KHOA KINH TẾ - ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN
KHOA KINH TẾ - ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN
BÀI GIẢNG
THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN
1
CHƯƠNG I
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
I- BẢN CHẤT – CHỨC NĂNG CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
1- Bản chất
. Mối quan hệ nhân quả giữa đầu tư và tiết kiệm
Trong mọi quốc gia, muốn có nền kinh tế phát triển, tăng trưởng nhanh
và bền vững trước hết phải đáp ứng đủ nhu cầu về vốn đầu tư. Đồng thời muốn
có vốn đầu tư lớn và dài hạn đòi hỏi phải gia tăng tiết kiệm. Ngược lại, tăng
trưởng kinh tế cao sẽ tạo điều kiện để tăng tỷ lệ tiết kiệm và từ đó tăng khả năng
cung ứng vốn đầu tư. Đây chính là mối quan hệ nhân quả và nền tảng để phát
triển kinh tế - xã hội, mở rộng sản xuất và kinh doanh, từ đó tăng thu nhập quốc
dân và cải thiện đời sống của mọi tầng lớp nhân dân.
. Quá trình giao lưu vốn
Trong nền kinh tế, nhu cầu về vốn để đầu tư và các nguồn tiết kiệm có
thể phát sinh từ những chủ thể khác nhau. Những người có cơ hội đầu tư sinh
lời thì thiếu vốn, trái lại những người có vốn nhàn rỗi lại không có cơ hội đầu
tư. Từ đó hình thành quá trình giao lưu vốn giữa những người có vốn và những
người cần vốn, họ cần gặp gỡ nhau để thỏa mãn nhu cầu của nhau.
Trong nền kinh tế cũng hình thành nên một cơ chế chuyển vốn từ tiết
kiệm sang đầu tư. Cơ chế đó được thực hiện trong khuôn khổ thị trường tài
chính.
Vậy thị trường tài chính là nơi diễn ra sự chuyển vốn từ những người có
vốn nhàn rỗi tới những người cần sử dụng.
Thị trường tài chính là nơi tập trung huy động các nguồn vốn trong xã hội
để tài trợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cho các chủ thể trong nền kinh tế.
2- Chức năng
2.1- Chức năng quan trọng nhất của thị trường tài chính (TTTC) là tập
trung các khoản tiền tiết kiệm thành nguồn vốn lớn tài trợ ngắn hạn và dài hạn
cho các chủ thể cần vốn trong nền kinh tế.
Chức năng này được thể hiện qua kênh tài chính trực tiếp và gián tiếp:
+ Kênh tài chính gián tiếp: thông qua các trung gian tài chính là các ngân
hàng và các định chế tài chính phi ngân hàng. Hoạt động chủ chốt trên khu vực
này là các ngân hàng thương mại với vai trò là người huy động vốn rồi đem cho
vay. Những trung gian tài chính thực hiện việc kinh doanh chuyển vốn từ người
dư vốn sang người cần vốn bằng việc đặt một lãi suất cao hơn cho các món cho
vay so với lãi suất của các món mà họ đi vay để thu lợi nhuận. Nhưng điều quan
2
trọng hơn cả ở đây là hoạt động của các trung gian tài chính làm cho lãi suất –
còn gọi là giá của tiền tệ phản ánh đúng cung cầu thị trường. Như vậy, nhờ hoạt
động tài chính gián tiếp (được gọi là sự trung gian tài chính) thị trường tài chính
được vận hành.
+ Kênh tài chính trực tiếp: các chủ thể dư thừa vốn trực tiếp chuyển vốn
cho các chủ thể thiếu vốn là người chi tiêu cuối cùng bằng cách mua các tài sản
tài chính trực tiếp từ người phát hành tức là người cần vốn, thông qua các
TTTC. Trong trường hợp này, luồng tiền vận động thẳng từ người thừa vốn tới
người thiếu vốn.
2.2- Kích thích tiết kiệm và đầu tư
* TTTC tạo cơ hội đầu tư cho mọi thành viên trong xã hội, đó là các cơ
hội đầu tư sinh lời đầy hấp dẫn; mọi cá nhân, tổ chức kinh tế… thông qua thị
trường tài chính đều có thể dùng đồng tiền của mình để đầu tư dưới nhiều hình
thúc thông qua các chứng khoán để kiếm lời dưới nhiều qui mô khác nhau.
* TTTC còn có chức năng nâng cao năng suất và hiệu quả hoạt động của
toàn bộ nền kinh tế, nhờ hoạt động của TTTC mà nó không những tạo cơ hội
đầu tư cho mọi thành viên trong xã hội mà còn tăng hiệu suất sử dụng vốn của
toàn bộ nền kinh tế, các hoạt động sản xuất kinh doanh nhờ TTTC ngày càng
phát triển, công nghệ tiên tiến được ứng dụng rộng rãi làm cho nền kinh tế phát
triển với tốc độ phát triển ngày càng cao.
2.3- Hình thành giá các tài sản tài chính
Thông qua tác động qua lại giữa những người mua và người bán, giá của
các tài sản tài chính được xác định, hay nói cách khác, lợi tức cần phải có trên
một tài sản tài chính được xác định. Yếu tố thúc đẩy các doanh nghiệp gọi vốn
chính là mức lợi tức mà các nhà đầu tư yêu cầu; và chính đặc điểm này của
TTTC đã phát tín hiệu cho biết vốn trong nền kinh tế cần được phân bổ như thế
nào giữa các tài sản tài chính. Quá trình đó được gọi là quá trình hình thành giá.
2.4- Tạo tính thanh khoản cho tài sản tài chính
Thiếu tính thanh khoản, người nắm giữ các công cụ tài chính buộc phải
nắm giữ chúng cho tới khi đáo hạn, hoặc, trong trường hợp cổ phiếu cho tới khi
công ty tự nguyện hoặc không tự nguyện phải thanh lý tài sản. Mặc dù tất cả
các TTTC đều có tính thanh khoản, song mức độ thanh khoản là khác nhau giữa
các thị trường.
II- CƠ CẤU CỦA TTTC
Căn cứ vào thời hạn luân chuyển vốn, thị trường tài chính được chia
thành 2 loại : thị trường tiền tệ có thời hạn luân chuyển không quá một năm và
thị trường vốn có thời hạn luân chuyển từ một năm trở lên.
3
1- Thị trường tiền tệ (Money Market)
Là thị trường giao dịch mua bán quyền sử dụng các khoản tiền tệ ngắn
hạn trong nền kinh tế. Hiểu theo nghĩa giản đơn là nơi mua bán giấy tờ có giá
ngắn hạn dưới 1 năm, qua đó nó cung ứng nhu cầu vốn ngắn hạn cho nền kinh
tế.
Theo mô hình của các nước phát triển, thị trường tiền tệ bao gồm :
+ Thị trường liên ngân hàng (Inter-bank Market) : đây là thị trường
vốn ngắn hạn giữa các ngân hàng với nhau do ngân hàng Trung ương (NHTW)
tổ chức để giải quyết nhu cầu vốn giữa các ngân hàng thương mại (NHTM) về
bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ, đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách
hàng… Ở đó các ngân hàng chuyên trao đổi khả năng thanh toán trên tài khoản
ở NHTW thông qua việc mua bán số ngân quỹ thừa ra, qua đó đáp ứng nhu cầu
cân đối ngân quỹ trong ngày. Nghiệp vụ mua bán này được thực hiện một cách
đơn giản bằng cách chuyển vốn trên tài khoản của các tổ chức tín dụng tại
NHTW. Hàng hóa trên thị trường này là các nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức
tín dụng. Giá cả của hàng hóa “vốn” này là lãi suất.
Trên thị trường liên ngân hàng, các NHTM tham gia để tìm kiếm lợi
nhuận, còn các NHTW tham gia với vai trò là người cho vay cuối cùng đối với
các NHTM và là người chi phối thị trường.
Như vậy, xét theo chiều ngang thì thị trường tiền tệ biểu hiện quan hệ
giữa các NHTM, các tổ chức tín dụng. Nếu xét theo chiều dọc thì thị trường
tiền tệ biểu hiện quan hệ giữa các NHTM với NHTW qua các nghiệp vụ điều
hòa vốn của NHTW.
+ Thị trường hối đoái (Foreign Exchange Market) : là nơi mua bán,
vay mượn ngoại tệ giữa các chủ thể có liên quan. Thị trường hối đoái có tính
toàn cầu mà các thành viên của nó quan hệ với nhau qua điện thoại, màn hình vi
tính, telex, fax… Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, các doanh nghiệp trong
nước đều phải tham gia các thị trường hối đoái để mua hay bán, vay hay cho
vay ngoại tệ.
Các nghiệp vụ của thị trường hối đoái phần lớn mang tính chất ngắn hạn
(dưới một năm). Thành viên tham gia thị trường hối đoái chủ yếu là NHTM,
doanh nghiệp, các nhà môi giới ngoại hối, các nhà cung cấp dịch vụ tư vấn, các
nhà kinh doanh, NHTW.
+ Thị trường vốn ngắn hạn (Short-term Loans Market) : là thị trường
tín dụng, đây là thị trường mà các nguồn vốn được luân chuyển theo nguyên tắc
tín dụng để huy động vốn từ những người có vốn và phân phối lại cho những
người cần vốn nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Đây chính là sự vận động
gián tiếp của vốn trong nền kinh tế thị trường thông qua các trung gian tài
chính.
Thị trường tín dụng bao gồm các loại thị trường sau:
4
- Thị trường tín dụng ngân hàng : ở thị trường này, chủ thể tham gia là
các ngân hàng với nhau, hoặc giữa các ngân hàng và khách hàng của họ.
- Thị trường tín dụng thương mại : chủ thể tham gia là các doanh nghiệp
có quan hệ kinh doanh thường xuyên với nhau.
- Thị trường tín dụng nhà nước : chủ thể tham gia là Nhà nước và các
tầng lớp dân cư.
- Thị trường tín dụng tự do giữa các tầng lớp dân cư.
Đặc điểm thị trường tiền tệ :
+ Giai đoạn luân chuyển vốn ngắn hạn (không quá 1 năm). Công cụ của
thị trường tiền tệ là các khoản vay hay các chứng khoán đáo hạn trong vòng 1
năm.
+ Hình thức tài chính đặc trưng là hình thức tài chính gián tiếp. Đóng vai
trò trung gian tài chính giữa người vay và người cho vay là các ngân hàng
thương mại.
+ Các công cụ của thị trường tiền tệ có tính thanh khoản cao, cung cấp lợi
tức tiết kiệm cho các nhà đầu tư.
Các công cụ lưu thông trên thị trường tiền tệ :
* Tín phiếu Kho bạc (Treasury Bills) : là loại chứng khoán nợ ngắn hạn
do Nhà nước phát hành nhằm mục đích điều hòa lưu thông tiền tệ, hỗ trợ cho
việc cân đối thu chi ngân sách, bù đắp những thiếu hụt tạm thời hoặc mục đích
chống lạm phát hay khuyến khích phát triển sản xuất.
Đặc điểm của loại chứng khoán ngắn hạn là thời gian đáo hạn dưới 1
năm, lãi và vốn được trả một lần khi đáo hạn.
* Các khoản vay liên ngân hàng : theo qui định của Ngân hàng Trung
ương, các tổ chức nhận tiền gửi phải có một tỷ lệ dự trữ bắt buộc để đáp ứng
nhu cầu rút tiền của những người gửi tiền. Một số tổ chức có thể thừa dự trữ,
một số khác lại thiếu. Các tổ chức nhận tiền gửi có thể mua bán các khoản dự
trữ này trên thị trường liên ngân hàng; bằng cách này có thể tối thiểu hóa được
lượng tài sản có tính thanh khoản cao nhưng khả năng sinh lời thấp, như tín
phiếu Kho bạc.
* Giấy chấp nhận thanh toán của ngân hàng : là giấy bảo đảm rằng
một ngân hàng sẽ thanh toán vô điều kiện số tiền mà các nhà nhập khẩu còn
thiếu các nhà xuất khẩu, đến ngày đáo hạn nhà nhập khẩu sẽ trả cho ngân hàng
số tiền ghi trên giấy cộng với một khoản phí. Nhà xuất khẩu không nhất thiết
phải giữ giấy này cho tới khi đáo hạn mà có thể bán đi với giá chiết khấu để thu
tiền trước. Lãi suất của công cụ này tương đối thấp do tính an toàn cao.
* Kỳ phiếu thương mại (Commercial Papers) : do doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh phát hành dùng thay thế cho giấy nợ trả cho các đơn vị hoặc cá
nhân cung cấp hàng hóa hay dịch vụ cho doanh nghiệp. Trong thương phiếu có
qui định thời hạn trả nợ và lãi suất đến kỳ hạn sẽ được đơn vị trả cả vốn lẫn lãi.
5
* Kỳ phiếu ngân hàng (Bank Bills), Tín phiếu công ty tài chính, chứng
chỉ tiền gửi tiết kiệm là các loại chứng khoán ngắn hạn thường từ 3 tháng, 6
tháng, 9 tháng đến 12 tháng, được Ngân hàng thương mại và Công ty tài chính
phát hành nhằm huy động vốn, rồi dùng vốn đó cho vay (chủ yếu là ngắn hạn).
2- Thị trường vốn (Capital Market)
Còn gọi là thị trường vốn dài hạn, là một bộ phận quan trọng của TTTC,
hoạt động của nó nhằm huy động những nguồn vốn trong xã hội, tập trung
thành những nguồn vốn lớn tài trợ dài hạn cho các doanh nghiệp và chính phủ
nhằm mục đích phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế hay cho các dự án đầu
tư. Thị trường vốn bao gồm ba thị trường bộ phận : thị trường tín dụng trung và
dài hạn còn gọi là thị trường thế chấp (Mortgage market), thị trường cho thuê
tài chính (Leasing Market), và thị trường chứng khoán (TTCK – Securities
market). Trong đó TTCK là bộ phận quan trọng nhất của TTTC trong việc tập
trung và huy động những khoản vốn khổng lồ tài trợ cho các mục đích đầu tư
phát triển kinh tế, xã hội của Chính phủ, phát triển sản xuất tại các doanh
nghiệp.
Thị trường thế chấp
Cung cấp tín dụng trung và dài hạn cho các doanh nghiệp thường đòi hỏi
phải có tài sản thế chấp. Hoạt động trên thị trường này là các ngân hàng thương
mại và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng.
Thị trường cho thuê tài chính
Cho thuê tài chính là một lại hình tài trợ vốn hữu hiệu cho các doanh
nghiệp đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ. Theo Nghị định của Chính phủ
số 16/2001/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính, tại
Điều 1 đã qui định : “Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn
thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các đọng
sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho
thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản
khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho
thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn
thuê và được 2 bên thỏa thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền
lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thỏa thuận
trong hợp động cho thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản qui định
tại hợp đồng cho thuê tài chính ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản
đó tại thời điểm ký hợp đồng.”
Thị trường chứng khoán
Để huy động được các nguồn vốn dài hạn bên cạnh việc đi vay ngân hàng
thông qua hình thức tài chính gián tiếp, Chính phủ và một số các công ty còn
thực hiện huy động thông qua việc phát hành các chứng khoán.
Chứng khoán là các công cụ thể hiện quyền sở hữu trong một công ty (cổ
phiếu) quyền chủ nợ đối với một công ty, một Chính phủ hay chính quyền địa
6
phương (trái phiếu) và các công cụ khác phát sinh trên cơ sở những công cụ đã
có (công cụ phái sinh).
Khi các chứng khoán được phát hành thì tất yếu sẽ nảy sinh nhu cầu về
mua bán trao đổi các chứng khoán đó. Chính vì vậy TTCK đã ra đời với tư cách
là một bộ phận của thị trường vốn nhằm đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi
chứng khoán các loại.
3- Các định chế tài chính trung gian
Trên thị trường tài chính, các tổ chức tài chính như ngân hàng, công ty
bảo hiểm, các quỹ đầu tư và các quỹ hưu trí thường được gọi với một tên gọi
đặc biệt : các định chế tài chính trung gian (Financial Intermidiaries). Vai trò
của chúng là huy động được các nguồn vốn bằng cách phát hành quyền truy đòi
ra công chúng (chứng chỉ tiền gửi tiết kiệm, hoặc cho vay), sau đó chúng quay
vòng và sử dụng số tiền này để mua chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu hoặc
những công cụ tài chính không được mua bán như các khoản tín dụng tiêu dùng
và tín dụng thương mại.
Các định chế tài chính trung gian cũng giống như các loại hình công ty
khác – đều được thúc đẩy bởi động cơ lợi nhuận. Trong quá trình chuyển thành
lợi nhuận, họ tình cờ đạt được một mục tiêu kinh tế quan trọng, đó là giúp di
chuyển nguồn vốn từ người cho vay đến người đi vay.
* Một số loại định chế tài chính trung gian tại các quốc gia phát triển :
+ Ngân hàng thương mại (Commercial banks) là tổ chức nổi bật nhất
trong các loại định chế tài chính trung gian. Hiện nay tại Mỹ, có khoảng 9.000
NHTM, từ Bank America với tài sản hàng trăm tỷ dollar đến hàng ngàn ngân
hàng nhỏ được phân bố rải rác khắp đất nước, nhiều ngân hàng trong số đó có
tài sản ít hơn 100 triệu dollar. Các NHTM cũng là loại hình đa dạng nhất về mặt
các khoản phải trả lẫn tài sản. Nguồn vốn chủ yếu của họ thường là những
khoản tiền gửi không kỳ hạn (Dmand deposit hay Checking account), nhưng
trong những thập niên gần đây, tài khoản tiền gửi tiết kiệm định kỳ (bao gồm
chứng chỉ tiền gửi và các loại khoản nợ khác) ngày càng trở nên quan trọng hơn
tiền gửi không kỳ hạn. Điểm khác nhau chính giữa tài khoản tiết kiệm và tài
khoản tiền gửi định kỳ đó là tài khoản tiền gửi định kỳ có thời gian đáo hạn đã
được hoạch định trước. Với những nguồn vốn này, NHTM mua rất nhiều loại
tài sản, từ những chứng khoán Chín phủ ngắn hạn đến những khoản tín dụng
kinh doanh dài hạn và cả những khoản vay có thế chấp.
+ Quỹ hưu trí tư nhân không đảm bảo (Private noninsured pension
funds), tương tự như các công ty bảo hiểm nhân thọ và chúng chủ yếu quan tâm
đến đầu tư dài hạn hơn là ngắn hạn. Nguồn thu nhập của chúng đến từ những
người lao động tạo nên số tiền dự trữ khi họ về hưu. Vì chúng phải đối mặt với
những vấn đề không chắc chắn trong ngắn hạn, chúng thường đầu tư chủ yếu
vào trái phiếu công ty dài hạn và những cổ phiếu cao cấp.
7
+ Quỹ hỗ tương (Mutual funds) là loại tổ chức có mối quan hệ thường
xuyên với thị trường cổ phiếu, nhưng cũng có loại quỹ hỗ tương chuyên về tất
cả các loại trái phiếu cũng như về các món vay thế chấp. Một quỹ hỗ tương có
nhiệm vụ tập hợp những khoản tiền tiết kiệm của nhiều người lại qua việc phát
hành chứng chỉ quỹ đầu tư và đầu tư số tiền này vào nhiều loại chứng khoán
khác nhau, do đó chúng đạt được mức độ đa dạng hóa mà từng cá nhân riêng lẻ
sẽ không thể tự mình thực hiện được. Các cổ đông luôn có thể mua lại hoặc bán
lại các cổ phần của mình nếu họ muốn, nhưng giá cả họ nhận được từ quỹ hỗ
tương này lại phụ thuộc vào giá những chứng khoán mà họ đang nắm giữ. Mua
cổ phần trong một quỹ hỗ tương do đó sẽ có nhiều rủi ro hơn mua một chứng
chỉ tiết kiệm hoặc một công cụ nào đó trên thị trường tiền tệ như trái phiếu
Chính phủ, nhưng vì lý do đa dạng hóa, nó sẽ ít rủi ro hơn việc mua từng cổ
phiếu và trái phiếu một cách riêng biệt.
+ Công ty bảo hiểm nhân thọ bảo hiểm cho con người chống lại những
hậu quả về tài chính do rủi ro về nhân mạng. Công ty nhận được tiền dưới hình
thức các khoản thanh toán định kỳ (gọi là phí bảo hiểm). Dựa vào số thống kê
về tử vong, những công ty bảo hiểm có thể dự đoán với mức độ chính xác cao
về việc họ sẽ chi trả bao nhiêu trong năm nay, năm sau, hay thậm chí 10 năm
hoặc 20 năm sau nữa. Họ sẽ đầu tư theo đó, mục đích là đạt được lợi nhuận cao
nhất, ổn định với độ an toàn trong dài hạn. Do đó, một tỷ lệ lớn trong tài sản
của họ là trái phiếu công ty dài hạn và những khoản thế chấp dài hạn, mặc dù
các loại thế chấp này chủ yếu là tài sản thương mại hơn là những tài sản cá
nhân.
+ Quỹ lương hưu của chính quyền địa phương (State and local
government retirement funds) thực hiện những chức năng tương tự như những
quỹ tư nhân ngoại trừ việc chúng được tài trợ bởi chính quyền địa phương.
+ Quỹ hỗ tương trên thị trường tiền tệ (Money market mutual funds)
thay vì đầu tư tiền vào thị trường cổ phiếu hoặc trái phiếu thì họ mua những
công cụ có tính thanh khoản cao trên thị trường tiền tệ ngắn hạn như những
CDs có thể chuyển nhượng được và những tín phiếu công ty có chất lượng cao.
+ Tổ chức tiết kiệm và cho vay (S&Ls : Savings and Loans
associations) theo cách truyền thống thì hầu hết nguồn vốn của họ thông qua
những tài khoản tiền gửi tiết kiệm, thường được gọi là shares, và dùng chúng để
cho vay mua nhà cửa. Đây là mục đích cơ bản của những tổ chức này – khuyến
khích các gia đình tiết kiệm và sở hữu nhà ở. Ngày nay chúng thường phát hành
những tài khoản tiền gửi và cho vay tiêu dùng cũng như cho vay kinh doanh với
số lượng hạn chế. Những ngân hàng tiết kiệm (Savings banks) trên thực tế thì
giống với những tổ chức tiết kiệm và cho vay.
+ Công ty bảo hiểm tài sản và tai nạn (Propety and casualty Insurance
company) bảo hiểm cho thân chủ của họ tránh khỏi việc mất trộm và hỏa hoạn,
chống việc mất cắp và va chạm các phương tiện giao thông, bác sĩ chống lại
8
những vụ khởi kiện vì những sơ suất trong khi điều trị cho bệnh nhân, và những
doanh nghiệp chống lại những vụ kiện cáo do sai sót. Với số tiền bán bảo hiểm,
họ mua những trái phiếu công ty, trái phiếu địa phương, cổ phiếu có chất lượng
cao, và những công cụ trên thị trường tiền tệ.
+ Công ty tài chính tiêu dùng và thương mại (Commercial and
consumer finance companies) chuyên về lĩnh vực cho vay mua xe hơi, cho vay
để du lịch trong mùa nghỉ phép, và cho những công ty kinh doanh vay để tài trợ
vốn và máy móc thiết bị.
+ Những hiệp hội tín dụng (Credit Unions) thường được bao gồm trong
nhóm những tổ chức tiết kiệm. Chúng được cấu tạo như những hợp tác xã với
những người có cùng mối quan tâm, như những nhân viên của một công ty nào
đó hoặc thành viên của một liên đoàn lao động, một hội ái hữu hay một nhà thờ
nào đó. Thành viên của những hiệp hội tín dụng này mua cổ phần và do đó họ
được phép vay tiền của hiệp hội. Ngày nay họ cung cấp thêm những tài khoản
tiền gửi (gọi là Credit union share draft) và cũng cho vay thế chấp dài hạn.
9
CHƯƠNG II
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
I- THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN (TTCK)
1- Lịch sử hình thành
Giữa thế kỷ 15 ở Tây phương, tại những thành phố trung tâm buôn bán,
các thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để bàn bạc về việc mua bán,
trao đổi các loại hàng hóa (chủ yếu là nông sản, khoáng sản), ngoại tệ và giá
khoán động sản.
Những cuộc bàn bạc này lúc đầu chỉ có một nhóm nhỏ, dần dần số người
gia tăng, rồi hình thành một “khu chợ riêng”.
Tại những cuộc bàn bạc này, họ trao đổi, thương lượng, nhưng chỉ là
những lời nói miệng với nhau, không có hàng hóa, ngoại tệ, giá khoán động sản
hay bất cứ một loại giấy tờ, hàng mẫu nào trong tay cả. Những cuộc thương
lượng này nhằm thống nhất với nhau các “hợp đồng” mua bán, trao đổi thực
hiện ngay, và những hợp đồng cho tương lai 3 tháng, 6 tháng hay một năm sau
mới thực hiện.
Cuối thế kỷ 15, “khu chợ riêng” trở thành một “thị trường”. Ở đó họ
thống nhất với nhau những qui ước cho các cuộc thương lượng. Dần dần những
qui ước đó được sửa đổi hoàn chỉnh thành những qui tắc có giá trị bắt buộc
chung.
Giao lưu kinh tế ngày càng phát triển, những phiên chợ cách nhau cả
tháng không còn phù hợp, họ đã rút xuống hàng tuần và sau đó là hàng ngày.
Phiên chợ riêng được diễn đầu tiên vào năm 1453 tại một lữ điếm của gia
đình Vanber ở Bruges (Bỉ). Tại lữ điếm Vanber có một bảng hiệu hình 3 túi da
với một từ tiếng Pháp “Bourse” tức là “Mậu dịch trường” hay còn gọi là “Sở
giao dịch”.
“Mậu dịch trường” là một bảng hiệu chung, ba túi da tượng trưng cho 3
nội dung của “Mậu dịch trường” : Mậu dịch trường hàng hóa, Mậu dịch trường
ngoại tệ và Mậu dịch trường giá khoán động sản.
Vào năm 1547, thành phố Bruges mất đi sự phồn vinh do eo biển Even bị
cát lấp, tàu bè ra vào khó khăn, “Mậu dịch trường” ở đây bị sụp đổ và được
chuyển qua thị trấn Auvers, một hải cảng lớn của Bỉ thời đó.
Mậu dịch trường Auvers phát triển rất nhanh. Giữa thế kỷ 16, viên quan
đại thần tài chính Anh quốc Theomes Gresham đến đây thị sát và sau đó đã
thiết lập một “Mậu dịch trường” tại London, nơi mà sau này được gọi là Sở
10
giao dịch chứng khoán London. Các “Mậu dịch trường” khác cũng lần lượt
được thành lập tại Pháp, Đức và Bắc Âu.
2- Khái niệm TTCK
Thị trường chứng khoán (Securities Market) là thuật ngữ dùng để chỉ cơ
chế của hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán dài hạn như các loại trái
phiếu, cổ phiếu và các công cụ tài chính khác như chứng chỉ quỹ đầu tư, công
cụ phái sinh – hợp đồng tương lai, quyền chọn, bảo chứng phiếu, chứng quyền.
TTCK là thị trường vốn dài hạn, tập trung các nguồn vốn cho đầu tư và
phát triển kinh tế, do đó có tác động rất lớn đến môi trường đầu tư nói riêng và
nền kinh tế nói chung. Mặt khác, TTCK là một thị trường cao cấp, nơi tập trung
nhiều đối tượng tham gia với các mục đích, sự hiểu biết và lợi ích khác nhau;
các giao dịch các sản phẩm tài chính được thực hiện với giá trị rất lớn. Đặc tính
đó khiến cho TTCK cũng là môi trường dễ xảy ra các hoạt động kiếm lợi không
chính đáng thông qua các hoạt động gian lận, không công bằng, gây tổn thất
cho các nhà đầu tư; tổn thất cho thị trường và cho toàn bộ nền kinh tế.
Xuất phát từ vai trò quan trọng cũng như tính chất phức tập như vậy của
TTCK, việc điều hành và giám sát thị trường là vô cùng cần thiết để đảm bảo
được tính hiệu quả, công bằng, lành mạnh trong hoạt động của thị trường, bảo
vệ quyền lợi chính đáng của các nhà đầu tư, dung hòa lợi ích của tất cả những
người tham gia thị trường, tận dụng và duy trì được các nguồn vốn để phát triển
kinh tế. Mỗi thị trường có cơ chế điều hành và giám sát thị trường riêng phù
hợp với các tính chất và đặc điểm của riêng nó.
3- Cơ chế điều hành và giám sát TTCK
Nhìn chung các tổ chức tham gia quản lý và giám sát thị trường gồm 2
nhóm : các cơ quan quản lý của Chính phủ và các tổ chức tự quản.
Các cơ quan quản lý của Chính phủ
Đây là các cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt
động của TTCK. Nhìn chung các cơ quan quản lý thị trường của Chính phủ chỉ
thực hiện các chức năng quản lý chung chứ không trực tiếp điều hành và giám
sát thị trường. Các cơ quan này có thẩm quyền ban hành các qui định điều chỉnh
các hoạt động trên TTCK tạo nên cơ sở cho các tổ chức tự quản trực tiếp thực
hiện các chức năng điều hành và giám sát thị trường của mình.
Ủy ban chứng khoán là cơ quan quản lý chuyên ngành của Nhà nước
trong lĩnh vực chứng khoán, với các chức năng sau :
+ Thực hiện các qui định quản lý ngành chứng khoán của Bộ Tài chính,
phối hợp với các tổ chức tự quản để điều hành và giám sát có hiệu quả hoạt
động của TTCK.
+ Kiểm soát mọi vấn đề trong hoạt động thị trường như đăng ký chứng
khoán, giám sát các công ty niêm yết, phát hiện và xử lý các trường hợp gian
lận.
11
+ Quản lý trực tiếp các tổ chức tự quản, giám sát hoạt động của các tổ
chức này, xử lý các vi phạm nếu các tổ chức tự quản không xử lý được.
+ Thanh tra đối với các cá nhân hay tổ chức để bảo vệ lợi ích chung của
công chúng trong trường hợp có sự vi phạm pháp luật.
Các tổ chức tự quản
Nhìn chung các tổ chức tự quản gồm có Sở giao dịch và Hiệp hội các nhà
kinh doanh chứng khoán.
Sở giao dịch là tổ chức tự quản bao gồm các công ty chứng khoán thành
viên, trực tiếp điều hành và giám sát các hoạt động giao dịch chứng khoán thực
hiện trên Sở. Sở giao dịch thực hiện một số chức năng sau :
+ Điều hành các hoạt động giao dịch diễn ra trên Sở thông qua việc đưa
ra và đảm bảo thực hiện các qui định cho các hoạt động giao dịch trên thị
trường Sở giao dịch.
+ Giám sát, theo dõi các giao dịch giữa các công ty thành viên và các
khách hàng của họ. Khi phát hiện các vi phạm Sở giao dịch tiến hành xử lý, áp
dụng các biện pháp cưỡng chế thích hợp. Trong trường hợp có vi phạm nghiêm
trọng đến các qui định của ngành chứng khoán, Sở giao dịch có thể báo cáo lên
Ủy ban chứng khoán để giải quyết.
+ Hoạt động điều hành và giám sát của Sở giao dịch phải được thực hiện
trên cơ sở phù hợp với các qui định pháp luật có liên quan đến ngành chứng
khoán.
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức của các công ty
chứng khoán được thành lập với mục đích tạo ra tiếng nói chung cho toàn
ngành kinh doanh chứng khoán và đảm bảo các lợi ích chung của TTCK. Hiệp
hội các nhà kinh doanh chứng khoán thực hiện các chức năng điều hành và
giám sát TTCK như sau :
+ Điều hành và giám sát thị trường giao dịch phi tập trung. Các công ty
muốn tham gia thị trường này phải đăng ký với Hiệp hội các nhà kinh doanh
chứng khoán và phải thực hiện các qui định do Hiệp hội đưa ra.
+ Đưa ra các qui định chung cho các công ty chứng khoán thành viên
trong các lĩnh vực kinh doanh chứng khoán và đảm bảo thực hiện các qui định
này.
Thu nhận các khiếu nại của khách hàng và điều tra các công ty chứng
khoán thành viên để tìm ra các vi phạm, sau đó chuyển các kết quả điều tra tới
công ty chứng khoán đó để giải quyết.
Đại diện cho ngành chứng khoán, Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng
khoán đưa ra các đề xuất và gợi ý với những cơ quan quản lý TTCK của Chính
phủ về các vấn đề tổng quát trên TTCK.
4- Các thành phần tham gia trên TTCK
Các tổ chức và cá nhân tham gia TTCK cỏ thể được chia thành 3 nhóm
sau :
12
Nhà phát hành
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua TTCK.
Nhà phát hành là người cung cấp chứng khoán – hàng hóa của TTCK.
- Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu
Chính phủ và trái phiếu địa phương.
- Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
- Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái
phiếu, chứng chỉ thụ hưởng…phục vụ cho hoạt động của họ.
Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên TTCK.
Nhà đầu tư có thể chia thành 2 loại : nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ
chức.
+ Các nhà đầu tư cá nhân :
Nhà đầu tư cá nhân là những người có vốn tạm thời nhàn rỗi, tham gia
mua bán trên TTCK với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, trong đầu tư
thì lợi nhuận lại luôn gắn với rủi ro, lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn và
ngược lại. Chính vì vậy các nhà đầu tư cá nhân luôn phải lựa chọn các hình thức
đầu tư phù hợp với khả năng cũng như mức độ chấp nhận rủi ro của mình.
+ Các nhà đầu tư có tổ chức :
Nhà đầu tư có tổ chức, hay còn gọi là các định chế đầu tư, thường xuyên
mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Các tổ chức này thường
có các bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm để nghiên
cứu thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư. Một số nhà đầu tư chuyên
nghiệp chính trên TTCK là các công ty đầu tư các công ty bảo hiểm, các quỹ
lương hưu và các quỹ bảo hiểm xã hội khác. Đầu tư thông qua các tổ chức đầu
tư có ưu điểm nổi bật là có thể đa dạng hóa các danh mục đầu tư và các quyết
định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm.
+ Nhà môi giới – Công ty chứng khoán :
Công ty chứng khoán là những công ty hoạt đông trong lĩnh vực chứng
khoán có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính là bảo lãnh
phát hành, môi giới, tự doanh, quản lý quỹ đầu tư và tư vấn đầu tư chứng
khoán.
Để có thể thực hiện mỗi nghiệp vụ, các công ty chứng khoán phải đảm
bảo được một số vốn nhất định và phải được phép của cơ quan có thẩm quyền.
Các tổ chức quản lý điều hành TTCK
+ Ủy ban chứng khoán
Cơ quan này có thể có những tên gọi khác nhau, tùy từng nước. Nó được
thành lập để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với TTCK.
Tại Việt Nam, Ủy ban chứng khoán Nhà nước cũng đã được thành lập
theo Nghị định số 75/CP ngày 28/11/1996 của Chính phủ. Ủy ban chứng khoán
13
Nhà nước là một cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng quản lý Nhà
nước về TTCK ở Việt Nam.
+ Sở giao dịch chứng khoán
Sở giao dịch chứng khoán thực hiện vận hành thị trường thông qua bộ
máy tổ chức bao gồm nhiều bộ phận khác nhau phục vụ các hoạt động trên Sở
giao dịch chứng khoán. Ngoài ra Sở giao dịch chứng khoán cũng ban hành
những qui định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán trên Sở phù
hợp với các qui định của luật pháp và Ủy ban chứng khoán.
+ Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức của các công ty
chứng khoán và một số thành viên khác hoạt động trong ngành chứng khoán,
được thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích cho các công ty thành viên nói riêng
và cho toàn ngành chứng khoán nói chung.
5- Nguyên tắc hoạt động
Nguyên tắc cạnh tranh
Theo nguyên tắc này, giá cả trên TTCK phản ánh quan hệ cung cầu về
chứng khoán và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty. Trên thị
trường sơ cấp, các nhà phát hành cạnh tranh với nhau để bán chứng khoán của
mình cho các nhà đầu tư, các nhà đầu tư được tự do lựa chọn các chứng khoán
theo các mục tiêu của mình. Trên thị trường thứ cấp, các nhà đầu tư cũng cạnh
tranh tự do để tìm kiếm cho mình một lợi nhuận cao nhất, và giá cả được hình
thành theo phương thức đấu giá.
Nguyên tắc công bằng
Nguyên tắc này nhằm đảm bảo lợi ích cho tất cả những người tham gia
thị trường Công bằng có nghĩa là mọi người tham gia thị trường đều phải tuân
thủ những qui định chung, được bình đẳng trong việc chia sẻ thông tin và trong
việc gánh chịu các hình thức xử phạt nếu vi phạm vào những qui định đó.
Nguyên tắc công khai
Chứng khoán là các hàng hóa trừu tượng, người đầu tư không thể kiểm
tra trực tiếp được các chứng khoán như các hàng hóa thông thường mà phải dựa
trên cơ sở các thông tin có liên quan. Vì vậy TTCK phải được xây dựng trên cơ
sở hệ thống công bố thông tin tốt. Theo Luật định, các bên phát hành chứng
khoán có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, trung thực và kịp thời những thông tin có
liên quan tới tổ chức phát hành, tới đợt phát hành. Công bố thông tin được tiến
hành khi phát hành lần đầu cũng như theo các chế độ thường xuyên và đột xuất,
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, Sở giao dịch chứng khoán, các
công ty chứng khoán và các tổ chức có liên quan khác.
Nguyên tắc này nhằm bảo vệ người đầu tư, song đồng thời nó cũng hàm
nghĩa rằng, một khi đã được cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời và chính xác thì
người đầu tư phải chịu trách nhiệm về các quyết định đầu tư của mình.
Nguyên tắc trung gian
14
Theo nguyên tắc này, trên TTCK, các giao dịch được thực hiện thông qua
tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, các nhà
đầu tư thường không mua trực tiếp của các nhà phát hành mà mua từ các nhà
bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới,
kinh doanh, các công ty chứng khoán mua bán chứng khoán giúp các khách
hàng, hoặc kết nối các khách hàng với nhau qua việc thực hiện các giao dịch
mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình.
Nguyên tắc tập trung
TTCK phải hoạt động trên nguyên tắc tập trung. Các giao dịch chứng
khoán chỉ diễn ra trên Sở giao dịch chứng khoán và trên thị trường OTC, có sự
kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý Nhà nước và các tổ chức tự quản. Các
chứng khoán, hàng hóa của TTCK là các sản phẩm tài chính cao cấp nên việc
giao dịch chúng đòi hỏi thị trường phải có những cơ sở vật chất nhất định chứ
không thể diễn ra một cách tùy tiện.
II- CƠ CẤU
Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn, TTCK được chia thành thị
trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
1- Thị trường sơ cấp
Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành.
Trên thị trường này vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông
qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành.
Vai trò của thị trường sơ cấp
- Chứng khoán hóa nguồn vốn cần huy động, vốn của công ty được huy
động qua việc phát hành chứng khoán.
- Thực hiện quá trình chu chuyển tài chính trực tiếp đưa các khoản tiền
nhàn rỗi tạm thời trong dân chúng vào đầu tư, chuyển tiền sang dạng vốn dài
hạn.
Đặc điểm của thị trường sơ cấp
- Thị trường sơ cấp là nơi duy nhất mà các chứng khoán đem lại vốn cho
người phát hành. Là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành và đồng thời cũng
tạo ra hàng hóa cho thị trường giao dịch. Trên bình diện toàn bộ nền kinh tế, thị
trường sơ cấp làm tăng vốn đầu tư.
- Những người bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp được xác định
thường là Kho bạc, Ngân hàng Nhà nước, công ty phát hành, tập đoàn bảo lãnh
phát hành…
- Giá chứng khoán trên thị trường sơ cấp do tổ chức phát hành quyết định
và thường được in ngay trên chứng khoán.
2- Thị trường thứ cấp
15
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành
trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các
chứng khoán đã phát hành.
Đặc điểm thị trường thứ cấp :
- Trên thị trường thứ cấp, các khoản tiền thu được từ việc bán chứng
khoán thuộc về các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán chứ không
thuộc về nhà phát hành. Nói cách khác, các luồng vốn không chảy vào những
người phát hành chứng khoán mà chuyển vận giữa những người đầu tư chứng
khoán trên thị trường. Thị trường thứ cấp là một bộ phận quan trọng của TTCK,
gắn bó chặt chẽ với thị trường sơ cấp.
- Giao dịch trên thị trường thứ cấp phản ánh nguyên tắc cạnh tranh tự do,
giá chứng khoán trên thị trường thứ cấp do cung và cầu quyết định.
- Thị trường thứ cấp là thị trường hoạt động liên tục, các nhà đầu tư có
thể mua và bán các chứng khoán nhiều lần trên thị trường thứ cấp.
Cũng có thể phân loại TTCK theo tính chất tập trung của thị trường (tính
chất tập trung ở đây là muốn nói đến việc các giao dịch được tổ chức tập trung
tại một địa điểm vật chất). Khi đó, TTCK bao gồm Sở giao dịch chứng khoán
(thị trường tập trung) và thị trường OTC (thị trường phi tập trung).
Sơ đồ cơ cấu của thị trường chứng khoán
Ủy Ban Chứng khoán Nhà nước
(Quản lý Nhà nước về thị trường chứng khoán)
Thị trường
chứng khoán
_______________________
Thị trường sơ cấp
(Phát hành chứng khoán)
Thị trường thứ cấp
(Giao dịch chứng khoán)
_____________________
Thị trường tập trung
(Sở giao dịch)
Thị trường phi tập trung
(OTC)
3- Sở giao dịch chứng khoán
Tại Sở giao dịch chứng khoán, các giao dịch được tập trung tại một địa
điểm; các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào quá trình ghép
16
lệnh để hình thành nên phiên giao dịch. Chỉ có các loại chứng khoán đủ tiêu
chuẩn niêm yết mới được giao dịch tại đây.
4- Thị trường OTC (Over the Counter Market)
Thị trường OTC là thị trường phi tập trung cùng với thị trường tập trung
(Trung tâm giao dịch chứng khoán – Sở giao dịch chứng khoán) tạo nên một
TTCK hoàn chỉnh. Thị trường OTC là một thị trường có tổ chức (không phải là
thị trường chợ đen như nhiều người lầm tưởng) dành cho những chứng khoán
không niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán.
Thị trường OTC không có địa điểm giao dịch chính thức, thay vào đó các
nhà môi giới (công ty chứng khoán) kết nối các giao dịch qua mạng máy tính
diện rộng giữa các công ty chứng khoán và trung tâm quản lý hệ thống.
III- CHỨC NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA TTCK
1- Chức năng của TTCK
+ Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền
nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp
phần mở rộng sản xuất xã hội. Bằng cách hỗ trợ các hoạt động đầu tư của công
ty, TTCK đã có những tác động quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế
quốc dân. Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng
huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ
tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội.
+ Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng.
TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với
các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác
nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn
cho loại hàng hóa phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình. Chính
vì vậy, TTCK góp phần đáng kể làm tăng mức tiết kiệm quốc gia.
+ Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ
mô.
Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy
bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng,
nền kinh tế tăng trưởng; và ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu
hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, TTCK được gọi là phong vũ biểu của nền
kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chỉnh phủ thực hiện các chính sách
kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính
phủ để tạo nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra,
Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào
TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh
tế.
17
2- Vai trò của TTCK
+ Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán.
Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở
hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng
thanh khoản (khả năng chuyển đổi thành tiền mặt) là một trông những đặc tính
hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh
hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu quả
thì càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch
trên thị trường.
+ Đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp.
Thông qua giá chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản
ánh một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt
động của các doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra
được một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
Sự biến động không ngừng của giá chứng khoán, đặc biệt là giá của cổ
phiếu, nhà đầu tư có thể đánh giá doanh nghiệp một cách khách quan và khoa
học tại bất kỳ thời điểm nào.
Ngoài ra đối với các công ty niêm yết, nghĩa vụ công khai thông tin trên
TTCK, giúp các nhà đầu tư, các nhà quản lý thị trường có thể đánh giá sự tăng
trưởng ổn định hay suy thoái bất ổn định của các công ty.
+ Hỗ trợ và thúc đẩy các công ty cổ phần ra đời và phát triển.
TTCK hỗ trợ chương trình cổ phần hóa cũng như việc thành lập và phát
triển của công ty cổ phần qua việc quảng bá thông tin, định giá doanh nghiệp,
bảo lãnh phát hành, phân phối chứng khoán một cách nhanh chóng, tạo tính
thanh khoản cho chúng và như thế thu hút các nhà đầu tư đến góp vốn vào công
ty cổ phần.
Ngược lại, chính sự phát triển của mô hình công ty cổ phần đã làm phong
phú và đa dạng các loại hàng hóa trên TTCK, thúc đẩy sự phát triển sôi động
của TTCK.
Có thể nói TTCK và công ty cổ phần là 2 định chế song hành hỗ trợ nhau
cùng phát triển.
+ Thu hút vốn đầu tư nước ngoài
TTCK không những thu hút các nguồn vốn trong nội địa mà còn giúp
Chính phủ và doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu công ty ra
thị trường vốn quốc tế để thu hút thêm ngoại tệ. Việc thu hút vốn đầu tư nước
ngoài qua kênh chứng khoán (FPI) là an toàn và hiệu quả vì các chủ thể phát
hành được toàn quyền sử dụng vốn huy động cho mục đích riêng mà không bị
ràng buộc bởi bất kỳ điều kiện nào của các nhà đầu tư nước ngoài.
18
IV- CÁC HÀNH VI TIÊU CỰC
Tác động của TTCK đối với nền kinh tế được ví như con dao 2 lưỡi. Một
mặt nó có vai trò vô cùng quan trọng và thiết yếu cho sự phát triển của nền kinh
tế, mặt khác nếu không được vận hành đúng qui luật và không có sự giám sát
chặt chẽ của luật pháp, vì mục đích lợi nhuận những kẻ đầu cơ lũng đoạn thị
trường sẵn sàng dùng những thủ đoạn gian dối, phạm pháp để gây nên những
tác hại tiêu cực trên TTCK. TTCK càng phát triển những hành vi tiêu cực lại
càng tinh vi và xảo trá hơn.
Sau đây là một số những hành vi tiêu cực khá phổ biến trên các TTCK:
Đầu cơ chứng khoán, lũng đoạn thị trường
Trên TTCK hoạt động đầu tư làm tăng doanh số giao dịch thị trường,
tăng tính thanh khoản của chứng khoán. Nhưng nếu những nhà đầu tư cấu kết
với nhau để mua hoặc bán chứng khoán với số lượng lớn gây nên cung hay cầu
giả tạo, làm giá cổ phiếu tăng hay giảm đột biến lũng đoạn thị trường, thì đây
lại là một hành vi tiêu cực cần phải ngăn cấm.
Bán khống
Là thuật ngữ dùng để chỉ các nhà đầu tư bán chứng khoán mà họ chưa có
quyền sở hữu. Trong thực tế việc bán khống đem lại lợi nhuận rất cao nếu họ
tiên đoán đúng xu hướng của thị trường. Nhưng đây là hành vi lũng đoạn thị
trường nếu nó được thực hiện bởi sự cấu kết của nhiều người. Mua bán khống
với số lượng lớn tạo ra cung cầu giả tạo về chứng khoán gây khủng hoảng thị
trường tác hại xấu đến nền kinh tế.
Mua bán nội gián
Là hành vi của những kẻ lợi dụng quyền hành hay sự ưu tiên trong việc
nắm giữ các thông tin nội bộ của một công ty có phát hành chứng khoán ra thị
trường để cố tình mua vào hay bán ra cổ phiếu của công ty cổ phần có báo giá
trên thị trường. Sau khi thông tin này được công bó rộng rãi công khai ra công
chúng sẽ có sự thay đổi lớn về giá cả cổ phiếu, đây là thời cơ tốt cho những kẻ
mua bán nội gián kiếm được lợi nhuận lớn, nhưng nó đã vi phạm nghiêm trọng
nguyên tắc công bằng về công khai thông tin cho mọi nhà đầu tư trên TTCK.
Theo qui định hiện hành, cấm các đối tượng biết thông tin nội bộ thực
hiện các hành vi sau đây :
- Sử dụng thông tin nội bộ để mua, bán chứng khoán cho chính mình
hoặc cho bên thứ ba.
- Tiết lộ, cung cấp thông tin nội bộ hoặc tư vấn cho bên thứ ba mua, bán
chứng khoán trên cơ sở thông tin nội bộ.
Các tổ chức, cá nhân sau đây được coi là người biết thông tin nội bộ :
- Thành viên Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc, Ban kiểm soát tổ chức
phát hành, tổ chức niêm yết.
- Người tiếp cận được thông tin nội bộ do vị trí công việc trong tổ chức
phát hành, tổ chức niêm yết.
19
- Cổ đông lớn của tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết.
- Cá nhân làm việc tại Ủy ban chứng khoán Nhà nước, Trung tâm giao
dịch chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán và tại các cơ quan khác được tiếp
cận với thông tin nội bộ.
- Người kiểm toán hoạt động tài chính của tổ chức phát hành, tổ chức
niêm yết.
- Cá nhân làm việc trong các tổ chức có quan hệ hợp tác kinh doanh với
tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết.
- Cá nhân làm việc trong các tổ chức trung gian trên TTCK.
- Các tổ chức, cá nhân có liên quan khác.
Làm thiệt hại lợi ích người đầu tư
- Làm trái lệnh đặt mua, bán của người đầu tư.
- Không cung cấp xác nhận giao dịch theo qui định.
- Tự ý mua, bán chứng khoán trên tài khoản của khách hàng hoặc mượn
danh nghĩa khách hàng để mua, bán chứng khoán.
- các hành vi khác làm thiệt hại đến lợi ích người đầu tư.
Thông tin sai sự thật
Là một hành vi thiếu đạo đức nhằm mục đích làm cho giá cổ phiếu của
công ty khác sụt giảm hoặc giá cổ phiếu của công ty mình được tăng cao do
việc phao tin đồn thất thiệt trên thị trường.
Các công ty niêm yết cũng có thể vi phạm hành vi thông tin sai sự thật
nếu cung cấp thông tin cho thị trường không cập nhật, không đầy đủ hoặc thậm
chí là hoàn toàn sai sự thật cũng làm thiệt hại lợi ích nhà đầu tư và gây rối loạn
thị trường. Các công ty này cũng bị xử lý thích đáng như bị đình chỉ niêm yết
hoặc nghiêm trọng hơn là hủy bỏ niêm yết.
Tất cả những hành vi thiếu đạo đức này đều bị nghiêm cấm trong các
Luật chứng khoán các quốc gia và phải bị xử lý thích đáng.
20
CHƯƠNG III
CÔNG TY CỔ PHẦN
I- KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CÔNG TY CỔ PHẦN
1- Khái niệm
Công ty cổ phần (Joint – stock Company) ra đời do yêu cầu tất yếu khách
quan của nền đại công nghiệp – cơ khí, với trình độ khoa học – kỹ thuật cao.
Công ty cổ phần có vai trò to lớn trong quá trình phát triển kinh tế, góp phần
hoàn thiện cơ chế thị trường.
Theo Luật doanh nghiệp, công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó :
- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phiếu của mình cho người
khác, trừ trường hợp pháp luật có qui định khác.
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và
không hạn chế số lượng tối đa.
- Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo
qui định của pháp luật về chứng khoán.
2- Đặc điểm
- Vốn điều lệ của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau
gọi là cổ phần. Người chủ sở hữu vốn cổ phần gọi là cổ đông. Mỗi cổ đông có
thể mua một hoặc nhiều cổ phần.
- Công ty có thể phát hành nhiều loại cổ phần, trong đó phải có cổ phần
phổ thông. Ngoài cổ phần phổ thông, công ty có thể phát hành cổ phần ưu đãi :
cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại và cổ
phần ưu đãi do điều lệ công ty quy định.
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người
khác, trừ trường hợp đó là cổ phần ưu đãi biểu quyết và cổ phần của cổ đông
sáng lập công ty trong 3 năm đầu kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận
kinh doanh. Đặc điểm này của công ty cổ phần đã cho phép các nhà đầu tư có
khả năng chuyển đổi hình thức và mục tiêu đầu tư một cách linh hoạt.
- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
công ty trong phạm vi số vốn góp vào công ty. Đặc điểm này cho thấy các cổ
đông chỉ chịu trách nhiệm pháp lý hữu hạn đối với phần vốn góp của mình vào
21
công ty (khác với tính chịu trách nhiệm vô hạn của các thành viên hợp danh
trong công ty hợp danh, chủ doanh nghiệp tư nhân trong doanh nghiệp tư nhân).
- Công ty được quyền phát hành chứng khoán ra công chúng. Đặc điểm
này cho thấy khả năng huy động vốn của công ty là rất lớn và rộng rãi trong
công chúng.
- Cổ đông của công ty cổ phần tối thiểu phải là ba và không hạn chế số
lượng tối đa (khác với công ty TNHH là số thành viên không được quá 50 thành
viên). Trong quá trình hoạt động, công ty cổ phần được quyền phát hành chứng
khoán ra công chúng và các cổ đông được quyền tự do chuyển nhượng cổ phần
của mình, vì vậy số lượng cổ đông của công ty cổ phần thường là rất đông.
Về Ưu điểm :
So với các loại hình doanh nghiệp khác, công ty cổ phần có một số ưu
điểm sau :
+ Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức kinh doanh có tư cách pháp
nhân; công ty được phép phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vì vậy công ty cổ phần
dễ dàng huy động được một lượng vốn lớn từ các nhà đầu tư khi cần đầu tư mở
rộng sản xuất, hiện đại hóa trang thiết bị, cải tiến công nghệ… từ đó nâng cao
sức cạnh tranh của công ty trên thị trường, đây là ưu điểm nổi bật của công ty
cổ phần trong nền kinh tế thị trường.
+ Cổ đông của công ty góp vốn vào công ty và hưởng lãi hoặc chịu lỗ
tương ứng vào tỷ lệ vốn góp vào công ty. Cổ đông chỉ phải chịu trách nhiệm về
nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi vốn đã góp. Như vậy, các
cổ đông chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn đối với phần vốn góp vào công ty. Các cổ
đông chia sẻ rủi ro với nhau trong trường hợp công ty làm ăn bị thua lỗ (và chỉ
phải chịu trong phần vốn góp vào công ty).
+ Công ty cổ phần thường có rất nhiều cổ đông, vì thế công ty có thể tập
trung nhiều trí tuệ từ các cổ đông. Các cổ đông có thể tự mình tham gia quản lý
công ty hoặc cử người tham gia quản lý công ty.
+ Cổ phiếu, trái phiếu của công ty cổ phần được tự do chuyển nhượng
(trừ một số trường hợp đặc biệt), vì vậy cho phép nhà đầu tư có thể dễ dàng
chuyển hướng đầu tư. Điều này thể hiện sự đa dạng trong đầu tư, phù hợp với
xu hướng phát triển năng động của kinh tế thị trường.
+ Công ty cổ phần với việc phát hành các loại chứng khoán và cùng với
việc chuyển nhượng, mua bán chứng khoán sẽ tạo điều kiện cho sự ra đời của
TTCK. Và khi TTCK ra đời, nó sẽ tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh có thể
tìm kiếm các nguồn tài trợ cho hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh.
Về khuyết điểm :
+ Công ty cổ phần với chế độ trách nhiệm hữu hạn đã đem lại những lợi
nhuận cho cổ đông, nhưng lại chuyển bớt rủi ro cho các chủ nợ. các chủ nợ sẽ
bị thiệt thòi khi tài sản của công ty cổ phần không đủ để thanh toán hết các
khoản nợ của công ty.
22
+ Công ty cổ phần gồm đông đảo các cổ đông tham gia và thường là
không quen biết nhau, với mức độ tham gia góp vốn vào công ty cũng khác
nhau. Điều này có thể dẫn đến việc lợi dụng hoặc nảy sinh tranh chấp và phân
hóa lợi ích giữa các nhóm cổ đông khác nhau. Vì vậy, việc quản lý, điều hành
công ty cổ phần là hết sức phức tạp.
+ Cơ cấu tổ chức quản lý ở công ty cổ phần tương đối cồng kềnh và phức
tạp, vì vậy chi phí cho việc quản lý là tương đối lớn.
Tuy nhiên, công ty cổ phần là một loại hình tổ chức kinh doanh phù hợp
với qui mô sản xuất lớn, thích ứng được những đòi hỏi của nền sản xuất xã hội
hóa cao và sự phát triển của nền kinh tế hiện đại. Hiện nay, công ty cổ phần là
mô hình phổ biến trên thế giới, nhất là ở các nước có nền công nghiệp cao.
II- CƠ CẤU TỔ CHỨC QUẢN LÝ CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN
Công ty cổ phần phải có đại hội cổ đông, hội đồng quản trị và giám đốc
(tổng giám đốc); đối với công ty cổ phần có trên 11 cổ đông phải có ban kiểm
soát.
1- Đại hội đồng cổ đông
Gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết định cao nhất
của công ty cổ phần.
Đại hội đồng cổ đông bao gồm các loại sau :
+ Đại hội đồng thành lập được triệu tập để tiến hành các thủ tục thành
lập, thảo luận và thông qua Điều lệ công ty.
+ Đại hội đồng thường kỳ được tiến hành hàng năm từ một đến hai lần.
Đại hội đồng thường kỳ được triệu tập vào cuối mỗi năm tài chính hoặc bất kỳ
lúc nào mà hội đồng quản trị hoặc kiểm soát viên thấy cần thiết, để giải quyết
các công việc thuộc hoạt động kinh doanh của công ty trong khuôn khổ điều lệ,
trong đó có các việc chủ yếu sau :
- Quyết định phương hướng, nhiệm vụ phát triển công ty và kế hoạch
kinh doanh hàng năm.
- Thảo luận và thông qua bảng tổng kết năm tài chính.
- Bầu, bãi miễn thành viên hội đồng quản trị và kiểm soát viên.
- Quyết định số lợi nhuận trích lập các quỹ của công ty, số lợi nhuận chia
cho cổ đông, phân chia trách nhiệm về các thiệt hại xảy ra đối với công ty trong
kinh doanh.
- Xem xét, quyết định giải pháp khắc phục các biến động lớn về tài chính
của công ty.
- Xem xét sai phạm của Hội đồng quản trị gây thiệt hại cho công ty.
+ Đại hội đồng bất thường được triệu tập để sửa đổi Điều lệ công ty hoặc
thảo luận những vấn đề khẩn cấp có nguy cơ đe dọa đến sự hoạt động bình
23
thường của công ty như gặp khó khăn về tài chính, cần thay đổi chiến lược kinh
doanh, chấn chỉnh hoạt động của Đại hội đồng quản trị và ban kiểm soát…
Thành phần tham dự Đại hội đồng cổ đông : về nguyên tắc, mọi cổ đông
của công ty cổ phần đều có quyền tham dự Đại hội đồng để thảo luận, bàn bạc
và quyết định những vấn đề về tổ chức và quản trị của công ty. Song trong thực
tế phát triển loại hình công ty cổ phần sẽ có những công ty có số lượng cổ đông
lớn (hàng ngàn hoặc thậm chí hàng vạn cổ đông), trong trường hợp này, việc
triệu tập tất cả để tham dự là hết sức khó khăn. Mặt khác, số vốn góp cổ phần
của các cổ đông vào công ty thường không bằng nhau. Vì vậy, ở những công ty
cổ phần có số lượng cổ đông lớn thường tiến hành đại hội đại biểu cổ đông. Số
lượng đại biểu tham dự Đại hội đồng thường được ấn định trước và phân bố
theo số cổ phần hoặc số vốn góp vào công ty. Những cổ đông có đủ số cổ phần
hoặc số vốn góp qui định cho một đại biểu của đại hội thì được tham dự đại hội.
Những cổ đông không đủ điều kiện cho một đại biểu thì có thể tập hợp lại cho
đủ điều kiện để cử người đại diện tham dự Đại hội đại biểu cổ đông.
2- Hội đồng quản trị
Là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết
định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty, trừ những vấn
đề thuộc thẩm quyển của đại hội cổ đông. Thành viên hội đồng quản trị do đại
hội cổ đông bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm. Hội đồng quản trị bầu chủ tịch hội
đồng quản trị trong số thành viên hội đồng quản trị.
Hội đồng quản trị chịu trách nhiệm trước đại hội đồng cổ đông về những
sai phạm trong quản lý, vi phạm điều lệ, vi phạm luật pháp gây thiệt hại cho
công ty. Do đó Hội đồng quản trị cần phải gồm những thành viên có trình độ
chuyên môn và quản lý giỏi, am hiểu các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, pháp lý,
pháp luật thì mới hoàn thành nhiệm vụ được giao.
3- Giám đốc (Tổng giám đốc)
Do hội đồng quản trị bổ nhiệm, là người điều hành hoạt động hàng ngày
của công ty và chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị về việc thực hiện các
quyền và nghĩa vụ được giao. Chủ tịch hội đồng quản trị có thể kiêm giám đốc
(tổng giám đốc). Trường hợp điều lệ công ty không qui định chủ tịch hội đồng
quản trị là người đại diện theo pháp luật, thì giám đốc (tổng giám đốc) là người
đại diện theo pháp luật của công ty.
Giám đốc có nhiệm vụ và quyền hạn như sau :
- Trình chủ tịch Hội đồng quản trị và Đại hội đồng cổ đông những
phương hướng nhiệm vụ phát triển công ty và kế hoạch hàng năm của công ty.
- Trực tiếp và toàn quyền điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh
của công ty, tự quyết định những biện pháp giải quyết những vụ việc phát sinh
trong quá trình sản xuất kinh doanh, và phải chịu trách nhiệm cá nhân trước chủ
tịch Hội đồng quản trị về các quyết định đó.
24
- Chấp hành đầy đủ các quyết định và nghị quyết của Đại hội đồng cổ
đông và Hội đồng quản trị có liên quan đến trách nhiệm của giám đốc.
- Báo cáo đều đặn hàng tháng, quý, năm kết quả kinh doanh của công ty
với chủ tịch Hội đồng quản trị.
- Quyết định việc tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh bộ máy điều hành
của công ty, bổ nhiệm, bãi miễn, trả lương, thưởng cho các nhân viên dưới
quyền (từ phó giám đốc đến người lao động) trong công ty.
- Ký kết các hợp đồng kinh tế, hợp đồng thuê mướn nhân công với bên
ngoài.
- Lập qui chế tuyển dụng, sử dụng, bảo đảm an toan lao động, bồi dưỡng
tay nghề, đào tạo cán bộ cho CNVC trong công ty, trình Hội đồng quản trị
chuẩn y và quyết định. Sau khi đã được Hội đồng quản trị phê duyệt cho thi
hành, phải tổ chức thực hiện đúng các qui chế đó.
- Trình chủ tịch Hội đồng quản trị duyệt phương án sử dụng các quỹ của
công ty và thực hiện đúng phương án sau khi đã được duyệt.
- Tổ chức bảo vệ trật tự an ninh, bảo vệ an toàn sản xuất và tài sản công
ty.
- Chấp hành lệnh kiểm tra của ban kiểm soát công ty, xuất trình đầy đủ
hồ sơ tài liệu và tạo điều kiện thuận lợi cho ban kiểm soát hoàn thành nhiệm vụ.
4- Ban kiểm soát
Đây là bộ phận do Đại hội đồng cổ đông bầu ra, có nhiệm vụ giám sát,
kiểm tra hoạt động của Hội đồng quản trị nhằm bảo vệ lợi ích của các cổ đông –
những người sở hữu chủ đối với công ty.
Kiểm soát viên có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây :
- Kiểm tra sổ sách kế toán, tài sản, các bảng tổng kết năm tài chính của
công ty và triệu tập Đại hội đồng cổ đông khi xét thấy cần thiết.
- Trình Đại hội đồng cổ đông báo cáo thẩm tra các bảng tổng kết năm tài
chính của công ty.
- Báo cáo về những sự kiện tài chính bất thường xảy ra, về những ưu
khuyết điểm trong quản lý tài chính của Hội đồng quản trị.
Kiểm soát viên được hưởng thù lao do Đại hội đồng cổ đông quyết định
và chịu trách nhiệm trước Đại hội đồng cổ đông về những sai phạm của mình
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ gây thiệt hại cho công ty.
Quyền hạn, trách nhiệm của đại hội cổ đông, hội đồng quản trị, giám đốc
(tổng giám đốc) và ban kiểm soát được qui định cụ thể tại Luật doanh nghiệp và
Điều lệ công ty.
5- Bản điều lệ công ty cổ phần (Charter)
Tư cách pháp nhân của công ty cổ phần thể hiện trong điều lệ công ty.
Bản điều lệ này do các cơ quan quản lý Nhà nước qui định các nét căn bản.
Điều lệ công ty là một bản cam kết của tất cả các cổ đông về thành lập và
hoạt động của công ty được thông qua tại Đại hội đồng thành lập.
25