ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
o0o
Họ và tên tác giả: Đỗ Thị Hạnh
ĐỀ TÀI: PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ
Chuyên ngành: Kinh tế thế giới và Quan hệ kinh tế quốc tế
Mã số: 60 31 07
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN HỒNG SƠN
Hà Nội - 2009
117
Mục lục
trang
Mở đầu 1
Danh mục các chữ viết tắt 6
Danh mục các bảng biểu 7
ch-ơng 1: Một số vấn đề lý luận và kinh nghiệm của một
số n-ớc về phát triển bền vững thị tr-ờng chứng khoán
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế 8
1.1.Một số vấn đề lý luận về thị tr-ờng chứng khoán và phát triển bền vững
thị tr-ờng chứng khoán trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 8
1.1.1.Thị tr-ờng chứng khoán và vai trò của nó đối với nền kinh tế 8
1.1.2.Phân loại thị tr-ờng chứng khoán 12
1.1.3.Các thành viên trên TTCK 15
1.1.3.1.Chủ thể phát hành. 16
1.1.3.2.Nhà đầu t- 17
1.1.3.3.Các tổ chức hỗ trợ thị tr-ờng 19
1.1.3.4.Tổ chức quản lý và giám sát TTCK 19
1.1.4.Cơ cấu tổ chức và quản lý TTCK 20
1.1.5.Vai trò thị tr-ờng chứng khoán đối với nền kinh tế. 21
1.2.Một số vấn đề về phát triển bền vững thị tr-ờng chứng khoán. 23
1.2.1Khái niệm phát triển bền vững 23
1.2.2.Các chỉ số phát triển của thị tr-ờng 24
1.2.2.1.Chỉ số giá cổ phiếu (Index) 24
1.2.2.2.Chỉ số P/E (Hệ số giá trên thu nhập) 25
1.2.2.3.Chỉ số EPS 26
1.2.2. 4.Chỉ số ROE 26
1.2.3.Các điều kiện để thị tr-ờng phát triển bền vững 27
1.2.3.1.Nhân tố về phát triển kinh tế: 27
1.2.3.2.Nhân tố về chính sách pháp luật: 28
1.2.3.3.Nhân tố về cơ sở hạ tầng 29
1.2.3.4.Nhân tố về nguồn nhân lực 30
1.2.4. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế tới thị tr-ờng chứng khoán 31
1.3.Kinh nghiệm của một số n-ớc về phát triển bền vững thị tr-ờng chứng
khoán trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế 33
1.3.1. TTCK Trung Quốc 33
1.3.2. TTCK Thái Lan 36
1.3.3. TTCK Singapore 39
1.3.4. Tổng kết các bài học kinh nghiệm. 41
118
ch-ơng 2:Thực trạng phát triển của thị tr-ờng chứng
khoán Việt Nam từ năm 2000 đến nay 44
2.1. Sơ l-ợc về quá trình hình thành TTCK ở Việt Nam 44
2.2. Những đặc điểm cơ bản của thị tr-ờng chứng khoán Việt Nam 45
2.2.1 Khung khổ pháp lý và điều tiết TTCK 45
2.2.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà n-ớc về phát triển TTCK 45
2.2.1.2.Luật chứng khoán và các quy định điều tiết thị tr-ờng 46
2.2.2.Cơ cấu tổ chức quản lý và giám sát hoạt động của TTCK Việt Nam 49
2.2.3 Hoạt động của TTCK Việt Nam từ năm 2000 đến nay 54
2.2.3.1Diễn biến giao dịch trên TTCK Việt Nam từ năm 2000-nay 54
2.2.3.2. Quy mô thị tr-ờng niêm yết trên TTCK Việt nam từ năm 2000 đến
nay 67
2.2.3.3. Thành viên trên TTCK 70
2.2.3.4. Cơ sở vật chất của thị tr-ờng 79
2.3. Đánh giá chung về sự phát triển của thị tr-ờng chứng khoán Việt Nam
từ năm 2000-nay và nguyên nhân. 81
2.3.1.Đánh giá chung về sự phát triển của TTCK 81
2.3.1.1.Về diễn biến của VnIndex và các chỉ số khác. 82
2.3.1.2.Về quy mô thị tr-ờng 83
2.3.1.3.Về các thành viên trên TTCK 83
2.3.1.4 Về cơ sở hạ tầng vật chất của thị tr-ờng 85
2.3.1.5.Về khung khổ pháp lý và các quy định điều tiết 85
2.3.1.6.Về cơ cấu tổ chức quản lý và giám sát thị tr-ờng 86
2.3.2. Nguyên nhân 87
2.3.2.1.Nguyên nhân bên trong 87
2.3.2.2.Nguyên nhân bên ngoài 90
ch-ơng 3:Một số gợi ý về giải pháp nhằm phát triển bền
vững thị tr-ơng chứng khoán Việt Nam trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế 92
3.1. Những cam kết quốc tế của Việt Nam có liên quan đến phát triển thị
tr-ờng chứng khoán 92
3.1.1. Cam kết dịch vụ chứng khoán trong khuôn khổ Việt Nam - ASEAN . 92
3.1.2.Cam kết dịch vụ chứng khoán trong khuôn khổ Hiệp định Th-ơng
mại song ph-ơng Việt - Mỹ (BTA, có hiệu lực từ năm 2002). 93
3.1.3.Cam kết dịch vụ chứng khoán khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Th-ơng
mại thế giới (WTO) 94
3.2. Những cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế đối với sự phát
triển bền vững thị tr-ờng chứng khoán Việt Nam 96
3.2.1. Những cơ hội 96
3.3.2. Thách thức của thị tr-ờng chứng khoán Việt Nam trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế 98
3.3. Một số gợi ý về giải pháp nhằm phát triển bền vững thị tr-ờng chứng
khoán Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 99
3.3.1. Triển vọng phát triển của thị tr-ờng chứng khoán Việt Nam đến năm
2020 99
119
3.3.2. Một số gợi ý về giải pháp phát triển bền vững thị tr-ờng chứng khoán
Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 104
Kết luận 111
TàI LIệU THAM KHảo 112
1
MỞ ĐẦU
1.Sự cần thiết của đề tài:
Thị trường chứng khoán là một định chế tài chính đặc trưng của cơ chế kinh tế
thị trường. Thị trường chứng khoán có vai trò quan trọng trong việc huy động vốn
trung và dài hạn để đầu tư vào sản xuất kinh doanh và các nhu cầu chi tiêu của
Chính phủ. Tuy nhiên, TTCK luôn chứa đựng những nguy cơ tiềm ẩn của việc thao
túng thị trường, lừa đảo và lũng đoạn của những kẻ đầu cơ bất chính. Những đặc
trưng linh hoạt trong việc chu chuyển các dòng vốn nếu không có sự quản lý phù
hợp, nhạy bén theo diễn biến của thị trường thì có thể dẫn đến việc rút vốn ồ ạt ra
khỏi thị trường của các nhà đầu tư trong và ngoài nước với hậu quả là khủng hoảng
tài chính và kinh tế của đất nước. Đặc biệt trong quá trình toàn cầu hoá và hội nhập
kinh tế ngày càng sâu rộng, TTCK của một quốc gia thường có quan hệ chặt chẽ và
chịu sự tác động dây truyền của tình hình hoạt động của các TTCK trên thế giới
cũng như các nước trong khu vực.
TTCK Việt Nam đã và đi vào hoạt động được gần 9 năm. Qua gần 9 năm đó thị
trường đã đạt được những thành tựu và khẳng định bước phát triển hết sức quan
trọng và cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế cũng như với chính sách
đổi mới của Đảng và Chính phủ. Quy mô thị trường có bước tăng trưởng mạnh, cho
đến cuối năm 2007, tổng mức vốn hoá thị trường đạt khoảng 300 ngàn tỷ đồng
chiếm 31% GDP, tăng 25 lần so với cuối năm 2005. Tuy nhiên, bên cạnh những
mặt được, TTCK Việt Nam vẫn còn bộc lộ những hạn chế đó là: Thị trường còn có
nhiều biến động do cung cầu mất cân đối, có lúc thiếu cung, có lúc thiếu cầu. Tâm
lý đầu tư cũng như tính ổn định trong cơ cấu các nhà đầu tư còn hạn chế, nhà đầu tư
có tổ chức chiếm tỷ trọng thấp. Hệ thống công nghệ thông tin bộc lộ sự bất cập
trước sự phát triển nhanh chóng của thị trường, khả năng giám sát thị trường, xử lý
vi phạm của cơ quan quản lý thị trường còn có nhiều hạn chế, chưa theo kịp diễn
biến thị trường và yêu cầu quản lý của nhà nước.
Việt Nam gia nhập WTO đặt ra cơ hội và thách thức lớn cho nhiều ngành, trong
đó có thị trường chứng khoán. Những thách thức có thể kể đến là gia tăng cạnh
tranh và khả năng mất thị phần. Nguy cơ thao túng thị trường do nhà đầu tư nước
2
ngoài, tạo thách thức cho hoạt động giám sát thị trường và thị trường dễ bị ảnh
hưởng bởi biến động hoặc khủng hoảng tài chính của thị trường thế giới. Đặc biệt,
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á những năm cuối thập kỷ 90 của thế kỷ
20 và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đang diễn ra đang có những tác động
tiêu cực đối với thị trường tài chính ở các quốc gia nói chung và TTCK nói riêng.
Xuất phát từ những lý do trên, việc phân tích đánh giá thực trạng TTCK của
Việt Nam trong những năm qua làm cơ sở đề xuất một số gợi ý về giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động, phát triển bền vững thị trường chứng khoán của Việt
Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là cần thiết và có ý nghĩa trên cả
phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn.
2.Tình hình nghiên cứu:
Những nghiên cứu về chứng khoán và TTCK đã được thực hiện khá nhiều ở
Việt Nam trong đó có thể kể đến:
Đề tài cấp Bộ, 2003 (Bộ Tài chính) “Nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thị
trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay: Nguyên nhân và giải pháp khắc phục”
của Ths. Phạm Phan Dũng đã phân tích được một số nhân tố cơ bản tác động đến sự
phát triển của TTCK Việt Nam: hàng hoá thiếu và kém chất lượng, nhà đầu tư nhỏ
và thiếu hiểu biết…Trên cơ sở đó, đề tài đã đề xuất hệ thống giải pháp để giải quyết
những vấn đề đang đặt ra lúc đó. Tuy nhiên, đề tài chưa phân tích các nhân tố ảnh
hưởng đến sự phát triển bền vững của TTCK Việt Nam trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế.
Đề tài cấp Ngành “Hàng hoá cho thị trường chứng khoán Việt Nam - Thực trạng
và một số giải pháp phát triển” của TS. Vũ Thị Kim Liên (2006). Đề tài đã đánh giá
về thực trạng công tác cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và tạo hàng hoá cho sự
phát triển TTCK Việt Nam. Đề tài cũng đã đưa ra một số giải pháp quan trọng để
thúc đẩy TTCK Việt Nam phát triển trong thời gian tới, nhưng đề tài cũng chưa đi
sâu phân tích sự phát triển bền vững TTCK Việt Nam: Các tiêu chí phát triển bền
vững, các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững, phát triển bền vững TTCK
Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế…
3
Ngoài ra, nhóm tác giả của Ban phát triển thị trường - Uỷ ban chứng khoán nhà
nước cũng đã có nghiên cứu “Giải pháp phát triển bền vững TTCK Việt Nam”. Tạp
chí chứng khoán Việt Nam số 7 năm 2007. Nghiên cứu đã phân tích những thành
tựu đạt được và những khó khăn tồn tại của TTCK Việt Nam sau 7 năm hoạt động,
đồng thời nghiên cứu đã chỉ ra những nhiệm vụ cần thực hiện để hướng tới mục tiêu
phát triển TTCK đảm bảo sự lành mạnh và bền vững. Dừng lại ở một bài nghiên
cứư trên tạp chí chứng khoán Việt Nam nên bài viết chưa phân tích sâu các yếu tố
giúp phát triển TTCK Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Một bài viết của tác giải Nguyễn Đoan Hùng trên tạp chí chứng khoán Việt Nam
số 11 năm 2007 “Thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời kỳ hội nhập” bài
viết đã chỉ ra những hoạt động hội nhập cụ thể trên TTCK và những cơ hội, thách
thức của TTCK Việt Nam nhưng bài viết trên cũng không phân tích yếu tố phát
triển bền vững TTCK Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhìn chung, vì mục đích nghiên cứu là khác nhau nên các đề tài và các nghiên
cứu về thị trường chứng khoán trong thời gian qua không tập trung xem xét đến giải
pháp phát triển bền vững thị trường chứng khoán Việt Nam trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế với tư cách là đối tượng nghiên cứu trực tiếp. Hơn nữa, phần
lớn các đề tài trên được nghiên cứu trước khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO) nên thường không gắn với điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế.
Đề tài “Phát triển bền vững thị trường chứng khoán Việt Nam trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế” sẽ cố gắng phần nào lấp những chỗ trống kể trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích của đề tài là: Trên cơ sở phân tích một số vấn đề lý luận và kinh
nghiệm quốc tế về phát triển bền vững thị trường chứng khoán, thực trạng phát triển
thị trường chứng khoán Việt Nam, đề xuất một số giải pháp phát triển bền vững thị
trường chứng khoán Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Để hoàn
thành mục đích nghiên cứu đó luận văn có nhiệm vụ:
- Khái quát hoá một số vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn về phát triển bền vững
thị trường chứng khoán.
4
- Phân tích thực trạng và đánh giá sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt
Nam trong giai đoạn 2000-2008. Trong đó chỉ ra một số nguyên nhân khiến thị
trường chứng khoán Việt Nam phát triển thiếu tính bền vững.
- Đề xuất một số giải pháp phát triển bền vững thị trường chứng khoán Việt
Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
4.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu sự phát triển bền vững của thị trường
chứng khoán Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phạm vi nghiên cứu:
Về mặt thời gian: Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển thị trường
Chứng khoán Việt nam trong giai đoạn (2000- 2008) và đưa ra định hướng phát
triển bền vững thị trường chứng khoán Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế ở các năm tiếp theo. Đề tài lựa chọn ba nước Trung Quốc, Thái Lan và
Singapore để nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, bởi vì các nước này ở gần Việt Nam,
có một số điều kiện phát triển tương đồng với Việt Nam.
Về mặt nội dung: Trình bày những vấn đề cơ bản về phát triển bền vững thị
trường chứng khoán; phân tích thực trạng hoạt động của thị trường chứng khoán
Việt nam, những kết quả đạt được và những mặt còn hạn chế, đồng thời đi sâu phân
tích những yếu tố tác động thúc đẩy sự phát triển bền vững của thị trường chứng
khoán Việt Nam và đề xuất một số giải pháp góp phần thúc đẩy phát triển bền vững
TTCK Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế vào những năm tiếp theo.
5.Phƣơng pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở vận dụng phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác-Lênin, đề tài sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh,
diễn giải, quy nạp, và xây dựng đồ thị để nghiên cứu.
6.Dự kiến những đóng góp mới của luận văn:
- Khái quát hoá những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn về phát triển bền vững
TTCK
- Phân tích thực trạng và đánh giá TTCK Việt Nam trong giai đoạn (2000-2008),
trong đó nhấn mạnh đến những kết quả đã đạt được và những mặt còn hạn chế.
5
- Đề xuất một số giải pháp phát triển bền vững TTCK Việt Nam trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế.
Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được kết cấu làm 3 chương
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn chủ yếu về phát triển bền vững TTCK
Chương 2: Phân tích thực trạng và đánh giá sự phát triển của TTCK Việt Nam giai
đoạn 2000-2008.
Chương 3: Giải pháp phát triển bền vững TTCK Việt Nam trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế.
6
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. TTCK: Thị trường Chứng khoán
2. UBCKNN: Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước
3. SGDCK: Sở giao dịch Chứng khoán
4. SGDCK Tp.HCM: Sở giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
5. TTGDCK: Trung tâm Giao dịch Chứng khoán
6. TTLKCK: Trung tâm Lưu ký Chứng khoán
7. ĐTNN: Đầu tư nước ngoài
8. TPCP: Trái phiếu Chính phủ
9. TPDN: Trái phiếu Doanh nghiệp
10. CPH: Cổ phần hoá
11. IPO: Phát hành lần đầu ra công chúng
12. OTC: Thị trường chứng khoán phi tập trung
13. NĐT: Nhà đầu tư
14. GDP: Tổng thu nhập quốc nội
15. NHNN: Ngân hàng Nhà nước
16. XHCN: Xã hội chủ nghĩa
17. MFN: Nguyên tắc tối huệ quốc
18. WTO: Tổ chức Thương mại thế giới
19. CSRC: Uỷ ban Giám sát và điều tiết Chứng khoán Trung Quốc
20. SGX: Sở giao dịch chứng khoán Singapore
21. BTA: Hiệp định Thương mại song phương
7
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Sơ đồ 1.1 Ví trí TTCK trong thị trường tài chính 9
Sơ sồ 1.2 Cấu trúc TTCK hiện đại 13
Sơ đồ 2.1 Mô phỏng cơ cấu tổ chức- Quản lý thị trường chứng khoán lấy UBCKNN
làm trung tâm của Việt Nam. 51
Sơ đồ 2.2 Tổ chức SGDCK Tp. Hồ Chí 53
Sơ đồ 2.3 Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán. 74
Bảng 2.1 Hoạt động đấu thầu TPCP tại TTGDCK Hà Nội năm 2006 56
Bảng 2.2 Quy mô giá trị giao dịch toàn thị trường Hose 66
Bảng 2.3 Quy mô khối lượng giao dịch toàn thị trường Hose 66
Bảng 2.4Quy mô niêm yết chứng khoán trên SGDCK Tp.HCM đến tháng 5/2009 68
Bảng 2.5 Tổng hợp giao dịch của nhà ĐTNN từ 2000-2007 70
Bảng2.6 So sánh giá trị tăng tuyệt đối số công ty chứng khoán theo các năm 72
Bảng 2.7 So sánh giá trị vốn hoá thị trường của các công ty qua các năm 75
Biểu đồ 2.1 Diễn biến chỉ số Vn-Index từ năm 2000-nay. 64
Biểu đồ 2.2 Diễn biến chỉ số Hastc-Index từ năm 2005 đến nay 65
Biểu đồ 2.3 So sánh số công ty chứng khoán theo các năm 75
Biểu đồ 2.4 So sánh giá trị vốn hoá thị trường của các công ty qua các năm 77
8
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC VỀ
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN TRONG ĐIỀU
KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1.Một số vấn đề lý luận về thị trƣờng chứng khoán và phát triển bền vững thị
trƣờng chứng khoán trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
1.1.1.Thị trƣờng chứng khoán và vai trò của nó đối với nền kinh tế
Khái niệm thị trƣờng chứng khoán
Trên thế giới TTCK đã có lịch sử phát triển hàng trăm năm, còn ở Việt Nam
TTCK mới ra đời và thực sự đi vào hoạt động từ năm 2000 đến nay, do đó còn có
những nhận thức và quan điểm khác nhau về TTCK.
Theo Giáo trình những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng
khoán của TS. Đào Lê Minh thì: “Thị trường chứng khoán thực chất là quá trình
vận động của tư bản tiền tệ. Các chứng khoán mua bán trên thị trường chứng khoán
có thể đem lại thu nhập cho người nắm giữ nó sau một thời gian nhất định và được
lưu thông trên thị trường chứng khoán theo giá cả thị trường, do đó bề ngoài nó
được coi như là một tư bản hàng hoá”. [6]
TS. Nguyễn Minh Đức lại cho rằng: Không gian kinh tế mà ở đó thực hiện
việc phát hành và giao dịch những sản phẩm tài chính (chứng khoán) được gọi là thị
trường chứng khoán. Một kết luận của tác giả cho rằng: “thị trường chứng khoán là
bộ phận tất yếu của thị trường tài chính và là bộ phận quan trọng nhất của thị trường
vốn; thị trường chứng khoán là phương thức huy động vốn, phân phối và phân phối
lại các nguồn vốn và là “hàn thử biểu” của nền kinh tế thị trường. Đồng thời thị
trường chứng khoán là môi trường đầu tư - kinh doanh sôi động, mạo hiểm, đầy hấp
dẫn và phức tạp”. [3]
9
TT Tài chính
TTCK
TT cho
thuê tài
chính
Thị trường tiền tệ
TT bất
động sản
Giao dịch các chứng
khoán dài hạn
Thị trường vốn
TT tín
dụng ngắn
hạn
TT liên
ngân hàng
Giao dịch các chứng
khoán ngắn hạn
TT kinh
doanh
ngoại tệ
Sơ đồ 1.1 Ví trí TTCK trong thị trƣờng tài chính
Nguồn: [3]
Như vậy, thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng của thị trường
vốn, là nơi diễn ra hoạt động mua bán các loại chứng khoán, chủ yếu là các chứng
khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này có thể diễn ra ở thị trường sơ cấp hoặc
thị trường thứ cấp, ở thị trường tập trung (tại Sở giao dịch) hay thị trường bán tập
trung, ở thị trường giao ngay hay thị trường có kỳ hạn.
Thị trường chứng khoán không giống với thị trường các hàng hoá thông
thường khác, vì hàng hoá của thị trường chứng khoán là một loại hàng hoá đặc biệt
là quyền sở hữu về tư bản. Loại hàng hoá này cũng có giá trị và giá trị sử dụng.
Như vậy, có thể nói, bản chất của thị trường chứng khoán là thị trường thể hiện mối
quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư, mà ở đó, giá cả của chứng khoán chứa
10
đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán là
phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Xét về mặt hình thức, TTCK chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi các loại chứng
khoán, qua đó thay đổi các chủ thể nắm giữ chứngkhoán. Nhưng xét về bản chất thì:
- TTCK là nơi tập trung và phân phối các nguồn vốn tiết kiệm.
- TTCK là định chế tài chính trực tiếp, cả chủ thể cung và cầu đều tham gia
vào thị trường một cách trực tiếp, các chủ thể đầu tư đã thực sự gắn quyền sở hữu
về vốn, nâng cao tiềm năng quản lý vốn.
- TTCK thực chất là quá trình vận động tư bản tiền tệ, chuyển tư bản tiền tệ
từ tư bản sở hữu sang tư bản chức năng. Đây là hình thức phát triển cao của sản
xuất hàng hoá.
Đặc điểm cơ bản nhất của TTCK là thị trường tự do, tự do nhất trong các loại
thị trường. Ở TTCK không có sự độc đoán, can thiệp cưỡng ép về giá. Giá mua bán
hoàn toàn do quan hệ cung và cầu trên thị trường quyết định. Ngoài ra, TTCK còn
có những đặc điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, TTCK là một định chế tài chính trực tiếp, khác với các hình thức
gián tiếp là nguồn vốn đầu tư được huy động từ nguồn vốn nhàn rỗi của dân cư,
nhưng nguồn vốn đó phải được chuyển qua các trung gian tài chính như tín dụng
ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính trung gian khác, sau đó mới trở thành nguồn
vốn sử dụng. Ở TTCK, nguồn vốn nhàn rỗi của dân cư được đầu tư trực tiếp vào các
doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả thông qua việc mua bán các chứng khoán do
chính các doanh nghiệp phát hành trên TTCK.
Thứ hai, khi nguồn vốn của nhà đầu tư được chuyển vào hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, tuy vốn được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh dưới
dạng: máy móc, thiết bị, hàng hoá… nhưng thực tế vẫn được tồn tại dưới dạng các
chứng chỉ có giá (cổ phiếu, trái phiếu) lưu thông trên TTCK và có tính thanh khoản
cao, nên cho phép các nhà đầu tư có thể đa dạng hoá kinh doanh, từ đó tạo nên sự
linh hoạt trong hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn bộ nền kinh tế, làm cho tính
xã hội hoá của tư bản cao hơn.
11
Thứ ba, trên TTCK các nhà đầu tư luôn gắn quyền sở hữu vốn và quyền sử
dụng vốn mà không cần tích luỹ nguồn vốn đủ lớn để tự tổ chức hoạt động sản xuất
kinh doanh. Ở đây nhà đầu tư liên tục và trực tiếp đưa ra những quyết định đối với
việc sử dụng vốn của mình, đầu tư vào doanh nghiệp này hay doanh nghiệp khác
thông qua việc mua bán các cổ phiếu, trái phiếu khác nhau trên TTCK.
Khi nói đến bất kỳ loại thị trường nào, bên cạnh việc xác định chủ thể của thị
trường thì việc xác định đối tượng giao dịch trên thị trường cũng quan trọng, tức là
việc xác định hàng hoá giao dịch trên thị trường đó. Thị trường chứng khoán cũng
vậy, đối tượng giao dịch của nó chính là chứng khoán.
Khái niệm chứng khoán: Chứng khoán là công cụ xác nhận tư cách chủ sở
hữu đối với một công ty hay với tổ chức hoặc xác nhận các quyền đối với quyền sở
hữu.
Một cách hiểu khác cho rằng: chứng khoán là những giấy tờ có giá xác định
số vốn đầu tư, xác nhận quyền sở hữu hoặc quyền đòi nợ hợp pháp, bao gồm các
điều kiện về thu nhập và tài sản trong một thời hạn nào đó và có khả năng chuyển
nhượng.
Theo Điều 6 Luật chứng khoán năm 2006 quy định chứng khoán là bằng
chứng xác nhận các quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản
hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Các loại chứng khoán chủ yếu bao gồm: Cổ
phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ
Chứng khoán vốn - cổ phiếu: là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành xác
nhận một hoặc một số cổ phần của cổ đông đóng góp vốn trong công ty. Cổ phiếu
có thể ghi tên hoặc không ghi tên. Cổ phiếu thường là cổ phiếu phổ biến và bắt buộc
phải có tại công ty cổ phần, cổ phần của các cổ đông thường (cổ đông phổ thông).
Cổ phiếu ưu đãi là cổ phiếu mà nhà phát hành có thể phát hành các loại cổ phiếu ưu
đãi: cổ phiếu ưu đãi tích luỹ, cổ phiếu ưu đãi không tích luỹ, cổ phiếu ưu đãi có chia
cổ phần. Đây là công cụ xuất hiện sớm nhất trong lịch sử TTCK, ra đời cùng với sự
xuất hiện của công ty cổ phần. Cổ phiếu là công cụ rất quan trọng nhằm huy động
vốn, do công ty cổ phần ban hành, nhằm xác định quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp
của cổ đông đối với tài sản và thu nhập của một công ty cổ phần.
12
Chứng khoán nợ - trái phiếu: là một loại hợp đồng được ký kết giữa chủ thể
phát hành (Chính phủ hay doanh nghiệp) và người cho vay (trái chủ), đảm bảo một
sự chi trả lợi tức định kỳ và hoàn lại vốn gốc cho người sở hữu trái phiếu ở vào thời
điểm đáo hạn trên giấy chứng nhận nợ, có ghi mệnh giá và lãi suất của trái phiếu.
Nhà phát hành có thể phát hành những trái phiếu như sau: trái phiếu có thế chấp,
trái phiếu tín chấp, trái phiếu có thể chuyển đổi, trái phiếu có lãi suất ổn định, trái
phiếu có lãi suất thả nổi, trái phiếu chiết khấu,…Trái phiếu là một trong những loại
chứng khoán quan trọng nhất trên TTCK. Về bản chất, trái phiếu là loại chứng
khoán nợ, chứng nhận người cầm nó có quyền đòi nợ đối với chủ thể phát hành.
Trái phiếu quy định nghĩa vụ của người phát hành phải trả cho người nắm giữ
chứng khoán một khoản tiền nhất định trong thời gian cụ thể và hoàn trả khoản vay
và lãi khi đến hạn.
Chứng chỉ quỹ đầu tư: là một loại chứng khoán dưới hình thức chứng chỉ
hoặc bút toán ghi sổ do công ty quản lý quỹ thay mặt Quỹ công chúng phát hành,
xác nhận quyền sở hữu hợp pháp của người đầu tư với một hoặc một số đơn vị quỹ
công chúng. Chứng chỉ quỹ đầu tư có những điểm chung với cổ phiếu và trái phiếu.
Giống như cổ phiếu chứng chỉ quỹ không phải là phương tiện ghi nhận nợ của chủ
thể phát hành ra nó, người nắm giữ chứng chỉ quỹ được hưởng lợi ích từ hoạt động
đầu tư của quỹ đầu tư đại chúng. Giống như trái phiếu, chứng chỉ quỹ chỉ cung cấp
khả năng hưởng lợi cho nhà đầu tư, người nắm giữ chứng chỉ quỹ không được
quyền quyết định đối với hoạt động của công ty phát hành ra nó, nhà đầu tư không
có quyền kiểm soát hàng ngày đối với quỹ đầu tư.
1.1.2.Phân loại thị trƣờng chứng khoán
Xuất phát từ các đặc điểm và các cách tiếp cận khác nhau, TTCK có các hình
thức tồn tại khác nhau. Dưới đây là sơ đồ cấu trúc TTCK hiện đại
13
Sơ đồ 1.2 Cấu trúc TTCK hiện đại
Theo phát hành và lưu thông CK
TTCK Sơ cấp
TTCK Thứ cấp
Những CK về
tiền tệ (kỳ
phiếu, tín
phiếu)
TTCK
TTCK Cơ sở
TTCK Phái sinh
Những CK
cơ bản về
vốn
Hối
phiếu,
vận đơn
CK phái
sinh cơ bản
về vốn
Hợp đồng
Future,
Option
Theo công nghệ giao dịch
Theo loại hình CK
Cổ phiếu
Trái phiếu
Chứng
chỉ quỹ
TT phi tập trung
(OTC, ngoài sàn)
TT tập trung
(TTGDCK,
SGDCK)
CK phái
sinh
14
Nguồn: [3]
+ Căn cứ vào quá trình lưu thông chứng khoán, có thể phân chia TTCK thành: Thị
trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Thị trƣờng chứng khoán sơ cấp là nơi các chứng khoán lần đầu tiên được phát
hành ra công chúng. Việc phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp nhằm huy
động vốn cho tổ chức phát hành, qua thị trường này các chủ thể kinh tế trực tiếp gọi
nguồn vốn nhàn rỗi trong công chúng và các tổ chức kinh tế xã hội chuyển thành
vốn đầu tư dài hạn cần thiết cho nhu cầu đầu tư của mình. Để đổi lấy phần vốn nhận
được trên thị trường, các chủ thể kinh tế phát hành các chứng khoán dưới hình thức
cổ phiếu và trái phiếu. Hệ thống ngân hàng thương mại và các cơ quan môi giới
chứng khoán giữ vai trò tư vấn cho các tổ chức phát hành chứng khoán nên phát
hành các loại chứng khoán nào, thời hạn bao lâu và chọn thời điểm để phát hành có
lợi nhất.
Thị trƣờng chứng khoán thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã phát hành trên
thị trường sơ cấp. Những loại chứng khoán này có thể được mua đi bán lại nhiều lần
trên thị trường thứ cấp với giá cả cao thấp khác nhau. Sự mua bán chứng khoán ở
thị trường thứ cấp có thể diễn ra tại Sàn giao dịch của Sở giao dịch chứng khoán.
Thị trường thứ cấp không làm ảnh hưởng đến nguồn vốn của các tổ chức phát hành
ra chứng khoán đó, nhưng nó giúp tạo nên một yếu tố quan trọng cơ bản của việc
mua bán chứng khoán, đó là tính thanh khoản. Điều này làm tăng tính hấp dẫn của
chứng khoán. Đây là thị trường chính thức hay thị trường chứng khoán tập trung.
Các hàng hoá của thị trường có tính chuẩn hoá cao theo các điều kiện chặt chẽ của
pháp luật.
SGDCK Computer
TT Giao dịch truyền
thống
Giao dịch tự do, trực
tiếp công khai
SGDCK Computer
CK lô lớn, nối mạng
giữa các trung tâm
15
+ Căn cứ vào phương thức giao dịch, TTCK được phân chia thành: thị trường tập
trung, thị trường bán tập trung (OTC), thị trường phi tập trung.
TTCK tập trung còn gọi là TTCK chính thức là thị trường ở đó việc mua bán chứng
khoán thông qua SGDCK, tức là tại sàn giao dịch. Tại đây tất cả hoạt động giao
dịch phải tuân theo quy định của pháp luật. Các chứng khoán được niêm yết thường
là chứng khoán của các công ty lớn, có danh tiếng và phải đáp ứng được các yêu
cầu của thị trường giao dịch chứng khoán tập trung.
TTCK phi tập trung (OTC) là TTCK bậc cao. ở đó việc giao dịch chứng khoán
được thực hiện thông qua hệ thống máy tính nối mạng giữa các thành viên của thị
trường. Các chứng khoán giao dịch trên thị trường OTC không đòi hỏi phải phù hợp
đầy đủ với các tiêu chuẩn như ở thị trường tập trung, chỉ cần các chứng khoán đó
được phát hành và chưa được đăng ký yết giá ở một thị trường tập trung nào cả. Vì
vậy, chúng thường có mức độ tín nhiệm thấp hơn các chứng khoán được niêm yết
trên SGDCK hay TTGDCK. TTCK phi tập trung còn gọi là thị trường thứ ba, là
hoạt động mua bán chứng khoán tự do, phân tán không qua SGDCK . Ở thị trường
này hoạt động mua bán chứng khoán diễn ra trực tiếp, trao tay giữa những người
mua và người bán. Hoạt động mua bán chứng khoán có thể thực hiện ở bất cứ đâu
và vào bất cứ lúc nào, có thể thông qua người môi giới hoặc chính người sở hữu
chứng khoán thực hiện. Tất cả những loại chứng khoán được phép phát hành đều có
thể giao dịch trên TTCK phi tập trung, kể cả các loại chứng khoán có đăng ký hoặc
không đăng ký, chứng khoán giao dịch ở TTCK tập trung. Hiện nay, ở nhiều nước
trên thế giới mặc dù SGDCK rất phát triển, nhưng vẫn tồn tại TTCK phi tập trung.
+ Ngoài ra, căn cứ vào hàng hoá trên thị trường thì TTCK cũng có thể chia thành
các thị trường: thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ
chứng khoán phái sinh.
Thị trƣờng cổ phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu bao gồm
cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu ưu đãi.
Thị trƣờng trái phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các trái phiếu đã phát
hành bao gồm trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ.
16
Thị trƣờng các công cụ phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các
chứng từ tài chính khác như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền
chọn…
Như vậy, từ các cách tiếp cận khác nhau, người ta chia TTCK thành các loại
hình khác nhau, cấu trúc hình thức của TTCK hiện đại được thể hiện ở sơ đồ 1.2.
1.1.3.Các thành viên trên TTCK
Trên TTCK có nhiều loại chủ thể (hay thành viên) tham gia hoạt động theo
nhiều mục đích khác nhau: chủ thể phát hành, chủ thể đầu tư, chủ thể trung gian
chứng khoán, chủ thể quản lý và giám sát các hoạt động của TTCK và các tổ chức
có liên quan.
1.1.3.1.Chủ thể phát hành.
Đây là những người cần tiền và huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán
và bán cho những người đầu tư hoặc những người kinh doanh chứng khoán. Chủ
thể phát hành gồm Chính phủ, các doanh nghiệp và một số tổ chức khác theo quy
định cho phép. Luật chứng khoán Việt Nam quy định tổ chức phát hành là tổ chức
thực hiện việc phát hành chứng khoán ra công chúng.
+ Chính phủ: Nhà nước tham gia TTCK chủ yếu với tư cách là người vay nợ,
bao gồm Chính phủ Trung ương, chính quyền địa phương và các tổ chức của chính
phủ bằng cách phát hành trái phiếu kho bạc nhằm mục đích tìm vốn tài trợ cho
những công trình lớn thuộc cơ sở hạ tầng, phát triển sự nghiệp văn hoá giáo dục, y
tế, hoặc bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước.
Chính phủ Trung ương mà đại diện là Bộ Tài chính hoặc Kho bạc Nhà nước
phát hành trái phiếu kho bạc nhằm mục đích tìm vốn tài trợ cho những công trình
lớn thuộc cơ sở hạ tầng, phát triển sự nghiệp văn hoá giáo dục, y tế hoặc bù đắp
thiếu hụt ngân sách nhà nước.
Chính quyền địa phương: Ở nhiều nước, chính quyền bang, tiểu bang hoặc
cấp tỉnh cũng được phép phát hành trái phiếu địa phương (trái phiếu đô thị) để vay
nợ nhằm huy động vốn phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Để hấp dẫn những
17
người đầu tư mua trái phiếu địa phương, một số nước đã có chính sách miễn thuế
lợi tức đối với trái phiếu địa phương.
Các tổ chức Chính phủ: Một số tổ chức của Chính phủ cũng được phép phát
hành trái phiếu, thường là trung hạn, nhằm mục đích tìm nguồn vốn xây dựng các
công trình công cộng có tính chất sản xuất kinh doanh như cảng, hệ thống bưu điện,
đường sắt, Nguồn thanh toán gốc và lãi của trái phiếu là hiệu quả của vốn đầu tư
vào các công trình đó hoặc sự bảo đảm của Chính phủ.
+ Các doanh nghiệp: Tuỳ theo quy định của Luật chứng khoán của mỗi nước
mà các công ty được quyết định hình thức và tiêu chuẩn phát hành khác nhau.
Trong đó, công ty cổ phần là chủ thể quan trọng nhất hoạt động trên TTCK, vì là tổ
chức phát hành cổ phiếu và trái phiếu; là chủ thể mua bán các loại chứng khoán
khác với mục đích thủ tiêu đối thủ cạnh tranh hoặc khống chế thao túng các công ty
khác, mua bán, sáp nhập, hợp nhất hoặc thành lập mới công ty. Các doanh nghiệp
có tư cách pháp nhân khác thường phát hành trái phiếu công ty. Theo Luật chứng
khoán của Việt Nam ngày 29/6/2006, trong số các công ty có công ty đại chúng là
công ty cổ phần thuộc một trong ba loại hình thức sau đây: Công ty đã thực hiện
chào bán cổ phiếu ra công chúng; công ty có cổ phiếu được niêm yết tại SGDCK
hoặc TTGDCK; công ty có cổ phiếu được ít nhất 100 nhà đầu tư sở hữu, không kể
nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và có vốn điều lệ đã góp từ 10 tỷ đồng trở
lên. Các công ty đại chúng chịu sự quản lý chặt chẽ của luật pháp về điều kiện,
quyền và nghĩa vụ, nguyên tắc quản trị công ty, báo cáo về sở hữu cổ đông lớn hoặc
là mua lại cổ phiếu của chính mình, chào mua công khai.
1.1.3.2.Nhà đầu tƣ
Là các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước tham gia đầu tư trên TTCK
bằng cách thực sự mua bán chứng khoán nhằm hưởng lợi nhuận. Thông thường lợi
nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn và ngược lại. Do đó, khi đầu tư, nhà đầu tư phải
xem xét kỹ các nhân tố như khả năng lợi nhuận, tính ổn định và khả năng thị trường
để đưa ra các khuynh hướng đầu tư khác nhau. Có 2 loại chủ thể đầu tư là nhà đầu
tư cá nhân và các tổ chức đầu tư.
18
+ Nhà đầu tư cá nhân chủ yếu là các cá nhân và các hộ gia đình có tiền tiết
kiệm và muốn đầu tư vào chứng khoán để hưởng lợi tức. Họ cũng là những người
bán chứng khoán của mình trên TTCK thứ cấp để rút vốn khi cần thiết. Đây là loại
chủ thể tham gia TTCK quan trọng và đông đảo. Mục tiêu cuối cùng của tất cả các
nhà đầu tư là tối đa hoá lợi nhuận trong các khoản đầu tư của họ, nhưng trên thực tế
có 2 loại nhà đầu tư.
Các nhà đầu tư chấp nhận rủi ro (nhà đầu cơ) là những người có mục đích tối
đa hoá lợi nhuận thu được, họ thường là những nhà đầu tư lớn và đầu tư ngắn hạn
(mua bán chứng khoán để hưởng lãi và chênh lệch giá)
Các nhà đầu tư không muốn rủi ro (nhà đầu tư) là những người rất bảo thủ
trong các phương thức đầu tư. Họ tìm mọi cách để giảm thiểu rủi ro và tìm kiếm lợi
nhuận có thể ở mức rủi ro thấp nhất. Họ thường là những nhà đầu tư nhỏ và đầu tư
dài hạn.
Giữa nhà đầu tư và nhà đầu cơ có nhiều điểm trong cách đầu tư, tìm kiếm
thông tin, quyết định đầu tư, nắm giữ chứng khoán,… Trong khi cùng theo đuổi
mục đích kiếm lời.
+ Các tổ chức đầu tư: Nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là ngân hàng
thương mại, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, tổ chức kinh doanh bảo
hiểm, tổ chức kinh doanh chứng khoán.
Các ngân hàng thương mại tham gia đầu tư, kinh doanh chứng khoán trên
TTCK nhiều hay ít tuỳ thuộc vào ngân hàng đa năng hay ngân hàng chuyên doanh ở
mỗi nước. Các ngân hàng thường là các chủ thể tham gia thường xuyên và đa dạng
trên TTCK.
+ Các tổ chức kinh doanh chứng khoán:
Công ty chứng khoán: là các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn
thực hiện một hoặc toàn bộ các nghiệp vụ chứng khoán. Tuỳ theo mô hình ngân
hàng thương mại ở mỗi nước mà khả năng và mức độ tham gia TTCK của công ty
chứng khoán là khác nhau. Vai trò chủ yếu của công ty chứng khoán trên thị trường
là giao dịch, môi giới và bảo lãnh chứng khoán để tạo điều kiện cho TTCK hoạt
19
động đều đặn, sôi động và góp phần kiểm soát thị trường, các công ty chứng khoán
phải hoạt động theo những quy định chặt chẽ.
Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán là công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn thực hiện quản lý quỹ đầu tư chứng khoán.
+ Các công ty bảo hiểm: Bảo hiểm là một hình thức bảo vệ về mặt tài chính
bằng cách dự phòng trước một số lượng tiền nhất định để đề phòng những rủi ro
xảy ra. Các công ty bảo hiểm sử dụng một phần phí bảo hiểm thu được nhờ bán các
hợp đồng bảo hiểm để đầu tư vào các tài sản có như các trái phiếu, cổ phiếu, các
món vay thế chấp hoặc các món vay khác. Từ đó họ thanh toán cho những khiếu nại
đòi bồi thường theo các hợp đồng đã bán. Thông thường, các công ty bảo hiểm đầu
tư vào chứngkhoán hơn 40% tổng số tài sản.
+ Các quỹ tương trợ là những trung gian tài chính thu nhận vốn của nhà đầu
tư nhỏ bằng cách bán cho họ những cổ phần và dùng món tiền thu được này để mua
các chứng khoán. Nhờ quá trình chuyển đổi tài sản, có khi phát hành các cổ phần
với những lượng tiền nhỏ và mua các lô lớn chứng khoán, các quỹ tương trợ có thể
thu được lợi nhuận về sự giảm giá theo quy mô đối với tiền hoa hồng môi giới và
việc mua các danh mục chứng khoán đa dạng hoá. Các nhà đầu tư nhỏ thu được lợi
do cổ phiếu giao dịch nhỏ hơn.
+ Các quỹ trợ cấp, trong việc thực hiện chức năng trung gian tài chính
chuyển đổi tài sản, các quỹ trợ cấp đem lại cho công chúng một loại bảo vệ khác.
thanh toán tiền thu nhập hưu trí và trợ cấp khác (thanh toán tiền y tế, trợ giúp người
tàn tật,…). Vì các khoản trợ cấp được thanh toán hàng năm và có thể dự tính ở mức
độ chính xác cao, do đó các quỹ trợ cấp thường sử dụng nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi có tính chất cố định để đầu tư vào các chứng khoán dài hạn. Thông thường hơn
1/2 giá trị tài sản có của các quỹ trợ cấp là các trái phiếu và cổ phiếu.
1.1.3.3.Các tổ chức hỗ trợ thị trƣờng
Ngoài các chủ thể trên, TTCK còn có các tổ chức quan trọng khác có liên quan
đến tổ chức và hoạt động của TTCK như SGDCK, tổ chức dịch vụ sang tên và đăng
ký lại quyền sở hữu chứng khoán; trung tâm đào tạo và hành nghề chứng khoán; các
20
hiệp hội đầu tư chứng khoán; hiệp hội kinh doanh chứng khoán; công ty tín thác đầu
tư chứng khoán; các tổ chức dịch vụ vi tính về chứng khoán; hiệp hội các nhà kinh
doanh chứng khoán; trung tâm lưu ký chứng khoán; trung tâm tin học; công ty xếp
hạng tín nhiệm,…
1.1.3.4.Tổ chức quản lý và giám sát TTCK
Thực hiện quản lý và giám sát ngành công nghiệp chứng khoán là một cơ quan
chuyên trách theo dõi, hỗ trợ, kiểm soát, chỉnh lý, điều hoà hoạt động các TTCK
trong cả nước. Ở các nước khác nhau cơ quan này có các tên gọi khác nhau: ở Mỹ
gọi là UBCK và giao dịch (SEC), ở Pháp gọi là Uỷ ban các nghiệp vụ chứng khoán
(COB), ở Anh gọi là Uỷ ban chứng khoán và đầu tư (SIB), ở Trung Quốc gọi là cơ
quan giám sát và điều tiết chứng khoán của Quốc vụ viện Trung Quốc, Singapore
gọi là Hội đồng chứng khoán quốc gia, ở Việt Nam gọi là UBCKNN. Tuy tên gọi
khác nhau, nhưng cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ của Uỷ ban về căn bản đều
giống nhau. Uỷ ban chứng khoán thường được tổ chức theo hình thức cơ quan
chuyên trách, có vị trí pháp lý độc lập, thành viên hội đồng là những quan chức của
Bộ Tài chính, Ngân hàng Trung ương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ tư pháp, đại diện
của SGDCK. Ngoài ra, còn có một số chuyên gia hàng đầu có nhiều kiến thức, kinh
nghiệm quản lý kinh tế vĩ mô, kinh doanh chứng khoán và quản lý thị trường vốn.
Trong đó, chủ tịch hội đồng chứng khoán quốc gia thường là đại diện Bộ Tài chính,
Ngân hàng Trung ương hoặc Chính phủ bổ nhiệm (tuỳ theo quy định của mỗi
nước).
1.1.4.Cơ cấu tổ chức và quản lý TTCK
+ Sở giao dịch chứng khoán: Khi nói đến TTCK, người ta thường nghĩ nó là
Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK). Bởi vì, khi một nước bàn đến việc thiết lập
TTCK thường được hiểu là việc lập TTCK có tổ chức, tức là SGDCK. Đó là lý do
để người ta đồng nghĩa TTCK với SGDCK.
SGDCK là nơi gặp gỡ của các nhà môi giới chứng khoán để thương lượng,
đấu giá, mua bán chứng khoán và là cơ quan phục vụ cho hoạt động giao dịch mua
bán chứng khoán.
21
SGDCK chỉ là thị trường giao dịch, không phải là tổ chức mua vào bán ra
các loại chứng khoán, không can thiệp vào giá chứng khoán. Nhiệm vụ chủ yếu của
SGDCK là tổ chức và phục vụ cho hoạt động giao dịch, mua bán chứng khoán;
cung cấp các dịch vụ thông tin; lưu giữ chứng khoán, thanh toán bù trừ; quản lý
giám sát các hoạt động mua bán chứng khoán, đảm bảo công bằng trật tự, an toàn
và hiệu quả trong giao dịch mua bán chứng khoán. Các hoạt động của TTCK chủ
yếu diễn ra tại SGDCK, vì vậy có thể nói nếu SGDCK được tổ chức và vận hành tốt
thì TTCK sẽ phát triển và ngược lại. SGDCK được thành lập theo quy định của
pháp luật, là một tổ chức có tư cách pháp nhân, có thể được tổ chức theo một trong
những loại hình sở hữu cơ bản: sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân, và sở hữu hỗn
hợp.
+ Để một TTCK vận hành suôn sẻ, đồng bộ đòi hỏi phải có sự tham gia của
yếu tố góp phần hình thành và tạo lập cũng như quản lý thị trường. Các cơ quan, tổ
chức thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK bao gồm: Uỷ
ban chứng khoán nhà nước (Uỷ ban chứng khoán Quốc gia), Bộ Tài chính hoặc
Ngân hàng Trung ương và các tổ chức hỗ trợ khác (toà án, trọng tài, các cơ quan
thuế,…)
Uỷ Ban Chứng Khoán Quốc gia là cơ quan quản lý, điều tiết vĩ mô về TTCK
do Chính phủ thành lập, tuy nhiên không phải Uỷ Ban Chứng Khoán Quốc Gia ra
đời khi bắt đầu xuất hiện TTCK. Quá trình phát triển TTCK thế giới cho thấy rằng
Uỷ Ban Chứng Khoán Quốc Gia được hình thành sau một thời gian dài hoạt động
của TTCK phi tập trung, thị trường này hình thành một cách tự phát khi xuất hiện
cổ phiếu, trái phiếu và có nhu cầu mua bán lại các chứng khoán này. Ở Anh, TTCK
xuất hiện từ thế kỷ 18 nhưng mãi đến năm 1968 mới có Uỷ Ban giám sát chứng
khoán và đầu tư. Ở Thái Lan, SGDCK được phục hồi lại năm 1975 nhưng đến năm
1992 mới có Uỷ Ban Chứng Khoán Quốc Gia,…
1.1.5.Vai trò thị trƣờng chứng khoán đối với nền kinh tế.
Nền kinh tế thế giới đang có những thay đổi hết sức nhanh chóng. Thế kỷ
XXI được coi là một kỷ nguyên của một xã hội không biên giới và xã hội của phát
triển công nghệ, nơi mà các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ và vốn tự do chu chuyển