ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
DIÊM ĐĂNG VIỆT
PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC GIANG
Chuyên ngành: Quản trị Kinh doanh
Mã số: 60 34 05
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN ĐỨC VUI
Hà nội - Năm 2009
1
BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CTCP
Công ty cổ phần
DN
Doanh nghiệp
DNVVN
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
DNTN
Doanh nghiệp tư nhân
HTX
Hợp tác xã
KTXH
Kinh tế xã hội
KH&ĐT
Kế hoạch và Đầu tư
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
TM&DV
Thương mại và dịch vụ
UBND
Ủy ban nhân dân
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Trang
1.
Tính cấp thiết của đề tài
1
2.
Tình hình nghiên cứu
3
3.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4
4.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4
5.
Phương pháp nghiên cứu
5
6.
Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
5
7.
Bố cục của luận văn
6
CHƢƠNG 1 - CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ
NHỎ Ở VIỆT NAM
7
1.1.
Khái quát chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ
7
1.1.1.
Khái niệm, cách tiếp cận và phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ
7
1.1.2.
Thế mạnh và hạn chế theo quy mô của doanh nghiệp vừa và nhỏ
11
1.2.
Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế Việt Nam
16
1.3.
Xu thế phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
20
1.4.
Các yếu tố ảnh hƣởng đến sự phát triển của doanh nghiệp vừa và
nhỏ
22
1.4.1.
Các yếu tố bên trong
22
1.4.2.
Các yếu tố bên ngoài
23
1.5.
Các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp vừa và nhỏ
24
1.6.
Những bài học kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
của một số nƣớc trên thế giới
25
1.6.1.
Kinh nghiệm của Mỹ
25
1.6.2.
Kinh nghiệm của Trung Quốc
27
1.6.3.
Kinh nghiệm của Hàn Quốc
28
3
1.6.4.
Kinh nghiệm của Thái Lan
30
1.6.5.
Kinh nghiệm của Nhật Bản
31
1.6.6.
Kinh nghiệm của Cộng hòa liên bang Đức
33
1.6.7.
Bài học cho Việt Nam
35
CHƢƠNG 2 - THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC GIANG
36
2.1.
Vài nét khái quát về điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế - xã
hội của tỉnh Bắc Giang
36
2.1.1.
Về điều kiện tự nhiên
36
2.1.2.
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Giang năm 2007-2008
37
2.2.
Thực trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang
41
2.2.1.
Khái quát các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Bắc Giang
41
2.2.1.1.
Tình hình phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ về mặt số lượng
41
2.2.1.2.
Giá trị sản xuất và cơ cấu giá trị sản xuất
43
2.2.1.3.
Lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ
43
2.2.1.4.
Quy mô vốn kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
45
2.2.1.5.
Đánh giá về doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Bắc Giang giai đoạn
2006 – 2008
48
2.2.2.
Những thuận lợi, khó khăn ảnh hưởng đến việc phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
55
2.2.2.1.
Công tác quản lý và chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
55
2.2.2.2.
Lựa chọn loại hình kinh doanh
57
2.2.2.3.
Chính sách đất đai và mặt bằng sản xuất
58
2.2.2.4.
Chính sách tài chính tín dụng
58
2.2.2.5.
Tiếp cận thông tin thị trường
60
2.2.2.6.
Cơ sở hạ tầng và môi trường kinh doanh
61
2.2.2.7.
Năng lực nội tại của doanh nghiệp vừa và nhỏ
61
4
CHƢƠNG 3 - PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC
GIANG
64
3.1.
Định hƣớng phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Giang đến năm
2015
64
3.1.1.
Quan điểm và mục tiêu phát triển
64
3.1.1.1.
Quan điểm phát triển
64
3.1.1.2.
Mục tiêu kinh tế chủ yếu
65
3.1.2.
Phương hướng phát triển
65
3.2.
Một số giải pháp chủ yếu phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đến năm 2015
68
3.2.1.
Phương hướng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh
68
3.2.1.1.
Quan điểm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
68
3.2.1.2.
Phương hướng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
69
3.2.2.
Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh
72
3.2.2.1.
Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách của tỉnh Bắc Giang
72
3.2.2.2.
Nhóm giải pháp từ phía doanh nghiệp
85
3.2.2.3.
Một số kiến nghị với Nhà nước
87
KẾT LUẬN
93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
95
PHỤ LỤC
99
5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển
kinh tế của các quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. DNVVN được
coi như chiếc đệm giảm sốc, tạo đà tăng tốc phát triển nền kinh tế và là chìa khóa
cho sự ổn định về kinh tế, tài chính trong tương lai. Việc phát triển DNVVN đã trở
thành chiến lược quan trọng để đạt được mục tiêu phát triển KTXH của nhiều quốc
gia trên thế giới.
Việt Nam là một nước đang phát triển, có mật độ dân số cao, lực lượng lao
động tăng nhanh, quy mô tích luỹ vốn nhỏ. Vì vậy, phát triển DNVVN ở nước ta là
một lựa chọn đúng đắn trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam được đánh giá là một nền
kinh tế chuyển đổi năng động và tăng trưởng tương đối bền vững trong khu vực.
Các DNVVN nắm giữ vai trò vô cùng quan trọng trong việc giải quyết lao động,
tăng thu nhập cho nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển những ngành
mới, đồng thời làm cho nền kinh tế năng động hơn trong quá trình cạnh tranh. Sự
phát triển của loại hình doanh nghiệp này đã và đang trở thành một bộ phận hợp
thành sức sống kinh tế sôi động, tạo ra động lực tăng trưởng cho đất nước.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, trước xu thế toàn cầu hoá và hội nhập
quốc tế, bên cạnh những cơ hội thuận lợi về thị trường, về ưu đãi thương mại, về
khả năng khai thác thông tin, tiếp thị , nhiều thách thức lớn cũng đang được đặt ra
cho các doanh nghiệp Việt Nam. Đặc biệt, khi đối mặt với tình hình kinh tế thế giới
suy giảm, kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn, DNVVN là đối tượng chịu tác
động rõ nhất. Đang có rất nhiều doanh nghiệp thuộc loại hình này phải hoạt động
cầm chừng, trong đó có không ít doanh nghiệp đang đứng trước nguy cơ phá sản.
Hơn lúc nào hết, cần có các giải pháp kịp thời để giúp DNVVN vượt qua những khó
khăn của giai đoạn hiện nay.
6
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước những năm qua, từ
định hướng chung của cấp Trung ương về phát triển các DNVVN, các địa phương
trên cả nước đã nghiêm túc thực hiện chủ trương này của Đảng và Nhà nước. Với
Bắc Giang, Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã kịp thời nắm bắt xu hướng tất yếu này và xác
định trong chiến lược phát triển KTXH của tỉnh giai đoạn 2006- 2020 một số nội
dung chính như sau: 1) Huy động các nguồn lực từ bên ngoài nhằm đẩy mạnh phát
triển công nghiệp, dịch vụ, chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là yếu tố có tính đột phá; 2) Ưu tiên thu hút doanh nghiệp
có quy mô lớn, công nghệ cao, đồng thời, khuyến khích phát triển các DNVVN và
coi đây là một trong những yếu tố quyết định. Đây là một chiến lược đã tính đến
toàn bộ những yếu tố hợp lý về vị thế, lợi thế cũng như xu thế khách quan trong quá
trình phát triển của tỉnh.
Tất nhiên, trước những vấn đề cấp bách về khủng hoảng kinh tế thế giới, về
quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam, các DNVVN trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
cũng không thể tránh khỏi những khó khăn chung. Cụ thể, các doanh nghiệp này
đang bộc lộ những hạn chế nội tại về: Tiềm lực tài chính, năng lực quản lý, sức
cạnh tranh, kinh nghiệm thương trường, khả năng thích nghi với sự thay đổi, tiếp
cận các nguồn lực đầu tư, thiếu cập nhật chế độ chính sách pháp luật.v.v. Bên cạnh
đó có cả những khó khăn, những rào cản từ môi trường kinh doanh bên ngoài như
hành lang pháp lý, chính sách hỗ trợ, cơ sở hạ tầng, chất lượng nguồn nhân lực cho
DNVVN. Sự phát triển của các DNVVN trên địa bàn chưa tương xứng với điều
kiện và tiềm năng hiện có của tỉnh, nhiều doanh nghiệp hoạt động không có lãi,
thậm trí thua lỗ, tạm ngừng hoạt động, phá sản.v.v. Điều này đặt ra cho các
DNVVN của tỉnh Bắc Giang cần phải cụ thể hoá hướng đi của mình để tồn tại và
phát triển bền vững, mở rộng trong tương lai.
Do vậy, trong xu thế phát triển chung của đất nước, việc nghiên cứu thực
trạng DNVVN trên địa bàn tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay, từ đó tìm ra
phương hướng, giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy phát triển DNVVN địa phương là
việc làm cấp thiết, có vai trò quan trọng không chỉ đối với các DNVVN trên địa bàn
7
tỉnh, mà còn có ý nghĩa lớn đối với việc xây dựng và phát triển kinh tế tỉnh Bắc
Giang nói riêng và kinh tế quốc gia nói chung.
Xuất phát từ những yêu cầu trên, chúng tôi chọn đề tài: "Phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Bắc Giang" làm chủ đề nghiên cứu của luận
văn Thạc sỹ kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Thuật ngữ DNVVN bắt đầu vào Việt Nam từ khi nước ta chuyển đổi từ nền
kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường. Với tầm quan trọng của DNVVN trong quá
trình phát triển đối với một quốc gia như Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên
cứu về đề tài DNVVN được thực hiện ở nước ta. Đề tài này không chỉ nhận được sự
quan tâm nghiên cứu của Chính phủ, các bộ ngành, các nhà khoa học mà còn nhận
được sự hỗ trợ tích cực của các tổ chức phi chính phủ trong việc giúp Việt Nam
hoạch định các chính sách phát triển kinh tế nói chung và đối với DNVVN nói
riêng. Những nghiên cứu đó dù ở góc độ nào nhưng cũng góp phần rất quan trọng
trong việc nhận thức đầy đủ và rõ ràng hơn về DNVVN. Nhiều vấn đề, khuyến
nghị, giải pháp đã được Chính phủ và chính quyền địa phương sử dụng làm cơ sở
cho việc ban hành khung pháp lý và hoạch định chính sách kinh tế quan trọng hỗ
trợ, khuyến khích phát triển loại hình doanh nghiệp này. Có thể nêu ra một số
nghiên cứu điển hình như:
- Báo cáo định hướng chiến lược và chính sách phát triển DNVVN ở Việt
Nam đến năm 2010 (của Bộ Kế hoạch và Đầu tư - MPI);
- Giải pháp phát triển DNVVN ở Việt Nam (của GS.TS Nguyễn Đình
Hương);
- Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN ở Việt Nam đến
năm 2005 (của PGS.TS Nguyễn Cúc);
- Một số định hướng phát triển DNVVN giai đoạn 2006-2010 (của Nguyễn
Ngọc Phúc);
- Phát triển DNVVN ở Việt Nam: Kinh nghiệm nước ngoài và phát triển
DNVVN ở Việt nam (của Vũ Quốc Tuấn, Hoàng Thu Hòa);
8
- DNVVN Việt Nam - Hiện trạng và những kiến nghị giải pháp (Viện
Friendrich Ebert, 2000);
Bên cạnh đó cũng có một số luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ nghiên cứu về
đề tài phát triển DNVVN tại Việt Nam hay tại một tỉnh, thành phố cụ thể. Tuy
nhiên, những kết quả nghiên cứu trên chưa thể coi là kết luận cuối cùng, đặc biệt
trong giai đoạn nền kinh tế nước ta đang trong quá trình hội nhập mạnh mẽ với kinh
tế thế giới.
Việc nghiên cứu đề tài Phát triển DNVVN trên địa bàn tỉnh Bắc Giang cần
được tiếp tục, nhằm bổ sung những cơ sở khoa học giúp UBND tỉnh và DNVVN
trên địa bàn tỉnh hoạch định các chiến lược, chính sách phát triển doanh nghiệp
trong tình hình mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích và nhiệm vụ chung
Luận văn tập trung đánh giá thực trạng phát triển các DNVVN, phân tích
những ưu điểm và hạn chế, tìm ra nguyên nhân ảnh hưởng đến việc phát triển các
DNVVN, đề xuất các giải pháp có cơ sở khoa học nhằm thúc đẩy sự phát triển các
DNVVN trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, góp phần phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh.
3.2. Mục đích và nhiệm vụ cụ thể
- Hệ thống hóa và vận dụng những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn về
DNVVN trong điều kiện Việt Nam.
- Khảo sát thực tế để đánh giá thực trạng phát triển các DNVVN trên địa bàn
tỉnh Bắc Giang.
- Đề xuất phương hướng và đưa ra những khuyến nghị bằng nhóm giải pháp
nhằm hoàn thiện các chính sách phù hợp với DNVVN của tỉnh, góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động và năng lực của DNVVN trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
9
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các giải pháp phát triển DNVVN trên
địa bàn tỉnh Bắc Giang, với chủ thể khảo sát chính là các DNVVN ngoài quốc doanh
trên địa bàn tỉnh hoạt động trong các lĩnh vực TM&DV, sản xuất và xây dựng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Trong luận văn này, tác giả có chủ đích tập trung vào các giải
pháp phát triển DNVVN trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
- Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu một số DNVVN ngoài quốc
doanh trên địa bàn huyện Hiệp Hòa, Yên Dũng và Thành phố Bắc Giang.
- Về thời gian: Các vấn đề trên được nghiên cứu có tính hệ thống trong thời
kỳ từ năm 2006 đến năm 2008, đề xuất phương hướng và đưa ra những khuyến nghị
bằng nhóm các giải pháp chủ yếu để phát triển các DNVVN trên địa bàn tỉnh đến
năm 2015.
- Mẫu khảo sát: Giới hạn phạm vi khảo sát thực trạng 30 DNVVN trên địa
bàn huyện Hiệp Hòa, Yên Dũng và Thành phố Bắc Giang thuộc các ngành nghề
kinh doanh TM&DV, sản xuất và xây lắp.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở tiếp cận những quan điểm lý luận cơ bản
của Đảng và Nhà nước về phát triển DNVVN trong thời kỳ đổi mới kinh tế, xây
dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa có sự quản lý của Nhà nước, đồng thời kết hợp những kiến thức kinh doanh
hiện đại về kinh tế thị trường và vận dụng một số phương pháp cụ thể như: nghiên
cứu tổng hợp các tài liệu lý luận khoa học, khảo sát, điều tra thực tế, so sánh với lý
luận khoa học, kết hợp với việc tư duy phân tích kinh tế; sử dụng phương pháp lập
luận diễn dịch để giải quyết vấn đề đặt ra.
6. Dự kiến những đóng góp mới của Luận văn
- Làm rõ thực trạng trong chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN của tỉnh và
thực chất hoạt động của các DNVVN trên địa bàn tỉnh Bắc Giang trong thời gian
qua, từ đó phát hiện ra những mâu thuẫn, hạn chế trong các chính sách phát triển
10
DNVVN của địa phương nói riêng và của Nhà nước nói chung, cũng như những
ngăn trở nội tại từ bên trong các DN.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu trong việc hoạch định và hoàn thiện các
chính sách phát triển DNVVN trên địa bàn tỉnh Bắc Giang từ nay đến năm 2015.
- Luận văn là nguồn cung cấp thông tin khoa học về phát triển DNVVN nói
chung và phát triển DNVVN trên địa bàn tỉnh Bắc Giang nói riêng cho các nhà hoạch
định chính sách, các doanh nhân của tỉnh Bắc Giang và những người quan tâm.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Chƣơng 2: Thực trạng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Bắc
Giang
Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
11
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM
1.1. Khái quát chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.1. Khái niệm, cách tiếp cận và phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trước hết với tư cách là một loại hình doanh nghiệp, để xác định khái niệm,
đặc điểm của DNVVN, cần phải có quan niệm thống nhất về doanh nghiệp nói
chung. Theo Luật DN Việt Nam năm 2005 thì "DN là tổ chức kinh tế có tên riêng,
có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của
pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh" [16-tr9]. Thực chất,
DN là đơn vị kinh tế cơ sở, là tế bào của nền kinh tế, là nơi kết hợp các yếu tố sản
xuất một cách hợp lý để tạo ra sản phẩm, dịch vụ một cách hiệu quả, tạo ra của cải
vật chất cho xã hội.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế kỹ thuật và sự ra đời của nền
kinh tế tri thức, có nhiều quan điểm khác nhau trong cách tiếp cận khái niệm DN.
- Theo quan điểm lý thuyết hệ thống: DN là một bộ phận hợp thành trong hệ
thống kinh tế, mỗi đơn vị trong hệ thống đó phải chịu sự tác động tương hỗ lẫn
nhau, phải tuân thủ những điều kiện hoạt động mà Nhà nước đặt ra cho hệ thống
kinh tế đó, nhằm phục vụ cho mục đích tiêu dùng của xã hội [1,37]. Quan điểm này
chỉ mới mô tả rất tổng quát, chưa nêu lên được chức năng, nhiệm vụ và vị trí cũng
như tính pháp lý của DN.
- Theo quan điểm của nhà tổ chức: DN là một tổng thể các phương tiện, máy
móc thiết bị và nhân lực được tổ chức lại nhằm thực hiện một mục đích [1,37].
Mục đích được đề cập ở đây là làm lợi vốn đầu tư và bảo đảm sự phát triển trong
tương lai. Quan điểm này chỉ mới đề cập các yếu tố đầu vào và mục đích cần đạt
được, chưa nêu lên được các chức năng, các mối quan hệ trong quá trình hoạt động
kinh doanh. Vì để đạt được mục đích làm lợi vốn đầu tư, DN cần phải có sự kết hợp
giữa các yếu tố đầu vào theo từng chức năng để đạt được hiệu quả như mong muốn.
Trong lịch sử phát triển, DNVVN ra đời sớm hơn DN lớn. Tiền thân của các
DNVVN là các hộ gia đình sản xuất riêng biệt, tự cung tự cấp. Khi sản xuất hàng
12
hóa phát triển, quá trình sản xuất của các hộ gia đình có sự thay đổi cả về tính chất
và phạm vi hoạt động. Đến thời kỳ tư bản chủ nghĩa, cạnh tranh gay gắt, sản xuất
phát triển, tích tụ và tập trung tư bản tăng lên, các DN lớn ra đời và phát triển cùng
với sự tồn tại và phát triển của các DNVVN.
DNVVN không chỉ là phạm trù phản ánh độ lớn của DN, mà còn là một
phạm trù bao hàm nội dung tổng hợp của nhiều yếu tố về kinh tế, về tổ chức và
quản lý sản xuất hay về tiến bộ khoa học công nghệ… Vì vậy, trong các nghiên cứu,
có nhiều quan điểm khác nhau về DNVVN, mỗi quan điểm có thể tiếp cận khái
niệm dưới những góc độ khác nhau, phù hợp với mục đích nghiên cứu của mình.
Các quan điểm đó không hoàn toàn giống nhau ở mỗi một quốc gia, mỗi ngành và
thay đổi trong quá trình phát triển của lịch sử. Sự khác nhau đó chủ yếu là do sự
khác nhau trong tiêu chí dùng để đánh giá qui mô DNVVN và việc lượng hóa từng
chỉ tiêu cụ thể đó. Tuy nhiên, không có tiêu chí thống nhất để phân loại DNVVN
cho tất cả các nước vì điều kiện KTXH của mỗi quốc gia không giống nhau. Tiêu
chí xác định DNNVV phụ thuộc vào định hướng chính sách, khả năng hỗ trợ của
Chính phủ ở từng thời kỳ, cũng như tùy thuộc vào chiến lược phát triển của Chính
phủ tập trung hỗ trợ ngành nào hoặc DN có quy mô nào trong một giai đoạn cụ thể.
Thông thường có hai tiêu chí phổ biến để phân loại DNVVN, tiêu chí định
tính và tiêu chí định lượng.
- Nhóm tiêu chí định tính: Nhóm tiêu chí này dựa trên những đặc trưng cơ
bản của các DNVVN như: trình độ chuyên môn hóa thấp, số đầu mối quản lý ít,
mức độ phức tạp của quản lý thấp, Nhóm chỉ tiêu này có ưu thế là phản ánh đúng
bản chất của vấn đề nhưng thường khó xác định trên thực tế. Do đó, nó thường chỉ
làm cơ sở để tham khảo, kiểm chứng mà ít được dùng để phân loại trong thực tế.
- Nhóm tiêu chí định lượng: Có thể sử dụng các tiêu chí như: số lao động, giá
trị tài sản hoặc vốn, doanh thu, lợi nhuận, của DN. Tài sản (vốn) có thể là tổng giá
trị tài sản hay tài sản cố định; số lao động có thể là lao động trung bình, lao động
thường xuyên, lao động thực tế,…của DN; doanh thu có thể là tổng doanh thu/năm,
tổng giá trị gia tăng/năm.
13
Về cơ bản, việc phân loại DNVVN chủ yếu dựa vào các tiêu chí số lượng lao
động, tổng giá trị tài sản (vốn) hoặc doanh thu.
Bảng 1.1 Tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ của một số nƣớc
Tên nƣớc
Phân loại
Số lao
động
Số vốn
Doanh thu
Mỹ
Tất cả các ngành
0-500
Không quan trọng
Không quan trọng
Nhật bản
Chế tác
1-300
300 triệu Yên
Bán buôn
1-100
0-100 triệu Yên
Bán lẻ
1-50
0-50 triệu Yên
Dịch vụ
0-100
0-50 triệu Yên
Không quan trọng
EU
DN cực nhỏ
<10
DN nhỏ
<50
7 triệu Êcu
DN vừa
<250
Không quan trọng
27 triệu Êcu
Hàn Quốc
Chế tác
0-300
20-80 tỷ Won
Không quan trọng
Kh. thác mỏ và VT
0-300
Không
Xây dựng
0-200
Không
TM và DV
0-20
Không
Đài Loan
Chế tác
0-200
80 triệu NT$
Không
Nông, lâm, ngư
và dịch vụ
0-50
Không
100 triệu
Thái Lan
Sản xuất
+ DN nhỏ
0-50 triệu Bath
Không
+ DN vừa
5-200 triệu Bath
Bán buôn
+ DN nhỏ
0-50 triệu Bath
+ DN vừa
50-100 triệu Bath
Bán lẻ
+ DN nhỏ
0-30 triệu Bath
+ DN vừa
30-60 triệu Bath
Malaysia
Chế tác
0-150
Không quan trọng
0-25 triệu RM
Mêxicô
DN cực nhỏ
0-15
DN nhỏ
16-100
Không quan trọng
Không quan trọng
DN vừa
101-250
Pêru
Các ngành
Không
Không quan trọng
<17 triệu USD
Philippin
DN nhỏ
10-99
1,5-15 triệu Pêxô
DN vừa
100-199
15-60 triệu Pêxô
Không quan trọng
Brunei
Tất cả các ngành
1-100
Không quan trọng
Không quan trọng
Nga
DN nhỏ
1-249
DN vừa
249-999
Không quan trọng
Không quan trọng
Trung Quốc
DN nhỏ
50-100
DN vừa
101-500
Không quan trọng
Không quan trọng
Uzbekistan
DN nhỏ
< 300
DN vừa
300-1000
Không quan trọng
Không quan trọng
(Nguồn: [2-tr23, 10 , 12, 28-tr9])
14
Sự đa dạng trong việc lựa chọn tiêu chí phân loại DNVVN của các quốc gia là
do sự chi phối của một số nhân tố chính, đó là:
- Trình độ phát triển kinh tế của một số nước: Trong mỗi giai đoạn khác
nhau, tiêu chí phân loại có thể thay đổi tuỳ thuộc điều kiện phát triển kinh tế của
giai đoạn đó. Thông thường, nếu trình độ phát triển kinh tế của một nước được nâng
lên thì xu hướng đối với tiêu chí về vốn, doanh thu sẽ càng được nâng cao; tiêu chí
về lao động lại có thể giảm đi vì tỷ lệ đầu tư vốn trên một lao động tăng lên do sự
phát triển của khoa học công nghệ, của quá trình sản xuất và tái đầu tư. Cơ sở của
vấn đề này là do qui mô trung bình của các DN ở những quốc gia này có sự biến đổi
theo hướng mở rộng hơn. Chẳng hạn ở Nhật Bản, DN được coi là vừa và nhỏ nếu
có dưới 300 lao động và vốn dưới 100 triệu Yên (ngành công nghiệp) hoặc lao động
dưới 100 người và vốn dưới 30 triệu Yên (ngành khác).
- Tính chất ngành nghề: Do đặc điểm của mỗi ngành khác nhau, nên qui mô
sử dụng lao động trong mỗi ngành cũng khác nhau. Có ngành sử dụng nhiều lao
động (như dệt, may, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ), có ngành sử dụng nhiều vốn,
ít lao động (như hóa chất, điện tử, viễn thông).
- Vùng lãnh thổ: Vì điều kiện và đặc điểm riêng của từng vùng lãnh thổ mà
trình độ phát triển của từng vùng khác nhau, dẫn đến qui mô trung bình của các DN
cũng khác nhau. Do đó việc phân loại DN dựa trên các tiêu chí cũng khác nhau về
lao động, vốn, doanh số bán ra, tổng tài sản.
- Mục đích phân loại: Mỗi nước tuỳ vào điều kiện và khả năng của mình mà
có những mục đích phân loại DNVVN. Chẳng hạn mục đích để hỗ trợ các DN yếu,
mới ra đời sẽ khác với mục đích giảm thuế cho các DN có công nghệ sạch, hiện đại
không gây ô nhiễm môi trường.
Việc đưa ra một khái niệm chuẩn xác về DNVVN có ý nghĩa rất quan trọng,
bởi đó là cơ sở để xác định cơ chế quản lý với những chính sách ưu tiên thích hợp
và xây dựng cơ cấu tổ chức, quản lý hiệu quả đối với hệ thống các DN này.
15
Ở nước ta, thuật ngữ DNVVN được sử dụng rộng rãi trong khoa học kinh tế
và quản lý từ khi thực hiện cải cách kinh tế, chuyển từ nền kinh tế tập trung sang
kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Trong cuốn sách “Giải pháp phát triển DNVVN ở Việt Nam”, GS,TS.
Nguyễn Đình Hương đã đưa ra một khái niệm DNVVN tương đối toàn diện:
"DNVVN là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân kinh doanh vì
mục đích lợi nhuận, có quy mô DN trong những giới hạn nhất định tính theo các
tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng thu được trong từng thời kỳ theo
quy định của từng quốc gia" [9-tr8].
Tuy nhiên, định nghĩa có tính pháp lý về DNVVN ở Việt Nam đang thực
hiện theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ: "DNVVN
là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành,
có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không
quá 300 người". Định nghĩa trên đã đưa ra được chỉ tiêu định lượng cũng như cơ sở
pháp lý của các DNVVN, nhưng chưa đề cập đến sự khác biệt có tính chất ngành
nghề giữa các DN.
Từ những phân tích trên có thể khái quát, việc xác định khái niệm cũng như
tiêu chí phân loại DNVVN ở các quốc gia phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan
và có cả yếu tố chủ quan trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi nước. Các nước
khác nhau sử dụng các tiêu chí khác nhau, thậm chí nếu có cùng một tiêu chí thì độ
lớn của các tiêu chí đó cũng không giống nhau. Song nhìn chung, các tiêu chí được
sử dụng phổ biến nhất ở nhiều nước là số lượng lao động thường xuyên và vốn làm
tiêu thức phân loại DNVVN.
1.1.2. Thế mạnh và hạn chế theo quy mô của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Qui mô nhỏ, đó là bản chất của DNVVN. Xuất phát từ đặc trưng này,
DNVVN có rất nhiều thế mạnh riêng mà những DN lớn không có, đó là:
- Dễ khởi sự: Hầu hết các DNVVN chỉ cần một lượng vốn ít, số lao động
không nhiều, diện tích mặt bằng nhỏ và các điều kiện làm việc đơn giản đã có thể
16
bắt đầu kinh doanh. Loại hình DN này gần như không đòi hỏi một lượng vốn đầu tư
lớn ngay trong giai đoạn đầu. Với tốc độ quay vòng vốn nhanh, các DNVVN có thể
huy động vốn từ nhiều nguồn không chính thức khác nhau như bạn bè, người thân
để nhanh chóng biến ý tưởng kinh doanh thành hiện thực.
- Tính linh hoạt cao: Vì hoạt động với quy mô nhỏ nên hầu hết các DNVVN
đều năng động và dễ thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của môi trường kinh
doanh. Trong một số trường hợp, các DNVVN còn năng động trong việc đón đầu
những biến động của thể chế, chính sách quản lý KTXH, hay các dao động đột biến
trên thị trường. Trên góc độ thương mại, nhờ tính năng này mà các DNVVN dễ
dàng tìm kiếm những thị trường ngách và gia nhập thị trường này khi thấy việc kinh
doanh có thể thu lợi hoặc rút khỏi thị trường này khi công việc kinh doanh trở lên
khó khăn và kém hiệu quả. Bên cạnh đó, các DNVVN còn rất linh hoạt trong việc
thay đổi dây chuyền mới, cải tiến, đổi mới công nghệ sản xuất phù hợp với qui mô
của mình từ những công nghệ cũ và lạc hậu. Điều này đặc biệt quan trọng đối với
các nền kinh tế đang chuyển đổi hoặc các nền kinh tế đang phát triển.
- Có lợi thế trong việc duy trì và phát huy các ngành nghề truyền thống: So
với các DN lớn, các DNVVN có lợi thế hơn trong việc khai thác, duy trì và phát
triển các ngành nghề truyền thống. Đó là khả năng khai thác và sử dụng có hiệu quả
những nguồn lực đầu vào như lao động, tài nguyên hay vốn tại chỗ. Bên cạnh đó
các DN nhỏ còn có nhiều lợi thế hơn các DN lớn trong việc nắm bắt kịp thời nhu
cầu và thị hiếu thường xuyên thay đổi của người tiêu dùng, qua đó tạo ra nhiều loại
hàng hóa dịch vụ mới đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Theo
khía cạnh này, các DNVVN có lợi thế trong việc định hướng và làm xuất hiện nhiều
nhu cầu mới từ phía người tiêu dùng. Nhờ sự phát triển của các DNVVN mà nhiều
loại sản phẩm và dịch vụ mới ra đời.
- Dễ phát huy bản chất hợp tác sản xuất: Mỗi DNVVN thường chỉ sản xuất
một vài chi tiết hay một vài công đoạn của quá trình sản xuất một sản phẩm hoàn
chỉnh. Mặt khác nguy cơ ra nhập thị trường của các DN tiềm ẩn luôn đe dọa, vì vậy
17
các DNVVN phải tiến hành hợp tác sản xuất để tránh bị đào thải. Chính sự hợp tác
trong sản xuất góp phần tạo nên tính chuyên môn hóa cho các DN, qua đó góp phần
nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ.
- Mối quan hệ gắn kết giữa chủ DN và người lao động: Qui mô lao động
trong DNVVN không lớn, người chủ DN thường tham gia trực tiếp vào quá trình
sản xuất kinh doanh, do đó quan hệ giữa chủ và người làm công khá gần gũi, gắn
bó, tạo điều kiện thực hiện những ý tưởng mới, kích thích tính năng động sáng tạo
và tinh thần trách nhiệm của người lao động. Hơn nữa, mối quan hệ gắn kết, thân
thiện, gần gũi đó rất phù hợp với truyền thống văn hóa của người Việt Nam.
Trong nền kinh tế toàn cầu cạnh tranh cao và thay đổi nhanh chóng như hiện
nay, những công ty có thể đổi mới, tùy biến sản phẩm và thích ứng nhanh với hoàn
cảnh luôn thay đổi sẽ có lợi thế. Các DNVVN với cơ chế quản lý ít thứ bậc hơn và
có lực lượng lao động ít liên kết thành công đoàn hơn dường như hội đủ tất cả mọi
yêu cầu đó. Hơn nữa, họ còn có thêm một lợi thế nữa do chi phí vận chuyển giảm đi
và sự nổi lên của Internet càng tạo điều kiện cho họ dễ dàng cạnh tranh trên quy mô
toàn cầu. Ngoài ra, với lợi thế trong việc khai thác các nguồn lực sẵn có ở địa
phương, đặc biệt là ngành sử dụng nhiều lao động, DNVVN có những tác động tích
cực trong việc tạo ra việc làm cũng như nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
dân cư tại địa phương; duy trì và bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống. Bên cạnh
đó, việc phát triển DNVVN còn có lợi ích như giảm khoảng cách giàu nghèo, giảm
sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn,… qua đó giúp cho Chính phủ giải quyết
tốt hơn những vấn đề xã hội khác.
Quy mô vừa và nhỏ tạo ra khá nhiều lợi thế cho các DN, nhưng mặt khác nó
cũng khiến cho các DN gặp không ít những khó khăn. Những khó khăn này xuất
phát từ phía DN và cả từ phía môi trường kinh doanh cho các DN.
- Về mặt chủ quan:
+ Hạn chế đầu tiên và lớn nhất là vấn đề vốn, thiếu vốn để sản xuất và mở
rộng sản xuất. Có rất nhiều nhân tố cản trở DNVVN tiếp cận các khoản vay chính
18
thức từ ngân hàng thương mại như các điều kiện vay vốn khắt khe, các thủ tục thế
chấp tài sản phức tạp khi vay vốn. Theo một khảo sát mới đây của Văn phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cho thấy, có rất ít DNVVN Việt Nam thành
công trong việc tiếp cận với với nguồn vốn chính thức. Tỷ suất nợ tổ chức tài chính
tín dụng/tổng tài sản của DNVVN rất khiêm tốn. Trung bình trong một DNVVN có
vay nợ tỷ lệ này là 229 triệu/1.710 triệu (tức là nợ chỉ chiếm 8% trong tổng tài sản)
và cũng chỉ có một nửa số DN được điều tra có vay ngân hàng, hầu hết là nợ ngắn
hạn [27,50]. Thông thường DNVVN huy động vốn từ các nguồn phi chính thức như
bạn bè, người thân. Một tỷ lệ không nhỏ các DNVVN thường xuyên huy động vốn
từ những cá nhân chuyên cho vay với lãi suất cao. Huy động vốn khó khăn, chi phí
huy động vốn cao không chỉ làm cho DNVVN rất dễ mất đi các cơ hội kinh doanh,
hạn chế khả năng mở rộng sản xuất và đầu tư mới, mà còn làm cho các sản phẩm
mất khả năng cạnh tranh về giá trên thị trường.
+ Trình độ quản lý của chủ DN và tay nghề của người lao động còn thấp.
Trình độ quản lý của các chủ DN nhiều khi chỉ dựa trên thói quen, kinh nghiệm nên
không tạo được sự đồng bộ cần thiết giữa các bộ phận trong DN. Rất nhiều chủ DN
chưa được đào tạo cơ bản, thiếu kiến thức về quản lý kinh doanh. Theo số liệu điều
tra của Tổng cục Thống kê, trình độ giám đốc DNVVN Việt Nam có tới 43,38%
không được đào tạo chính thức, không có trình độ chuyên môn về lĩnh vực kinh
doanh, số chủ DN có trình độ cao đẳng trở lên chỉ chiếm khoảng 35% [27-tr90]. Có
thể nói, trong DNVVN Việt Nam, chủ DN không quen làm việc theo kế hoạch,
thiếu chiến lược kinh doanh, khả năng thích ứng, nhanh nhạy với những thay đổi
của môi trường bên ngoài thấp. Đặc biệt phổ biến tại Việt Nam là khả năng phân
tích báo cáo tài chính của các chủ DN. Báo cáo tài chính của DNVVN Việt Nam
hiện nay chủ yếu còn nặng về mặt hình thức, chưa phải là một nhu cầu tự thân của
mỗi DN, do đó tác dụng của việc phân tích báo cáo tài chính để nhận biết đâu là
điểm yếu, khâu nào trong hoạt động của DN đang gây ảnh hưởng đến hiệu quả sử
dụng nguồn lực tài chính của DN còn rất hạn chế. Mặt khác, do nguồn lực tài chính
19
có hạn nên chủ các DNVVN không đủ khả năng cạnh tranh với các DN lớn trong
việc thuê lao động có tay nghề cao. Ngoài ra, người lao động trong các DNVVN
không thường xuyên được đào tạo hoặc đào tạo bằng nguồn kinh phí hạn hẹp nên
trình độ và kỹ năng chưa cao. Đây là hạn chế rất lớn đối với DNVVN Việt Nam.
+ DNVVN phần lớn là thiếu thông tin, đặc biệt là thông tin kinh doanh. Họ
thiếu thông tin về thị trường đầu vào như thị trường vốn, thị trường lao động, thị
trường nguyên vật liệu, thị trường thiết bị, dây chuyền công nghệ; thiếu thông tin về
môi trường kinh doanh như hệ thống luật pháp nói chung và các văn bản pháp luật
của Nhà nước liên quan đến hoạt động của các DNVVN; thiếu thông tin về thị
trường tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là thị trường xuất khẩu hàng hoá.
+ Về thị trường, khả năng tiếp cận thị trường của các DNVVN còn yếu, đặc
biệt là thị trường nước ngoài. Nguyên nhân chủ yếu là do những DN này mới hình
thành, khả năng tài chính hạn hẹp, đầu tư cho các hoạt động marketing còn thấp.
Mặt khác, do sản phẩm của các DNVVN sản xuất ra chưa đủ sức cạnh tranh với
hàng hoá của các DN lớn, nhất là hàng hoá nhập khẩu. Thêm vào đó, qui mô thị
trường của các DNVVN thường bó hẹp trong phạm vi địa phương nên việc mở rộng
ra các thị trường mới gặp nhiều khó khăn.
- Về mặt khách quan:
Bên cạnh một số hạn chế xuất phát từ bản thân các DN như đã đề cập ở trên,
DNVVN còn gặp phải một số khó khăn từ phía môi trường bên ngoài như: hành
lang pháp lý và các chính sách trợ giúp phát triển đối với DNVVN còn chưa hoàn
thiện và chậm triển khai; hệ thống giáo dục, đào tạo nghề chưa theo sát với cơ cấu
phát triển kinh tế chung của đất nước và nhu cầu đòi hỏi của DN; thực tế việc đối
xử chưa thực sự bình đẳng giữa DNVVN với tập đoàn lớn, công ty nhà nước; việc
kinh doanh thiếu ổn định, chụp giựt, chốn thuế của phần đông các DNVVN đã làm
giảm sự ghi nhận của xã hội đối với những đóng góp tích cực của các DNVVN làm
ăn chân chính.
20
1.2. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế Việt Nam
Sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, với việc chuyển sang nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện nhất quán chính sách kinh tế
nhiều thành phần, các DNVVN ở Việt Nam đã có bước phát triển rõ rệt về mặt số
lượng và chất lượng. Chiếm trên 96% số DN đăng ký hoạt động, các DNVVN đóng
vai trò quan trọng trong việc giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát huy nội lực
vào phát triển KTXH, góp phần tăng thu nhập cho nền kinh tế; tham gia giải quyết
có hiệu quả các vấn đề xã hội như tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo; làm cho nền
kinh tế linh hoạt, dễ thích ứng với những biến động và giữ vai trò ổn định khi nền
kinh tế suy thoái. Những đóng góp cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước được
biểu hiện cụ thể như sau:
- Góp phần làm tăng GDP. Sự phát triển ngày càng nhanh của các DNVVN
đã làm tăng tỷ trọng của khu vực này trong GDP. Theo số liệu thống kê, trong
những năm qua DNVVN đã đóng góp từ 25-28% tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
của cả nước và trên 27 % vốn đầu tư phát triển toàn xã hội [10,50]. Tốc độ tăng
trưởng nhanh của khu vực này góp phần làm cho tốc độ tăng trưởng nền kinh tế
nâng lên rõ rệt, do tốc độ tăng của các DNVVN thường cao hơn tốc độ tăng trưởng
trung bình của nền kinh tế.
- Góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Việc phát triển DNVVN sẽ dẫn
đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo tất cả các khía cạnh vùng kinh tế, ngành
kinh tế và thành phần kinh tế. Trước tiên, đó là sự thay đổi cơ cấu kinh tế vùng nhờ
sự phát triển của các khu vực nông thôn thông qua phát triển ngành công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Các DNVVN được phân bổ đều hơn ở
các vùng nông thôn, đô thị, miền núi, đồng bằng. Sự phát triển mạnh của các
DNVVN còn có tác dụng làm cho cơ cấu thành phần kinh tế thay đổi nhờ sự tăng
mạnh của các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh và việc sắp xếp lại các DN nhà nước.
Sự phát triển các DNVVN cũng kéo theo sự thay đổi của cơ cấu ngành kinh tế
thông qua sự đa dạng hóa các ngành nghề và lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo.
Việc phát triển DNVVN còn có tác dụng duy trì, thúc đẩy phát triển các ngành nghề
21
truyền thống, sản xuất ra các sản phẩm mang bản sắc văn hóa dân tộc, khai thác thế
mạnh của đất nước.
- Nền kinh tế phát triển ổn định và hiệu quả hơn. Trong quá trình kinh doanh,
nhiều DNVVN có thể liên kết, hợp tác với các DN lớn kinh doanh một cách hiệu
quả hơn như làm đại lý và vệ tinh cho các DN lớn, cung cấp các bán thành phẩm
hay nguyên liệu đầu vào cho DN lớn hoặc thâm nhập vào mọi ngõ ngách thị trường
mà DN lớn khó có thể với tới để phân phối các sản phẩm của DN lớn. Bên cạnh đó
khi số lượng DNVVN tăng lên sẽ kéo theo sự gia tăng nhanh chóng số lượng các
sản phẩm và dịch vụ mới. Nhờ hoạt động với quy mô nhỏ và vừa, các DNVVN có
ưu thế là chuyển hướng kinh doanh nhanh từ những ngành nghề kém hiệu quả sang
các ngành nghề hiệu quả hơn. Chính sự phát triển đó của các DNVVN đã làm tăng
tính cạnh tranh, tính linh hoạt và làm giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế.
- Thu hút vốn trong khu vực dân cư. Vốn đầu tư là một yếu tố cơ bản của quá
trình sản xuất, nó khai thác và phối hợp các yếu tố sản xuất khác như lao động, đất
đai, công nghệ và quản lý để tạo ra lợi nhuận cho các chủ DN. Tuy nhiên, một
nghịch lý là hiện nay là trong khi có nhiều DN đang thiếu vốn trầm trọng thì vốn
“nhàn rỗi” trong dân cư còn nhiều nhưng không huy động được. Khi chính sách tín
dụng của Chính phủ và các ngân hàng chưa thực sự hấp dẫn đối với những người có
vốn “nhàn rỗi” trong các tầng lớp dân cư thì nhiều DNVVN đã tiếp cận đến nguồn
vốn này qua kênh thị trường tín dụng phi chính thức với lãi suất thường cao hơn lãi
suất ngân hàng. Một số khác huy động vốn tự thân và qua gia đình, bạn bè, người
thân hoặc tiến hành thành lập DN cổ phần dưới sự đóng góp của các nhà đầu tư có
tiềm lực. Ở khía cạnh này, DNVN có vai trò to lớn trong việc huy động vốn để phát
triển kinh tế.
- Tăng tốc độ áp dụng công nghệ mới trong sản xuất. Mặc dù có những hạn
chế về vốn, song các DNVVN thường là những đơn vị tiên phong trong việc đổi
mới công nghệ và áp dụng những sáng kiến cải tiến kỹ thuật. Các DNVVN luôn
phải cạnh tranh với nhau và với các DN lớn, vì vậy, để tồn tại, họ luôn phải duy trì
sự khác biệt về các sản phẩm của mình. Hơn nữa, các DNVVN không thể cạnh
22
tranh với các DN lớn về giá do bất lợi về qui mô, nên việc tạo ra sự khác biệt cho
sản phẩm của mình là tất yếu để tồn tại. Muốn có sự khác biệt về sản phẩm thì
những cải tiến và phát triển công nghệ mới mang tính đặc trưng riêng luôn là một
đòi hỏi chính đáng và bức thiết.
- Tạo cơ sở hình thành các DN lớn. Kinh nghiệm phát triển kinh tế ở nhiều
nước cho thấy, hiện nay phần lớn các công ty và các tập đoàn kinh tế đa quốc gia
đều trưởng thành từ các DNVVN. DNVVN chính là nguồn tích lũy ban đầu cho sự
ra đời vững chắc của các DN lớn. Hầu hết các cơ sở dân doanh ở Việt Nam khi mới
ra đời do thiếu kinh nghiệm và chưa thật hiểu biết về thị trường nên họ thường lựa
chọn quy mô vừa và nhỏ để bắt đầu sự nghiệp kinh doanh. Sau một thời gian tích
lũy thêm vốn, kinh nghiệm và khẳng định được vị thế của mình trên thị trường, họ
mới tiến hành mở rộng kinh doanh và phát triển với quy mô lớn hơn.
Bên cạnh những đóng góp tích cực về mặt kinh tế, các DNVVN cũng có
những đóng góp đáng kể về mặt xã hội:
- Tạo công ăn việc làm, giảm sức ép thất nghiệp. Với tính chất sản xuất nhỏ,
chi phí để tạo ra một chỗ làm việc thấp (chỉ bằng 3% trong các DN lớn), các
DNVVN Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo ra và tăng thêm
việc làm cho nền kinh tế, góp phần giảm tỉ lệ thất nghiệp và ổn định xã hội. Việt
Nam có tốc độ tăng dân số khoảng 1,21% (năm 2007), hàng năm cả nước có hơn
một triệu người đến tuổi lao động có nhu cầu việc làm, đó là chưa kể số người thất
nghiệp và bán thất nghiệp do cơ cấu lại nền kinh tế, sắp xếp lại các DN nhà nước.
Việc giải quyết việc làm cho lực lượng lao động này là rất cần thiết, có tác dụng ổn
định mặt kinh tế, chính trị và xã hội. Hiện nay, tỷ lệ lao động trong khu vực DNVVN
chiếm khoảng 26% trong tổng số lao động cả nước. Như vậy khu vực DNVVN đóng
góp rất lớn trong việc tạo công ăn việc làm cho một bộ phận lao động đáng kể. Ở một
số quốc gia tiên tiến khác, lực lượng lao động trong khu vực này chiếm tỷ trọng còn
cao hơn do lao động trong khu vực nông nghiệp chiếm tỷ trọng thấp như ở Nhật Bản
(55,2%), Hồng Kông (59,3%), Malaixia (47,8%) [9],… Tại Việt Nam, tiềm năng này
23
còn rất lớn và sẽ góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc làm cho người lao
động trong những năm tới.
- Nâng cao thu nhập của dân cư, góp phần ổn định xã hội. Việt Nam là một
nước nông nghiệp, năng suất của nền sản xuất xã hội cũng như thu nhập của dân cư
thấp. Việc phát triển các DNVVN ở thành thị cũng như ở nông thôn là một trong
các biện pháp cơ bản góp phần tăng nhanh thu nhập của các tầng lớp dân cư. Thông
qua việc phát triển các DNVVN, lao động ở nông thôn sẽ được thu hút vào các DN,
đặc biệt đối với các ngành sản xuất sản phẩm truyền thống, với đặc tính sản xuất thủ
công sẽ góp phần tích cực giải quyết vấn đề việc làm của người nông dân trong thời
gian nông nhàn theo mùa vụ, nhờ đó mà thu nhập của dân cư được đa dạng hóa và
nâng cao.
Việc tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động của các DNVVN cũng
sẽ thu hút một lượng lớn thanh niên mới tham gia lực lượng lao động, tránh tình
trạng thất nghiệp, góp phần ổn định trật tự xã hội, làm giảm các tệ nạn xã hội do
những người thất nghiệp gây ra.
Mặt khác, DNVVN còn giữ vài trò ổn định xã hội khi nền kinh tế suy thoái,
trong khi các DN lớn chịu ảnh hưởng của khủng hoảng và phải cắt giảm lao động để
giảm chi phí thì các DNVVN với sự linh hoạt và năng động của mình vốn tồn tại và
thậm chí còn thu hút thêm lao động cho xã hội.
- Tạo điều kiện phát triển các tài năng kinh doanh. Sự phát triển của các
DNVVN có tác dụng đào tạo, chọn lọc và thử thách đội ngũ doanh nhân. Sự ra đời
của các DNVVN làm xuất hiện nhiều tài năng trong kinh doanh, họ là các doanh
nhân thành đạt biết cách làm giàu cho bản thân và cho xã hội. Bằng việc tôn vinh
các doanh nhân giỏi, phương pháp và kinh nghiệm quản lý của họ sẽ được nhanh
chóng nhân ra và lan tỏa tới nhiều cá nhân trong xã hội nhờ sức mạnh công nghệ
thông tin ngày nay.
Tóm lại, các DNVVN ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn trong tổng thể
nền kinh tế, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển với tốc độ nhanh như Việt
Nam. Bởi vậy, đối với Việt Nam, phát triển DNVVN là một giải pháp quan trọng để
24
thực hiện chiến lược phát triển KTXH đến năm 2010 và 2020, đặc biệt là thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Đây cũng là một trong các
giải pháp bảo đảm sự phát triển bền vững của nền kinh tế nước ta.
1.3. Xu thế phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Thời gian qua, DNVVN là động lực phát triển cho nền kinh tế đất nước. Từ
năm 2001 đến 6/2008 đã có 285.900 DN, chủ yếu là các DNNVV đăng ký mới với
số vốn đăng ký 1.233.000 tỷ đồng, đưa tổng số các DN trong cả nước lên 349.300
DN với tổng số vốn đăng ký trên 1.389.000 tỷ đồng. Năm 2008 ước tính cứ 243
người có 1 DN đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, nếu so với mục tiêu phát triển
KTXH và mục tiêu mà các nền kinh tế APEC phấn đấu đạt 1 DN trên 20 người dân
và so với các quốc gia khác trong khu vực, tỷ lệ này vẫn còn rất thấp [47].
Sự phát triển của các DNVVN trong những năm qua có một số đặc điểm sau:
- Số lượng DN ngoài quốc doanh, mà phần lớn trong số đó là DNVVN tăng
lên nhanh chóng, trong khi khu vực kinh tế tập thể và DN nhà nước đang được sắp
xếp lại theo xu hướng giảm về số lượng. Loại hình doanh nghiệp tư nhân có tốc độ
tăng nhanh nhất so với các loại hình khác (trừ nhóm hộ kinh doanh cá thể). Theo
thống kê, chỉ có khoảng gần 6% tổng số DN ngoài quốc doanh thành lập trước năm
1990, còn lại là ra đời trong giai đoạn từ năm 1991 đến nay [43-tr36].
- Khu vực DNVVN ngoài quốc doanh trong những năm qua có tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân khoảng 8,4%/năm 2006 - 9,3%/năm 2007, cao hơn mức
trung bình của cả nước (năm 2006: 8,23; năm 2007: 8,48) [41]. Điều đó phản ánh
tiềm năng của khu vực DNVVN đang được huy động và phát huy.
- Thực tế cho thấy, trong những năm qua các nhà đầu tư chủ yếu tập trung
đầu tư vào các ngành ít vốn, thu hồi vốn nhanh như thương mại, dịch vụ nhà hàng,
du lịch. Chỉ có khoảng hơn 30% vốn đầu tư được dành cho các ngành công nghiệp
chế biến lương thực, thực phẩm và sản xuất hàng tiêu dùng. Tuy nhiên, trong những
năm gần đây đã có sự chuyển dịch đầu tư vào lĩnh vực xây dựng cơ bản và công
nghiệp chế biến. Các DNVVN hoạt động trong lĩnh vực xây dựng và công nghiệp