MỤC LỤC 
MỞ ĐẦU 
 
1 Lý do chọn đề tài 
2. Mục đích nghiên cứu 
3. Nhiệm vụ nghiên cứu 
4. Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu 
5. Giả thuyết nghiên cứu 
6. Phạm vi nghiên cứu 
7. Phương pháp nghiên cứu 
8. Cấu trúc của luận văn 
 
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC 
NGOÀI GIỜ LÊN LỚP 
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu HĐGDNGLL 
1.2. Một số khái niệm cơ bản về quản lý và quản lý giáo dục 
1.2.1. Quản lý 
1.2.2. Chức năng của quản lý 
1.2.3. Quản lý giáo dục 
1.2.4. Quản lý nhà trường 
1.2.5. Biện pháp, biện pháp quản lý 
1.2.6. Chất lượng, chất lượng giáo dục 
1.3. Trường THPT trong hệ thống giáo dục quốc dân 
1.3.1. Vị trí, quyền hạn và nhiệm vụ của trường THPT 
1.3.2. Quản lý của hiệu trưởng trường THPT 
1.4. Quản lý HĐGDNGLL ở trường THPT 
1.4.1. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường THPT 
1.4.2. Quản lý HĐGDNGLL 
 
CHƯƠNG II :THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO 
DỤC NGOÀI GIỜ LÊN LỚP Ở TRƯỜNG THPT THANH OAI B 
2.1. Vài nét về Trường THPT Thanh Oai B 
2.2. Thực trạng HĐGDNGLL ở các trường THPT huyện Thanh Oai và Trường 
THPT Thanh Oai B 
2.2.1. Những yếu tố ảnh hưởng tới HĐGDNGLL 
2.2.2. Thực trạng HĐGDNGLL ở các trường THPT huyện Thanh Oai 
2.3. Thực trạng quản lý HĐGDNGLL ở các trường THPT huyện Thanh Oai 
2.3.1. Công tác xây dựng kế hoạch quản lý HĐGDNGLL 
2.3.2. Thực trạng công tác quản lý, tổ chức thực hiện HĐGDNGLL 
2.3.3. Công tác chỉ đạo HĐGDNGLL 
2.3.4. Công tác kiểm tra đánh giá HĐGDNGLL  
CHƯƠNG III : BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC 
3.1. Nguyên tắc lựa chọn phương pháp 
3.1.1. Tính khoa học 
3.1.2. Tính pháp 
3.1.3.Tính kế thừa 
3.1.4.Tính phù hợp và khả thi 
3.1.5. Tính thực tiễn 
3.2. Một số biện pháp quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường THPT 
Thanh Oai B 
3.2.1. Nâng cao nhận thức cho cán bộ, giáo viên 
3.2.2. Xây dựng chương trình và kế hoạch HĐGDNGLL 
3.2.3. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong HĐGDNGLL 
3.2.4. Huy động các lực lượng tham gia HĐGDNGLL 
3.2.5. Đưa các chủ đề về HĐGDNGLL phục vụ phát triển kinh tế - văn hoá - xã 
hội – giáo dục địa phương 
3.3. Khảo sát tính cần thiết và khả thi của các biện pháp  
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 
1. Kết luận. 
2. Khuyến nghị  
TÀI KIỆU THAM KHẢO      
KÝ HIỆU CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT  
CBQL Cán bộ quản lý 
CMHS Cha mẹ học sinh 
CNVC Công nhân viên chức 
GD-ĐT Giáo dục – Đào tạo 
GD&ĐT Giáo dục và đào tạo 
GVCN Giáo viên chủ nhiệm 
HCM Hồ Chí Minh 
HĐ Hoạt động 
HĐGDNGLL Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp 
HS Học sinh 
KT Kiểm tra 
KTTHDN Kỹ thuật tổng hợp dạy nghề 
ND HĐGDNGLL Nội dung hoạt động ngoài giờ lên lớp 
PPCT Phân phối chương trình 
THCS Trung học cơ sở 
THPT Trung học phổ thông 
TKB Thời khoá biểu 
TP Thành phố 
TTDN Trung tâm dạy nghề 
TW Trung ương 
UBND Uỷ ban nhân dân  
1 
MỞ ĐẦU 
1. Lý do chọn đề tài 
Báo cáo chính trị của Đại hội đại biểu Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 10 
chỉ rõ “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế 
quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện “Chuẩn hoá, hiện đại hoá, 
xã hội hoá” chấn hưng nền giáo dục Việt Nam” 
 Luật giáo dục năm 2005 cũng đã nêu : “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là 
giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ 
năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành 
nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách 
nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống 
lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. 
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI lại nêu: “Phát triển giáo dục là quốc 
sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng 
chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong 
đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ 
quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, 
coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, 
khả năng lập nghiệp”. 
Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 nêu 
“Mục tiêu tổng quát: Đến năm 2020, nền giáo dục nước ta được đổi mới căn 
bản và toàn diện theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa 
và hội nhập quốc tế; chất lượng giáo dục được nâng cao một cách toàn diện, 
gồm: giáo dục đạo đức, kỹ năng sống, năng lực sáng tạo, năng lực thực hành, 
năng lực ngoại ngữ và tin học; đáp ứng nhu cầu nhân lực, nhất là nhân lực 
chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và 
xây dựng nền kinh tế tri thức; đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục và cơ 
hội học tập suốt đời cho mỗi người dân, từng bước hình thành xã hội học tập”. 
Những giá trị đạo đức và năng lực nghề nghiệp của người học không chỉ 
được hình thành bằng giờ học trên lớp mà còn được rèn luyện, củng cố và  
2 
phát triển thông qua các hoạt động giáo dục khác, trong đó có hoạt động giáo 
dục ngoài giờ lên lớp. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp góp phần quan 
trọng trong việc thực hiện nguyên lý giáo dục. 
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là một bộ phận quan trọng của giáo 
dục phổ thông vì nó tạo điều kiện, môi trường thống nhất giữa quá trình dạy 
học và quá trình giáo dục. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là hoạt động 
ngoài giờ học trên lớp, là sự tiếp nối, bổ sung hỗ trợ và là con đường gắn lý 
thuyết với thực tiễn, tạo nên sự thống nhất giữa lý thuyết với hành động, lôi 
cuốn học sinh tham gia mở rộng hiểu biết, đặc biệt giúp người học rèn kỹ 
năng diễn đạt trước một tập thể lớn, tạo không khí vui tươi lành mạnh, tạo 
điều kiện để người học rèn luyện thói quen sống trong cộng đồng và phát huy 
tối đa năng lực sở thích của riêng mình. Nội dung, hình thức của Hoạt động 
giáo dục ngoài giờ lên lớp rất đa dạng, phong phú sẽ thể hiện nguyên lý giáo 
dục “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường 
gắn liền với xã hội” của Đảng. 
Ở các nước có nền giáo dục hiện đại cũng như ở nước ta – các trường 
Trung học phổ thông có chất lượng giáo dục tốt đều là những cơ sở giáo dục 
làm tốt công tác giáo dục toàn diện cho học sinh. Họ làm tốt việc dạy học trên 
lớp và tổ chức, quản lý tốt hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cho học sinh. 
Trước thực tế, các trường THPT ngoại thành - thành phố Hà Nội, đặc 
biệt là những trường nông thôn của Hà Tây cũ, công tác giáo dục hoạt động 
ngoài giờ lên lớp còn nhiều hạn chế, hiệu quả chưa cao, từ đó dẫn đến học 
lệch, học tủ, thờ ơ với thời cuộc, với lịch sử dân tộc, giảm sút về đạo đức và 
nhân cách, cuốn vào các tệ nạn xã hội của cơ chế thị trường. Lý do quan trọng 
đó đã thúc đẩy tôi nghiên cứu đề tài: “Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục 
ngoài giờ lên lớp ở trường Trung học phổ thông Thanh Oai B - huyện 
Thanh Oai – Thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay” nhằm góp phần nâng 
cao chất lượng giáo dục, đáp ứng yêu cầu về giáo dục toàn diện, xây dựng con 
người mới xã hội chủ nghĩa có đủ đức, tài, sức khoẻ và nghề nghiệp, trung  
3 
thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi 
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng 
và bảo vệ đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường đang tác động làm một 
bộ phận thanh niên suy thoái về đạo đức, lý tưởng. 
2. Mục đích nghiên cứu 
Trên cơ sở lý luận, thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục ngoài 
giờ lên lớp ở trường Trung học phổ thông Thanh Oai B - huyện Thanh Oai – 
Thành phố Hà Nội, đề xuất các biện pháp quản lý nâng cao chất lượng hoạt 
động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường Trung học phổ thông Thanh Oai B - 
huyện Thanh Oai – Thành phố Hà Nội, nhằm góp phần nâng cao chất lượng 
giáo dục toàn diện cho học sinh. 
3. Nhiệm vụ nghiên cứu 
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến công tác quản lý 
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. 
- Thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp 
- Đề xuất một số biện pháp quản lý nâng cao chất lượng hoạt động giáo 
dục ngoài giờ lên lớp. 
4. Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu 
4.1. Khách thể nghiên cứu 
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường THPT. 
4.2. Đối tượng nghiên cứu 
Quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường THPT Thanh Oai 
B - huyện Thanh Oai – Thành phố Hà Nội 
5. Giả thuyết nghiên cứu 
Quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là một trong những nhiệm 
vụ quản lý của các nhà trường phổ thông. Nếu đề xuất và áp dụng các biện 
pháp quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp phù hợp với đối tượng và 
điều kiện nhà trường sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh 
ở cơ sở giáo dục.  
4 
6. Phạm vi nghiên cứu 
Luận văn nghiên cứu tập trung vào công tác quản lý hoạt động giáo dục 
ngoài giờ lên lớp ở trường Trung học phổ thông Thanh Oai B - thuộc huyện 
Thanh Oai – Thành phố Hà Nội 
7. Phương pháp nghiên cứu 
7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận 
- Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, chính sách của Nhà nước, của Bộ 
Giáo dục và Đào tạo. 
- Nghiên cứu các tài liệu về lý luận quản lý, quản lý giáo dục. 
- Nghiên cứu các công trình khoa học liên quan đến đề tài… 
7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn 
- Phương pháp khảo sát thực tiễn, tổng kết kinh nghiệm 
- Phương pháp điều tra, thu thập thông tin, phân tích số liệu, dữ liệu. Xử lý và 
sử dụng các thông tin đã thu thập trong quá trình nghiên cứu thuộc phạm vi đề tài 
- Phương pháp phỏng vấn, lấy ý kiến chuyên gia và các nhà quản lý ở 
một số trường trung học phổ thông. 
8. Cấu trúc của luận văn 
 Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ 
lục, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương: 
Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp 
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ 
lên lớp các trường THPT, huyện Thanh Oai, TP Hà Nội 
 Chương 3: Biện pháp quản lý nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục 
ngoài giờ lên lớp ở trường THPT Thanh Oai B, huyện Thanh Oai, thành phố 
Hà Nội.  
5 
CHƯƠNG 1 
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG 
GIÁO DỤC NGOÀI GIỜ LÊN LỚP  
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu HĐGDNGLL 
 Tìm hiểu lịch sử khoa học giáo dục nhân loại chúng ta thấy hoạt động 
dạy - học được nghiên cứu một cách có hệ thống từ rất sớm nhưng để hình 
thành và phát triển nhân cách của học sinh thì hoạt động giáo dục ngoài giờ 
lên lớp (HĐGDNGLL) có vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên vấn đề này chưa 
được quan tâm nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ. 
Rabơlen (1494- 1553) là một trong những đại biểu xuất sắc của chủ 
nghĩa nhân đạo Pháp và tư tưởng giáo dục thời kỳ phục hưng. Ông đòi hỏi 
giáo dục phải bao hàm nội dung “Trí dục, Đức dục, Thể dục và Mỹ dục” và 
đã có sáng kiến tổ chức các hình thức giáo dục như việc học ở lớp và ở nhà, 
ngoài ra còn có các buổi tham quan ở xưởng thợ, các cửa hàng, tiếp với các 
nhà văn, các nghệ sỹ, đặc biệt là mỗi tháng một lần thầy, cô và trò về sống ở 
nông thôn một ngày. 
Đến thế kỷ XX, nhà giáo dục nổi tiến người Nga A.S. Makarenko vào 
thập niên 20, 30 của thế kỷ trước đã nói về tầm quan trọng của công tác giáo 
dục học sinh ngoài giờ lên lớp: “Tôi đã kiên trì nói rằng các vấn đề giáo dục, 
phương pháp giáo dục không thể hạn chế trong các vấn đề giảng dạy, lại 
càng không thể hạn để cho quá trình giáo dục chỉ thực hiện trên lớp học, mà 
đáng ra phải là trên mỗi mét vuông của đất nước chúng ta Nghĩa là trong 
bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không được quan niệm rằng công tác giáo dục chỉ 
được tiến hành trong lớp học. Công tác giáo dục chỉ đạo toàn bộ hoạt động 
của trẻ” [24, tr.63]. Trong thực tiễn công tác của mình, Makarenko đã tổ chức 
các hoạt động ngoại khoá, câu lạc bộ cho học sinh ở trại M.Gorki và công xã 
F.E.Dzerjinski như: "Tổ đồng ca, tổ văn học Nga, tổ khiêu vũ tự do, tổ thử 
nghiệm khoa học tự nhiên, tổ Vật lý - Hoá học, tổ thể thao Việc phân phối  
6 
các em học sinh vào các tổ ngoại khoá, câu lạc bộ được tổ chức trên cơ sở 
hoàn toàn tự nguyện, các em có thể xin ra khỏi tổ bất cứ lúc nào, nhưng các 
tổ phải có kỷ luật trong quá trình hoạt động" [24, tr. 173-174]. 
Cuốn sách “Giáo dục học” tập 3 của tác giả T.A.Ilina đã đề cập đến khái 
niệm, nội dung và các hình thức cơ bản của HĐGDNGLL. 
Cuốn sách “Tổ chức và lãnh đạo công tác giáo dục ở trường phổ thông” 
tác giả I.X. Marienco đã trình bày sự thống nhất của công tác giáo dục trong 
và ngoài trường học, nội dung và các hình thức tổ chức HĐGDNGLL, vị trí 
của người Hiệu trưởng trong việc lãnh đạo hoạt động giáo dục và các tổ chức 
Đoàn, Đội trong nhà trường 
Bộ trưởng Giáo dục Anh Rutl Kelly đã nhận xét “Các hoạt động giáo dục 
ngoài giờ, nhất là hoạt động ngoại khoá đã làm giàu chương trình học, tạo dựng 
niềm tin và củng cố kỹ năng cho học sinh”. [15] – Kelly outdoor learning. 
Qua một số quan điểm, nhận định của các nhà Giáo dục trên thế giới ta 
thấy HĐGDNGLL có tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình giáo dục của 
các nhà trường. 
Ở Việt Nam nghiên cứu về HĐGDNGLL đã thu hút được nhiều nhà 
nghiên cứu, các nhà giáo trong cả nước từ những năm 80 của thế kỷ trước trở 
lại đây. Chúng ta có thể chia làm hai giai đoạn: 
+ Giai đoạn trước cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba (từ năm 1979 trở về 
trước): Điểm nổi bật của giai đoạn này là khái niệm “HĐGDNGLL” chưa 
được hình thành và chưa có tên gọi cụ thể như ngày nay. Tuy nhiên, nội hàm 
cơ bản của khái niệm đã được Chủ Tịch Hồ Chí Minh đề cập trong “Thư gửi 
cho học sinh nhân ngày khai trường” tháng 9 năm 1945, Bác viết " nhưng 
các em cũng nên ngoài giờ học ở trường, tham gia vào các Hội cứu quốc để 
tập luyện thêm cho quen với đời sống chiến sỹ và để giúp đỡ một vài việc nhẹ 
nhàng trong cuộc phòng thủ đất nước". Trong “Thư gửi Hội nghị các cán bộ 
phụ trách nhi đồng toàn quốc”, Bác Hồ lại nhắc tới một khía cạnh khác của 
nội hàm khái niệm này, Người viết: “Trong lúc học, cũng cần làm cho chúng  
7 
vui, trong lúc vui cũng cần làm cho chúng học. Ở trong nhà, trong trường, 
trong xã hội chúng đều vui, đều học” [30, tr.101]. 
Điều lệ nhà trường phổ thông ban hành tháng 6 năm 1976 và ban hành 
tháng 4 năm 1979, đã đề cập đến việc giảng dạy và giáo dục học sinh thông 
qua giảng dạy trên lớp, lao động sản xuất và hoạt động tập thể. Các mặt đó 
phải cùng tiến hành, bổ sung cho nhau theo một kế hoạch thống nhất. Hoạt 
động tập thể của học sinh do nhà trường phối hợp với các tổ chức đoàn thể 
trong nhà trường tổ chức. Hoạt động tập thể bao gồm: hoạt động văn hoá, 
chính trị, xã hội, các hoạt động ngoại khoá về khoa học, kỹ thuật, văn nghệ, 
thể thao của nhà trường và của địa phương. Điều lệ trường phổ thông ban 
hành tháng 4 năm 1979 ghi rõ: “Hoạt động tập thể góp phần giáo dục ý thức 
chính trị, khả năng học tập độc lập của học sinh, góp phần củng cố mở rộng 
kiến thức và phát triển mọi năng khiếu của học sinh theo chương trình và kế 
hoạch thống nhất. Công tác giáo dục ở trường phổ thông tiến hành thống nhất 
theo đúng nội dung và trình tự quy định trong chương trình, kế hoạch đào tạo và 
sách giáo khoa do Bộ ban hành và được thực hiện thông qua các hoạt động giáo 
dục: học tập văn hoá, lao động sản xuất, thực nghiệm khoa học và các hoạt 
động xã hội” và “Các hoạt động xã hội do nhà trường tổ chức cho học sinh tham 
gia với mức độ thích hợp, là nhằm củng cố tri thức đã học được, bồi dưỡng tình 
cảm với nhân dân lao động, xây dựng thái độ tích cực tham gia công tác xã hội, 
góp phần xây dựng địa phương và rèn luyện học sinh về ý thức và năng lực làm 
chủ tập thể, hình thành nhân sinh quan cách mạng. 
 Ngoài các vấn đề giáo dục trên đây, cần tổ chức thêm những hoạt động 
ngoại khoá khác như thể dục thể thao, văn nghệ để công tác giáo dục được 
thêm phong phú”. 
+ Giai đoạn từ cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba đến nay: Nghị quyết 
TW14 ngày 11 tháng 1 năm 1979 của Bộ chính trị về cải cách giáo dục đã 
khẳng định: “Nội dung giáo dục ở trường phổ thông trung học mang tính chất 
toàn diện và kỹ thuật tổng hợp, nhưng có chú ý đến việc phát huy sở trường  
8 
và năng khiếu các nhân cần coi trọng giáo dục thẩm mỹ, giáo dục và rèn 
luyện thể chất, hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao và luyện tập 
quân sự” [ 36, tr. 4-5]. 
Điều lệ trường Trung học phổ thông (Ban hành kèm theo Thông tư số: 
12/2011/TT-BGDĐT ngày 28/3/2011của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo” 
“ Điều 26. Các hoạt động giáo dục 
1. Các hoạt động giáo dục bao gồm hoạt động trong giờ lên lớp và hoạt 
động ngoài giờ lên lớp nhằm giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, 
trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, 
tính năng động và sáng tạo, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; 
chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động. 
2. Hoạt động giáo dục trong giờ lên lớp được tiến hành thông qua việc 
dạy học các môn học bắt buộc và tự chọn trong chương trình giáo dục của 
cấp học do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. 
3. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp bao gồm các hoạt động ngoại khoá 
về khoa học, văn học, nghệ thuật, thể dục thể thao, an toàn giao thông, phòng 
chống tệ nạn xã hội, giáo dục giới tính, giáo dục pháp luật, giáo dục hướng 
nghiệp, giáo dục kỹ năng sống nhằm phát triển toàn diện và bồi dưỡng năng 
khiếu; các hoạt động vui chơi, tham quan, du lịch, giao lưu văn hoá, giáo dục 
môi trường; hoạt động từ thiện và các hoạt động xã hội khác phù hợp với đặc 
điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh.” 
Để đáp ứng yêu cầu cải cách giáo dục, đã có nhiều nghiên cứu xung 
quanh việc xác định khái niệm “HĐGDNGLL”, cũng như nghiên cứu nhằm 
tổ chức có chất lượng HĐGDNGLL trong nhà trường. Có thể chia ra theo 
các hướng: 
* Hướng thứ nhất: là các nghiên cứu cơ bản, mang tính lý luận nhằm xác 
định nội hàm của khái niệm “HĐGDNGLL”, xác định mục tiêu, vị trí, vai trò, 
nhiệm vụ, nội dung, hình thức của HĐGDNGLL. Có các công trình nghiên 
cứu sau:  
9 
- Từ năm 1979, Viện Khoa học giáo dục đã thực hiện đề tài dài hạn 
nghiên cứu về “Các HĐGDNGLL và sự hình thành nhân cách của học sinh” 
do Trung tâm nghiên cứu giáo dục đạo đức học sinh chủ trì. Đề tài đã được 
triển khai thực nghiệm từ năm học 1979-1980 tại một số trường cấp 1, cấp 2, 
cấp 3 ở Hà Nội, sau đó kết quả thực nghiệm đã được thể hiện ở một loạt bài 
trên tạp chí nghiên cứu giáo dục và tạp chí Thông tin khoa học giáo dục của 
một số nhà nghiên cứu như: Đặng Thuý Anh, Phạm Hoàng Gia, Lê Trung 
Trấn, Phạm Lăng 
- Một số nghiên cứu thực nghiệm cải tiến nội dung, phương pháp tổ 
chức nhằm nâng cao chất lượng HĐGDNGLL do một nhóm cán bộ nghiên 
cứu của Viện khoa học giáo dục thực hiện như: Đặng Thuý Anh, Nguyễn 
Quang Dục, Nguyễn Thị Kỷ, Nguyễn Thanh Bình 
- Một số lý luận nhằm xây dựng cơ sở lý luận về HĐGDNGLL, của một 
số nhà khoa học như: Nguyễn Lê Đắc, Hoàng Mạnh Phú, Lê Trung Trấn, 
Nguyễn Dục Quang, Hà Nhật Thăng 
- Một số cuốn sách viết về HĐGDNGLL trong thời gian đầu những năm 
80 của thế kỷ trước của các tác giả như: Đặng Vũ Hoạt, Hà Nhật Thăng, 
Nguyễn Hữu Hợp, Nguyễn Dục Quang, Nguyễn Đăng Thìn, Lê Thanh Sử, 
Nguyễn Thị Kỷ 
* Hướng thứ hai: Một số bài viết về kinh nghiệm thực tiễn của các 
trường phổ thông trong tổ chức HĐGDNGLL mà tác giả là các giáo viên, 
CBQL ở các trường phổ thông. 
Qua hệ thống các nghiên cứu nói trên, cho thấy các tác giả đi sâu vào 
nghiên cứu cơ bản về HĐGDNGLL, nghiên cứu thực nghiệm, tổng kết kinh 
nghiệm thực tiễn nhằm xây dựng quy trình tổ chức và đổi mới nội dung, 
phương pháp HĐGDNGLL. Các nghiên cứu về quản lý HĐGDNGLL hầu 
như chưa được thực hiện nhiều và ít hiệu quả. 
Một số đề tài luận văn thạc sĩ về HĐGDNGLL cho một số cơ sở giáo 
dục cụ thể cũng đã được nghiên cứu:  
10 
 - Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động ngoài giờ lên 
lớp ở trường THPT quận Ba Đình – TP Hà Nội của Nguyễn Thị Mỹ Công, 
ĐH Vinh, 2010; 
- Biện pháp quản lý hoạt động ngoài giờ lên lớp ở trường THCS quận 
Hoàn Kiếm – TP Hà Nội của Đặng Chính Thao, Học viện Quản lý giáo 
dục, 2012 
Tuy nhiên, đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu về quản lý hoạt 
động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở Trường THPT Thanh Oai B. 
1.2. Một số khái niệm cơ bản về quản lý và quản lý giáo dục 
1.2.1. Quản lý 
Các nhà Luật học nghiên cứu các quy luật quản lý nhà nước; các nhà Xã 
hội học nghiên cứu về hoạt động quản lý mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng 
lớp xã hội, dân tộc, quốc gia; các nhà Kinh tế nghiên cứu về quản lý nền sản 
xuất xã hội Như vậy quản lý là một khái niệm rộng bao gồm nhiều lĩnh vực. 
Chính vì vậy, khi đưa ra các khái niệm quản lý, các tác giả thường gắn với các 
loại hình quản lý cụ thể hoặc phụ thuộc nhiều vào lĩnh vực hoạt động hay 
nghiên cứu của mình. 
Có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm quản lý, chúng tôi đưa 
ra một vài khái niệm sau đây của một số nhà khoa học nghiên cứu chuyên sâu 
về khoa học quản lý. 
Frederick Winslow Taylor (1856-1915) là người sáng lập ra thuyết quản 
lý theo khoa học. Theo ông thì: “Quản lý là biết được chính xác điều bạn 
muốn người khác làm, và sau đó hiểu được rằng đã hoàn thành công việc một 
cách tốt nhất và rẻ nhất” [14, tr.89]. 
Henry Fayol (1845-1925), cha đẻ của thuyết quản lý hành chính, cho 
rằng: “Quản lý hành chính là dự đoán và lập kế hoạch, tổ chức điều khiển, 
phối hợp và kiểm tra” [14, tr.103]. Trong định nghĩa này, ông đã nêu ra được 
năm chức năng cơ bản của quản lý.  
11 
Harold Koontz, được coi là người tiên phong của lý luận quản lý hiện 
đại, viết: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ 
lực cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm. Mục tiêu của mọi cá thể 
đạt được mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn 
của cá nhân ít nhất” [27, tr.29]. 
GS.TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc và TS Nguyễn Quốc Chí viết trong tài liệu 
giảng dạy cho học viên cao học ngành Quản lý giáo dục: “Quản lý là quá trình 
đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) 
kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra”, hoặc “Hoạt động quản 
lý là tác động có định hướng, có mục đích của chủ thể quản lý (người quản lý) 
đến khách thể quản lý (người bị quản lý) - trong một tổ chức - nhằm làm cho 
tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” . 
Theo GS Đặng Vũ Hoạt và GS Hà Thế Ngữ: “Quản lý là một quá trình định 
hướng, quá trình có mục tiêu. Quản lý một hệ thống là một quá trình tác động đến 
hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc trưng 
cho trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý mong muốn” [24, tr.15]. 
“Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập 
thể những người lao động nhằm thực hiện được mục tiêu dự kiến” [42, tr.8] 
“Quản lý là một hệ thống tác động khoa học nghệ thuật vào từng thành 
tố của hệ thống bằng phương pháp thích hợp nhằm đạt được các mục tiêu đề 
ra của hệ thống và từng thành tố của hệ thống” [40, tr.18]. 
Từ những định nghĩa điển hình đã nêu trên có thể khái quát: 
Quản lý một đơn vị (cơ sở giáo dục ) với tư cách là một hệ thống xã hội 
là một khoa học, một nghệ thuật tác động vào hệ thống, vào từng thành phần 
của hệ thống bằng các phương pháp thích hợp nhẳm đạt được các mục tiêu đề 
ra trong quá trình hoạt động. 
Quản lý bao giờ cũng hướng đích: có mục tiêu, có tổ chức, có các tác 
động tương ứng, phù hợp nhằm hướng dẫn, điều khiển những đối tượng quản 
lý để đạt tới những mục tiêu định sẵn.  
12 
Quản lý bao giờ cũng tồn tại với tư cách là một hệ thống, gồm: Chủ thể 
quản lý; khách thể quản lý; cơ chế quản lý; mục tiêu chung. 
Quản lý tạo ra mối quan hệ hữu cơ giữa chủ thể quản lý và khách thể 
quản lý. Quản lý có phạm vi tác động lên khách thể rất rộng, do đó ngày nay 
nó được xem là nhân tố quan trọng nhất trong năm nhân tố quyết định thành 
công của quá trình phát triển kinh tế - xã hội (Vốn, nguồn lực lao động, khoa 
học và kỹ thuật, tài nguyên và chất xám quản lý). 
Như vậy, ta có thể hiểu quản lý một cách khái quát: quản lý là một quá 
trình tác động có định hướng, có mục đích của chủ thể quản lý lên đối tượng 
quản lý thông qua các cơ chế quản lý, nhằm sử dụng có hiệu quả cao nhất các 
nguồn lực để hệ ổn định, phát triển đạt được mục đích đã đề ra. 
1.2.2. Chức năng của quản lý 
 Chức năng quản lý gắn liền với sự xuất hiện và tiến bộ của phân công - 
hợp tác lao động trong một quá trình sản xuất của một tập thể người lao động. 
 Chức năng quản lý là một dạng hoạt động quản lý, thông qua đó chủ thể 
quản lý tác động vào khách thể quản lý nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định. 
 Chức năng quản lý là tập hợp các nhiệm vụ khác nhau mà chủ thể quản 
lý phải tiến hành trong quá trình quản lý. Chức năng có vị trí quan trọng trong 
quá trình điều hành công việc. 
 Chức năng quản lý khác với chức năng của cơ quan quản lý, chức năng 
của từng CBQL. Chức năng quản lý do khách thể quản lý qui định, là điểm 
xuất phát để xác định chức năng của cơ quan quản lý và CBQL. 
 Trong hoạt động quản lý, người quản lý phải thực hiện một dãy các 
chức năng quản lý, bởi mỗi chức năng quản lý có những nhiệm vụ cụ thể. Tất 
cả các chức năng quản lý gắn bó qua lại và quy định lẫn nhau. Chúng phản 
ánh lô-gíc bên trong của sự phát triển của hệ quản lý. Để thực hiện nhiệm vụ 
của tổ chức, dù là nhiệm vụ trước mắt hay nhiệm vụ lâu dài, người quản lý 
phải bắt đầu từ việc xác định cái đích cần đạt tới, từ đó từng bước thực hiện 
nhiệm vụ của các chức năng quản lý. Từ việc xây dựng kế hoạch đến việc 
kiểm tra đánh giá rút kinh nghiệm.  
13 
 Các nhà nghiên cứu về quản lý đã đưa ra nhiều đề xuất về nội dung của 
chức năng quản lý. Có rất nhiều ý kiến khác nhau, tuy nhiên có những quan 
điểm chủ đạo sau đây: 
 * Theo F.W. Taylo và Henri Fayol thì quản lý có 5 chức năng cơ bản 
sau đây: 
 1. Kế hoạch hoá; 2. Tổ chức thực hiện; 3. Ra lệnh (chỉ huy); 4. Phối 
hợp; 5. Kiểm tra. 
 * Theo D.M. Kruk, quản lý cũng có 5 chức năng sau: 
 1. Kế hoạch hoá; 2. Tổ chức thực hiện; 3. Phối hợp; 4. Chỉ đạo; 5. 
Kiểm tra. 
 * Theo tài liệu tập huấn CBQL giáo dục của UNESCO thì quản lý có 7 
chức năng: 
 1. Kế hoạch hoá; 2. Tổ chức; 3. Bố trí biên chế; 4. Chỉ đạo; 5. Phối 
hợp; 6. Tổng kết; 7. Quyết toán ngân sách. 
 Trong thời gian gần đây các nhà khoa học thu gọn lại còn 4 chức năng 
cơ bản sau đây: 
 1. Kế hoạch hoá: Là quá trình xác định các mục tiêu, mục đích, thành 
tựu tương lai của tổ chức. Quyết định những con đường, biện pháp, cách thức 
tốt nhất để đạt được mục tiêu, mục đích đó. 
 2. Tổ chức: Khi người quản lý đã lập xong kế hoạch, họ cần phải 
chuyển hoá những ý tưởng khá trừu tượng ấy thành hiện thực. Xét về mặt 
chức năng quản lý, tổ chức là quá trình hình thành cấu trúc các quan hệ giữa 
các thành viên, giữa các bộ phận trong một tổ chức nhằm làm cho họ thực 
hiện thành công các kế hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức. Quá 
trình tổ chức sẽ lôi cuốn việc hình thành, xây dựng các bộ phận cùng các công 
việc của chúng. Và sau đó là vấn đề nhân sự, cán bộ sẽ nối tiếp ngay sau khi 
các chức năng kế hoạch hoá và tổ chức. 
 3. Chỉ đạo: Liên hệ, liên kết các thành viên trong tổ chức và động viên 
họ hoàn thành những nhiệm vụ nhất định để đạt được mục tiêu của tổ chức.  
14 
Việc chỉ đạo không chỉ bắt đầu sau khi lập kế hoạch và thiết kế bộ máy đã 
hoàn tất, mà nó thấm vào, ảnh hưởng quyết định tới hai chức năng kia. 
 4. Kiểm tra, đánh giá: Kiểm tra, đánh giá là một chức năng của quản lý, 
thông qua đó một cá nhân, một nhóm hoặc một tổ chức theo dõi giám sát các 
thành quả hoạt động và tiến hành những hoạt động sửa chữa, uốn nắn cần 
thiết. Một kết quả hoạt động phải phù hợp với chi phí bỏ ra, nếu không tương 
ứng thì phải tiến hành những hành động điều chỉnh, uốn nắn. 
1.2.3. Quản lý giáo dục 
 Các nhà lý luận về quản lý giáo dục Liên Xô trước đây đã đưa ra một 
số định nghĩa về khái niệm quản lý giáo dục, như M. M Mechti Zade đã nêu: 
“Quản lý giáo dục là tập hợp những biện pháp (tổ chức, phương pháp, cán bộ, 
kế hoạch hoá, tài chính ) nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ 
quan trong hệ thống giáo dục, đảm bảo sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ 
thống cả về mặt số lượng cũng như về mặt chất lượng” [42, tr.34]. 
 Ở Việt Nam, tác giả Nguyễn Ngọc Quang đã viết: “Quản lý giáo dục 
(và nói riêng, quản lý trường học) là hệ thống những tác động có mục đích, có 
kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ giáo dục) nhằm làm cho hệ 
vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các 
tính chất của nhà trường Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là 
quá trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, 
tiến lên trạng thái mới về chất” [42, tr.35]. 
 Quản lý giáo dục có thể được hiểu một cách tổng quan là hoạt động 
điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế 
hệ trẻ theo yêu cầu phát triển của xã hội. 
 Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có ý thức, hợp quy luật 
của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống 
nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo 
dục, đảm bảo sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng 
cũng như chất lượng.  
15 
 Một hệ thống giáo dục hoạt động có hiệu quả, hoàn thành nhiệm vụ mà 
xã hội giao phó khi các tế bào trường học vận hành tốt, đạt được mục tiêu đề 
ra. Thực chất của việc quản lý giáo dục là các ngành, các cấp từ trung ương 
đến địa phương hoạch định cơ chế, chính sách, kế hoạch, chiến lược tạo điều 
kiện thuận lợi để các hoạt động của nhà trường đạt được các mục tiêu đề ra. 
Bản chất của việc quản lý hoạt động giáo dục tức là làm sao đưa hoạt động đó 
từ trạng thái này sang trạng thái khác để tiến tới mục tiêu giáo dục. 
1.2.4. Quản lý nhà trường 
 Trường học là tế bào chủ chốt trong hệ thống giáo dục. Công tác quản 
lý nhà trường bao gồm quản lý các hoạt động diễn ra trong nhà trường và sự 
tác động qua lại giữa nhà trường và các hoạt động ngoài xã hội. Quản lý nhà 
trường như là quản lý một hệ thống bao gồm các thành tố: 
 + Thành tố tinh thần: Mục đích giáo dục, nội dung giáo dục và các kế 
hoạch, biện pháp giáo dục. 
 + Thành tố con người: Cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh. 
 + Thành tố vật chất: Cơ sở vật chất, tài chính, các trang thiết bị, phương 
tiện phục vụ giảng dạy và học tập. 
 Vấn đề đặt ra trong quá trình quản lý nhà trường là vận hành để các 
thành tố trên có sự gắn bó, hỗ trợ, điều phối, bổ sung cho nhau để đạt được 
mục tiêu đề ra. 
 Theo M.I.Kôn-đa-cốp: “Không ai đòi hỏi một định nghĩa hoàn chỉnh, 
chúng ta hiểu quản lý nhà trường (công việc nhà trường) là: Hệ thống xã hội - 
sư phạm chuyên biệt. Hệ thống này đòi hỏi những tác động có ý thức, có khoa 
học và có hướng của chủ thể quản lý lên tất cả các mặt của đời sống nhà 
trường, để đảm bảo tối ưu xã hội - kinh tế và tổ chức sư phạm của quá trình 
dạy học và giáo dục thế hệ đang lớn lên” [48]. 
 Theo GS Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối 
của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận 
hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo 
đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng học sinh” [22, tr. 9].  
16 
 Theo PGS.TS Phạm Viết Vượng: “Quản lý trường học là lao động của 
các cơ quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức lao động của giáo viên, học sinh 
và các lực lượng giáo dục khác, cũng như huy động tối đa các nguồn lực giáo 
dục và đào tạo trong nhà trường”. 
 Nhà trường là đối tượng cuối cùng và về bản chất là cơ bản nhất của 
quản lý giáo dục. Dạy học và giáo dục trong sự thống nhất là hoạt động trung 
tâm của nhà trường. Mọi hoạt động đa dạng và phức tạp khác của nhà trường 
đều hướng vào tiêu điểm này. 
 Vì vậy, quản lý nhà trường thực chất là quản lý quá trình lao động sư 
phạm của giáo viên, hoạt động học tập - tự giáo dục của học sinh diễn ra trong 
quá trình dạy học - giáo dục. Có thể nói rằng, quản lý nhà trường thực chất là 
quản lý quản lý dạy học - giáo dục. 
 Như vậy, xét một cách đầy đủ: Quản lý nhà trường phổ thông là sự tác 
động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý lên tất cả các nguồn lực 
theo nguyên lý giáo dục. Nhằm đẩy mạnh các hoạt động của nhà trường tiến 
tới mục tiêu giáo dục. Trọng tâm của nó là hoạt động dạy học và hoạt động 
giáo dục tiến lên trạng thái mới về vật chất. Do công tác quản lý giáo dục nói 
chung, quản lý nhà trường nói riêng, gồm có quản lý các hoạt động giáo dục 
diễn ra trong nhà trường và các quan hệ giữa nhà trường với xã hội trên 
những nội dung sau: 
- Quản lý hoạt động dạy- học; 
- Quản lý HĐGDNGLL; 
- Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức; 
- Quản lý hoạt động xã hội của nhà trường, hoạt động của các đoàn thể 
trong nhà trường; 
- Quản lý sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật, tài chính. 
1.2.5. Biện pháp, biện pháp quản lý 
- Đại từ điển Tiếng Việt - Nguyễn Như Ý - NXB Văn hoá – Thông tin, 
Biện pháp: “Cách làm, cách thức tiến hành, giải quyết một vấn đề cụ thể”.  
17 
- Biện pháp quản lý là cách thức tác động của chủ thể quản lý lên khách 
thể quản lý để đạt được mục tiêu quản lý. 
Vậy, biện pháp quản lý HĐGDNGLL được thực hiện thông qua biện 
pháp quản lý tác động lên các nội dung của HĐGDNGLL, các đối tượng 
tham gia thực hiện quá trình HĐGDNGLL nhằm nâng cao chất lượng 
HĐGDNGLL, đạt được các mục tiêu giáo dục. 
Cũng có thể nói rằng, biện pháp quản lý HĐGDNGLL là cách thức thực 
hiện các nội dung HĐGDNGLL hướng tới thực hiện mục tiêu giáo dục. 
1.2.6. Chất lượng, chất lượng giáo dục 
1.2.6.1. Chất lượng 
Theo Từ điển Tiếng Việt (1999 - NXB Văn hóa Thông tin): Chất lượng 
là phạm trù triết học biểu thị những thuộc tính bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là 
cái gì, tính ổn định tương đối của sự vật, phân biệt nó với sự vật khác, chất 
lượng là đặc tính khách quan của sự vật, chất lượng biểu hiện ra bên ngoài, 
qua các thuộc tính. Nó là cái liên kết các thuộc tính của sự vật lại làm một, 
gắn bó với sự vật như một tổng thể bao quát toàn bộ sự vật và không tách 
khỏi sự vật. Về căn bản chất lượng của sự vật bao giờ cũng gắn với tính quy 
định về số lượng của nó và không thể tồn tại ngoài tính quy định ấy. Một sự 
vật là một thể thống nhất giữa số lượng và chất lượng. 
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam chất lượng là “Phạm trù 
triết học biểu thị những thuộc tính bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính 
ổn định tương đối của sự vật để phân biệt nó với các sự vật khác. Chất lượng 
là đặc tính khách quan của sự vật. Chất lượng biểu hiện ra bên ngoài qua các 
thuộc tính. Nó là cái liên kết các thuộc tính của sự vật lại làm một, gắn bó với 
sự vật như một tổng thể, bao quát toàn bộ sự vật và không tách khỏi sự vật. 
Sự vật trong khi vẫn còn là bản thân nó thì không thể mất chất lượng của nó. 
Sự thay đổi chất lượng kéo theo sự thay đổi của sự vật về căn bản. Chất lượng 
của sự vật bao giờ cũng gắn liền với tính quy định về số lượng của nó và 
không thể tồn tại ngoài tính quy định ấy. Mỗi sự vật bao giờ cũng là sự thống 
nhất của chất lượng và số lượng”.  
18 
1.2.6.2. Chất lượng giáo dục 
Chất lượng giáo dục là sự đáp ứng các yêu cầu về mục tiêu giáo dục 
quy định tại Luật Giáo dục. 
Theo Từ điển Giáo dục học (NXB Từ điển Bách khoa, 2001) “Chất 
lượng giáo dục là tổng hòa những phẩm chất và năng lực được tạo nên trong 
quá trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cho người học so với thang chuẩn giá 
trị của nhà nước hoặc xã hội nhất định”. 
1.3. Trường THPT trong hệ thống giáo dục quốc dân 
1.3.1. Vị trí, quyền hạn và nhiệm vụ của trường THPT 
Theo Điều lệ trường THPT, trường THCS và trường phổ thông có 
nhiều cấp học (Ban hành theo Thông tư số: 12/2011/TT-BGDĐT ngày 
28/3/2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo): 
 Vị trí của trường trung học trong hệ thống giáo dục quốc dân: 
Trường trung học là cơ sở giáo dục phổ thông của hệ thống giáo dục 
quốc dân. Trường có tư cách pháp nhân, có tài khoản và con dấu riêng. 
 Nhiệm vụ và quyền hạn của trường trung học : 
a) Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác theo mục 
tiêu, chương trình giáo dục phổ thông dành cho cấp THCS và cấp THPT do 
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Công khai mục tiêu, nội dung 
các hoạt động giáo dục, nguồn lực và tài chính, kết quả đánh giá chất lượng 
giáo dục. 
b) Quản lý giáo viên, cán bộ, nhân viên theo quy định của pháp luật. 
c) Tuyển sinh và tiếp nhận học sinh; vận động học sinh đến trường; 
quản lý học sinh theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. 
d) Thực hiện kế hoạch phổ cập giáo dục trong phạm vi được phân công. 
đ) Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực cho hoạt động giáo dục. 
Phối hợp với gia đình học sinh, tổ chức và cá nhân trong hoạt động giáo dục. 
e) Quản lý, sử dụng và bảo quản cơ sở vật chất, trang thiết bị theo quy 
định của Nhà nước.  
19 
g) Tổ chức cho giáo viên, nhân viên, học sinh tham gia hoạt động xã hội. 
h) Thực hiện các hoạt động về kiểm định chất lượng giáo dục. 
i) Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật. 
1.3.2. Quản lý của hiệu trưởng trường THPT 
Khi xác định vai trò, vị trí của người Hiệu trưởng - người chịu trách 
nhiệm chính đối với hoạt động quản lý nhà trường, Luật Giáo dục ban hành 
năm 2005 ở điều 54 mục 1 quy định: “Hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm 
quản lý các hoạt động của nhà trường, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ 
nhiệm, công nhận”. 
Nhiệm vụ và quyền hạn của Hiệu trưởng được quy định trong Điều lệ 
Trường THCS, trường THPT và trường phổ thông có nhiều cấp học (Ban 
hành kèm theo Thông tư số: 12/2011/TT-BGDĐT): 
a) Xây dựng, tổ chức bộ máy nhà trường; 
b) Thực hiện các quyết nghị của Hội đồng trường; 
c) Xây dựng quy hoạch phát triển nhà trường; xây dựng và tổ chức thực 
hiện kế hoạch nhiệm vụ năm học; báo cáo, đánh giá kết quả thực hiện trước 
Hội đồng trường và các cấp có thẩm quyền; 
d) Thành lập các tổ chuyên môn, tổ văn phòng và các hội đồng tư vấn 
trong nhà trường; bổ nhiệm tổ trưởng, tổ phó; đề xuất các thành viên của Hội 
đồng trường trình cấp có thẩm quyền quyết định; 
đ) Quản lý giáo viên, nhân viên; quản lý chuyên môn; phân công công 
tác, kiểm tra, đánh giá xếp loại giáo viên, nhân viên; thực hiện công tác khen 
thưởng, kỉ luật đối với giáo viên, nhân viên; thực hiện việc tuyển dụng giáo 
viên, nhân viên; ký hợp đồng lao động; tiếp nhận, điều động giáo viên, nhân 
viên theo quy định của Nhà nước; 
e) Quản lý học sinh và các hoạt động của học sinh do nhà trường tổ chức; 
xét duyệt kết quả đánh giá, xếp loại học sinh, ký xác nhận học bạ, ký xác nhận 
hoàn thành chương trình tiểu học cho học sinh tiểu học (nếu có) của trường phổ 
thông có nhiều cấp học và quyết định khen thưởng, kỷ luật học sinh;  
20 
g) Quản lý tài chính, tài sản của nhà trường; 
h) Thực hiện các chế độ chính sách của Nhà nước đối với giáo viên, 
nhân viên, học sinh; tổ chức thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt động của 
nhà trường; thực hiện công tác xã hội hoá giáo dục của nhà trường; 
i) Chỉ đạo thực hiện các phong trào thi đua, các cuộc vận động của 
ngành; thực hiện công khai đối với nhà trường; 
k) Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ 
và hưởng các chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật. 
Nhà trường thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ của mình hay không một 
phần quyết định vào phẩm chất và năng lực của người Hiệu trưởng. Trong 
những điều kiện hoàn cảnh thực tiễn gần nhau, có trường với Hiệu trưởng quản 
lý giỏi đã trở thành trường đạt nhiều thành tích về dạy học và giáo dục; nhưng 
với Hiệu trưởng quản lý không hiệu quả thì nhà trường không phát triển, chất 
lượng dạy học và giáo dục thấp. Vai trò tổ chức, quản lý của Hiệu trưởng có ý 
nghĩa rất to lớn đối với mọi hoạt động của nhà trường. 
 Người Hiệu trưởng trong nhà trường xã hội chủ nghĩa không phải chỉ tổ 
chức dạy và học theo yêu cầu xã hội mà điều quan trọng hơn là phải biến nhà 
trường thành một “công cụ của chuyên chính vô sản”. Chính vì vậy, Hiệu 
trưởng phái có sự giác ngộ sâu sắc về chính trị, có những hiểu biết sâu rộng 
về chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh 
 Hiệu trưởng tổ chức thực hiện những chủ trương chính sách, đường lối 
giáo dục thông qua nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục phù 
hợp. Hiệu trưởng phải hiểu rõ mục tiêu giáo dục, am hiểu sâu sắc nội dung 
giáo dục, nắm chắc các phương pháp giáo dục, các nguyên tắc tổ chức giáo 
dục xã hội chủ nghĩa. Người Hiệu trưởng phải là nhà tổ chức giáo dục xã hội 
chủ nghĩa có kinh nghiệm, có năng lực, có uy tín về chuyên môn, là con chim 
đầu đàn của tập thể giáo viên. Hiệu trưởng phải có năng lực tổ chức mọi hoạt 
động giáo dục trong trường, làm sao để các chủ trương, đường lối, các nội 
dung, phương pháp giáo dục được thực hiện một cách có hiệu quả. Do vậy,  
21 
năng lực tổ chức thực tiễn của người Hiệu trưởng quyết định hiệu quả quản lý 
giáo dục. Trong công tác tổ chức thực tiễn, người Hiệu trưởng phải có tri thức 
cần thiết về khoa học tổ chức, đặc biệt là phải biết quản lý con người, có 
những kỹ năng cần thiết làm việc với con người. Chính vì vậy, lao động quản 
lý của Hiệu trưởng vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật. 
Những yêu cầu về phẩm chất và năng lực của người Hiệu trưởng để 
quản lý nhà trường đã được nêu trong Chuẩn hiệu trưởng trường trung học 
(THCS, THPT) gồm 3 tiểu chuẩn: 
- Tiêu chuẩn 1: Phẩm chất chính trị và đạo đức nghề nghiệp, với 5 tiêu chí; 
- Tiêu chuẩn 2: Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, với 5 tiêu chí; 
- Tiêu chuẩn 3: Năng lực quản lý nhà trường, với 13 tiêu chí; 
1.4. Quản lý HĐGDNGLL ở trường THPT 
1.4.1. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường THPT 
1.4.1.1. Khái niệm về HĐGDNGLL 
“Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp (HĐGDNGLL) là những hoạt động 
giáo dục được tổ chức ngoài các giờ học môn văn hoá. Hoạt động này có quan 
hệ mật thiết với hoạt động dạy học, mở rộng hơn môi trường hoạt động giáo dục, 
tạo điều kiện cho sự gần gũi giữa lí thuyết với thực tế, rèn luyện kĩ năng sống, 
gắn nhà trường với cộng đồng và đời sống xã hội, góp phần hình thành và phát 
triển nhân cách cho học sinh”. (Cẩm nang Hiệu trưởng trường THCS. Phạm 
Mạnh Hùng, Trần Đình Châu (Chủ biên) và nnk. NXB GD, 2012). 
Điều lệ Trường THCS, trường THPT và trường phổ thông có nhiều cấp học 
(Ban hành kèm theo Thông tư số: 12/2011/TT-BGDĐT) quy định: “Hoạt động 
giáo dục ngoài giờ lên lớp bao gồm các hoạt động ngoại khoá về khoa học, văn 
học, nghệ thuật, thể dục thể thao, an toàn giao thông, phòng chống tệ nạn xã hội, 
giáo dục giới tính, giáo dục pháp luật, giáo dục hướng nghiệp, giáo dục kỹ năng 
sống nhằm phát triển toàn diện và bồi dưỡng năng khiếu; các hoạt động vui chơi, 
tham quan, du lịch, giao lưu văn hoá, giáo dục môi trường; hoạt động từ thiện và 
các hoạt động xã hội khác phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh”.  
22 
“Công tác giáo dục học sinh ngoài giờ học thường được coi là công tác 
giáo dục ngoại khoá. Công tác này, bổ sung và làm sâu thêm công tác giáo 
dục nội khoá, trước tiên là phương tiện để phát hiện đầy đủ tài năng và năng 
lực của trẻ em, làm thức tỉnh hứng thú và thiên hướng của học sinh đối với 
hoạt động nào đó; đó là một hình thức tổ chức giải trí của học sinh và là cơ sở 
để tổ chức việc thực tập về hành vi đạo đức, để xây dựng kinh nghiệm của 
hành vi này” T.A. ILina [ 43, tr.61-62]. 
“HĐGDNGLL là việc tổ chức giáo dục thông qua hoạt động thực tiễn của học 
sinh về khoa học- kỹ thuật, lao động công ích, hoạt động xã hội, hoạt động nhân 
đạo, văn hoá văn nghệ, thẩm mỹ, thể dục thể thao, vui chơi giải trí để giúp các em 
hình thành và phát triển nhân cách (đạo đức, năng lực, sở trường ) [ 23, tr.7]. 
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là những hoạt động giáo dục được 
thực hiện ngoài thời gian học tập trên lớp, nhằm lôi cuốn đông đảo học sinh 
tham gia để mở rộng hiểu biết, tạo không khí vui tươi lành mạnh, tạo cơ hội 
để học sinh tự chọn các chuẩn mực đạo đức, nghệ thuật, rèn luyện thói quen 
sống trong cộng đồng và phát huy tối đa năng lực, sở thích của cá nhân. 
HĐGDNGLL là một hoạt động giáo dục được thực hiện một cách có 
mục đích, có kế hoạch, có tổ chức nhằm góp phần thực thi quá trình đào tạo 
học sinh, đáp ứng những nhu cầu đa dạng của đời sống xã hội. Hoạt động này 
do nhà trường quản lý, tiến hành ngoài giờ dạy học trên lớp (theo chương 
trình, kế hoạch dạy học). Nó được tiến hành xen kẽ hoặc nối tiếp chương trình 
dạy học trong phạm vi nhà trường hoặc trong đời sống xã hội, được diễn ra 
trong suốt năm học và cả thời gian nghỉ hè để khép kín quá trình giáo dục, 
làm cho quá trình đó được thực hiện mọi lúc, mọi nơi. 
1.4.1.2. Mục tiêu của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp 
HĐGDNGLL ở trường THPT nhằm các mục tiêu sau: 
 + Rèn luyện các kỹ năng cơ bản của con người Việt Nam (phù hợp với lứa 
tuổi) như: Kỹ năng tư duy, tự quản, tổ chức, giao lưu, hoạt động xã hội, hoạt 
động tập thể, kiểm tra đánh giá, tự hoàn thiện, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ