Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Quản trị tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín - khu vực Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 97 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ




NGUYỄN HUY VĂN






Quản trị tín dụng tại Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Sài Gòn
Thương Tín - khu vực Hà Nội








HÀ NỘI
2010


1

MỤC LỤC



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN TRỊ TÍN
DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 4
1.1. Hoạt động của Ngân hàng Thƣơng mại trong nền kinh tế thị
trƣờng 4
1.1.1. Khái niệm NHTM 4
1.1.2. Các chức năng chủ yếu của NHTM 5
1.2. Hoạt động tín dụng tại NHTM 8
1.2.1. Khái niệm tín dụng 8
1.2.2. Các loại cho vay của ngân hàng 10
1.2.3. Vai trò của tín dụng 12
1.3. Quản trị tín dụng của NHTM 15
1.3.1. Quản trị tín dụng và vai trò của quản trị tín dụng 15
1.3.2. Các nguyên tắc quản trị tín dụng 16
1.3.3. Nội dung quản trị tín dụng của NHTM 16
1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản trị tín dụng của NHTM 17
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ TÍN DỤNG TẠI NHTM CỔ PHẦN
SÀI GÒN THƢƠNG TÍN – KHU VỰC HÀ NỘI 25
2.1. Giới thiệu về NHTM Cổ phần Sài Gòn Thƣơng tín – Khu vực Hà Nội 25
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển 25
2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của STB Hà Nội trong thời gian qua 30


2
2.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của STB Hà Nội 37
2.2. Thực trạng quản trị tín dụng tại STB Hà Nội 37

2.2.1. Nguyên tắc quản trị tín dụng tại STB Hà Nội 37
2.2.2. Quy trình cho vay tại STB Hà Nội 39
2.2.3. Tình hình quản trị tín dụng tại STB Hà Nội 42
2.3. Đánh giá quản trị tín dụng tại STB Hà Nội 46
2.3.1. Kết quả đạt được 46
2.3.2. Tồn tại, nguyên nhân 50
CHƢƠNG 3. ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN TRỊ TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI
GÒN THƢƠNG TÍN – KHU VỰC HÀ NỘI 59
3.1. Định hƣớng phát triển 59
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị tín dụng tại STB Hà Nội 63
3.2.1. Nâng cao hiệu quả quản trị các khoản vay 63
3.2.2. Nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng 67
3.2.3. Nâng cao hiệu quả quản lý nợ quá hạn 71
3.2.4. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý khách hàng 72
3.3. Kiến nghị 76
3.3.1. Giải pháp đối với Sacombank 76
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước 77
KẾT LUẬN 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO 81






3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT



STT
Ký hiệu
Nghĩa đầy đủ
1
TMCP
Thương Mại Cổ Phần
2
Sacombank
Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín
3
STB Hà Nội
Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín - Khu vực Hà Nội
4
NHTM
Ngân hàng Thương mại
5
NHNN
Ngân hàng Nhà nước
6
KTTT
Kinh tế thị trường






























4

DANH MỤC BẢNG BIỂU


Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1
Tình hình huy động vốn phân theo thành phần

31
Bảng 2.2
Tình hình huy động vốn phân theo kỳ hạn
33
Bảng 2.3
Tình hình cho vay theo kỳ hạn
34
Bảng 2.4
Tình hình cho vay theo loại hình
35
Bảng 2.5
Hiệu quả kinh doanh
36
Bảng 2.6
Tình hình nợ quá hạn
47
Bảng 2.7
Nợ quá hạn theo phân kỳ hạn nợ
48
Bảng 2.8
Nợ quá hạn phân theo khả năng thu hồi
49



















5

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ


Số hiệu, hình
vẽ, biểu đồ
Tên bảng
Trang
Hình 2.1
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của STB Hà Nội
27
Biểu đồ 2.1

32
Biểu đồ 2.2

33






















6
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình phát triển đất nước, hệ thống ngân hàng đóng vai trò rất
quan trọng. Nó là hệ thần kinh của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nền kinh tế
chỉ có thể phát triển nếu hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định, có hiệu quả.
Ngược lại không thể có tăng trưởng khi hệ thống tổ chức và hoạt động của
ngân hàng yếu kém và lạc hậu.
Giai đoạn 2005 - 2007 đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của hệ
thống ngân hàng. Hàng loạt các chi nhánh, phòng giao dịch mới được thành

lập. Để tồn tại và phát triển các ngân hàng đã đưa ra nhiều loại hình cho vay
để thu hút khách hàng. Tiêu chí cho vay khá dễ dàng và nhiều khoản vay
được cho là „dưới chuẩn‟.
Năm 2008, 2009 với những biến động của kinh tế trong nước và khủng
hoảng tài chính trên toàn cầu, hệ thống ngân hàng đã phải đương đầu với
những thách thức vô cùng to lớn.
Nhiệm vụ quan trọng và trọng tâm của các Ngân hàng Thương mại, đặc
biệt đối với Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Sài Gòn Thương Tín – Khu vực
Hà Nội là phải nâng cao chất lượng và đưa ra các biện pháp phòng ngừa và
hạn chế rủi ro trong quản trị tín dụng. Quản trị tín dụng tốt sẽ giúp Ngân hàng
an toàn, hiệu quả và tạo đà phát triển trong thời gian tới.
Nhận thức rõ tính cấp bách của vấn đề trên, sau thời gian làm việc và
nghiên cứu tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín – Khu
vực Hà Nội, tác giả đã chọn đề tài:
‘Quản trị tín dụng tại Ngân hàng Thƣơng Mại Cổ Phần Sài Gòn
Thƣơng Tín – Khu vực Hà Nội” làm luận văn thạc sỹ.


7
2. Tình hình nghiên cứu
Chủ đề quản trị tín dụng tại các Ngân hàng Thương mại đã được các
tác giả đề cập ở các cấp độ khác nhau:
- Lê Thị Vân Trang (2008), Hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh
Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Ngoại Thương Thăng Long, Luận văn thạc
sỹ kinh tế tài chính – ngân hàng, Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân.
- Đoàn Cẩm Vân (2007), Biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng của
Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương, Luận văn thạc sỹ quản trị kinh
doanh.
- Nguyễn Thị Tuyết Chinh (2008), Đổi mới quy trình tín dụng tại Sở
Giao dịch ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Luận văn thạc sỹ kinh tế tài

chính – ngân hàng, Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân.
Tuy nhiên trong thời gian hơn 10 năm qua, kinh tế trong nước chứng
kiến thời kì phát triển bùng nổ của các ngân hàng vì vậy các đề tài này hầu
như không đề cập nhiều tới những vướng mắc trong quản trị tín dụng tại các
Ngân hàng Thương mại trong giai đoạn khủng hoảng.
Tiếp cận chủ đề quản trị tín dụng tại ngân hàng trong giai đoạn khủng
hoảng tài chính từ đó đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản trị tín
dụng sẽ là một công trình nghiên cứu mới, không trùng lặp với các đề tài đã
nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
1. Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về quản trị tín dụng
2. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả quản trị tín dụng tại
STB Hà Nội trong ba năm 2006, 2007, 2008.
3. Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị tín dụng tại Ngân hàng
Thương Mại Cổ Phần Sài Gòn Thương Tín – Khu vực Hà Nội.


8
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Quản trị tín dụng tại Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Sài Gòn
Thương Tín – Khu vực Hà Nội.
- Phân tích, đánh giá, thực trạng quản trị tín dụng tại Ngân hàng
Thương Mại Cổ Phần Sài Gòn Thương Tín – Khu vực Hà Nội thông qua các
số liệu báo cáo tài chính trong ba năm 2006, 2007, 2008.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu cơ bản như:
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; Thống kê kinh tế; Khảo sát, đối chiếu;
Tổng hợp, so sánh, phân tích số liệu; Dự báo.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn.
- Khái quát hóa một số vấn đề lý luận về quản trị tín dụng của Ngân

hàng Thương Mại.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản trị tín dụng tại Ngân hàng Thương
Mại Cổ Phần Sài Gòn Thương Tín – Khu vực Hà Nội.
- Dự báo xu hướng quản trị tín dụng tại Ngân hàng Thương Mại Cổ
Phần Sài Gòn Thương Tín – Khu vực Hà Nội.
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị tín dụng tại Ngân hàng
Thương Mại Cổ Phần Sài Gòn Thương Tín – Khu vực Hà Nội.
7. Bố cục của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận chung về quản trị tín dụng tại Ngân
hàng Thương mại.
Chƣơng 2: Thực trạng quản trị tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Sài Gòn Thương Tín – Khu vực Hà Nội


9
Chƣơng 3: Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị tín dụng
tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín – Khu vực Hà Nội




























10



CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN TRỊ TÍN DỤNG TẠI
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1 Hoạt động của Ngân hàng Thƣơng Mại (NHTM) trong nền kinh tế thị
trƣờng.
1.1.1 Khái niệm NHTM
“ NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và
thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử
dụng một khối lượng tiền tệ để cho vay và đầu tư, thực hiện các dịch vụ ngân
hàng” (15, trang 10).

Trước đây ngân hàng thường được đánh giá như một tổ chức thực hiện
quá trình phân phối thuần tuý với vai trò thiên về quản lý. Song thực tế ngân
hàng là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường (KTTT). Tuy ra đời muộn
song đã nhanh chóng giữ vị trí tiên phong, chủ chốt đối với quá trình phát
triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, đặc biệt điều đó thể hiện rõ nét hơn
trong cơ chế thị trường.
Ngày nay Ngân hàng đã được nhìn nhận và đánh giá đúng đắn hơn
thông qua 2 hoạt động chủ yếu là:
- Quản lý nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng bằng những chính
sách ban hành: lưu thông tiền tệ, quản lý tiền mặt, ngoại hối, các chính sách
tín dụng, chính sách lãi suất
- Hoạt động kinh doanh thông qua nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, kinh
doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng.


11
Từ hai hoạt động cơ bản trên, đã hình thành nên hai hệ thống Ngân
hàng: Ngân hàng nhà nước (NHNN) và NHTM. Sự đổi mới trong việc tổ
chức và hoạt động của Ngân hàng là phù hợp với thực tế khách quan: một mặt
tạo ra sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước đối với hoạt động tiền tệ để xây dựng
một nền tiền tệ ổn định và thực hiện tích luỹ cần thiết cho công cuộc xây dựng
đất nước, mặt khác tạo điều kiện phát huy cao độ vai trò đặc biệt của Ngân
hàng để phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Thực tế cho thấy rằng trong một
nền kinh tế hiện đại, bất cứ một sự đầu tư nào muốn đảm bảo chắc chắn và
đem lại hiệu quả kinh tế cao cũng đều cần có sự đảm bảo của NHTM. Như
vậy sự ra đời của NHTM là một tất yếu khách quan đối với nền KTTT.
1.1.2 Các chức năng chủ yếu của NHTM
1.1.2.1 Tạo tiền
Một trong những chức năng chủ yếu của NHTM là tạo tiền và huỷ tiền.
Chức năng tạo tiền xuất phát từ chính nhu cầu bên trong của mỗi NHTM

riêng lẻ và sự tăng trưởng của toàn hệ thống, thông qua các hoạt động tín
dụng, đầu tư và thanh toán.
Trong mỗi ngân hàng riêng lẻ, khả năng tạo tiền chỉ đạt từ trên một lần
đến giữa hai lần tuỳ theo tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Mỗi khoản tiền gửi của khách
hàng gửi vào ngân hàng, được ngân hàng lưu giữ tại quỹ nghiệp vụ của ngân
hàng, đồng thời phản ánh trên tài khoản của khách hàng. Sau đó khách hàng
trích tài khoản thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt. Thông qua các bút
toán này, dùng “tiền ghi sổ” và thanh toán chuyển khoản, để tạo ra một khoản
tiền mới.
Đối với toàn hệ thống NHTM thì bội số tạo tiền rất lớn.
Một khoản tiền mặt gửi vào ban đầu của khách hàng là U1, NHTM đầu
tiên này để lại dự trữ 10% chẳng hạn. Còn lại số tiền U2 bằng 90% (tức 9/10)
số tiền U1 đem cho vay hoặc thực hiện các bút toán thanh toán. Đến ngân


12
hàng tiếp theo nhận được các giấy tờ thanh toán hoặc cho vay là U3 bằng
90% U2 nói trên. Cứ thế, hệ thống NHTM đã tạo ra một bội số tiền tệ bằng tất
cả U1,U2,U3,…,Un so với khoản tiền gửi U1 ban đầu.
Tuy nhiên khi chuyển dịch như vậy, chúng cũng có giới hạn nhất định,
tức là khi n tiến tới vô cùng thì khoản tiền Un cũng tiến tới không(0). Tổng số
tiền mà hệ thống NHTM tạo ra đã là một con số rất lớn, tính theo công thức
của một cấp số nhân lùi vô hạn ta có:
Sn = U1 + U2 +…+ Un = U1(1- q
n
)/(1- q) (1)
Khi n , giả sử q = 10% = 1/10, tức q<1 thì q
n
0




U1
Công thức (1) trở thành Sn
=



1-q




U1
Sn
=



9


1 -


10

Rõ ràng, nếu dự trữ của mỗi ngân hàng là 10% số tiền gửi mới, thì toàn
bộ hệ thống NHTM đã tạo ra một khoản tiền gấp 10 lần khoản tiền gửi ban
đầu.

Chức năng tạo tiền làm cho các NHTM có khả năng đẩy nền kinh tế phát
triển quá nóng và ngược lại, huỷ tiền gây thiểu phát, gây khó khăn cho tăng
trưởng kinh tế.
Chức năng tạo tiền có liên quan đến tổng khối lượng tiền cung ứng cho
nền kinh tế phù hợp với chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Vì vậy các nhà
khoa học coi chức năng này là chức năng số một của NHTM.
1.1.2.2 Thanh toán


13
Sự vận động vốn trong phạm vi toàn quốc và phạm vi toàn cầu đòi hỏi
phải có sự thống nhất và quốc tế hoá cao độ giữa chức năng thước đo giá trị,
chức năng phương tiện lưu thông trong nền KTTT hiện đại. Vì vậy phát huy
chức năng thanh toán của NHTM có liên quan đến việc cung ứng tổng khối
lượng thanh toán cho toàn xã hội, một tác nhân của tăng trưởng kinh tế.
Chức năng thanh toán là chức năng cổ truyền của NHTM. Ngày nay
những sản phẩm hiện đại của nó là những tấm các điện tử, những tấm mica
thay cho vàng bạc châu báu, thay cho tiền tệ, là do sự phát triển của chức
năng này.
1.1.2.3 Tín dụng
Phạm trù tín dụng trở thành chức năng của NHTM ngay từ thuở ngân
hàng chào đời. Tín dụng theo nghĩa đơn giản là cho vay.
Các nhà khoa học kinh tế đã coi ngân hàng là một ngành công nghiệp, thì
việc cung ứng tín dụng được coi như việc thực hiện một trong các “sản phẩm”
chủ yếu, một “sản phẩm gián tiếp”. Sản phẩm này đem ra tiêu dùng sẽ tạo ra
việc làm, tạo ra sản phẩm xã hội do khai thác tài nguyên.
Trong nền KTTT, đại bộ phận quỹ cho vay tập trung qua ngân hàng và từ
đó đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho các doanh nghiệp và cá nhân. Tín dụng
ngân hàng không những chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để bổ sung vốn
lưu động cho các doang nghiệp và cá nhân mà còn tham gia cấp vốn cho đầu

tư xây dựng cơ bản, đổi mới cải tiến kỹ thuật công nghệ sản suất. Ngoài ra, tín
dụng ngân hàng còn đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu tiêu dùng của cá
nhân. Như vậy, tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền
kinh tế thị trường, nó đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế rất linh hoạt và
kịp thời.
1.1.2.4 Cung ứng các dịch vụ Ngân hàng


14
Trong bối cảnh toàn cầu hoá đang có tác động sâu rộng tới tất cả các lĩnh
vực thì trào lưu hội nhập vào những xu thế của nền kinh tế thế giới là tất yếu.
Với tư cách là một định chế tái chính đặc biệt, hệ thống ngân hàng trong thời
gian qua đã không ngừng đổi mới để tiệm cận những tiêu chuẩn quốc tế. Một
trong những tiêu chuẩn đó chính là khả năng cung ứng các dịch vụ ngân hàng
tới người dân. Quá trình cung ứng dịch vụ được đẩy mạnh sẽ làm giảm xu thế
dùng tiền mặt trong các quan hệ hằng ngày hay trong các giao dịch kinh tế.
Điều đó cũng giúp cơ cấu lợi nhuận của ngân hàng thay đổi theo hướng tích
cực, giảm dần tỉ trọng đóng góp của tín dụng có tính rủi ro cao.
NHTM cung cấp dịch vụ cho doanh nghiệp và cá nhân những loại dịch
vụ thông thường và thanh toán chuyển tiền uỷ thác, tư vấn đầu tư, mua trả
góp, các dịch vụ lữ hành…. Ngày nay hiện đại hơn là các loại thẻ điện tử,
máy rút tiền tự động, dịch vụ chứng khoán, các dịch vụ ngân hàng tại gia, thẻ
séc…Chức năng này trong nền KTTT phát huy hơn bao giờ hết.
Tóm lại bốn chức năng chủ yếu nói trên quyết định sự tồn tại và phát
triển của NHTM.
1.2 Hoạt động tín dụng tại NHTM
1.2.1 Khái niệm tín dụng
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ Latinh là credo (tin tưởng, tín
nhiệm). Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều
nghĩa khác nhau; ngay cả trong quan hệ tài chính, tùy theo từng bối cảnh cụ

thể mà thuật ngữ tín dụng có một nội dung riêng. Trong quan hệ tài chính, tín
dụng có thể hiểu theo các nghĩa sau:
 Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm
sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm, thì tín dụng được coi là phương pháp
chuyển dịch vốn từ người cho vay sang người đi vay (13, trang 7).


15
 Trong quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên
cơ sở có sự hoàn trả giữa hai chủ thể. Như một công ty công nghiệp
hoặc thương mại bán hàng trả chậm cho một công ty khác, trong trường
hợp này, người bán chuyển giao hàng hoá cho bên mua và sau một thời
gian nhất định, theo thoả thuận, bên mua phải trả tiền cho bên bán. Phổ
biến hơn cả là giao dịch giữa ngân hàng và các định chế tài chính khác
với các doanh nghiệp và cá nhân dưới hình thức cho vay, tức là ngân
hàng cấp tiền cho bên đi vay và sau một thời gian nhất định người đi
vay phải thanh toán vốn gốc và lãi (13, trang 7).
 Tín dụng còn được hiểu là sự bảo lãnh của bên thứ ba thường được gọi
là tín dụng bằng chữ ký, như việc ngân hàng mở thư tín dụng cho nhà
xuất khẩu hưởng theo yêu cầu của nhà nhập khẩu hoặc các loại bank
guarantee khác (13, trang 7).
 Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính
cung cấp cho khách hàng (13, trang 8).
Mục đích của luận văn này là xem xét tín dụng như một chức năng cơ bản
của ngân hàng, vì vậy trên cơ sở tiếp cận theo chứng năng hoạt động của ngân
hàng thì tín dụng được hiểu như sau:
Tín dụng có thể được hiểu đơn giản là một quan hệ vay mượn lẫn nhau
dựa trên nguyên tắc có hoàn trả - tín dụng đồng nghĩa với thuật ngữ cho vay.
(13, trang 8).
Đối tượng vay mượn có thể là tiền hoặc tài sản. Nguyên tắc hoàn trả

khẳng định người cho vay chỉ nhường quyền sử dụng tiền hoạc tài sản của
mình cho người đi vay trong một khoảng thời gian nhất định. Hết thời hạn đó
người đi vay sẽ phải hoàn trả cho người cho vay một số tiền hay tài sản nhất
định theo thoả thuận. Thông thường giá trị khoản hoàn trả sẽ lớn hơn giá trị
khoản cho vay.


16
Với cùng bản chất như vậy, tín dụng Ngân hàng là quan hệ vay mượn
lẫn nhau giữa một bên là ngân hàng và bên kia là các chủ thể kinh tế khác như
các đơn vị kinh tế, các tổ chức xã hội, dân cư dựa trên nguyên tắc có hoàn trả
cả gốc và lãi trong một khoảng thời gian nhất định. Việc hoàn trả có thể thực
hiện một lần hay nhiều lần tuỳ theo thoả thuận giữa hai bên.
Một ngân hàng khi tham gia vào các quan hệ tín dụng có thể đóng vai
trò là người đi vay hoặc người cho vay. Khi ngân hàng nhận tiền gửi, phát
hành trái phiếu, kỳ phiếu để huy động vốn, vay vốn từ Ngân hàng Trung
ương, từ các tổ chức tín dụng khác thì nó đóng vai trò là người đi vay. Còn
khi ngân hàng thực hiện việc cho vay trực tiếp, chiết khấu thương phiếu thì
nó đóng vai trò là người cho vay. Tuy nhiên, trong thực tế do tính phức tạp
của hoạt động cho vay so với hoạt động đi vay và cũng là do thói quen nên
khi nói đến tín dụng Ngân hàng người ta thường chỉ đề cập đến hoạt động cho
vay mà ít khi đề cập đến hoạt động đi vay.
1.2.2. Các loại cho vay của ngân hàng
Cho vay được chia ra làm nhiều loại khác nha, căn cứ vào các tiêu thức
phân loại khác nhau: (4, trang 22)
a. Căn cứ vào mục đích
Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và
xây dựng bất động sản như nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công
nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ

sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương
mại và dịch vụ.
Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất
như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên
liệu


17
Cho vay cá nhân là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như
mua sắm các vật dụng đắt tiền. Ngày nay ngân hàng còn thực hiện các khoản
cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua phát
hành thẻ tín dụng.

b. Căn cứ vào thời hạn cho vay
Theo căn cứ này, cho vay được chia ra làm ba loại sau: (4, trang 23)
Cho vay ngắn hạn
Là loại cho vay có thời hạn không quá 12 tháng, được sử dụng để bù
đắp sự thiếu hụt vốn lưu động phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh
và chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Đối với NHTM tín dụng ngắn hạn chiếm tỉ
trọng cao nhất.
Cho vay trung hạn
Là loại cho vay có thời hạn từ trên 12 tháng và không quá 60 tháng.
Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định,
cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây
dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời hạn thu hồi vốn nhanh.
Cho vay dài hạn
Là loại cho vay có thời hạn trên 60 tháng, mục đích sử dụng vốn để sửa
chữa, xây dựng cơ bản, đầu tư bất động sản thời hạn thu hồi vốn dài.
Trong bối cảnh hiện nay các NHTM thường kinh doanh tổng hợp và một
trong những nội dung đó là nâng cao tỉ trọng cho vay trung và dài hạn trong

tổng số dư nợ của ngân hàng.
c. Căn cứ vào tài sản thế chấp có các loại sau
Cho vay có tài sản thế chấp: Ngân hàng căn cứ vào tài sản của khách hàng
để đảm bảo cho việc trả nợ của khách hàng (4, trang 24).


18
Cho vay cầm cố: là việc ngân hàng căn cứ vào tài sản khách hàng mang
đến cầm cố tại ngân hàng. Tài sản của khách hàng do ngân hàng bảo quản
trong suốt thời gian cầm cố, khách hàng không được sử dụng, nhượng bán
cho thuê
Cho vay thế chấp: Ngân hàng căn cứ vào tài sản của khách hàng để
đảm bảo khả năng trả nợ của khách hàng. Tài sản không cần mang đến ngân
hàng, khách hàng có quyền sử dụng nhưng không được bán và cho thuê.
Cho vay không có tài sản thế chấp (tín chấp): Ngân hàng cho vay
trên cơ sở sự tin tưởng khách hàng, tài sản thế chấp là uy tín, danh dự của
khách hàng. Ngoài ra còn có hình thức cho vay thông qua việc bảo lãnh bằng
tín chấp của các tổ chức đoàn thể kinh tế chính trị- xã hội cho cá nhân, cho hộ
nghèo vay vốn.
d. Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng
- Cho vay bằng tiền: là loại cho vay mà hình thức giá trị của tín dụng
được cung cấp bằng tiền như tín dụng theo thời vụ, tín dụng trả góp.
- Cho vay bằng tài sản: phổ biến là tài trợ thuê mua.
e. Căn cứ vào xuất xứ tín dụng
- Cho vay trực tiếp: ngân hàng trực tiếp cấp vốn cho khách hàng và
khách hàng trực tiếp trả lãi và gốc cho ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay thực hiện thông qua việc mua lại
các khế ước hoặc các chứng từ nợ đã phát sinh và còn lại trong thời hạn thanh
toán.
Các NHTM cho vay gián tiếp theo các loại sau:

- Chiết khấu thương mại
- Mua các phiếu bán hàng tiêu dùng và máy móc nông nghiệp trả góp.
- Mua các khoản nợ củ doanh nghiệp …
1.2.3 Vai trò của tín dụng


19
a. Vai trò của tín dụng đối với NHTM
Trong nền KTTT, tồn tại rất nhiều hình thức tín dụng khác nhau như tín
dụng thương mại, tín dụng Ngân hàng, tín dụng nặng lãi, tín dụng thuê mua
Trong đó tín dụng Ngân hàng là loại hình tín dụng giữ vai trò quan trọng nhất
và cũng chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Hoạt động tín dụng Ngân hàng giúp lưu thông luồng tiền tệ, dẫn vốn từ
nơi thừa đến nơi thiếu, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế của mỗi quốc
gia. Mặt khác, tín dụng cũng là một trong những hoạt động cơ bản và quan
trọng nhất của các NHTM. Trong thời gian dài, tín dụng luôn là hoạt động
mang lại lợi nhuận lớn nhất cho các NHTM kể cả các NHTM trong nước và
các NHTM trên thế giới.
Ngày nay, khi công nghệ Ngân hàng phát triển đến trình độ cao, các
dịch vụ Ngân hàng đã bắt đầu thể hiện rõ ưu thế của mình và ngày càng
chiếm tỷ trọng lớn hơn trong hoạt động của các NHTM, tín dụng vẫn là hoạt
động không thể thiếu được của các Ngân hàng. Tín dụng vẫn tạo ra nguồn thu
nhập cơ bản cho các NHTM, nó bảo đảm cho hoạt động của các NHTM được
thông suốt. Chính vì vậy, tín dụng Ngân hàng luôn luôn giữ một vai trò hết
sức quan trọng đối với bản thân mỗi Ngân hàng nói riêng và đối với nền kinh
tế nói chung.
Bản chất của một NHTM là kinh doanh tiền tệ, hoạt động chủ yếu là
“đi vay để cho vay”. Nguồn vốn mà Ngân hàng huy động, trước tiên được sử
dụng vào hoạt động cho vay và đây cũng là hoạt động mang lại phần lớn lợi
nhuận cho Ngân hàng. Khi các Ngân hàng không thực hiện được duy trì và

mở rộng tín dụng thì phần vốn mà Ngân hàng huy động được sẽ bị ứ đọng,
Ngân hàng sẽ phải trả lãi cho phần vốn đó trong khi không có thu nhập từ lãi
cho vay, điều này sẽ dẫn Ngân hàng tới chỗ bị thua lỗ và có khả năng bị phá
sản. Hơn nữa, việc nâng cao chất lượng và mở rộng hoạt động tín dụng sẽ tạo


20
điều kiện để Ngân hàng phát triển đa dạng thêm các hoạt động dịch vụ khác.
Do đó, việc duy trì và mở rộng tín dụng có ý nghĩa rất quan trọng đối với các
NHTM.
b. Vai trò của tín dụng đối với nền kinh tế
Thứ nhất, hoạt động tín dụng Ngân hàng giúp điều hoà vốn trong nền
kinh tế, cung cấp vốn cho hoạt động sản xuất, tái sản xuất mở rộng. Như
chúng ta đã biết, vốn sản xuất kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế
vận động liên tục và biểu hiện các hình thái khác nhau qua mỗi giai đoạn của
quá trình sản xuất tạo thành chu kỳ tuần hoàn và luân chuyển vốn, điểm xuất
phát và kết thúc của một vòng tuần hoàn này được thể hiện dưới dạng tiền tệ.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để duy trì hoạt động liên tục đòi
hỏi vốn của các doanh nghiệp phải đồng thời tồn tại ở cả ba giai đoạn: dự trữ -
sản xuất - lưu thông. Từ đó xảy ra hiện tượng thừa hoặc thiếu vốn tạm thời tại
các doanh nghiệp. Đây chỉ là hiện tượng mang tính chất tạm thời nhưng xảy
ra thường xuyên và phổ biến, làm nảy sinh yêu cầu phải giải quyết cho được
vấn đề điều hoà vốn trong nền kinh tế. Với nghiệp vụ huy động vốn và nghiệp
vụ tín dụng, các NHTM đã giải quyết được vấn đề này. NHTM đứng ra tập
trung và phân phối lại vốn, điều hoà cung - cầu vốn trong nền kinh tế, góp
phần điều tiết các nguồn vốn, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp không bị gián đoạn.
Mặt khác, để mở rộng sản xuất đối với các doanh nghiệp thì yêu cầu về
vốn là một trong những mối quan tâm hàng đầu được đặt ra. Các doanh
nghiệp không thể chỉ trông chờ vào vốn tự có, mà còn phải biết dựa vào nhiều

nguồn vốn khác nhau trong xã hội. NHTM với tư cách là nơi tập trung đại bộ
phận vốn nhàn rỗi sẽ đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho đầu tư phát triển. Như
vậy, tín dụng Ngân hàng vừa giúp cho doanh nghiệp rút ngắn được thời gian


21
tích luỹ vốn nhanh chóng cho đầu tư mở rộng sản xuất, vừa góp phần đẩy
nhanh tốc độ tập trung và tích luỹ vốn cho nền kinh tế.
Thứ hai, tín dụng Ngân hàng là công cụ vĩ mô của Nhà nước để tài trợ
cho các ngành mũi nhọn và các thành phần kinh tế kém phát triển. Trong tiến
trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, tín dụng Ngân hàng được xem
như một công cụ vĩ mô quan trọng để tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn,
phát huy tối đa lợi thế so sánh của đất nước. Mặc dù các ngành này có tỷ lệ
sinh lời thấp, thời gian thu hồi vốn chậm, đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn nhưng
đây là các ngành kinh tế mũi nhọn, là xương sống của nền kinh tế, là cơ sở đề
phát triển đất nước. Chính vì vậy, việc đầu tư phát triển các ngành này là một
yêu cầu không thể thiếu và tín dụng Ngân hàng được xem như một trong
những nguồn vốn quan trọng tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn.
Bên cạnh đó, quá trình phát triển và hội nhập quốc tế còn đòi hỏi phải
vực dậy một số ngành kinh tế kém phát triển để có đủ khả năng cạnh tranh với
các nước trên thế giới. Muốn vậy, cần phải có vốn đầu tư lớn đối với các
ngành kinh tế này. Vốn đầu tư có thể được huy động từ nhiều nguồn nhưng
quan trọng nhất vẫn là nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng.
Thứ ba, tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện phát triển kinh tế đối ngoại.
Trong những năm tới, khi hàng rào thuế quan giữa các nước trong khu vực
được dỡ bỏ, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ đứng trước một thách thức to lớn
là phải đối đầu với các doanh nghiệp nước ngoài có tiềm lực kinh tế mạnh, có
kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Khi đó, các doanh nghiệp của Việt Nam cần
phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, đồng thời hạ giá thành sản
xuất, đa dạng mẫu mã chủng loại hàng hoá, đáp ứng tốt nhu cầu thị trường

trong nước cũng như thị trường nước ngoài. Có như vậy mới cạnh tranh được
với hàng hoá của nước ngoài, củng cố và mở rộng thị phần của các doanh
nghiệp Việt Nam. Để làm được điều đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải


22
có vốn đầu tư để mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ và nguồn vốn vay của
Ngân hàng là thực sự cần thiết.
1.3 Quản trị tín dụng của NHTM
1.3.1. Quản trị tín dụng và vai trò của quản trị tín dụng
- Quản trị tín dụng giúp cho các ngân hàng hoạt động an toàn, hiệu quả
và phát triển.
- Quản trị tín dụng là một yêu cầu của người gửi tiền đối với ngân
hàng. Bởi lẽ, nếu ngân hàng gặp phải tình trạng cho vay không đòi lại được,
tức là bị mất vốn, điều đó cũng có nghĩa rằng người đầu tư cho ngân hàng
cũng bị mất vốn đầu tư, mất mát các khoản tiền gửi gồm tiền gửi tiết kiệm mà
suốt đời nhiều người mới có được mà cả vốn hoạt động cuả doanh nghiệp được
tích luỹ qua nhiều thế hệ. Gây thiệt hại trực tiếp tới người gửi tiền những người
đã góp phần tạo nên nguồn vốn để ngân hàng nhờ đó mới tiến hành được cho
vay sinh lợi nhuận.
- Quản trị tín dụng là vấn đề vô cùng trọng đại, không chỉ là công việc
hàng đầu của mỗi ngân hàng riêng lẻ mà là của toàn bộ hệ thống ngân hàng
trong nền kinh tế quốc dân. Đối với nước ta, giai đoạn hiện nay các nhà doanh
nghiệp đang cần nguồn vốn lớn để phát triển sản xuất theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá chỉ có thể tạo vốn thông qua con đường vay ngân hàng (bởi
vì vay bằng hình thức cổ phiếu, trái phiếu còn gặp nhiều khó khăn chủ quan
lẫn khách quan). Thế nhưng tồn tại nghịch lý trong khi doanh nghiệp thiếu
vốn thì ngân hàng lại thừa vốn. Thiếu vốn ở đây là thiếu vốn trung và dài hạn,
còn thừa vốn là vốn ngắn hạn. Đứng trước thực trạng nền kinh tế còn nhiều
khó khăn và nợ quá hạn khó đòi ngày càng gia tăng, do vậy để đảm bảo đồng

vốn cho vay của mình mà nhiều ngân hàng đã lưỡng lự khi quyết định cho
doanh nghiệp vay, điều này đã cản trở không nhỏ đến hoạt động sản xuất của
doanh nghiệp nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Vì thế, các ngân hàng


23
phải tự tìm cho mình giải pháp phù hợp trên cơ sở các nguyên tắc cho vay để
có thể tiến hành tới hoạt động cho vay đảm bảo đồng thời với các mục tiêu
phát triển kinh tế của đất nước.
- Quản trị tín dụng tốt sẽ góp phần thúc đẩy mở rộng sản xuất, lưu thông
hàng hoá phát triển, tài trợ cho các thành phần kinh tế kém phát triển và các
ngành mũi nhọn của quốc gia.
1.3.2. Các nguyên tắc quản trị tín dụng
Nguyên tắc chung của quản trị tín dụng là đảm bảo hoạt động ngân
hàng hoạt động lành mạnh, an toàn, hiệu quả, phát triển bền vững theo các
mục tiêu được đặt ra trong từng giai đoạn, thời kỳ. Đảm bảo lợi ích của khách
hàng trên cơ sở hai bên cùng có lợi, tạo điều kiện gắn bó lâu dài. Cụ thể hơn
nguyên tắc quản trị tín dụng của NHTM:
- Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích
- Vốn vay phải được đảm bảo bằng giá trị vật tư hàng hoá tương tương
đương
- Vốn vay phải được hoàn trả đủ cả gốc và lãi đúng kỳ hạn cam kết.
1.3.3. Nội dung quản trị tín dụng của NHTM
- Hai hoạt động chính của mỗi NHTM là vay và cho vay. Ngân hàng đi
vay của dân của dân cư, tổ chức, doanh nghiệp dưới các dạng như tiền gửi
có kỳ hạn, không kỳ hạn để rồi mang cho vay với lãi suất cao hơn. Để khoản
cho vay có mang lại hiệu quả kinh tế mong đợi thì ngân hàng phải đưa ra các
biện pháp quản trị tốt khoản tiền cho vay, đó chính là nội dung chính của
quản trị tín dụng. Nó bao gồm tất cả các vấn đề liên quan đến hoạt động tín
dụng tại ngân hàng:

1. Quản trị quá trình cho vay
2. Quản trị khách hàng
3. Quản trị khoản vay


24
4. Quản trị rủi ro
5. Quản trị nợ quá hạn
Cụ thể:
* Quản trị quá trình cho vay là tất cả các biện pháp được áp dụng trong quá
trình cho vay nhằm giúp cho khoản vay an toàn, hiệu quả và đạt được các
mục đích mà ngân hàng đưa ra. Những biện pháp có thể kể đến như thẩm định
khách hàng, tiến hành cho vay và kiểm tra sau cho vay
* Quản trị khách hàng bắt đầu từ việc sàng lọc khách hàng trước khi cho vay,
xây dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng, thường xuyên trao đổi các
thông tin với khách hàng và cùng nhau hợp tác trong quá trình phát triển cũng
như thời kỳ khó khăn.
* Quản trị khoản vay được xem xét dưới góc độ tuân thủ quy trình tín dụng
kết hợp với hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ, giám sát các khoản vay
* Quản trị rủi ro và quản trị nợ quá hạn là những biện pháp nhằm hạn chế các
rủi ro trong quá trình cho vay từ đó giảm thiểu nợ quá hạn hay không chế tỉ lệ
nợ quá hạn ở mức chấp nhận được. Rủi ro có thể đến từ nguyên nhân khách
quan như môi trường kinh tế, thiên tai, hoả hoạn hay đến từ yếu tố chủ quan
như không tuân thủ quy trình tín dụng, nhân viên không trung thực trong quá
trình cho vay hay bản thân sự non trình độ trong đội ngũ ban lãnh đạo ngân
hàng. Các nguyên nhân trên đều dẫn đến rủi ro trong qúa trình cho vay hậu
quả là nợ quá hạn, nợ xấu.
Nói tóm lại, quản trị được xem xét cụ thể ở từng vấn đề nêu trên sẽ
giúp cho ngân hàng hoạt động ngày càng an toàn và hiệu quả hơn.
1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản trị tín dụng của Ngân hàng thương

mại.
Có rất nhiều các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản trị tín dụng,
nhưng cơ bản thì có một số nhân tố sau:

×