TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
KHOA LÂM HỌC
***
BÁO CÁO
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Tên khóa luận :
PHÂN LẬP VÀ TUYỂN CHỌN MỘT SỐ CHỦNG
BACILLUS THURINGIENSIS CÓ ĐỘC TÍNH CAO ĐỐI VỚI CÔN
TRÙNG HẠI CÂY TRỒNG
NGÀNH : CÔNG NGHỆ SINH HỌC
MÃ SỐ : 307
Giáo viên hướng dẫn : Ths. Nguyễn Thị Thu Hằng
: Ths. Hồ Văn Giảng
Sinh viên thực hiện : Trần Văn Tiến
Khóa học : 2006 - 2010
Hà Nội, năm 2010
1
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Ths. Nguyễn Thị Thu Hằng – Bộ
môn Giống và Công nghệ Sinh học – Khoa Lâm học – Trường Đại học Lâm
nghiệp đã tận tình trực tiếp hướng dẫn và chỉ bảo tôi trong quá trình thực hiện
khóa luận này.
T ôi xin gởi lời cảm ơn đến thầy cô giáo trường Đại học Lâm nghiệp đã
giảng dạy cho tôi những nền tảng kiến thức vững chắc để có thể tiếp thu tốt
hơn những kiến thức khoa học mới và tạo cho tôi cơ hội học hỏi quý giá này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ths. Hồ Văn Giảng đã đóng góp ý kiến quý giá
cho tôi để có thể hoàn thành bản báo cáo Khóa luận một cách tốt nhất( CHỖ
NÀY CÓ CHO VÀO KHÔNG CÔ).
Cùng với lòng biết ơn sâu sắc gứi tới toàn thể các thầy, cô và các anh,
chị trong Bộ môn Giống và Công nghệ Sinh học, gia đình, bạn bè, những
người đã giúp đỡ, dạy và động viên tôi trong suốt quá trình học tập.
Hà Nội, tháng 5 năm 2010
Sinh viên
Trần Văn Tiến
2
MỤC LỤC
3
DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG KHÓA LUẬN
STT
Kí hiệu
bảng
Tên bảng
Tran
g
1 Bảng 1.1
Một số type huyết thanh và các chủng đại diện tương
ứng
2 Bảng 1.2
Một số chủng Bt thường được ứng dụng trong sản
xuất chế phẩm
3 Bảng 1.3 Một số nghiên cứu về vi khuẩn Bt
4 Bảng 2.1 Nguồn thu thập vi khuẩn Bt từ côn trùng
5 Bảng 2.2
Nguồn thu thập Bt từ các mẫu đất ở khu vực Trường
ĐHLN
6 Bảng 3.1 Bt phân lập được từ các mẫu sâu
7 Bảng 3.2 Bt phân lập được từ các mẫu đất
8 Bảng 3.3
Hình dạng, màu sắc và đường kính khuẩn lạc của các
chủng Bt
9 Bảng 3.4
Hình dạng tế bào, bào tử, tinh thể độc của các chủng
Bt
10 Bảng 3.5
Số lượng bào tử/ml dịch lên men (thu hồi sau 60h lên
men)
11 Bảng 3.6
Tỉ lệ phần trăm sâu ăn lá dưa chuột và dưa hấu chết
bởi chế phẩm Bt
12 Bảng 3.7
Tỉ lệ phần trăm sâu ăn lá cải bắp và su hào chết bởi
chế phẩm Bt
13 Bảng 3.8 Kết quả bảo quản các chủng vi khuẩn Bt đã phân lập
DANH SÁCH CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Kí hiệu viết tắt Giải thích
4
1 Bt Bacillus thuringiensis
2 G
6
Hội trường G
6
3 T
5
Nhà thực hành T
5
4 KTX Ký túc xá
5 KHV Kính hiển vi
6 Đk Đường kính
7 ĐC Đối chứng
8 h Giờ
DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH TRONG KHÓA LUẬN
STT
Kí hiệu
hình
Tên hình Trang
1
Hình 1.1 Hình ảnh về vi khuẩn Bacillus thuringiensis
2
Hình
1.2
Quá trình xâm nhập và gây độc của Bt
5
3
Hình 2.1 Hình ảnh các nguồn mẫu thu thập vi khuẩn Bt
4
Hình 2.2 Hình ảnh về sâu thử hoạt tính
5
Hình 3.1 Một số hình ảnh trong quá trình phân lập Bt
6
Hình 3.2 Hình dạng tế bào, bào tử, tinh thể độc các chủng Bt
7
Hình 3.3
Hình ảnh về hiệu quả diệt sâu ăn lá dưa chuột và dưa
hấu
8
Hình 3.4 Hình ảnh về hiệu quả diệt sâu ăn lá cải bắp và su hào
ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa, không khí với độ ẩm cao là điều
kiện thuận lợi cho các loài sâu hại cây nông - lâm nghiệp phát triển. Khi muốn
bảo vệ năng suất cây trồng, theo thói quen, người nông dân thường sử dụng
thuốc hoá học với nồng độ cao để phun ngay sau khi dịch sâu hại bùng phát.
Đối với cây lâm nghiệp, mỗi khi dịch xuất hiện ở vườn ươm, các cánh rừng
6
trồng thì số lượng hoá chất phải dùng là rất lớn. Trung bình mỗi ha cây trồng
phải phun từ 5 – 7 kg thuốc. Điều đó quả thực là một vấn đề nghiêm trọng đòi
hỏi các nhà khoa học nói chung và các nhà bảo vệ thực vật nói riêng cần nghiên
cứu và xem xét một cách đầy đủ, bởi thuốc hoá học tuy dập tắt được nạn dịch
nhanh nhưng cũng là con dao hai lưỡi, sẽ trực tiếp phá huỷ môi trường sống ở
khu sản xuất đó, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ của con người, làm
giảm số lượng sinh vật có lợi cho con người như chim chóc, tôm, cá, những ký
sinh thiên địch như bọ rùa, ong ký sinh…
Tác hại của việc sử dụng thuốc trừ sâu hoá học đã rất rõ ràng. Trong khi
đó việc sử dụng thuốc trừ sâu sinh học có nguồn gốc từ vi khuẩn, vi nấm, virus,
côn trùng, thảo mộc đã được chứng minh rất an toàn đối với người và gia súc,
không gây ô nhiễm môi trường, không giết chết thiên địch sâu hại và sinh vật
có ích, có thể duy trì cân bằng sinh thái, không ảnh hưởng đến chất lượng nông,
lâm sản
Trong khi đó, thuốc trừ sâu sinh học, kể cả thuốc trừ sâu có nguồn gốc từ
Bacillus thuringiensis (được tiêu thụ nhiều nhất trong số các loại thuốc trừ sâu
sinh học) vẫn chưa phổ biến. Nguyên nhân là do thói quen sử dụng thuốc trừ
sâu hoá học đã ăn sâu vào tiềm thức người nông dân nước ta; thuốc trừ sâu sinh
học sản suất trong nước có hiệu lực chưa cao, tính ổn định còn thấp; thuốc trừ
sâu sinh học nhập ngoại thì có giá thành cao; việc sử dụng thuốc trừ sâu hoá
học vừa tiết kiệm hơn về chi phí, vừa đạt được hiệu quả tiêu diệt sâu nhanh
hơn…
Bởi những lý do đó nên thuốc trừ sâu sinh học vẫn không phải là lựa
chọn hàng đầu của người nông dân khi muốn dập tắt nạn dịch sâu hại. Để đạt
được lợi ích kinh tế trước mắt, người nông dân thường sử dụng thuốc trừ sâu
hoá học. Do vậy, để góp phần đưa thuốc trừ sâu sinh học nói chung và thuốc
trừ sâu có nguồn gốc từ vi khuẩn Bt nói riêng đến với người nông dân, thì việc
phổ biến nâng cao tầm nhận thức của người dân về thuốc trừ sâu sinh học kết
hợp với việc các nhà khoa học nghiên cứu để sản xuất được nhiều hơn các loại
thuốc trừ sâu sinh học hoạt lực cao, giá thành hạ là rất quan trọng.
7
Trong công nghiệp sản xuất thuốc trừ sâu vi sinh, yếu tố giống vi sinh vật
giữ vai trò quyết định năng suất, chất lượng, sản lượng và giá thành sản phẩm
nên công tác phân lập, tuyển chọn và bảo quản chủng giống có ý nghĩa rất quan
trọng. Vì vậy, cần tiếp tục phát triển hướng nghiên cứu phân lập, tuyển chọn,
ứng dụng, phân loại, nâng cao độc tính diệt sâu cũng như thúc đẩy sử dụng
thuốc trừ sâu Bt trong nông – lâm nghiệp.
Để tiếp tục hướng nghiên cứu phân lập và lựa chọn các chủng Bacillus
thuringiensis có độc lực cao, ứng dụng có hiệu quả vào thực tiễn, tôi tiến hành
khoá luận “Phân lập và tuyển chọn một số chủng Bacillus thuringiensis có
hoạt lực cao với côn trùng hại cây trồng”
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Lịch sử nghiên cứu và ứng dụng Bacillus thuringiensis
Lịch sử nghiên cứu và ứng dụng Bacillus thuringiensis (Bt) ra đời và
phát triển cùng với sự phát triển khoa học kỹ thuật của nhân loại, Bt được
nghiên cứu và ứng dụng trên nhiều lĩnh vực khác nhau [21],[2].
8
Năm 1901, Ishiwatari Shigetane - nhà sinh vật học người Nhật - khi đang
thực hiện một cuộc điều tra nghiên cứu nguyên nhân gây bệnh Sotto gây chết
đột ngột, giết chết nhiều quần thể tằm, đã phân lập được một loại vi khuẩn
(chính là Bacillus thuringiensis) là nguyên nhân gây bệnh, và ông đã đặt tên
loại vi khuẩn đó là Bacillus sotto. Đây chính là lần đầu tiên con người phát hiện
ra vi khuẩn Bt.
Đến năm 1911, Ernst Berliner - nhà sinh vật học người Đức - đã phân lập
được vi khuẩn giết hại mối Mediterranean flour. Ông phát hiện ra đây chính là
loài vi khuẩn mà Ishiwatari Shigetane đã công bố, và đặt tên lại cho loài vi
khuẩn này là Bacillus thurigiensis (hay Bt), xuất phát từ địa danh Thurigia là
một thị trấn nhỏ ở Đức, nơi đã phát hiện ra con mối đó.
Năm 1915, Ernst Berliner tiếp tục đưa ra báo cáo về một loại độc tố có
bản chất là protein được Bt sản sinh ra trong cơ thể, và theo ông đó chính là
nguyên nhân khiến các con mối bị giết hại. Tuy nhiên, tác dụng và cơ chế hoạt
động của loại protein này vẫn chưa được khám phá.
Năm 1920, những người nông dân ở các trang trại lớn tại các nước phát
triển bắt đầu sử dụng sinh khối vi khuẩn Bt phun cho cây trồng như một loại
thuốc phòng trừ sâu bệnh. Đặc biệt là nước Pháp, đã sớm bắt đầu chế tạo các
loại thuốc có nguồn gốc từ bào tử và xác của Bt, gọi là Sporine.
Năm 1956, Hannay, Fitz-James và Angus đã nghiên cứu và phát hiện ra
tác nhân chính quyết định khả năng tiêu diệt mối và sâu bọ của Bt là các phân
tử protein được sản sinh trong cơ thể vi khuẩn Bt, từ đó mở ra hướng nghiên
cứu mới của các nhà khoa học về tác nhân, cơ chế diệt sâu và di truyền của Bt.
Từ năm 1958, các chế phẩm thuốc trừ sâu có nguồn gốc từ Bt bắt đầu
được sử dụng rộng rãi ở Mỹ, Anh, Đức… Tới năm 1961, Bt được đánh giá là
một loại thuốc trừ sâu thân thiện với con người và môi trường trong chiến lược
phát triển nông nghiệp của tổ chức bảo vệ môi trường EPA (Environmental
Protection Agency) của Mỹ. Năm 1977, đã có 13 loài vi khuẩn Bt được phát
hiện và công bố. Các nghiên cứu và khám phá về phổ kháng của Bt cho thấy Bt
9
không chỉ gây độc duy nhất với một giai đoạn nhất định của các con ấu trùng
của bộ cánh vảy, mà còn gây độc cả với ấu trùng của bộ cánh cứng.
Từ năm 1980 trở đi, ý thức của con người với vấn đề môi trường sống
tăng cao, khả năng kháng độc của sâu bệnh với các loại thuốc hoá học kể cả các
loại cực độc như DDT và 666 … ngày càng gia tăng. Đồng thời, con người
cũng phát hiện được lượng tồn dư các hoá chất phòng trừ sâu hại được tích luỹ
và gia tăng dần trong môi trường sống gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới hệ sinh
thái và sức khoẻ con người. Để giải quyết những vấn đề đó, các chế phẩm
thuốc trừ sâu có nguồn gốc từ Bt ngày càng được sử dụng rộng rãi bởi tinh thể
độc do Bt tiết ra có bản chất là một loại protein, dễ dàng bị phân huỷ nhanh
chóng trong môi trường, không ảnh hưởng đến sức khoẻ con người, vật nuôi
Ngày nay, các nhà khoa học đã phát hiện ra hơn 1000 sự biến dạng của
độc tố trong cơ thể Bt. Bên cạnh đó, sự phát triển nhanh chóng của sinh học
phân tử giúp các nhà khoa học ứng dụng công nghệ GMO (Genetically Modifie
Organisms) trong chuyển gen điều khiển sự sản sinh độc tố của Bt vào cơ thể
của cây trồng, giúp cây trồng chuyển gen có thể tiết độc tố diệt sâu ăn lá hoặc
đục thân. Ngô và lúa là hai giống cây trồng đầu tiên được chuyển gen Bt do tổ
chức EPA của Mỹ thực hiện năm 1995. Cho tới hiện nay, công nghệ GMO
chuyển gen kháng sâu đã ứng dụng thành công cho nhiều loại cây trồng khác
như: Khoai tây, bông, khoai lang, đậu [8],[2].
1.2. Đại cương về vi khuẩn Bacillus thurigiensis
1.2.1. Đặc điểm hình thái của Bacillus thurigiensis
Bacillus thurigiensis là vi khuẩn đất, gram (+), hô hấp hiếu khí hoặc
hiếu khí không bắt buộc. Tế bào hình que, kích thước khoảng 3 - 6µm, có tiêm
mao phủ mỏng, có khả năng di động, tế bào đứng đơn độc hoặc xếp thành
chuỗi.
Bacillus thurigiensis có khả năng sinh nội bào tử và tinh thể độc. Bào tử
hình trứng với kích thước khoảng 1,5 – 2 µm. Tinh thể độc có kích thước
khoảng 0,6 x 0,02 µm và có nhiều hình dạng như hình ô van, hình lập phương,
hình sao, hình trứng, hình kim Khi tế bào sinh dưỡng bị phá vỡ, nội bào tử
10
và thể vùi được giải phóng (xem Hình 1.1) . Giống như bào tử của các loại vi
khuẩn khác thuộc chi Bacillus, bào tử của Bt rất bền, có khả năng kháng lại
nhiệt, bức xạ, hoá chất cao. Có thể quan sát thấy bào tử, tinh thể độc, tế bào
sinh dưỡng của Bt dưới kính hiển vi điện tử, kính hiển vi quang học [1], [7].
1.2.2. Đặc tính sinh hóa của Bacillus thurigiensis
Bacillus thurigiensiss sinh trưởng tối ưu ở nhiệt độ 28 – 30
o
C, pH 6,8 -
7,2. Trong quá trình sinh trưởng, vi khuẩn chuyển hoá thành phần đường của
môi trường thành acid acetic, lactic, pyruvic… Sau đó những chất này lại được
cơ thể sử dụng tiếp. Do đó pH của môi trường lúc đầu thì tăng (pha logarit), về
sau thì giảm. Khả năng sinh bào tử của Bacillus thurigiensis phụ thuộc vào
nhiều yếu tố mà đặc biệt là các yếu tố dinh dưỡng. Vi khuẩn có khả năng nitrit
hoá, không có khả năng lên men đường arabinoza, xiloza, manitol và phát triển
yếu trong môi trường kị khí [7],[3].
Hình 1.1: Hình ảnh về vi khuẩn Bacillus thuringiensis
1.2.3. Các độc tố của Bacillus thurigiensis
Bacillus thurigiensiss có khả năng tạo 4 loại độc tố:
+ Ngoại độc tố α (α - exotoxin)
+ Ngoại độc tố β ( β - exotoxin)
+ Ngoại độc tố γ (γ - exotoxin)
+ Nội độc tố δ (δ - exotoxin)
11
Trong 4 loại độc tố, nội độc tố δ có tác dụng mạnh nhất đến nhiều loại
côn trùng và được ứng dụng rộng rãi trong bảo vệ thực vật như một loại thuốc
sâu không độc hại với môi trường, con người và động vật [6],[2].
1.2.3.1. Ngoại độc tố α
Ngoại độc tố α được phát hiện giữa những năm 1950 từ vi khuẩn
Bacillus thurigiensis vanenlesti bởi C. Toumaroff. Ngoại độc tố α còn gọi là
enzyme Leucintinase, có hoạt tính phospholipase - tác động chủ yếu lên gốc
phospholipit của màng tế bào sâu, giúp cho vi khuẩn gây bệnh dễ xâm nhập vào
các xoang trong cơ thể côn trùng. Do vậy, enzyme Leucintinase đã trực tiếp
tham gia vào việc tấn công, gây tổn thương tế bào ở thành ruột.
Ngoại độc tố α có trọng lượng phân tử thấp, tan tốt trong nước, hoạt
động ở pH 6,6 – 7,2 và không bền nhiệt nên còn được gọi là ngoại độc tố không
bền nhiệt, tác động đặc hiệu đến các loài như: ong cắn lá, sâu thuộc bộ cánh
cứng, cánh vẩy [5], [9].
1.2.3.2. Ngoại độc tố β
Do Hall và Arkavc phát hiện năm 1959 khi nuôi ấu trùng muỗi bằng thức
ăn chứa Bt. Đây là một độc tố bền nhiệt có bản chất là nucleotide. Khi xử lý ở
120
o
C trong 15 phút vẫn giữ được hoạt tính. Cơ chế tác động của ngoại độc tố
β là cạnh tranh ATP với các enzyme ARN polymerase, dẫn đến kìm hãm hoạt
động của enzyme, ngừng tổng hợp ARN, gây rối loạn sinh tổng hợp protein.
Mặt khác, khi ngoại độc tố β cộng hưởng tác động với nội độc tố δ có thể khiến
côn trùng chết nhanh chóng.
Ngoại độc tố β gây độc cho nhiều loại côn trùng thuộc bộ cánh cứng, hai
cánh, đặc biệt khi côn trùng ở giai đoạn ấu trùng, sâu non. Ngoại độc tố β gây
cản trở sự lột xác của côn trùng. Nếu được sử dụng ở nồng độ cao, độc tố β còn
tiêu diệt cả trứng côn trùng [7].
1.2.3.3. Ngoại độc tố γ
Ngoại độc tố γ là một phospholipase, có bản chất là mạch peptide ngắn
và một số axit amin tự do. Độc tố này tan tốt trong nước, mẫn cảm với không
12
khí, ánh sáng, nhiệt độ và ôxi nên ít hữu dụng trong thực tế đồng ruộng. Cơ chế
tác dụng của ngoại độc tố γ cũng tương tự như ngoại độc tố α [10].
1.2.3.4. Nội độc tố δ
Nội độc tố δ được hình thành trong khoảng 3h của pha cân bằng. Tinh
thể này bền nhiệt (tới 80
o
C), không tan trong nước, dung môi hữu cơ nhưng tan
tốt trong môi trường có pH kiềm. Mỗi tế bào Bt có thể sinh ra một hoặc hai tinh
thể độc. Khối lượng tinh thể độc chiếm tới 30% khối lượng tế bào mang nó.
δ – exotoxin còn được gọi là protein tinh thể độc do nó tồn tại dạng tinh
thể cùng với nhiều protein tinh thể khác nhờ cầu nối disufua và liên kết kị
nước. Về bản chất độc tố này là một protein với 1180 gốc axit amin trong đó
chủ yếu gồm các loại như glutmic, asparaginic những axit amin này chịu trách
nhiệm cho đặc tính điểm đẳng điện thấp của tinh thể. Cystein tuy chiếm tỷ lệ
thấp hơn nhưng nó góp phần quan trọng trong việc giữ vững cấu trúc tinh thể,
làm tinh thể không có khả năng hoà tan. Ngoài ra, trong tinh thể còn tạp lẫn
một số hydrocacbon với tỷ lệ khoảng 5,6%. Về thành phần nguyên tố, toxin
chứa chủ yếu các nguyên tố C, H, O, N, S. Các nguyên tố Ca, Mg, Si, Fe chiếm
tỷ lệ nhỏ hơn. Ni, Ti, Zn, Mn, Cu… chiếm tỷ lệ rất nhỏ, còn P hầu như không
có [11],[13],[2].
1.2.4. Tính đa dạng của Bt.
Cho đến nay các nhà khoa học đã phân lập, phân loại được một số lượng
lớn các chủng Bt dựa theo các đặc điểm sau:
- Khả năng hình thành enzyme leucitinase.
- Cấu trúc tinh thể, khả năng gây độc.
- Đặc tính huyết thanh học (kháng huyết thanh tiêm mao H).
- Phản ứng ngưng kết của các tế bào sinh dưỡng với các kháng huyết
thanh.
Phương pháp phân loại theo đặc tính huyết thanh là phổ biến. Theo
phương pháp này, dựa vào 50 type huyết thanh chuẩn người ta đã chia các
chủng Bt đã phân lập được ra làm 63 loài phụ (subspecies) [14],[3],[2] . Một số
type huyết thanh và các chủng đại diện tương ứng (xem Bảng 1.1).
13
Bảng 1.1: Một số type huyết thanh và các chủng đại diện tương ứng
Type huyết
thanh
Chủng đại
diện
Viết tắt Người nghiên cứu
1 B. thuringiensis THU Bliner (1915), Heimpel&
Angus (1958)
3a, 3b B. kurstaki KUR De Barjac & Lemill (1970)
4a, 4b B. sotto SOT Ishiwata (1905); Heimpel
& Angus (1958)
5a, 5b B. candensis CAN De Barjac & Bonnefoi (1972)
8b, 8d B. nigeriensis NIG Weiser and prasertphon
(1984)
14 B. israelensis ISR De Barjac & Cs (1992)
30 B. medellin MED Orduz & Cs (1992)
33 B. leesis LEE Lee & Cs (1944)
46 B. chanpaisis CHA Chainpaisang (1994)
48 B. balearica BAL Iriate Garcia (1995)
49 B. muju MUJ Park (1995)
50 B. navarrersis NAV Iriate Garcia
Gần đây, nhờ sự phát triển mạnh của công nghệ gen, các nhà khoa học
đã giải mã được hầu hết các gen mã hóa cho tinh thể độc. Từ cơ sở đó, một
phương pháp phân loại khác đã được đưa ra: phương pháp phân loại dựa vào
lớp gen Cry. Với phương pháp này, các nhà khoa học đã đưa ra 20 lớp gen với
các đặc điểm protein tinh thể độc, type huyết thanh, côn trùng đích khác nhau.
1.3. Các yếu tố hình thành tinh thể độc
Bao gồm tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển của vi
khuẩn Bacillus thurigiensis như: nhiệt độ, nguồn C, N, P Điều kiện tối ưu
cho Bt sinh trưởng là 28 – 30
o
C. Nếu nhiệt độ là 15
o
C thì bào tử không hình
thành và số lượng tinh thể độc cũng giảm đi đáng kể. Nguồn dinh dưỡng C, N,
P ảnh hưởng mạnh đến sự hình thành tinh thể độc. Một số acid amin như
leucin, isoleucin gây ức chế quá trình sinh trưởng của vi khuẩn nên giảm lượng
tinh thể độc. Các yếu tố cản trở sự trao đổi acid acetic cũng làm ức chế sự hình
14
thành bào tử, tinh thể độc. Các chủng đột biến mất khả năng sinh protease
ngoại bào thì không có khả năng sinh tinh thể độc và bào tử [15], [16].
1.4. Cơ chế tác động của tinh thể độc lên côn trùng
1.4.1. Quá trình hoạt hoá tinh thể độc
Theo Angus (1907), protein tinh thể độc của Bt hoạt động trên tế bào
biểu mô ruột giữa của côn trùng ở pH kiềm. Tinh thể tan vào môi trường kiềm
của ruột giải phóng ra protein tinh thể, chất này sau đó bị phân cắt bởi protease.
Kết quả là từ một protein 135 kDa bị mất đi một nửa để còn lại phần lõi xấp xỉ
60 kDa bền với protease. Những thí nghiệm chỉ ra rằng protein 135 kDa chưa
bị cắt bởi protease không có khả năng gây độc với côn trùng gọi là “protoxin" .
còn lõi 60 kDa gây độc vời côn trùng gọi là “toxin”. Quá trình biến đổi từ tinh
thể độc protoxin thành toxin được gọi là quá trình hoạt hoá tinh thể độc.
Quá trình hoạt hoá tinh thể độc gồm hai giai đoạn: Giai đoạn một liên
quan tới sự giải phóng protoxin từ tinh thể độc. Giai đoạn này diễn ra do sự cắt
đứt các liên kết disulfua (nối giữa các phân tử protein) trong môi trường bởi các
nhân tố khử disulfua. Giai đoạn hai là sự tiêu hoá protoxin thành toxin. Năm
1990 Choma và cs báo cáo rằng để biến phân tử protoxin CryIAc 135 kDa
thành lõi toxin 60 kDa phải trải qua bảy bước mà ở mỗi bước phân tử protoxin
sẽ bị mất đi một mảnh khoảng 10 kDa, trong quá trình này sự cắt bỏ diễn ra
không theo một trật tự nào. Tuy nhiên, đến nay cơ chế của sự cắt bỏ để biến
protoxin 135 kDa thành toxin 60 kDa vẫn chưa được làm sáng tỏ, và các nhà
khoa học vẫn chưa xác định được protoxin bị cắt từ cả hai đầu C và N hay bị
cắt tuần tự từ đầu C [17],[3].
1.4.2. Cơ chế hoạt động của toxin trên tế bào biểu mô ruột giữa côn trùng
Những nghiên cứu về hình thái sau khi bị chết bởi Bt của côn trùng cho
thấy ruột của côn trùng bị tổn thương. Cụ thể là do hình thành các lỗ hổng trên
các tế bào biểu mô, dẫn đến gây rối loạn hoạt động hấp thụ dinh dưỡng của
ruột. Có ba mô hình giải thích cơ chế hoạt động của toxin như sau:
- Mô hình 1, thường được gọi là mô hình “dung giải hoà tan thẩm thấu
keo” bao gồm sự tổng hợp các lỗ không đặc trưng bởi phân tử độc tố. Khi độc
15
tố liên kết với các receptor trên màng sẽ hình thành một phức hệ. Phức hệ này
tạo nên một lỗ xuyên qua màng tế bào biểu mô cho phép sự qua lại tự do của
nhiều phân tử với kích thước khác nhau dẫn đến gây rối loạn chức năng của
ruột [10], [14].
- Mô hình 2, cho rằng lỗ hổng được hình thành bởi độc tố Bt là đặc trưng rất
cao đối với ion K
+
. Thuyết này được đưa ra từ bằng chứng là sự vận chuyển
axit amin phụ thuộc K
+
bị ức chế bởi độc tố tinh thể. Cụ thể, những lỗ này dễ
cho K
+
đi vào, sau đó làm giảm gradient điện thế màng làm rối loạn sự vận
chuyển amino axit trong cơ thể sâu [14], [17].
- Mô hình 3, cho rằng độc tố Bt hoạt động trên nhiều kênh hiện có của tế
bào biểu mô ruột. Sự có mặt của các độc tố dẫn đến các kênh cho phép K
+
tràn
vào không giới hạn từ đó làm ức chế sự hấp thụ axit amin [19].
1.4.3. Tác động chọn lọc của độc tố Bt lên côn trùng
Sở dĩ độc tố do Bt tiết ra có tác động chọn lọc lên côn trùng bởi tinh thể
độc sau khi xâm nhập vào ruột côn trùng, để có thể gây chết cho vật chủ thì
phải được hoạt hoá thành toxin và toxin phải gắn được lên tế bào biểu mô ruột.
Tuy nhiên, quá trình hoạt hoá tinh thể độc phụ thuộc rất nhiều vào pH ruột và
hệ enzyme. Nếu pH < 8 thì hầu hết các tinh thể độc không giải phóng ra
protoxin. Mặt khác khi pH phù hợp (pH > 8) nhưng hệ enzyme không phù hợp
thì toxin cũng không được tạo ra. Một điều nữa, khi tinh thể độc đã được hoạt
hoá thành toxin nhưng những toxin này không bám được lên màng tế bào biểu
mô ruột, độc tố vô tác dụng. Ví dụ: sâu xám hại rau có pH ruột là 9,5 và có khả
năng hoạt hoá tinh thể độc nhưng không bị tiêu diệt, chúng hoàn toàn khoẻ
mạnh khi được nuôi với thức ăn chứa chế phẩm Bt vì trên màng ruột của chúng
không chứa các thụ thể để toxin của Bt bám vào [12]. Hình ảnh về quá trình
xâm nhập và gây độc của Bt( xem Hình 1.2).
16
Hình 1.2: Quá trình xâm nhập và gây độc của
Bt
1.5. Ưu nhược điểm của thuốc trừ sâu Bt
* Ưu điểm
- Không gây độc hại cho người và các động vật máu nóng vì pH đường
ruột của các đối tường này thấp không thể hoạt hoá được tinh thể độc.
- Tác động lên côn trùng một cách chọn lọc nên trong nhiều trường hợp
người ta có thể sử dụng những chủng Bt xác định để tiêu diệt côn trùng đích mà
không ảnh hưởng đến côn trùng vô hại khác.
- Chế phẩm Bt không ô nhiễm môi trường như các loại thuốc trừ sâu hoá
học. Đồng thời nó không tác động xấu lên chất lượng nông sản [21], [4].
* Nhược điểm
- Chế phẩm Bt không có khả năng diệt côn trùng bên trong thực vật
(thân, rễ )
- Độc tố Bt lắng đọng nhanh trong nước và dễ dàng bị hấp thụ bởi các
hoạt chất hoá học làm cho lượng độc tố đến được côn trùng giảm đi.
- Khi độc tố rơi xuống đất dễ bị vi sinh vật phân giải; trong điều kiện bị
chiếu sáng và dưới tác động của một số nhân tố môi trường khác độc tố Bt rất
dễ bị mất hoạt tính.
17
- Hiệu quả chưa thật cao do diễn biến chậm khi gặp điều kiện thời tiết bất
lợi thì khó đạt kết quả tốt.
- Khó cân đong ngoài đồng ruộng, thời gian bảo quan ngắn thưòng từ 1
– 2 năm ở điều kiện lạnh khô.
- Giá thành cao [1], [2],[3].
1.6. Ảnh hưởng của thuốc trừ sâu Bt đến con người, động vật và thực vật
1.6.1. Ảnh hưởng của Bt đến sức khoẻ con người
Khi các chế phẩm Bt được ra đời và ứng dụng rộng rãi, nảy sinh cho con
người một mối lo ngại do khi sử dụng Bt phần lớn sử dụng bình xịt thuốc hoặc
vãi, vì thế mà Bt dễ dàng tiếp xúc với da của người nông dân, giả thiết đặt ra là
người người phun một lượng thuốc đáng kể có thể gây ngộ độc. Ngoài ra còn
có thể gây phát tán bào tử. Tuy vậy, nhiều báo cáo nghiên cứu đã cho thấy
không hề có sự kích ứng đối với da của con người cũng như không xuất hiện
những ảnh hưởng không tốt đối với sức khoẻ của con người [20],[18].
Trước khi được đưa ra thị trường, các chế phẩm và cây trồng mang gen
Bt phải trải qua rất nhiều thử nghiệm quản lý nghiêm ngặt trong đó bao gồm
các nghiên cứu về độc tính và khả năng gây dị ứng. Cục Bảo vệ Môi trường
Hoa kỳ (US Environmental Protectin Agency US-EPA) đã triển khai những
đánh giá độc tố và thậm chí các protein Bt đã được thử ở liều lượng cao hơn.
Theo Extension Toxicology Network (Extoxnet), các dự án về thông tin thuốc
trừ sâu ở một số trường đại học của Hoa kỳ cho thấy “Kết quả cuộc thử nghiệm
trên 18 người mỗi ngày ăn 1 gram Bt thương mại trong vòng 5 ngày, và trong
các ngày khác nhau… không gây ra chứng bệnh gì. Những người ăn 1 gram
Bt/ngày trong 3 ngày liên tục hoàn toàn không bị ngộ độc hay nhiễm bệnh”.
Hơn nữa, ở mức phân tử protein nhanh chóng bị phân hủy bởi dịch vị dạ dày
(trong điều kiện phòng thí nghiệm) [Extoxnet, 1996].
Nhiều thí nghiệm trên con người với những người tình nguyện được thực
hiện bởi tổ chức y tế thế giới (WHO) và tổ chức môi trường thế giới (UNEP),
kết quả thu được cho thấy: mặc dù những người tình nguyện thường xuyên ăn
và hít vào một lượng lớn chế phẩm Bt và Btk, nhưng không hề thấy bất kỳ một
18
biểu hiện bất thường nào xảy ra trên cơ thể con người. Từ những nghiên cứu cụ
thể của các tổ chức uy tín trên thế giới, các nhà khoa học đã công nhận Bt và
công nghệ Bt hoàn toàn vô hại với con người và sức khoẻ cộng đồng.
Năm 1995, chương trình “Các vấn đề hợp tác quốc tế cho sự quản lý chất
hoá học” (IOMC) hợp tác giữa các tổ chức UNEP, ILO, The Foof and
Agriculture Organization of the United Nations, WHO nhằm thúc đẩy hợp tác
phát triển kinh tế, chia sẻ và phối hợp trong các chính sách chung nhằm quản lý
chất thải có ảnh hưởng nguy hại tới đời sống của con người. Chương trình đã
khuyến khích việc phát triển sử dụng Bt thay cho các loại thuốc trừ sâu hại hoá
học kinh điển khác.
1.6.2. Ảnh hưởng của Bt tới các loài động vật
Tinh thể độc do Bt sản sinh chủ yếu tiêu diệt các loại ấu trùng gây hại
đối với côn trùng như các loại côn trùng thuộc bộ cánh cứng, cánh vảy, các loại
mối mọt, muỗi gây bệnh… Các loại tinh thể độc của Bt có tính đặc hiệu nhất
định đối với các loài nhất định và ngay cả một loài thì cũng chỉ gây độc ở một
giai đoạn sinh trưởng nhất định đó là giai đoạn sâu non hay ấu trùng, theo
nguyên tắc chìa khoá và ổ khoá. Các tác nhân gây độc của Bt chỉ có thể gây hại
khi tác động với thụ thể phù hợp trên cơ thể ấu trùng, đối với các loại protein
không phù hợp khác thì sự không khớp được với loại protein của vật chủ làm
cho độc tố không phát huy được tác dụng. Thêm vào đó, môi trường khác nhau
trong thành ruột ở các loại sinh vật khác nhau và trong giai đoạn sinh trưởng
khác nhau cũng là yếu tố to lớn quyết định tính chuyên biệt của protein độc tố.
Trong lịch sử nghiên cứu về Bt trên thế giới, nhiều nghiên cứu trên các
loài động vật hoang dã đã được thực hiện: Năm 1989, Bendell đã tiến hành các
nghiên cứu theo dõi tác động của Bt tới quần thể các loài động vật có vú nhỏ ở
một số khu rừng gần trang trại sản xuất nông nghiệp ở Canada. Kết quả thu
được không hề có sự biến đổi số lượng quần thể này kể cả các loài thuộc bộ
gặm nhấm, họ chuột đồng là những sinh vật thường xuyên ăn cỏ ven rừng và
trong cánh đồng…
19
Beavers và cộng sự, 1989; Lattin và cộng sự, 1990; Beavers, 1991 đã tiến
hành những nghiên cứu trên các loài chim trên thế giới: Các loài chim được chọn
nghiên cứu được xử lý bằng chế phẩm Bt và theo dõi, tính toán sự biến động trong
quần thể. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng không hề có sự biểu hiện của bệnh
trên chim, và không có sự suy giảm số lượng cá thể chim trong quần thể.
Nhiều nghiên cứu khác của các nhà khoa học thuộc các quốc gia tiên tiên
trên thế giới cũng đã tiến hành nhằm điều tra ảnh hưởng của chế phẩm Bt và
cây trồng mang gen Bt đối với các loài sinh vật đất và các loài côn trùng khác
được xem là có ích trong nông nghiệp. Kết quả phân tích trong một thời gian
dài đã cho thấy, Bt và công nghệ sử dụng cây trồng chuyển gen Bt không gây
ra ảnh hưởng bất lợi không chỉ đối với các sinh vật đất có ích mà còn với các
sinh vật đất không phải là đích tấn công của chúng, thậm chí ngay cả khi các
sinh vật này được xử lý Bt với liều lượng cao hơn nhiều so với thực tế có thể
xảy ra trong điều kiện trồng trọt mà con người có thể đưa vào. Từ đó cho thấy
không có sự thay đổi nào trong quần thể vi sinh vật đất giữa các cánh đồng sử
dụng thuốc trừ sâu Bt và cánh đồng không sử dụng [Donegan và cộng sự,
1995].
Các cuộc thử nghiệm của Extoxnet năm 1996 được tiến hành trên chó,
chuột, chuột lang, thỏ, cá, ếch, kỳ giông và chim… cho thấy: protein Bt không
gây ra ảnh hưởng xấu hay biến đổi số lượng quần thể. Cũng cần nhấn mạnh
rằng, độc tố cũng hoàn toàn không gây ảnh hưởng đến các loài côn trùng có ích
hoặc động vật ăn thịt như ong mật và bọ cánh cứng. Hầu hết các chế phẩm của
Bt như Bt, Btg, Btt, Btte… qua nghiên cứu đều cho kết quả âm tính với những
tác động bất lợi đến thế giới các loài động vật. Chỉ những loài động vật gây hại
chuyên biệt mới bị tác động của Bt, các loài động vật không phải là đích của Bt
thì không hề chịu bất kỳ một tác động bất lợi nào từ Bt [22].
1.6.3. Ảnh hưởng của Bt đến các loài thực vật
Khi công nghệ Bt hiện đại phát triển, cùng với sự phát triển của sinh học
phân tử và khoa học kỹ thuật đã cho phép con người chuyển gen sản sinh
protein đặc hiệu của Bt vào trong cơ thể của các loài cây trồng. Kỹ thuật này đã
20
được áp dụng trong các loại cây trồng như Ngô, Lúa, Bông… Tuy nhiên vấn đề
đặt ra gây lo ngại cho con người ở đây chính là cây trồng mang gen Bt cho sản
phẩm chất lượng như thế nào, có ảnh hưởng tới hệ sinh thái và quần thể cây
trồng trên các cánh đồng không?
Vấn đề này trở thành một chủ đề nóng bỏng khi vào năm 1999, một báo
cáo khoa học đã công bố về ảnh hưởng có hại của hạt phấn từ cây ngô mang
gen Bt đến ấu trùng của loài bướm có lợi Monarch. Báo cáo này đưa ra đã gây
một mối quan tâm đặc biệt và lo ngại về những rủi ro mà thực vật chuyển gen
Bt có thể gây ra đối với sinh vật có ích và sinh vật trung lập trong tự nhiên.
Tuy nhiên, những nghiên cứu trong thời gian gần đây của các nhà khoa
học đã cho thấy loài ngô chuyển gen sản sinh độc tố của Bt gây ảnh hưởng
không đáng kể đối với quần thể bướm Monarch trên cánh đồng. Một chương
trình hợp tác nghiên cứu giữa các nhà khoa học Hoa Kỳ và Canada đã cung cấp
những thông tin nhằm xây dựng quá trình đánh giá rủi ro tiêu chuẩn về ảnh
hưởng của ngô Bt đối với quần thể bướm Monarch. Các nhà khoa học đi đến
kết luận rằng, ở hầu hết các giống lai thương mại thì protein độc tố Bt xuất hiện
với nồng độ thấp hơn nhiều trong hạt phấn và không hề gây ảnh hưởng có hại
đến các loài bướm trên cánh đồng. Quần thể các loài sinh vật có ích và trung
lập khác không hề bị suy giảm trên các cánh đồng này [22].
Như vậy, cây trồng sử dụng công nghệ cấy gen Bt (công nghệ GMO)
không hề tác động đến đa dạng sinh học trên các cánh đồng, cũng như sản
phẩm của cây trồng Bt không gây tác động nào đối với các sinh vật sử dụng
chúng cũng như đối với con người.
1.7. Tình hình nghiên cứu, sản xuất và sử dụng thuốc trừ sâu Bt
1.7.1. Tình hình nghiên cứu, sản xuất và sử dụng thuốc trừ sâu Bt trên thế
giới
Từ khi phát hiện ra vi khuẩn Bt, con người ngày càng nhận thức được rõ
hơn về tác dụng và hiệu quả của loại vi khuẩn này. Một loạt các nghiên cứu cấp
quốc tế và các nghiên cấp quốc gia đã và đang được đề ra nhằm phát triển công
21
nghệ sử dụng Bt một cách rộng rãi trong cộng đồng với mục đích bảo vệ môi
trường sống của con người và môi trường tự nhiên trong sạch [21], [3].
Năm 1938, chế phẩm Bt được sản xuất và bán ra đầu tiên từ phòng thí
nghiệm của Pháp. Tiếp sau đó, một loạt các nhà sản suất của các nước khác
trên thế giới sản xuất thuốc trừ sâu có nguồn gốc từ Bt với các tên thương phẩm
như: VMP, Pipel, Biobit…
Ở Trung Quốc, sản lượng thuốc trừ sâu Bt tăng lên rất nhanh từ 26 tấn
năm 1983 lên 260 tấn 1986. Đến năm 1990 sản lượng đạt 900 tấn. Ở Nga từ
năm 1987 đã đạt sản lượng 6100 tấn/năm, đủ phục vụ cho 110 ha ruộng. Tại
Mỹ, lượng chế phẩm Bt được sử dụng lên tới hơn 1000 tấn/năm. Ngoài việc
ứng dụng để bảo vệ cây trồng, chế phẩm Bt còn được nhiều nước sử dụng trong
công tác vệ sinh dịch tễ như diệt trừ các loại muỗi, ruồi… bảo vệ sức khoẻ
con người.
1.7.2. Tình hình nghiên cứu, sản xuất và sử dụng thuốc trừ sâu Bt ở Việt
Nam
Bt được du nhập vào nước ta từ những thập niên 1970 nhưng do điều
kiện khách quan về kinh tế mà nước ta chưa có điều kiện áp dụng cũng như
quan tâm đến vấn đề này.
Trong vài năm trở lại đây, khi một loạt các vấn đề môi trường trong nông
nghiệp được khám phá gây nhiều dư luận bức xúc, lo ngại cho sức khoẻ con
người. Việc nghiên cứu và ứng dụng Bt được xem như là một cứu cánh trong
lĩnh vực phòng trừ sâu hại. Tuy vậy, việc sử dụng Bt ở nước ta hiện nay còn
khá nhiều hạn chế, cụ thể là trong lĩnh vực triển khai, nước ta còn rất thiếu các
điều kiện, phương tiện để nghiên cứu, có rất ít các nhà khoa học đi chuyên sâu
trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó các cơ sở thực nghiệm về công nghệ sinh học
của nước ta còn nhỏ hẹp, số lượng ít ỏi, đó là một trong nguyên nhân lớn dấn
đến sự hạn chế trong việc sản xuất và sử dụng các loại thuốc trừ sâu Bt [21],
[16].
Về mặt quản lý, nước ta còn rất thô sơ và yếu trong công tác giống, công
tác kiểm định, tàng trữ đến nghiên phát triển, thu thập lai tạo … Mặt khác,
trong phân phối sản phẩm, nước ta lại quá quan tâm đến quảng bá cho các loại
hoá chất bảo vệ thực vật hoá học, do vậy việc quảng bá cho thương hiệu Bt
22
không được quan tâm đúng mức. Đồng thời trong công tác khuyến nông, những
hạn chế về tuyên truyền để người nông dân nâng cao hiểu biết còn yếu kém,
người nông dân chỉ muốn có hiệu quả tức thời và sử dụng thuận tiện, chính vì
thế mà ít quan tâm đến các chế phẩm Bt.
Tuy nhiên, bước đầu các chuyên gia nước ta thuộc Viện công nghệ sinh
học (Viện Khoa học và công nghệ) đã tiến hành nghiên cứu và sản sản xuất
thành công nhiều thuốc trừ sâu sinh học Bt đạt hiệu quả cao, hứa hẹn một
tương lai tốt đẹp cho nông sản Việt Nam. Sau đây là bảng thống kê các nghiên
cứu và một số chủng Bt chính được ứng dụng trong sản xuất chế phẩm ở Việt
Nam( xem Bảng 1.2 và Bảng 1.3).
Bảng 1.2: Một số chủng Bt thường được ứng dụng trong sản xuất
chế phẩm
STT Tên gọi Ký hiệu
1 Bacillus thuringiensis Bt
2 Bacillus thuringiensis
subspecies aizawai
Bta
3 Bacillus thuringiensis
subspecies
darmstadiensis
Btd
4 Bacillus thuringiensis
subspecies entomocidus
Bte
5 Bacillus thuringiensis
subspecies israelensis
Btk
6 Bacillus thuringiensis
subspecies kurstaki
Btko
7 Bacillus thuringiensis
subspecies konkukian
Btt
8 Bacillus thuringiensis
subspecies tenebrionis
Btte
9 Bacillus thuringiensis
subspecies galleriae
Btg
Bảng 1.3: Một số nghiên cứu về vi khuẩn Bt ( phần này em tìm mà không
được nhiều, cô có bổ sung cho em nhé! Em cảm ơn cô!)
STT Tên đề tài nghiên cứu Tác giả
1 Nghiên cứu sản xuất chế phẩm vi sinh từ chủng vi
khuẩn Bacillus thuringiensis subsp. israelensis serotype
TS. Hồ Thị
Hồng Nhung
23
H14 diệt lăng quăng muỗi và cs - Viện
Pasteur
TP.HCM
(2009)
2 Phân lập các chủng B. thuringiensis var. kurstaki ở Việt
Nam
Bùi Thị Hương
và cs – Viện
sau thu hoạch
(2003)
3 Phân loại B. thuringiensis bằng phương pháp định typ
huyết thanh của Ohba và Aizawai ở Việt Nam
Đinh Duy
Kháng-
Phòng Vi Sinh
Phân tử, Viện
Công nghệ
Sinh học
(2003)
4 Đa dạng phân tử của Bacillus thuringiensis ở các tỉnh
bắc bộ và bắc trung bộ
La Thị Nga và
cs – Viện Công
nghệ Sinh học
(2003)
5 Phân loại các chủng Bt theo typ huyết thanh Lecadet va cs
(1999)
6 Phân loại gen mã hóa nội độc tố Delta ở Bt và côn trùng
đích tương ứng
Hoft và
Whiteley
(1989)
7 Phân loại gen mã hóa cho các protein độc tố diệt côn
trùng
Hoft và
Whiteley
(1989)
CHƯƠNG 2
MỤC TIÊU – ĐỐI TƯỢNG - NỘI DUNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
• Mục tiêu chung
24
Phân lập được một số chủng Bt từ côn trùng bị vi khuẩn Bt ký sinh và
đất. Trên cơ sở đó chọn lọc được chủng có hoạt lực cao trong diệt sâu hại
cây trồng, làm tiền đề cho những nghiên cứu tạo chế phẩm vi sinh trong bảo
vệ thực vật.
• Mục tiêu cụ thể
+ Phân lập được các chủng Bt từ đất, côn trùng.
+ Xác định được một số đặc điểm của các chủng Bt đã phân lập: hình
dạng, màu sắc khuẩn lạc, tế bào, bào tử, tinh thể độc.
+ Thử hoạt lực diệt sâu hại cây trồng của các chủng Bt đã phân lập.
+ Tạo một bộ sưu tập nhỏ về vi khuẩn Bt lưu trữ tại Trung tâm giống &
CNSH – Đại học Lâm nghiệp.
2.2. Đối tượng và giới hạn nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Các chủng vi khuẩn Bacillus thuringiensis tồn tại trong:
+ 32 mẫu đất thu thập ở khu vực Trường ĐH Lâm nghiệp - Xuân Mai -
Chương Mỹ - Hà Nội.
+ 03 mẫu côn trùng nghi bị vi khuẩn Bacillus thuringiensis xâm nhiễm
* Giới hạn của nghiên cứu
Do điều kiên thí nghiệm, thời gian thực hiện khóa luận có hạn, cũng như
trình độ bản thân còn hạn hẹp. Vì vậy, chưa xác định được chủng vi khuẩn Bt
đã phân lập thuộc loài, chi nào và việc xem xét một cách chính xác sự khác
nhau giữa các chủng Bt đã phân lập có sự trùng lặp nhau không chỉ là tương
đối. Khóa luận chỉ tập trung vào phân lập được chủng vi khuẩn Bt có hoạt lực
cao trong việc tiêu diệt côn trùng gây hại cây trồng.
2.3. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu phân lập Bt từ mẫu côn trùng và đất
- Xác định đặc điểm khuẩn lạc của các chủng Bt đã phân lập.
- Xác định đặc điểm tế bào, bào tử, tinh thể độc.
- Xác định hoạt lực diệt sâu dưa chuột của các chủng Bt đã phân lập.
25