
Nói đến mục tiêu của chính sách tiền tệ người ta thường đề cập đến 6 mục tiêu cơ bản
sau:
8
Giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Tăng trưởng kinh tế.
Ổn định giá cả và hạn chế lạm phát.
Ổn định lãi suất.
Ổn định thị trường tài chính.
Ổn định thị trường ngoại hối.
Trong các giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể, chính sách tiền tệ sẽ đề ra mục tiêu quan trọng
cần thiết khác nhau tuy nhiên ổn định kinh tế là mục tiêu quan trọng nhất.
1.3.2 Ưu điểm của chính sách tiền tệ
Lạm phát thấp: Hai mục tiêu của chính sách tiền tệ là để thúc đẩy mức độ bền vững
tối đa sản lượng kinh tế và thúc đẩy một hệ thống giá cả ổn định . Giá cả ổn định có nghĩa
là giữ lạm phát thấp. Lạm phát làm giảm sức mua của đồng tiền , làm tổn hại đến tăng
trưởng kinh tế . Ngược lại, giá cả ổn định cho phép các hộ gia đình và các doanh nghiệp
để đưa ra quyết định tài chính mà không lo lắng về tăng giá bất ngờ.
1.3.3 Nhược điểm của chính sách tiền tệ
Mâu thuẫn trong các mục tiêu đề ra: để đạt được mức lạm phát thấp trong thời gian
dài có thể ảnh hưởng đến sản lượng kinh tế và việc làm trong ngắn hạn. Giảm lãi suất để
mở rộng cung tiền và ngăn chặn tỷ lệ thất nghiệp tăng trong thời kỳ suy thoái có thể châm
ngòi cho lạm phát trong tương lai nếu chính sách tiền tệ vẫn còn mở rộng quá lâu. Chính
sách tiền tệ tốt nhất tìm cách cân bằng giữa những ngắn hạn và dài hạn mục tiêu .
1.4 Các công cụ của chính sách tiền tệ
1.4.1 Dự trữ bắt buộc
Trong hoạt động tín dụng và thanh toán, các ngân hàng thương mại có khả năng biến
những khoản tiền gửi ban đầu thành những khoản tiền gửi mới cho cả hệ thống, khả năng
sinh ra bội số tín dụng, tức là khả năng tạo tiền. Để khống chế khả năng này, ngân hàng
trung ương buộc các ngân hàng thương mại phải trích một phần tiền huy động được theo
một tỷ lệ quy định gửi vào ngân hàng trung ương không được hưởng lãi. Do đó cơ chế
hoạt động của công cụ dự trữ bắt buộc nhằm khống chế khả năng tạo tiền, hạn chế mức
tăng bội số tín dụng của các ngân hàng thương mại.
9
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ giữa số lượng phưong tiện thanh toán cần khống chế (bị
"vô hiệu hoá" về mặt thanh toán) trên tổng số tiền gửi nhằm điều chỉnh khả năng thanh
toán và khả năng tín dụng của các ngân hàng thương mại.
Khi lạm phát cao, ngân hàng trung ương nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khả năng cho vay
và khả năng thanh toán của các ngân hàng bị thu hẹp (do số nhân tiền tệ giảm), khối
lượng tín dụng trong nền kinh tế giảm (cung tiền giảm) dẫn tới lãi suất tăng, đầu tư giảm
do đó tổng cầu giảm và làm cho giá giảm (tỷ lệ lạm phát giảm). Ngược lại nếu ngân hàng
trung ương hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc tức là tăng khả năng tạo tiền, thì cung về tín
dụng của các ngân hàng thương mại cũng tăng lên, khối lượng tín dụng và khối lượng
thanh toán có xu hướng tăng, đồng thời tăng xu hướng mở rộng khối lượng tiền. Lý luận
tương tự như trên thì việc tăng cung tiền sẽ dẫn tới tăng giá (tỷ lệ lạm phát tăng). Như
vậy công cụ DTBB mang tính hành chính áp đặt trực tiếp , đầy quyền lực và cực kỳ quan
trọng để cắt cơn sốt lạm phát, khôi phục hoạt động kinh tế trong trường hợp nền kinh tế
phát triển chưa ổn định và khi các công cụ thị trường mở tái chiết khấu chưa đủ mạnh để
có thể đảm trách điều hoà mức cung tiền tệ cho nền kinh tế. Nhưng công cụ dự trữ bắt
buộc quá nhạy cảm, vì chỉ thay đổi nhỏ trong tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã làm cho khối lượng
tiền tăng lên rất lớn khó kiểm soát. Mặt khác một điều bất lợi nữa là khi sử dụng công cụ
dự trữ bắt buộc để kiểm soát cung ứng tiền tệ như việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây
nên vấn đề khả năng thanh khoản ngay đối với một ngân hàng có dự trữ vượt mức quá
thấp, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc không ngừng cũng gây nên tình trạng không ổn định
cho các ngân hàng.Chính vì vậy sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để kiểm soát cung tiền
tệ qua đó kiểm soát lạm phát ít đưọc sử dụng trên thế giới (đặc biệt là những nước phát
triển , có nền kinh tế ổn định).
10
Hình 1.1: tỷ lệ dự trữ bắt buộc với tiền gởi vnđ tại các tổ chức tài chính từ
năm 2007 đến 2011 ( trừ ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn).
Nguồn: GAFIN/SBV
Loại TCTD
Tiền gửi VND Tiền gửi ngoại tệ
Không kỳ
hạn và dưới
12 tháng
Từ 12
tháng trở
lên
Không kỳ
hạn và dưới
12 tháng
Từ 12
tháng trở
lên
Các NHTM Nhà nước (không bao gồm
NHNo & PTNT), NHTMCP đô thị, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng
liên doanh, công ty tài chính, công ty
cho thuê tài chính
3% 1% 8% 6%
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn 1% 1% 7% 5%
NHTMCP nông thôn, ngân hàng hợp
tác, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương 1% 1% 7% 5%
TCTD có số dư tiền gửi phải tính dự trữ
bắt buộc dưới 500 triệu đồng, QTĐN cơ
sở, Ngân hàng Chính sách xã hội
0% 0% 0% 0%
11
Bảng 1.1: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND áp dụng theo QĐ
379/QĐ-NHNN ngày 24/2/2009 (áp dụng từ kỳ dự trữ tháng 3/2009), tỷ lệ dự trữ
bắt buộc đối với tiền gửi bằng USD áp dụng theo QĐ 1925/QĐ-NHNN ngày
26/8/2011(áp dụng từ kỳ dự trữ tháng 9/2011).
Nguồn:
1.4.2 Tái chiết khấu
Tái chiết khấu là phương thức để ngân hàng trung ương đưa tiền vào lưu thông, thực
hiện vai trò người cho vay cuối cùng. Thông qua việc tái chiết khấu, ngân hàng trung
ương đã tạo cơ sở đầu tiên thúc đẩy hệ thống ngân hàng thương mại thực hiện việc tạo
tiền, đồng thời khai thông thanh toán. Tái chiết khấu là đầu mối tăng tiền trung ương,
tăng khối lượng tiền tệ vào lưu thông. Do đó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình điều khiển
khối lượng tiền và điều hành chính sách tiền tệ. Tuỳ theo tình hình từng giai đoạn, tuỳ
thuộc yêu cầu của việc thực hiện chính sách tiền tệ trong giai đoạn ấy, cần thực hiện
chính sách "nới lỏng" hay "thắt chặt" tín dụng mà ngân hàng trung ương quy định lãi suất
thấp hay cao. Lãi suất tái chiết khấu đặt ra từng thời kỳ phải có tác dụng hướng dẫn, chỉ
đạo lãi suất tín dụng trong nền kinh tế của giai đoạn đó. Khi ngân hàng trung ương nâng
lãi suất tái chiết khấu buộc các ngân hàng thương mại cũng phải nâng lãi suất tín dụng
của mình lên để không bị lỗ vốn. Do lãi suất tín dụng tăng lên, giảm "cầu" về tín dụng và
kéo theo giảm cầu về tiền tệ (nhu cầu về giữ tiền của nhân dân giảm đi). Do đó đầu tư
giảm đi dẫn tới tổng cầu giảm và làm cho giá giảm (tỷ lệ lạm phát giảm). Trường hợp
ngược lại tức là ngân hàng trung ương kích thích tăng cung cầu tiền tệ và làm cho giá
tăng (tỷ lệ lạm phát tăng). ở các nước công cụ nghiệp vụ trực tiếp để thực hiện tái chiết
khấu là thương phiếu, hoặc các loại tín phiếu là những công cụ rất thông dụng trên thị
trường tiền tệ và thị trường vốn nhưng ở nước ta chưa có công cụ truyền thống để thực
hiện việc chiết khấu và tái chiết khấu. Mặt khác công cụ tái chiết khấu vừa có khả năng
giải quyết khả năng thanh toán vừa có khả năng mở rộng khối lượng tín dụng cho nền
kinh tế. Cho nên có thể ví công cụ tái chiết khấu là cáí bơm hai chiều vừa hút vừa đẩy.
Khi bơm đảy ra là cung thêm tiền cho nền kinh tế, khi có hiện tượng thiểu phát. Và bơm
hút vào thu hồi lượng tiền khi nền kinh tế có hiện tượng lạm phát.
12
Tuy nhiên khi NHTW ấn định lãi suất chiết khấu tại một mức nào đó sẽ xảy ra những
biến động lớn trong khoảng cách giữa lãi suất thị trường và lãi suất chiết khấu vì khi đó
lãi suất cho vay thay đổi. Những biến động này dẫn đến những thay đổi ngoài ý định
trong khối lượng cho vay chiết khấu và do đó thay đổi trong cung ứng tiền tệ làm cho
việc kiểm soát cung ứng tiền tệ vất vả hơn. Đây chính là hạn chế của công cụ tái chiết
khấu trong việc kiểm soát lạm phát.
Giá trị Văn bản quyết định Ngày áp dụng
5% 1073/QĐ-NHNN 13-05-2013
6% 643/QĐ-NHNN 25/3/2013 26-03-2013
7% 2646/QD-NHNN 24-12-2012
8% 1289/QĐ-NHNN 29/6/2012 01-07-2012
9% 1196/QĐ-NHNN 8/6/2012 11-06-2012
10% 1081/QĐ-NHNN 25/5/2012 28-05-2012
11% 693/QĐ-NHNN 10/4/2012 11-04-2012
12% 407/QĐ-NHNN 12/3/2012 13-03-2012
13% 929/QĐ-NHNN 29/4/2011 01-05-2011
12% 379/QĐ-NHNN 8/3/2011 08-03-2011
7% 447/TB-NHNN 29/11/2010 01-12-2010
7% 2620/QĐNHNN 05/11/2010 05-11-2010
6% 402/TB-NHNN 27/10/2010 01-11-2010
6% 352/TB-NHNN 27/9/2010 01-10-2010
6% 316/TB-NHNN 25/08/2010 01-09-2010
6% 316/TB-NHNN 25/8/2010 01-09-2010
6% 220/TB-NHNN 24/06/2010 10-08-2010
6% 259/TB-NHNN 27/7/2010 01-08-2010
6% 189/TB-NHNN 31/5/2010 01-06-2010
13
6% 26/TB-NHNN 26/01/2010 01-02-2010
6%/năm 2664/QĐ-NHNN 25/11/2009 01-12-2009
5,0%/năm 2232/QĐ-NHNN 01-10-2009
5% 837/QĐ-NHNN 10/4/2009 10-04-2009
6,0% 173/QĐ-NHNN 23/1/2009 01-02-2009
7.5%/năm 3159/QĐ-NHNN 19/12/2008 22-12-2008
9,0%/năm 2949/QĐ-NHNN 3/12/2008 05-12-2008
10% 2810/QĐ-NHNN 21-11-2008
11%/năm 2561/QĐ-NHNN 3/11/2008 05-11-2008
12.0%/năm 2318/QĐ-NHNN 20/10/2008 21-10-2008
13,0%/năm 1316/QĐ-NHNN 10/6/2008 11-06-2008
11,00%/năm 1099/QĐ-NHNN 16/05/2008 19-05-2008
11% 1098/QĐ-NHNN 16/5/2008 19-05-2008
6.0% 306/QĐ-NHNN 30/1/2008 01-02-2008
Bảng 1.2: lãi suất tái chiết khấu từ 2008 đến nay.
Nguồn:
1.4.3 Hoạt động thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM) là một trong những công cụ của chính sách tiền
tệ quan trọng được Ngân hàng Trung ương (NHTW) các quốc gia sử dụng. Thông qua
hoạt động mua bán giấy tờ có giá, NHTW tác động trực tiếp đến nguồn vốn khả dụng của
các tổ chức tín dụng, từ đó điều tiết lượng tiền tệ cung ứng và tác động gián tiếp đến lãi
suất thị trường. Với nghiệp vụ này, khi các tổ chức tín dụng thiếu vốn, NHTW sẽ đưa tiền
ra để mua các giấy tờ có giá (tín phiếu ngân hàng, tín phiếu kho bạc,…) do các tổ chức
tín dụng nắm giữ. Ngược lại, khi các tổ chức tín dụng thừa vốn, NHTW bán ra các giấy
tờ có giá để rút tiền về. NVTTM là thị trường tiền tệ thứ cấp, nhằm bảo đảm hỗ trợ khả
năng thanh toán cho các tổ chức tín dụng và điều tiết thị trường tiền tệ, phục vụ mục tiêu
phát triển kinh tế.
14
Nếu như công cụ lãi suất tái chiết khấu là công cụ thụ động của NHTW, tức là NHTW
phải chờ NHTM đang cần vốn đưa thương phiếu, kỳ phiếu đến để xin "tái cấp vốn" thì
nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chủ động của ngân hàng trung ương để điều khiển
khối lượng tiền, qua đó đã kiểm soát được lạm phát.
Qua nghiệp vụ thị trường mở, NHTW chủ động phát hành tiền trung ương vào lưu
thông hoặc rút bớt tiền khỏi lưu thông bằng cách mua bán các loại trái phiếu ngân hàng
quốc gia nhằm tác động trước hết đến khối lượng tiền dự trữ trong quỹ dự trữ của các
NHTM và các tổ chức tài chính, hạn chế tiềm năng tín dụng và thanh toán của các ngân
hàng này, qua đó điều khiển khối lượng tiền trong thị trường tiền tệ chúng ta. Khi nghiên
cứu phần trước đã biết rằng khối lượng tiền tệ ảnh hưởng trực tiếp tới tỷ lệ lạm phát , việc
thay đổi cung tiền tệ sẽ làm thay đổi tỷ lệ lạm phát.
Trong nghiệp vụ thị trường mở, ngân hàng trung ương điều khiển cả khối lượng tiền
tệ và lãi suất tín dụng thông qua "giá cả" mua và bán trái phiếu. Tất cả những cuộc can
thiệp vào khối lượng tiền bằng công cụ thị trường mở đều được tiến hành dường như là
lặng lẽ và vô hình, "không can thiệp thô bạo", điều khiển mạnh mà không chứa đựng
"một chút mệnh lệnh". Một mặt nghiệp vụ thị trường mở có thể dễ dàng đảo ngược lại.
Khi có một sai lầm trong lúc tiến hành nghiệp vụ thị trường mở, như khi thấy cung tiền tệ
tăng hoặc giảm quá nhanh ngân hàng thương mại có thể lập tức đảo ngược lại bằng cách
bán trái phiếu hoặc mua trái phiếu và ngược lại.
Đây là công cụ cực kỳ quan trọng của nhiều NHTW, và được coi là vũ khí sắc bén
nhất đem lại sự ổn định kinh tế nói chung, ổn định lạm phát nói riêng.
Nhưng ở nước ta đang ở trong thời kỳ đặt nền móng. Bởi vì nghiệp vụ này đòi hỏi
phải có môi trường pháp lý nhất định. Trong thời kỳ lạm phát đến 3 con số, Việt nam đã
áp dụng chính sách lãi suất để đẩy lùi lạm phát rất nhanh chóng. (nhờ vào đặc điểm riêng
biệt của lạm phát ở Việt nam).
Thực tiễn ở Việt Nam
Nghiệp vụ thị trường mở: là việc Ngân hàng Nhà nước thực hiện mua, bán ngắn
hạn các loại giấy tờ có giá của các tổ chức tín dụng thông qua hình thức đấu thầu. Mục
tiêu là giảm lãi suất.
15
Thành viên tham gia thị trường mở: gồm các tổ chức tín dụng thành lập và hoạt
động theo Luật các tổ chức tín dụng có đủ các điều kiện sau:
Có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước (Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước
hoặc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố);
Có đủ phương tiện cần thiết để tham gia nghiệp vụ thị trường mở gồm máy FAX,
máy tính có nối mạng internet;
Có giấy đăng ký tham gia nghiệp vụ thị trường mở;
Ngân hàng Nhà nước cấp giấy công nhận là thành viên tham gia thị trường mở cho
các tổ chức tín dụng đáp ứng đủ các điều kiện.
Các loại giấy tờ có giá sử dụng trong giao dịch nghiệp vụ thị trường mở:
Ngân hàng Nhà nước quy định các loại giấy tờ có giá được sử dụng trong các giao
dịch nghiệp vụ thị trường mở gồm:
(1) - Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước.
(2) - Trái phiếu Chính phủ, bao gồm: Tín phiếu Kho bạc; Trái phiếu Kho bạc; Trái
phiếu công trình Trung ương; Công trái xây dựng Tổ quốc; Trái phiếu Chính phủ do
Ngân hàng Phát triển Việt Nam (trước đây là Quỹ Hỗ trợ phát triển) được Thủ tướng
Chính phủ chỉ định phát hành.
(3) - Trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, bao gồm: Trái phiếu do Ngân hàng Phát
triển Việt Nam và Ngân hàng Chính sách xã hội phát hành được Chính phủ bảo lãnh
thanh toán 100% giá trị gốc, lãi khi đến hạn.
(4) - Trái phiếu Chính quyền địa phương do Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và
Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh phát hành.
(5) - Riêng đối với giao dịch mua có kỳ hạn. Ngân hàng Nhà nước chỉ giao dịch
đối với: Công trái xây dựng Tổ quốc; Trái phiếu do Ngân hàng Phát triển Việt
Namvà Ngân hàng Chính sách xã hội phát hành được Chính phủ bảo lãnh thanh toán
100% giá trị gốc, lãi khi đến hạn; Trái phiếu Chính quyền địa phương do Ủy ban nhân
dân thành phố Hà Nội và Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh phát hành.
Điều kiện các giấy tờ có giá được giao dịch trong thị trường mở:
16
Có thể mua, bán được và nằm trong danh mục các loại giấy tờ có giá được giao
dịch qua nghiệp vụ thị trường mở ;
Được phát hành bằng đồng Việt Nam;
Được lưu ký tại Ngân hàng Nhà nước trước khi đăng ký bán (bao gồm giấy tờ có
giá do tổ chức tín dụng lưu ký trực tiếp tại Ngân hàng Nhà nước và lưu ký tại tài khoản
của Ngân hàng Nhà nước mở tại Trung tâm giao dịch chứng khoán);
Giấy tờ có giá được mua hẳn có thời hạn tối đa là 91 ngày.
Danh mục các loại giấy tờ có giá, tỷ lệ chênh lệch giữa giá trị giấy tờ có giá tại
thời điểm định giá và giá thanh toán, tỷ lệ giao dịch của các loại giấy tờ có giá qua nghiệp
vụ thị trường mở do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước qui định trong từng thời kỳ.
Các phương thức mua hoặc bán giấy tờ có giá trong nghiệp vụ thị trường
mở: Gồm giao dịch mua có kỳ hạn; giao dịch bán có kỳ hạn; giao dịch mua hẳn; giao
dịch bán hẳn
Phương thức đấu thầu giấy tờ có giá trong nghiệp vụ thị trường mở:
Nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện thông qua phương thức đấu thầu khối lượng
hoặc đấu thầu lãi suất. Tại mỗi phiên đấu thầu, Ngân hàng Nhà nước chỉ áp dụng một
phương thức đấu thầu khối lượng hoặc đấu thầu lãi suất.
! Là việc xét thầu trên cơ sở khối lượng dự thầu của các tổ
chức tín dụng, khối lượng giấy tờ có giá Ngân hàng Nhà nước cần mua hoặc bán và lãi
suất do Ngân hàng Nhà nước thông báo.
"Là việc xét thầu trên cơ sở lãi suất dự thầu, khối lượng dự thầu
của các tổ chức tín dụng và khối lượng giấy tờ có giá Ngân hàng Nhà nước cần mua hoặc
bán.
Ngày giao dịch và định kỳ tổ chức thực hiện nghiệp vụ thị trường mở:
Ngày giao dịch nghiệp vụ thị trường mở được tính theo ngày làm việc, không tính
ngày nghỉ cuối tuần, nghỉ lễ và nghỉ tết. Trường hợp ngày mua lại hoặc ngày đến hạn
thanh toán của giấy tờ có giá trùng với ngày nghỉ cuối tuần, nghỉ lễ và nghỉ tết, thì ngày
thanh toán và chuyển giao giấy tờ có giá được thực hiện vào ngày làm việc tiếp theo.
17
Định kỳ và ngày tổ chức thực hiện nghiệp vụ thị trường mở do Ban Điều hành nghiệp vụ
thị trường mở quy định cụ thể trong từng thời kỳ.
Xác định giá mua bán giấy tờ có giá
#$!%&!'!&()(*+, ! /
0$1!+
Gđ = G x (1- h)
Trong đó:
Gđ: Giá thanh toán;
G: Giá trị giấy tờ có giá tại thời điểm định giá;
h: Tỷ lệ chênh lệch giữa giá trị giấy tờ có giá tại thời điểm định giá và giá thanh
toán;
#!234!!%&!'!&()(*+, !
/0$1!+
Gv = Gđ x ( 1 + L x Tb )
365
Trong đó:
Gv: Giá mua lại;
Gđ: Giá thanh toán;
L: Lãi suất thống nhất hoặc lãi suất riêng l‡ (trường hợp đấu thầu lãi suất)
hoặc lãi suất do Ngân hàng Nhà nước thông báo (trường hợp đấu thầu khối lượng)
tại phiên đấu thầu;
Tb: Thời hạn bán (số ngày).
Quy trình nghiệp vụ: 4 bước
(1). Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước thông báo mua hoặc bán giấy tờ có giá cho
các thành viên qua mạng vi tính với các nội dung chính như: Ngày đấu thầu, phương thức
đấu thầu, phương thức xét thầu, phương thức mua bán, khối lượnggiấy tờ có giá cần mua
hoặc bán
(2). Vào ngày đấu thầu, các tổ chức tín dụng căn cứ vào thông báo của Ngân hàng
Nhà nước để nộp đơn dự thầu (qua mạng vi tính) đăng ký mua hoặc bán giấy tờ có
18
giá với Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước. Trong thời hạn nộp đơn dự thầu, tổ chức tín
dụng có thể thay đổi nội dung đơn dự thầu hoặc huỷ bỏ đơn dự thầu. Tổng khối
lượng giấy tờ có giá đăng ký mua hoặc bán của một tổ chức tín dụng trong một đơn dự
thầu tối thiểu là 100 triệu đồng.
(3). Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước tổ chức thực hiện xét thầu với sự chứng
kiến của các thành viên trong Ban Điều hành nghiệp vụ thị trường mở. Việc xét thầu thực
hiện theo nội dung thông báo của Ban Điều hành nghiệp vụ thị trường mở
(4). Ngân hàng Nhà nước thông báo kết quả đấu thầu (qua mạng vi tính) cho
các tổ chức tín dụng tham gia đấu thầu. Thông báo kết quả đấu thầu là căn cứ để thực
hiện việc thanh toán và giao, nhận giấy tờ có giá trong trường hợp mua hẳn hoặc bán hẳn
giấy tờ có giá, đồng thời là căn cứ để lập hợp đồng mua lại trong trường hợp mua hoặc
bán có kỳ hạn.
Điều hành nghiệp vụ thị trường mở: Ngân hàng Nhà nước thành lập Ban Điều
hành nghiệp vụ thị trường mở do một Phó Thống đốc làm Trưởng ban và các thành viên
là đại diện của các đơn vị có liên quan thuộc Ngân hàng Nhà nước (Vụ Tín dụng, Vụ
Chính sách tiền tệ, Sở Giao dịch, Vụ Kế toán tài chính, Cục Công nghệ tin học Ngân
hàng).
Ban Điều hành nghiệp vụ thị trường mở có thẩm quyền quyết định các nội
dung:
Khối lượng các loại giấy tờ có giá cần mua hoặc bán tính theo giá thanh toán giữa
Ngân hàng Nhà nước với tổ chức tín dụng;
Quyết định thông báo hoặc không thông báo khối lượng giấy tờ có giá Ngân hàng
Nhà nước cần mua hoặc bán trước mỗi phiên đấu thầu;
Các loại giấy tờ có giá cần mua, bán;
Tỷ lệ giao dịch của các loại giấy tờ có giá;
Phương thức đấu thầu;
Phương thức xét thầu (Trường hợp đấu thầu lãi suất);
Thời hạn của giao dịch mua, bán;
Lãi suất mua hoặc bán.
19
Thời gian, cách thức xem xét và quyết định các nội dung chủ yếu trong phiên giao
dịch nghiệp vụ thị trường mở do Trưởng ban hoặc người được Trưởng ban uỷ quyền
quyết định.
Ban Điều hành nghiệp vụ thị trường mở sẽ thông báo cho Sở Giao dịch Ngân hàng
Nhà nước các nội dung mà Ban Điều hành nghiệp vụ thị trường mở đã quyết định về
phiên giao dịch để Sở Giao dịch thông báo cho các thành viên.
Xử phạt vi phạm:
Ngân hàng Nhà nước sẽ có thông báo bằng văn bản gửi các tổ chức tín dụng trúng
thầu có vi phạm một trong các trường hợp sau đây:
Không đủ số tiền phải thanh toán khối lượng trúng thầu được Ngân hàng Nhà nước thông
báo;
Không thanh toán hoặc thanh toán không đủ số tiền phải thanh toán khi đến hạn
(đối với trường hợp tổ chức tín dụng bán và cam kết mua lại);
Không chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá cho Ngân hàng Nhà nước vào
ngày thanh toán (trường hợp tổ chức tín dụng bán) hoặc vào ngày mua lại (trường hợp tổ
chức tín dụng mua và cam kết bán lại).
Tổ chức tín dụng tham gia đấu thầu nghiệp vụ thị trường mở vi phạm từ lần thứ 3
trở lên đối với một trong các trường hợp nêu trên, thì mỗi lần vi phạm sẽ bị Ngân hàng
Nhà nước tạm đình chỉ việc tham gia nghiệp vụ thị trường mở trong thời gian 1 tháng kể
từ ngày có thông báo vi phạm lần thứ 3.
Các tổ chức tín dụng là thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở không cung
cấp thông tin theo quy định của Quy chế Nghiệp vụ Thị trường mở sẽ bị tạm đình chỉ
tham gia mua, bán trong thời gian 1 tháng kể từ ngày Ngân hàng Nhà nước thông báo vi
phạm.
NVTTM được xem là còn khá mới ở Việt Nam để NHNN điều hành chính sách
tiền tệ. Phiên giao dịch đầu tiên được thực hiện vào tháng 7/2000. Mặc dù vậy, việc triển
khai NVTTM cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu đổi mới của nền kinh tế, chuyển dần từ sử
dụng các công cụ tiền tệ trực tiếp sang sử dụng công cụ gián tiếp, giúp các tổ chức tín
dụng đảm bảo khả năng thanh toán nhanh chóng, kịp thời. NVTTM đang dần trở thành
20
kênh chủ đạo để NHNN bơm tiền ra nền kinh tế và thu tiền về từ lưu thông, góp phần
quan trọng điều hoà vốn khả dụng của các NHTM.
Thực tiễn điều hành NVTTM thời gian gần đây cho thấy, NHNN đã giúp các
NHTM gia tăng lượng vốn khả dụng thông qua việc điều hành thị trường mở theo hướng
chủ yếu là chào mua giấy tờ có giá với kỳ hạn 7 ngày và 28 ngày. Lãi suất qua kênh này
cũng được giảm đáng kể, từ 7,8%/năm kỳ hạn 7 ngày xuống còn 7,5% - 7%/năm và
tương đối ổn định suốt thời gian qua. Lãi suất của kỳ hạn 28 ngày cũng giảm xuống ở
mức khoảng 8%/năm. Hoạt động thị trường mở được duy trì 2 phiên mỗi ngày, với khối
lượng trúng thầu (loạt phiên trong thời gian trở lại đây) liên tục ở mức cao, khoảng 5.000
- 8.000 tỷ đồng, cao hơn so với trước kia. Trạng thái vốn ròng được thị trường xác định
cho thấy NHNN đang bơm tiền vào nền kinh tế thông qua các NHTM. Điều này có ý
nghĩa quan trọng. Thứ nhất, các NHTM có thêm vốn để cấp tín dụng, tức là gia tăng được
lượng vốn khả dụng. Thứ hai, lãi suất cho vay có điều kiện giảm do các NHTM có nhiều
vốn để cho vay hơn. Thứ ba, các chủ thể kinh tế nhờ đó gia tăng được cơ hội tiếp cận
nguồn vốn do lượng cung nhiều hơn và lãi suất giảm thấp hơn. Cùng với các biện pháp
tiền tệ như tăng khối lượng cho vay tái cấp vốn, hỗ trợ thanh khoản trực tiếp cho các
NHTM quy mô nhỏ, giữ ổn định lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết
khấu,… việc NHNN mua vào giấy tờ có giá với lãi suất thấp hơn đã góp phần không nhỏ
ổn định thị trường tiền tệ - tín dụng.
Biện pháp cơ bản
Trong thời gian sắp tới, để công cụ NVTTM phát huy hiệu lực cao hơn, thiết nghĩ
nên triển khai một số biện pháp cơ bản, trước mắt sau:
NHNN nên đa dạng loại hàng hoá giao dịch trên thị trường. Thực tế cho thấy hàng hóa
của thị trường mở hiện còn khá nghèo nàn, chủ yếu là tín phiếu ngân hàng. Các phương
tiện giao dịch như các loại trái phiếu thời hạn ngắn, chứng khoán do bản thân các ngân
hàng phát hành vẫn chưa giao dịch trên thị trường này. Thêm vào đó, khối lượng tín
phiếu ngân hàng còn quá nhỏ so với quy mô vốn của ngân hàng. Như vậy, NVTTM chưa
thực sự có tác động lớn đến cung cầu vốn trên thị trường. Việc tăng khối lượng hàng hóa
giao dịch cũng là hấp lực để thu hút nhiều tổ chức tín dụng tham gia thị trường mở.
21
NHNN cần tiếp tục hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc phát triển thị trường thứ cấp về giấy tờ có giá. Hệ thống công
nghệ thông tin cần được không ngừng nâng cấp nhằm hỗ trợ NHNN nắm bắt kịp thời các
thông tin thị trường (nhu cầu vốn của nền kinh tế, khả năng thanh khoản của các
NHTM, ) để đưa ra các quyết định sát thực và chính xác. Bên cạnh đó cũng cần chú
trọng nâng cao độ an toàn, chuẩn xác trong các hoạt động giao dịch tiền tệ, tăng hiệu quả
hoạt động (nhờ rút ngắn thời gian giao dịch), cũng như cải tiến các chương trình phần
mềm ứng dụng về lưu ký giấy tờ có giá tại Sở Giao dịch NHNN nhằm theo dõi và thanh
toán giấy tờ có giá của NHNN và của các tổ chức tín dụng.
Song song với cải tiến, nâng cấp công nghệ ngân hàng, NHNN cần không ngừng
bổ sung, sửa đổi để hoàn thiện các quy trình liên quan đến NVTTM, như đặt thầu, xét
thầu; các thủ tục về đăng ký, lưu ký giấy tờ có giá; thủ tục về lập hợp đồng, quy trình
giao dịch qua mạng, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng khi tham gia
giao dịch, rút ngắn thời gian và tiết kiệm chi phí giao dịch.
NHNN nên nghiên cứu tăng thêm số phiên giao dịch. Hiện số phiên giao dịch mỗi
ngày là 2, với kỳ hạn giao dịch 14 ngày và 28 ngày. Tăng phiên giao dịch đồng nghĩa với
việc tăng thời gian tiếp xúc của các tổ chức tín dụng với NHNN. Nhờ đó, sự hỗ trợ của
NHNN với tư cách là người cho vay cuối cùng sẽ tốt hơn.
Một vấn đề quan trọng nữa đó là cần tìm giải pháp thiết thực để gia tăng hơn nữa
số lượng thành viên (tổ chức tín dụng) tham gia thị trường mở. Thực tế cho thấy, thành
viên tham gia thị trường mở thời gian qua đã có sự gia tăng về số lượng và đa dạng về
loại hình. Nếu như trước đây, thị trường mở hầu như chỉ có các NHTM nhà nước tham
gia, các khối ngân hàng khác còn đứng ngoài cuộc, thì hiện nay thị trường mở Việt Nam
đã có sự góp mặt của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, ngân hàng liên
doanh, NHTM cổ phần,… Tuy nhiên, còn một bộ phận không ít các NHTM cổ phần nhỏ
chưa tham gia thị trường mở, do quy mô vốn bé, trình độ nghiệp vụ chưa đáp ứng cũng
như chưa quen nên chưa tham gia hoặc còn lúng túng trong việc tham gia đấu thầu tại thị
trường tiền tệ thứ cấp này. Hiện mỗi phiên giao dịch chỉ nhận được sự tham gia đặt thầu
của khoảng 10-15 tổ chức tín dụng. Đây là con số khá khiêm tốn so với lực lượng tổ chức
22
tín dụng đông đảo hiện đang hoạt động tại Việt Nam. Gia tăng số lượng thành viên cũng
góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực của NVTTM trong việc điều hành lượng tiền trong
lưu thông của NHNN, nhờ đó tăng được độ sâu và độ rộng (lan toả) của chính sách tiền
tệ.
1.4.4 Hạn mức tín dụng
Ngoài những công cụ cơ bản trên, ngân hàng nhà nước còn sử dụng công cụ hạn mức
tín dụng để điều hành, làm cho khối lượng tín dụng đối với NHTM không vượt quá mức
cho phép để từ đó bảo đảm mức lạm phát đã được phê duyệt. Hạn mức tín dụng là khối
lượng tín dụng tối đa mà NHTW có thể cung ứng cho tất cả các NHTM trong thời kỳ
nhất định phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế của thời kỳ. Đây là một chỉ tiêu có quan
hệ trực tiếp đến khối lượng tiền trung ương được cung ứng thêm (hay giảm bớt) đối với
các NHTM. Khi hạn mức tín dụng giảm, dẫn tới cung tiền giảm do đó tổng đầu tư giảm
làm cho tổng cầu giảm và cuối cùng là giá giảm. Với mục tiêu ổn định đồng tiền và
chống lạm phát được coi là mục tiêu số 1, thì công cụ hạn mức tín dụng là cần thiết. Song
việc sử dụng công cụ hạn mức tín dụng cũng là vấn đề khó khăn không nhỏ cho các ngân
hàng thương mại. Tiền gửi của nhân dân không thể không thu nhận hàng ngày hàng giờ.
Nếu nhận tiền gửi mà không được cho vay thì chẳng khác nào có đầu vào mà không có
đầu ra. Như vậy đầu ra của vốn huy động bị bế tắc bởi hạn mức tín dụng. Việc xác định
hạn mức tín dụng là rất cần thiết, để thực hiện mục tiêu chống lạm phát. Song nó cũng có
những mặt trái gây khó khăn cho NHTM. Cần có những giải pháp để khắc phục những
khó khăn đó.
HMTD là một trong những công cụ can thiệp một cách trực tiếp mang tính hành chính
của Ngân hàng Trung ương để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của hệ thống tổ
chức tín dụng cung ứng cho nền kinh tế, đảm bảo mức tăng trưởng tổng phương tiện
thanh toán theo mục tiêu đề ra trong điều hành chính sách tiền tệ hàng năm.
HMTD là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương buộc các NHTM tôn trọng khi
cấp tín dụng cho nền kinh tế.
23
Về cơ chế tác động, HMTD được sử dụng để khống chế tổng dư nợ tín dụng, qua đó
khống chế tổng lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Do vậy, cơ chế tác động của nó
mang tính áp đặt ở dạng chỉ tiêu kế hoạch hàng năm không được vượt quá đối với hệ
thống NHTM.
Qua việc sử dụng công cụ HMTD, Ngân hàng Trung ương điều chỉnh khả năng tạo
tiền của các NHTM phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế, tránh tình trạng tổng
khối lượng cung tiền tăng quá mức trong lưu thông. Lúc này, Ngân hàng Trung ương
phải theo dõi hoạt động cho vay của các NHTM, nếu NHTM cho vay vượt quá HMTD
quy định sẽ bị xử phạt.
Có thể thấy, với cơ chế hoạt động như vậy, HMTD có những ưu và nhược điểm sau:
Ưu điểm: HMTD là một công cụ trực tiếp điều tiết lượng tiền trong lưu thông, Ngân
hàng Trung ương có thể kiểm soát khá chặt chẽ tổng lượng tiền cung ứng. Công cụ này
thực sự phát huy hiệu quả khi tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế tăng cao và
các công cụ gián tiếp khác tỏ ra kém hiệu lực.
Nhược điểm:
HMTD có thể làm cho lãi suất tăng lên, bởi vì cung vốn bị giới hạn, không thoả
mãn nhu cầu vốn của nền kinh tế.
HMTD có thể làm sai lệch cơ cấu vốn đầu tư của các NHTM, ảnh hưởng đến cơ
cấu nền kinh tế.
Khi thị trường tiền tệ hoạt động đúng theo quy luật, thì vô hình trung, HMTD lại
kìm hãm sự phát triển của các ngân hàng tốt, làm giảm tính cạnh tranh giữa các NHTM.
Do những NHTM có khả năng huy động nhiều vốn, lại bị hạn chế cho vay, trong khi một
số ngân hàng không có khả năng huy động vốn lại không sử dụng hết được hạn mức của
mình. Điều nguy hiểm hơn nữa là chính việc kìm hãm này sẽ làm phát sinh các tổ chức
24
tài chính mới, nằm ngoài phạm vi kiểm soát của Ngân hàng Trung ương, thay thế ngân
hàng thực hiện nghiệp vụ cho vay. Kết quả cuối cùng là làm cho chính sách tiền tệ dựa
trên HMTD mất đi hiệu lực, do một số lượng vốn tín dụng được lưu thông trong nền kinh
tế không theo hạn mức đó và không kiểm soát được.
HMTD cũng gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các hộ sản
xuất kinh doanh cá thể, hộ nông dân. Do tín dụng bị áp mức trần, nên các NHTM thường
lựa chọn khách hàng lớn để cho vay, sau đó mới đến những đối tượng trên, mà hiệu quả
sử dụng vốn nhiều khi ở các món tín dụng nhỏ lại tỏ ra hiệu quả hơn các món lớn.
Do những hạn chế rất cơ bản nêu trên, nên việc kéo dài thời gian áp dụng công cụ
này có thể làm méo mó sự phát triển của thị trường tiền tệ, tín dụng và ảnh hưởng tiêu
cực tới cả nền kinh tế.
Thực tế tại Việt Nam
Nhìn lại lịch sử ngành ngân hàng Việt Nam có thể thấy, từ năm 1994, Ngân hàng
Nhà nước thực hiện HMTD cho 4 NHTM quốc doanh. Sau đó, việc áp dụng HMTD được
mở rộng sang NHTM cổ phần và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài lớn nhằm hạn chế
tốc độ cho vay, để kiểm soát lạm phát. Trong điều kiện thị trường thứ cấp chưa phát triển,
Ngân hàng Nhà nước chưa thể sử dụng thị trường mở để kiểm soát sự gia tăng tổng
phương tiện thanh toán, thì việc sử dụng công cụ này là cần thiết.
Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, do bản chất của HMTD là công cụ điều hành mang
tính hành chính, can thiệp trực tiếp và chỉ được phân bổ đối với một số NHTM, nên phần
nào hạn chế tính công bằng trong cạnh tranh. Đồng thời, HMTD cũng không được điều
chỉnh một cách linh hoạt theo tín hiệu thị trường, đã làm ảnh hưởng đến việc đáp ứng nhu
cầu về vốn cho nền kinh tế. Do đó, đến năm 1998, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định
không sử dụng HMTD như là một công cụ thường xuyên trong điều hành chính sách tiền
tệ, mà chỉ dùng khi cần hạn chế sự gia tăng tín dụng nhanh chóng, dẫn tới nguy cơ lạm
phát cao.
25