Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

nghiên cứu khoa học TÊN đề tài “ PHÙ ĐỔNG – văn hóa và DI sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (728.16 KB, 45 trang )

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO HÀ NỘI
PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO GIA LÂM

BÀI DỰ THI DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ TÍCH HỢP
MƠN : LỊCH SỬ
MƠN HỌC TÍCH HỢP : NGỮ VĂN, GDCD, ĐỊA LÍ
TÊN ĐỀ TÀI “

PHÙ ĐỔNG – VĂN HÓA VÀ DI SẢN”

TỔ: KHOA HỌC XÃ HỘI
NGƯỜI THỰC HIỆN: LÊ THỊ THANH THỦY
ĐIỆN THOẠI: 0913532046
EMAIL:

Phù Đổng, tháng 1 năm 2015


PHIẾU THÔNG TIN VỀ GIÁO VIÊN

Sở Giáo dục & Đào tạo Hà Nội
Phòng Giáo dục & Đào tạo Gia Lâm
Trường THCS Phù Đổng
Địa chỉ: Xóm Ba , Phù Đổng, Gia Lâm, Hà Nội
Điện thoại: 043.8785391 ; Email:
Họ tên giáo viên: LÊ THỊ THANH THỦY
Ngày sinh : 23 tháng 5 năm 1969
Điện thoại: 0913532046; Email:


PHIẾU MÔ TẢ DỰ ÁN DẠY HỌC – MÔN LỊCH SỬ


Sở Giáo dục & Đào tạo Hà Nội
Phòng Giáo dục & Đào tạo Gia Lâm
Trường THCS Phù Đổng
Địa chỉ: Xóm Ba , Phù Đổng, Gia Lâm, Hà Nội
Điện thoại: 043.8785391; Email:
Họ tên giáo viên: Lê Thị Thanh Thủy
Điện thoại: 0913532046; Email:
I. Tên dự án dạy học
Lịch sử địa phương
“ PHÙ ĐỔNG - VĂN HÓA VÀ DI SẢN”
II. Mục tiêu dạy học
1. Kiến thức:
1.1. Môn Lịch sử
- Nắm được những kiến thức cơ bản về lịch sử vùng đất và con người Phù Đổng từ
cội nguồn đến nay.
- Hiểu biết về vốn văn hóa, truyền thống của quê hương Phù Đổng
- Nắm được giá trị, ý nghĩa văn hóa, các giá trị di sản của mảnh đất địa linh nhân
kiệt, lịch sử …-> tự hào.
- Nêu được cách giữ gìn và phát huy các giá trị lịch sử văn hóa - di sản của q
hương.
1.2. Mơn Văn học
- Kể lại được truyền thuyết Thánh Gióng, ý nghĩa của truyền thuyết , biết giới thiệu
thuyết minh về quê hương Phù Đổng, về các di tích lịch sử, lễ hội Gióng.
1.3. Mơn Địa lý
- Nắm được vị trí địa lí của quê hương Phù Đổng trong vùng đất Tam cổ, Gia Lâm,
Hà Nội.
- Vị trí địa lí của các di tích văn hóa, kiến trúc độc đáo của Phù Đổng.
1.4. Mơn Giáo dục công dân
- Hiểu được các giá trị văn hóa cả vật chất và tinh thần của người dân Phù Đổng.
Giáo dục truyền thống yêu quê hương, niềm tự hào dân tộc.



- Biết giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa – di sản của q hương, gia đình,
dịng tộc.
2. Kỹ năng
2.1. Môn Lịch sử
- Nhớ các sự kiện lịch sử và văn hóa của Phù Đổng, các di tích đền chùa, các hoạt
động diễn ra trong lễ hội .
- Tham gia các vai diễn trong hoạt động lễ hội để góp phần giữ gìn di sản văn hóa
của Phù Đổng, của nhân loại.
- Là một nhân chứng sống của Kịch trường sân khấu dân gian trong lễ hội lớn
nhất của đồng bằng Bắc bộ Việt Nam.
2.2. Môn Văn học
- Rèn kĩ năng kể chuyện, kĩ năng thuyết minh, phát biểu cảm nghĩ .
2.3. Môn Địa lý
- Nắm được vị trí của các di tích lịch sử và cơng trình kiến trúc độc đáo.
2.4. Mơn Giáo dục cơng dân
- Tham gia giữ gìn phát huy truyền thống quê hương.
3. Thái độ
- Cẩn thận, trung thực, hợp tác trong các hoạt động học tập, giao lưu.
- Thấy rõ trách nhiệm của bản thân về việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa và
di sản của quê hương...
- Có ý thức trong việc tham gia bảo tồn, giới thiệu, quảng bá về hình ảnh của q
hương, về Đền Gióng – di tích lịch sử quốc gia đặc biệt, về lễ hội Gióng – di sản
văn hóa phi vật thể của nhân loại.
III. Đối tượng dạy học
- Học sinh trường THCS Phù Đổng, Gia Lâm, Hà Nội.
+ Số lượng: 694 học sinh
+ Số lớp: 18 lớp
+ Khối lớp: 4 khối

IV. Ý nghĩa của dự án
4.1. Ý nghĩa của dự án đối với thực tiễn dạy học
- Qua việc dạy học của dự án giúp học sinh có tư duy, vận dụng được kiến thức của
nhiều môn học khác nhau để giải quyết một vấn đề trong cuộc sống. Đó là phát huy


các giá trị văn hóa của quê hương ( giáo dục truyền thống, giáo dục nếp sống văn
minh thanh lịch của người Hà Nội, giữ gìn bản sắc văn hóa …).
- Từ những kiến thức của dự án và cách vận dụng kiến thức của nhiều môn học
khác nhau để giải quyết vấn đề mà học sinh có thể vận dụng đối với các tình huống
khác trong cuộc sống tại địa phương ( biết giới thiệu về văn hóa và di sản của Phù
Đổng cho mọi tầng lớp nhân dân , biết cách lưu giữ và bảo tồn các giá trị văn hóa –
di sản độc đáo có một khơng hai của quê hương).
4.2. Ý nghĩa của dự án đối với thực tiễn đời sống
- Học sinh có thêm được những kiến thức về lịch sử, văn hóa của quê hương để
nâng cao hiểu biết của bản thân và cộng đồng.
- Có kỹ năng sống, có ý thức thực hành giới thiệu quảng bá cho hình ảnh của các
giá trị văn hóa và di sản của quê hương.
- Nâng cao ý thức bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa di sản của Phù Đổng ( giữ
gìn bản sắc văn hóa quê hương).
V. Thiết bị dạy học và học liệu
5.1. Thiết bị dạy học
- Phịng học bộ mơn.
- Hệ thống máy chiếu đa năng.
- Bảng phụ, bút dạ, máy đa vật thể.
- Tranh ảnh ….
5.2. Học liệu
- Một số hình ảnh, video về Đền Gióng, lễ hội Gióng, về các cơng trình văn
hóa, kiến trúc…. ( do các nhà báo, phóng viên thực hiện gửi trên các diễn
đàn).



Lễ rước

Đội quân phù giá

Chùa Hương Hải

Chùa Kiến Sơ

Chùa Phù Dực

Đền Mẫu


Đền Gióng

Đặng Trần gia miếu

Lễ hội Gióng

Lược đồ Phù Đổng

Trưởng chi họ Đặng tặng quà
khuyến học cho con cháu trong dịng
họ.

Lễ đón bằng cơng nhận
Di sản văn hóa phi vật thể nhân loại



Lãnh đạo UNESCO tại Việt Nam,
Lãnh đạo thành phố, Huyện Gia Lâm trong lễ đón bằng cơng nhận Lễ hội Gióng –
Di sản văn hóa phi vật thể.

Lãnh đạo UNESCO tại Việt Nam,
Lãnh đạo thành phố, Huyện Gia Lâm trong lễ đón bằng cơng nhận Lễ hội Gióng –
Di sản văn hóa phi vật thể.


- Một số thơng tin về các gia đình, dịng họ lớn tại Phù Đổng ( trên trang Web
của Chi họ Đặng Trần – Phù Đổng).
Bài 1: TRẠNG GIÓNG ĐẶNG CÔNG CHẤT
Theo Quyết định của Ban Khuyến học Hội đồng gia tộc họ Đặng ở Việt
Nam, từ năm 2007 sẽ có phần thưởng động viên lịng hiếu học của dịng họ theo
đúng tinh thần “ Khuyến học, Khuyến tài, tiếp nối khoa danh dịng họ Đặng . Vì
dân, vì nước, nêu cao sự nghiệp dưới trời Nam”. Vị danh nhân được lựa chọn
để đặt tên cho giải thưởng là Trạng Nguyên Đặng Công Chất ( 1622 – 1683), vị
danh thần nổi tiếng thơng minh và ngay thẳng. Ơng sinh ra tại làng Phù Đổng
nên cịn được gọi là Trạng Gióng.
Phúc đức tại mẫu
Tương truyền, dòng họ Đặng ở Việt Nam là con cháu của Trần Quốc Tuấn, vì
lí do này hay vì lí do khác mà đổi thành họ Đặng và chia nhau đi nhiều địa phương
khác nhau trong cả nước. Chi họ Đặng của Trạng Gióng về ở tại làng Phù Đổng
( huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh ) từ thế kỷ XVI thì thấy phong cảnh nơi đây núi
sơng hữu tình. Theo sách “ Đặng gia phả hệ Toản chính thực lục và Đặng gia phả
ký tục biên Lương Xá, Hà Tây” ( do Ngô Thế Long dịch và chú thích, NXB Thế
giới ấn hành năm 2006 tại Hà Nội ), ơng nội của Trạng Gióng tên là Đặng Minh
Phu, lúc trẻ từng đỗ đạt, làm quan lên tới chức Lại bộ Thị Lang, nhưng khi luống
tuổi , lại chỉ thích “ sống cảnh nhàn rỗi, dạy học”. Chính cụ Đặng Minh Phu là

người đã góp phần sửa đặt lễ nghi ở địa phương, bồi đắp thuần phong mỹ tục cho
làng Phù Đổng.
Thân phụ của Trạng Gióng là trưởng nam của cụ Đặng Minh Phu , tên là Hồ
Sắt, cũng là người có tiếng văn hay, mấy lần dự thi Hội đỗ Tam trường nên được
các quan rất quý. Cụ Đặng Hoà Sắt từng được bổ làm tri huyện Gia Định nhưng sau
11 năm lăn lộn quan trường, vẫn phải “giậm chân tại chỗ” nên cởi ấn về nhà theo
đuổi thú vui xem phong thuỷ …
Trạng Gióng là người con trai thứ 3, do bà chánh thất họ Nguyễn sinh ra. Thân
mẫu của Trạng Gióng cũng là người hiếu học, thuộc nhiều điển tích, ca dao. Tính
bà nhân hậu, hay đem của nhà làm phúc giúp cả người dưng nước lã. Khi mất, bà
được đặt hiệu là Từ Huệ bà. Với con cái, Từ Huệ bà răn dạy rất nghiêm, theo đúng
lễ giáo. Không phải ngẫu nhiên mà cả 4 người con trai của Từ Huệ bà về sau đều
công thành danh toại. Người con cả từng làm đến chức Tham nghị. Người con thứ
hai và người con thứ ba cũng điều hiển đạt. Người con út, lúc nhỏ vụng về cách
làm ăn nhưng rồi được anh trai kèm cặp nên rốt cuộc cũng tiến bộ, đỗ khoa Sĩ vọng
và sau này làm đến chức Đô Tổng binh Thiêm sự Cao Bằng. Sách ghi, khi các con
đã trưởng thành mệnh quan triều đình rồi, Từ Huệ bà vẫn thường đọc cho các con
nghe ba nguyên tắc khi làm quan để nhắc nhở thêm…


Trạng Gióng sinh vào ngày Tân Mão, giờ Dần, năm Nhâm Tuất ( 1622).
Tương truyền, thân mẫu của Trạng Gióng đến kỳ sinh nở đã nằm mơ thấy 1 con hổ
đen gầm lên một tiếng kinh thiên động địa, giật mình tỉnh giấc và trở dạ sinh con.
Có cơng mài sắt
Ngay từ nhỏ, Đặng Công Chất đã tỏ ra rất hiếu học, quanh năm gần như không
lúc nào rời sách thánh hiền. Mùa đông, trời lạnh, cậu bé Chất ra sân nằm phơi nắng
cho ấm để đọc sách. Có lần, người cha trơng thấy con nằm co ro ngồi nắng đọc
sách, đã buột miệng nói đùa, đại ý, nếu con sợ lạnh đến thế thì ta sẽ cho con kiểu
đất “cấn bút, song quản sâm vân” , tức là thế đất hình hai quản bút chỉ thẳng lên
mây trời ở phía Đơng. Câu này cịn có nghĩa là ta sẽ cho con thế đất phát về văn

chương, 5 đời mặc áo gấm không thôi…
Lớn lên, theo nghiệp lều chõng, Đặng Công Chất không phải lúc nào cũng
được suôn sẻ mặc dù thi khoa Sĩ vọng đầu tiên đã được xếp loại ưu ngay. Văn của
ông hay nhưng viết chữ cũng có lúc bị nhầm nên đã bị đánh hỏng ở kỳ thi tiếp đó.
Quan triều lúc đó là người trọng tài, tiếc hơi văn hiếm có của Đặng Cơng Chất nên
đã tâu lên với vua để vua triệu vào trong cung, ban cho chức dạy học. Theo sách “
Đại Việt sử ký tồn thư” phải tới năm 1961, Đặng Cơng Chất lúc đó đã gần tứ thập,
mới đỗ Trạng Nguyên ( Tiến sĩ cập đệ ), cùng với Đào Công Chính và Ngơ Kh,
Vua ban cho 3 Trạng Ngun áo bào đoạn màu đỏ, đai lưng giát bạc, vinh quy bái
tổ về làng…Tiếp đó Đặng Cơng Chất thi ứng chế, đỗ thứ nhất nên được phong
chức Hiển cung Đại phu, Lâm hàn thị giảng… Hoạn lộ sau này của Đặng Cơng
Chất nhìn chung thuận buồm xi gió. Phương châm hành xử chính của ơng có thể
diễn giải bằng câu “ Kẻ sĩ rất q ở cương trường”. Đặng Cơng Chất làm quan lúc
nào cũng rất mực thanh cần. Nhà vua rất hay vời ông vào cung để giảng
sách….năm 1676, Trạng Gióng từng được vua cử cùng Hồ Sĩ Dương đề tựa bộ
sách “ Lam sơn thực lục”, “tham khảo bản cũ cùng các sách gia đình để sửa lại, chỗ
nào sai thì chép lại cho đúng, chỗ nào sót thì bổ sung vào, cốt tiện đọc và truyền bá
rộng rãi…” Công việc của các công đã được đời sau đánh giá xứng đáng…Những
chức vụ cao nhất của Đặng Công Chất ở trong triều là Hình bộ Thượng thư và Binh
bộ Thượng thư. Khi Trạng Gióng từ trần, ơng được tặng Lại bộ Thượng thư, Thiếu
bảo, tước Bá…
Lấy Nhân làm gốc
Tại chỗ ngồi của mình, Đặng Cơng Chất thường cho dán câu đối : “ Lượng
năng do kỷ hữu. Chí nghiệp tự thiên thành” ( Tài năng dù tự mình sẵn có, Sự
nghiệp lớn phải nhờ trời mới nên ).
Trong phép hành xử ở đời, Đặng Công Chất luôn lấy chữ tình và chữ nghĩa
làm trọng, ơng hiểu những cái yếu của người đời nhưng khơng bao giờ lấy đó làm
điều. Cũng theo sách “ Đặng gia phả hệ Tồn chính thực lục và Đặng gia phả ký
tục biên- Lương Xá , Hà Tây”, khi Đặng Công Chất thi ứng chế, các quan triều
bình văn cho rằng văn của Đặng Cơng Chất hay hơn của người từng được cử vào

chức Thị thư khoa trước là Nguyễn Quốc Khôi. Nghe vậy, Nguyễn Quốc Khôi


khơng phục và có ý gây khó dễ cho Đặng Công Chất khi ông được cử làm Thị thư
mới. Thế nhưng , Trạng Gióng vẫn tươi cười như khơng và nhất mực đối đãi tử tế
với người tiền nhiệm. Ngày Nguyễn Quốc Khôi mất, Đặng Công Chất đang phải để
tang thân mẫu. Lệ thường, như Sách Lễ dạy, “ khi đang để tang cha mẹ, không nên
viếng điếu ai”. Thế nhưng , Đặng Công Chất khi nghe lời ngăn cản đã thốt lên : “
Tăng Tử trong lúc có trọng tang, vẫn đến viếng thăm Tử Hạ” ( Tăng Tử và Tử Hạ
là các “ đệ tử chân truyền” của Khổng Tử, hai trong số 72 người hiền). Tức là ông
muốn nói, người quân tử đôi khi phải biết vượt qua những phép tắc thông thường
mà ứng xử bất thường cho phải đạo nhân nghĩa. Không những thế, Đặng Công
Chất cịn viết văn tế Nguyễn Quốc Khơi với những lời thấm thía : “ Ơng bạn q
của tơi là bậc Trạng Nguyên hiếu trung. Người quân tử chính trực. Nước khơng mất
vì cái vẫn cịn là đạo…”
Năm 1663, ơng được phái đi làm Đốc thị xứ Nghệ An. Khi ấy, ở vùng Thiết
Lâm, có khoảng vài ba trăm người dân cư trú ở khi vực biên giới, đóng nhà bè ngay
ở khi cửa khe suối, náu mình làm nghề đạo tặc. Triều đình sai Đặng Cơng Chất một
mình dẹp cướp. Tìm hiểu rõ những ngun nhân, nói theo ngơn ngữ bây giờ, kinh
tế - xã hội dẫn theo nạn cướp bóc, Đặng Cơng Chất đã tìm cách phủ dụ, hợp pháp
hoá đời sống của những người dân sở tại, lập làng xã, mở mang kinh tế và giáo
huấn. Dần dà, cùng đó trở thành một nơi ăn nên làm ra. Dân Thiết Lâm cảm cái ơn
của Trạng Gióng đã lập sinh từ ( đền thờ sống) Đặng Công Chất. Và một phần cũng
nhờ thành tích giúp dân an cư lạc nghiệp ở Nghệ An nên Đặng Công Chất năm
1665 đã được triều đình thăng chức Gia hành Đại phu, Cơng bộ Hữu Thị Lang…
Trạng Gióng từng khơng chỉ 1 lần được vua cử đi sứ Trung Hoa. Lại theo sách
“ Đặng gia phả hệ Tồn chính thực lục và Đặng gia phả ký tục biên – Lương Xá ,
Hà Tây”, lần Đặng Công Chất đi sứ năm 1683, trên đường trở về nước, ngồi bên bờ
sơng Hồng Hà, quan hộ tống triều Thanh nhìn thấy con nước cuộn chảy, đã yêu
cầu Đặng Công Chất ngẫu hứng làm 1 bài thơ “ cho thêm phần bạo dạn”. Trạng

Gióng rót trà mời khách rồi chậm rãi viết lên trên lụa :
“ Xuất tự Cơn Lơn, khảm vị doanh
Hồng Hà đáo để chi kỳ bình.
Thiêm tầm bất đãi Đường Ngu tuấn,
Nhất thực hề khuy Ngô Sở tranh.
Đạm nhước hữu thời Bao Lão tiếu,
Đới như hà nhật Hán Hoàng Minh.
Trường trưng long mã sơ phi ngẫu,
Để đức nguyên đồng nhật nguyệt minh”


( tạm dịch : Nước bắt đầu chảy, từ núi Côn Lôn, một vũng không đầy, Thế mà
ngày nay thành sơng Hồng Hà, Sơng dài nghìn tầm, khơng đợi đời Đường Ngu
đào vét, Một giọt không cạn, khi Ngô Sở tranh nhau. Có khi nước trong như Bao
Chửng cất tiếng cười, Rồi có khi như dải áo, như lời thề vua Hán. Khi có Long Mã
nổi lên, điềm hay khơng ngẫu nhiên.Vì đức vua sáng như mặt trời, mặt trăng ).
Cách viết, cách nói ví von như thế, đến những câu thơ gọi là hậu hiện đại cũng
không thể mới hơn. Ông quan Trung Quốc “ xem bài thơ, đọc rõ từng câu, miệng
tủm tỉm cười, ngẫm nghĩ hồi lâu, uống xong trà” rồi bình luận : “ Bụng dạ nhà thơ ,
như nước sông muôn khoảnh mông mênh. Những dịng nước nhỏ nhuần tưới trong
khoảnh trăm dặm hay nghìn dặm, một giọt nước thêm vào cũng chẳng thấm gì .
NướcNam là nơi mặt trời đỏ rực, vùng đất oi nóng, khơng ngờ lại là nơi “ Lục
nhất” sinh thành ! Như vậy thì đạo của người quân tử ở đâu cũng là đạo “ Nhân”
mà thôi ! Hà tất phải theo hùa hay bắt chước giống hệt nhau…”
Đã thành rồi, ở đâu cũng có người tài, thời nào cũng có người tài, trên mọi
phương diện, cho mn thuở…
Trạng Gióng là một nhân tài như thế của đất Việt, chứ khơng riêng họ Đặng.
Đặng n Hịa

Bài 2:


TRẠNG NGUN ĐẶNG CƠNG CHẤT
VÀ DỊNG HỌ ĐẶNG CỦA ƠNG

Đặng Cơng Chất đỗ Trạng Nguyên khoa Tân Sửu, Vĩnh Thọ thứ tư (1661), ông
là đồng tác giả Trùng san Lam sơn thực lục và Đại Việt sử ký tục biên, ơng cịn có
nhiều cơng lao về nội trị, ngoại giao đối với đất nước. Nhưng từ trước đến nay một
số sách chép về ông và dịng họ Đặng cịn sơ sài, có những điểm chưa đúng. Qua
sưu tầm, khảo cứu, nhất là được các cụ trong dòng họ Đặng cho xem cuốn Đặng
thế gia phả ( gọi tắt là Thế phả) do Đặng Công Cơ ( con trai thứ 3 của Đặng Công
Chất ) viết năm Bính Ngọ 1726, tơi xin trình bày một số tư liệu mới để bạn đọc
tham khảo.
Đặng Công Chất sinh ngày 28 tháng 8 năm Nhâm Tuất ( 1622) ( Sách tìm hiểu
kho sách Hán Nơm của Trần Văn Giáp (tập 1) chép ông sinh năm 1621(?) ) ở làng
Phù Đổng huyện Tiên Du ( này là xã Phù Đổng , huyện Gia Lâm, Hà Nội ). Ông
vốn họ Trần , dòng dõi Hưng Đạo Vương – Trần Quốc Tuấn, đến đầu đời Lê có
ơng Trần Văn Huy hiệu là Đặng Hiến ( 1410 -1475) đỗ nhị giáp Tiến Sĩ đình
nguyên năm Đại Bảo thứ ba (1442), làm quan tới Thượng thư bộ Hình di cư đến ở
làng Quang Bị, huyện Bất Bạt, phủ Thao Giang, trấn Sơn Tây ( nay thuộc huyện Ba
Vì, Hà Nội ). Đến đời thứ 3 có Trần Tuân ( là cháu nội Trần Văn Huy) nổi dậy khởi
nghĩa chống lại vua Lê Tương Dực (1509 – 1516). Nhưng cuộc khởi nghĩa bị thất
bại. Trần Tuân bị tướng của triều đình là Trịnh Duy Sàn giết, quân tan vỡ. Vì sợ


triều đình bắt tội nên “ dịng dõi của Trần Tuân dời đến xã Yên Quyết Thượng,
huyện Từ Liêm ( nay là xã Yên Hoà, huyện Từ Liêm, Hà Nội ), đổi họ đi để tỏ ra là
khác biệt ( Lê Quý Đôn trong Đại Việt thông xử Nxb KHXH, Hà Nội , 1978 chép
nhầm là “ dòng dõi Trần Tuân”, Theo thế phả Trần Tuân là con nuôi, nên theo bác
thì là em bố Cơng Du).
Theo thế phả thì người chạy ra Thượng Yên Quyết là Trần Công Du gọi Trần

Tn bằng chú. Đến đời con ơng Du chính thức đổi thành họ Đặng ( vì ơng tổ Trần
Văn Huy có hiệu là Đặng Hiên) nên gọi là “ Đặng Công Toản” ( 1487 – 1547) đỗ
Tiến sĩ khoa Canh Thìn ( 1520), làm quan Tham Chính xứ Kinh Bắc, đóng trụ sở ở
làng Phù Đổng, sinh người con trai thứ 7 là Đặng Công Khuê ( 1538 – 1600) ở đấy.
Sau ông cho Khuê ở lại trú cư ở Phù Đổng , nên Công Khuê là người được suy tôn
là tổ chi họ Đặng ở Phù Đổng. (*) ( Sách các Trạng Nguyên nước ta của Mai Hồng.
Nxb Giáo dục, Hà Nội 1989 trang 93 chép về dòng họ Đặng có nhiều nhầm lẫn, lộn
xộn, do khơng theo dõi kỹ 5 dòng lớn 19 chi… ở nhiều vùng ).
Đặng Công Khuê thi đỗ thủ khoa Hương cống, làm quan tới chức Viên ngoại
lang Bộ Lại, con trưởng ông Khuê là Đặng Công Sắt cũng đỗ giải nguyên Hương
cống khoa Tân Sửu (1601), làm quan tới chức Tham chính xứ. Ơng Sắt có 4 người
con trai là Đặng Cơng Toại, Đặng Công Nghị ( đều là nho sinh), con thứ ba là Đặng
Công Chất, con thứ tư là Đặng Công Trác đỗ giải nguyên Hương cống khoa Tân
Mão (1699).
Đặng Cơng Chất là người có tài kiêm văn võ, nội trị, ngoại giao và cũng là
người có đạo đức, trung thực, liêm khiết. Theo thế phả thì sau khi đỗ Trạng Ngun
có khả năng lấy cơng chúa, nhưng ơng Chất cố chối từ vì ở q đã có vợ. Việc này
làm cho vua chúa khơng hài lịng nên tuy biết ông có tài văn học nhưng năm sau
(1662) chúa liền bổ ông vào chức quan võ đi dẹp loạn ở Nghệ An rồi được cử làm
Đốc thi xứ ấy. Sau đó ơng được triệu về kinh cử làm Hàn Lâm Viện thị giảng,
chính trong thời gian này ơng tham gia biên soạn Đại Việt sử ký tục biên do Tham
tụng Phạm Cơng Trứ chủ biên (*) ( Tìm hiểu kho sách Hán Nơm tập 1 Nxb Văn
Hố , Hà Nội , 1984, trang 80) .Tháng ba năm Ất Tỵ (1665) ông được thăng chức
Hữu thị lang Bộ Công, có lẽ từ năm này ông cùng các ông Hồ Sĩ Dương và Đào
Cơng Chính biên tập cuốn “Trùng san Lam sơn thực lục”.
Tháng 5 năm Nhâm Tý (1672) , Đặng Công Chất về quê làng Phù Đổng chịu
tang mẹ, bất ngờ có việc Kiêu binh nổi loạn giết chết Bồi Tung ( Phó Tể tướng),
Trạng ngun Nguyễn Quốc Trinh, triều đình liền sai Tuyển Quận Công đến nhà
triệu Đặng Công Chất về Thăng Long dẹp loạn. Ơng Chất về kinh đơ phủ dụ Kiêu
binh qn lính đều phục tùng. Sau đó tháng 7 năm Ất Mão (1675), ông được thăng

Tả thị lang Bộ Lại, rồi được cử làm Bồi tụng nhập thị kinh diên năm Đinh Tỵ
(1677), được cử làm trấn thủ Cao Bằng đánh dẹp Mạc Kính Vũ ở biên giới, sau đó
lại được triệu về Kinh “ quản thống 5 viên đại tướng” ( *) ( Đây là theo Thế phả,
Các bộ sử cũ đều ghi ơng có khuyết điểm nên được gọi về triều Sách Lịch triệu tao
kỳ (tập 1) của Ngơ Cao Lãng cịn cho biết khoa thi Hội năm Bính Thìn ( 1676) Bồi
tụng Đặng Cơng Chất được cử làm Phó chủ khảo, khoa này đứng đầu bảng là Thám
hoa Nguuyễn Quý Đức ).


Năm Tân Dậu ( 1681) , Đặng Công Chất được cử làm Chánh sứ sang Trung
Quốc đàm phán với nhà Thanh. Quan hệ giữa 2 nước lúc này rất thân thiện nên vua
Thanh đã cử quan đại thần là Đàm Bất Miện ra đón và tiễn đồn sứ bộ của ta rất
chu đáo. Khi đoàn sứ bộ ta ra về, Đàm Bất Miện tiễn đến sơng Hồng Hà cùng
Đặng Cơng Chất làm thơ xướng hoạ quyến luyến không rời nhau (1) ( Thế phả có
chép 1 bài thơ của Đặng Công Chất và 1 bài thơ của Đàm Bất Miện ).
Tháng 6 năm Nhâm Tuất ( 1682) đoàn sứ bộ về đến Thăng Long, Đặng Công
Chất được vua chúa khen ngợi , thăng Binh bộ Thượng thư tước Khánh Xuyên Tử,
ba ngày sau gia tăng Tham tụng ( Tể tướng). Nhưng chưa được bao lâu, ngày 2
tháng 7 năm Quý Hợi ( 1683) ông mất, vua lấy làm thương tiếc, đặt tên hiệu là
Trung Túc, tặng chức Lại bộ Thượng thư, Thiếu bảo và tước Khánh Xuyên Bá. Thế
phả cho biết ơng khẳng khái có chí lớn, khơng làm dinh thự và để của. Làm quan
chẳng biết lợi lộc, bao nhiêu bổng lộc đem cấp cho người thân thuộc, nhà khơng có
của thừa… Lúc bé thường ăn canh mướp đến khi phú quí vẫn ăn canh mướp. (2)
( Lịch ký triều tập kỹ Sđđ , chép Đặng Công Chất về nước được thăng Hình bộ
Thượng thư, theo Thế phả ).
Đặng Cơng Chất cịn có cơng đứng ra trùng tu đền thờ Phù Đổng Thiên
Vương ở quê nhà. Dòng họ của ông sau này có nhiều người khoa bảng : cháu nội
ông ( con Đặng Công Cơ) là Đặng Công Diễn ( 1709 – 1769) đỗ Hội nguyên Tiến
sĩ khoa Đinh Mùi ( 1728) làm quan tới chức Tế tửu ( Hiệu trưởng) trường Quốc Tử
Giám, thăng Công bộ Hữu thị lang, Bồi tụng ( Phó Tể tướng) Thư Vũ Hầu.

(Đỗ Thỉnh)
- Một số bài viết về Phù Đổng, đền Gióng về lễ hội Gióng… trên các diễn đàn,
của nhiều cá nhân khác nhau…
Bài 1:

CẢM XÚC VỀ QUÊ HƯƠNG

QĐND - Tôi xa làng Gióng (xã Phù Đổng, Gia Lâm, Hà Nội) đã hai mùa hội.
Hai năm với những ngày phép vội vàng khơng ghé được qua đền Gióng xem
cây đề trước cổng đã già thêm mấy cành. Hai năm với bao nhung nhớ và khắc
khoải...
Tuổi thơ tôi lớn lên trong tiếng chuông chùa Kiến Sơ trầm mặc, trong tiếng
trống trận hào hùng ngày tháng Tư hội Gióng. Trị trận giả ở bãi Soi Bia, bẻ những
nhánh tre đằng ngà làm gậy, lấy cậu bạn làm ngựa, tôi rong ruổi trên bãi trận ngày
nào của người anh hùng trẻ nhỏ. Rồi những ngày hội Gióng, có khi đóng vai chú bé
đi “roi rồng”, mặc áo đỏ chạy lăng xăng cho đến tuổi đi “lính áo đen” theo đội
“qn cơ tướng”, tình u quê hương trong tôi cứ lớn mãi lên...
Không năm nào tơi bỏ đi lính hội. Những năm hội chính thì tơi làm qn giặc nhà
Ân, những năm hội phụ thì làm qn ơng Hiệu hì hục đi lấy nước đền Mẫu giữa cái
nắng chói chang ngày hạ. Khơng khí chiến trận, tinh thần dân tộc, lòng yêu quê
hương đất nước cứ thế “chín” dần trong tơi, đậm mãi lên theo khói hương ngày hội


chính. Lớn lên và đi học, khơng nghe theo lời khuyên của bố vào học một trường
kinh tế, tôi lại trở thành học viên của một trường quân sự...
Xa nhà và rất ít có dịp về phép, mỗi lần nghe ti vi, đài báo nói về việc hội
Gióng được UNESCO cơng nhận là di sản văn hóa phi vật thể là lịng tơi lại rộn lên
bao kỷ niệm... Chưa bao giờ tơi lại nhớ làng, nhớ hội Gióng đến thế. Tôi nhớ những
trận chiến kéo dài 3 cây số đê dọc sơng Đuống, nhớ những đồn qn, nhớ hình
ảnh đội phù giá kéo ngựa chạy lộc cộc trên mặt đường nóng bỏng, nhớ tiếng hát

phường Ải Lao và điệu múa mê hoặc của ông hổ. Tôi nhớ đến tuổi thơ tôi...
Giờ đây, khi đã là người chiến sĩ, tôi càng thấm thía những bài học mà ơng cha
ta gửi gắm trong lễ hội tuyệt vời này. Nếu có dịp tơi nhất định sẽ mời mọi người
trong đơn vị về dự hội Gióng. Hịa vào đó, mỗi người sẽ cảm nhận rõ hơn trách
nhiệm của mình với dân tộc, với Tổ quốc. Cần phải gắng sức hơn nữa để non sông
này mãi mãi vững bền.
Phạm Văn Thiệu

Bài 2: Di tích quốc gia đặc biệt - Phù Đổng Thiên vương
Câu chuyện Thánh Gióng đánh giặc trải qua hàng ngàn năm được các thế
hệ người Việt nhắc đến và học tập. Hình tượng người anh hùng tên Gióng đã
trở thành biểu tượng về của sức mạnh và lòng yêu nước của dân tộc ta. Ngày
nay, trên q hương Thánh Gióng vẫn cịn đó những di tích lịch sử và lễ hội
hằng năm vẫn được nhân dân tổ chức để tưởng nhớ công ơn người anh hùng
đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật đền
Phù Đổng đã được Chính phủ cơng nhận là Di tích quốc gia đặc biệt (đợt 4,
ngày 9-12-2013). Hội Gióng là một nét văn hóa cổ truyền đặc sắc của dân tộc
Việt Nam và là một trong những di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
NÉT ĐẶC SẮC CỦA KHU DI TÍCH
Cụm di tích lịch sử Phù Đổng Thiên Vương nằm trên bờ bắc sông Đuống,
trước kia thuộc phủ Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
Đền Gióng được lập từ thời Hùng Vương. Sau này, khi vua Lý Thái Tổ định đô ở
Thăng Long đã cho tu sửa lại. Đền hiện nay còn giữ được nhiều bộ phận kiến trúc
của thời Lê Trung Hưng; gồm có tam quan, bái đường, hậu cung, nhà thủy đình để
múa rối nước ở ao trước đền, dựng vào thế kỷ XIX. Tượng Thánh Gióng cao 3m
được đặt ở giữa hậu cung. Ngồi ra đền cịn có đơi rồng đá, đôi sư tử đá làm từ thời
Lê Dụ Tông (1705), cỗ ngai thờ từ thời Lê, bia năm 1660; đôi chim sứ cổ được cho
là của bà Chúa Chè Đặng Thị Huệ cung tiến cuối thế kỷ XVIII. Đặc biệt trong đền
có nhiều hồnh phi câu đối, trong đó có câu đối của Nguyễn Du: “Người thánh vốn
trời sinh, dẹp tan giặc Bắc/ Dấu thần lưu đất cũ, giữ vững nước Nam”.



Đền Mẫu là nơi thờ mẹ Thánh Gióng. Trước kia, Thánh Mẫu được thờ chung
với Thánh Gióng ở đền Thượng. Đến năm 1683, đền Mẫu được xây dựng để thờ
riêng mẹ Thánh Gióng. Đền Mẫu hiện cịn lưu giữ được một số hiện vật như: Đôi
phỗng đá, một bộ đài bạc, hai bình hương bằng đá. Miếu Ban nằm ở phía Tây đền
Thượng, đây được coi là nơi Thánh Gióng ra đời. Miếu lợp ngói cổ hình mũi hài,
phía sau có giếng Bát Nhũ trì, ở giữa nổi lên một gò đất con. Cố Viên (vườn xưa) là
nơi mẹ Thánh Gióng hái rau, ướm chân mình vào chân người khổng lồ, để rồi từ đó
mang thai sinh ra Thánh Gióng. Trong Cố Viên có một ngơi nhà nhỏ, bên cạnh là
hịn đá lớn có hình thù giống dấu chân của người khổng lồ và một tấm bia mang
dòng chữ “Đổng Viên Thánh Mẫu cố trạch” (Nhà xưa của Thánh Mẫu trong vườn
Đổng).
Ngược lên khu di tích lịch sử là đền Tượng thờ Thánh Gióng (xã Phù Linh Sóc Sơn), nơi Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt bay về trời. Khu di tích này gồm đền
chùa, miếu thờ tọa lạc trong khn viên rộng, xung quanh là núi non rợp mát bóng
cây. Quần thể di tích với 6 nơi thờ đều mang đậm những điển tích. Mới đây trên núi
Vệ Linh đã xây dựng chùa Non là nơi thờ Phật với tượng Phật tổ được đúc bằng
đồng cao 3,5m, nặng 36 tấn. Thần tích Phù Đổng Thiên Vương với hai khu thờ: Ở
làng Phù Đổng (Gia Lâm - Hà Nội) và đền thờ ở Phù Linh - Sóc Sơn sẽ mãi là nơi
lưu giữ và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, là di sản văn hóa
quốc gia và của nhân loại.
VÀI NÉT VỀ HỘI GIĨNG
Hội Gióng là một lễ hội truyền thống hàng năm được tổ chức ở nhiều nơi thuộc
vùng Hà Nội để tưởng niệm và ca ngợi chiến công của người anh hùng truyền
thuyết Thánh Gióng, một trong “tứ bất tử” của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Có 2
hội Gióng tiêu biểu ở Hà Nội là hội Gióng Sóc Sơn ở đền Sóc, xã Phù Linh - Sóc
Sơn và hội Gióng Phù Đổng ở đền Phù Đổng, xã Phù Đổng - Gia Lâm. Ngày 1611-2010, Hội Gióng đã chính thức được UNESCO cơng nhận là Di sản văn hóa phi
vật thể của nhân loại. Giá trị nổi bật tồn cầu ở Hội Gióng chính là hiện tượng văn
hóa được bảo lưu, trao truyền khá liên tục và toàn vẹn qua nhiều thế hệ. Mặc dù ở
gần trung tâm thủ đô và đời sống cộng đồng trải qua nhiều biến động do chiến

tranh, do sự xâm nhập và tiếp biến văn hóa, nhưng Hội Gióng vẫn tồn tại một cách
độc lập và bền vững. Hội Gióng là một lễ hội văn hóa cổ truyền mô phỏng sinh
động và khoa học diễn biến các trận đấu của Thánh Gióng và nhân dân Văn Lang
chống giặc Ân. Thơng qua đó nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng về các hình
thức chiến tranh bộ lạc thời cổ xưa và liên tưởng tới bản chất tất thắng của cuộc
chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện trong sự nghiệp giải phóng và bảo vệ Tổ
quốc.
Trung Lương
Bài 3: Lễ hội Thánh Gióng - một kí ức văn hóa
PGS.TS. Nguyễn Tri Nguyên
Huyền thoại Thánh Gióng đã có cuộc đời dài như lịch sử dân tộc và lễ hội
Gióng đã có từ vài trăm năm trước đây. Nghiên cứu huyền thoại và hội Gióng hơn


trăm năm có lẻ. Trở lại đề tài này sau nhiều cơng trình tài hoa của nhiều học giả đi
trước quả là một thách thức không nhỏ. Chúng tôi đành chọn lối nghiên cứu gián
tiếp hay còn gọi lối nghiên cứu văn bản thiên về lý thuyết. Chúng tôi muốn đề cập
tới việc tiếp cận lễ hội nói chung và hội Gióng nói riêng từ quan điểm có tính biện
chứng của nhà văn hóa học người Đức Jan Asman khi coi lễ hội như là hình thức
đầu tiên của ký ức văn hóa".
Một mặt, ơng cho rằng: "Ký ức văn hóa gắn chặt với những lễ hội. Nó khơng
hồn tồn như một dịng chảy, thâm nhập từ ngồi vào những cá thể, mà nói đúng
hơn là một thế giới vật thể, thế giới mà con người sáng tạo ra”. Và ở mặt khác: “Ký
ức văn hóa tuần hồn theo hình thức hồi ức, mà khởi đầu là việc của các lễ hội và
việc tổ chức lễ hội”. Theo ông: “Sự lặp đi lặp lại nghi lễ đảm bảo cho tính liên kết
giữa cộng đồng trong không gian và thời gian. Thơng qua lễ hội như là hình thức tổ
chức đầu tiên của kí ức văn hóa thì (hình thức) thời gian được chia ra thời gian
thường nhật (ngày thường) và thời gian lễ hội trong xã hội chưa có chữ viết. Vào
thời gian lễ hội hay còn gọi là “thời gian mơ mộng” của những ngày lễ lớn chân
trời tri thức được mở rộng vào vũ trụ, vào thời kì của sự sáng tạo, của những cái sơ

khai và của những chuyển biến lớn, mà thế giới thời cổ đại đã tạo ra. Những nghi lễ
và những truyền thuyết viết lại ý nghĩa của thực tế. Sự tuân thủ sự bảo tồn và sự
truyền đạt kĩ lưỡng đồng thời với bản sắc dân tộc đảm bảo cho thế giới phát triển
khơng dừng.
Ở những nền văn hóa chưa có chữ viết ký ức văn hóa gắn với những văn bản
(chữ viết) một cách phiến diện (không cân đối). Ở đây những điệu nhảy, trò chơi,
nghi lễ, mặt nạ, những bức tranh, giai điệu, nhịp điệu, đồ ăn, uống, không gian,
những địa điểm, trang phục, hình xăm, trang sức, vũ khí thuộc những hình thức tự
tưởng tượng và tự chứng nhận cho dân tộc mình một cách mạnh mẽ hơn nhiều”. Có
thể nói, quan điểm nghiên cứu huyền thoại và lễ hội dưới góc độ ký ức văn hóa,
dẫu khơng tun bố, đã được các học giả từ Nguyễn Văn Huyên, Cao Huy Đỉnh
đến Trần Quốc Vượng… vận dụng một cách nhuần nhụy.
Thiên thần thoại Thánh Gióng từ ký ức huyền thoại và ký ức tín ngưỡng đã
tạo ra một ký ức khơng gian trên nhiều di tích cả một vùng trung châu rộng lớn, và
đặc biệt đã được lưu giữ và trao truyền qua ký ức lễ nghi và diễn xướng của lễ hội
Thánh Gióng.
* Ký ức huyền thoại
Thánh Gióng là một trong những thiên huyền thoại đẹp đẽ và hoành tráng
nhất của người Việt thể hiện tinh thần và sức mạnh trong đấu tranh chống ngoại
xâm, giữ nước.
Chuyện kể rằng: vào đời Hùng Vương thứ 6, ở làng Gióng có hai vợ chồng
ơng lão chăm làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ơng bà ao ước có một đứa con.
Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân to quá, liền đặt bàn chân mình lên
ướm thử. Không ngờ về nhà bà thụ thai và mười hai tháng sau sinh một thằng bé


mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi
lên ba vẫn khơng biết nói, biết cười, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua
lo sợ. Bèn truyền cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe

tin, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo:
"Ông về tâu vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp
sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này".
Sứ giả vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho
thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn. Càng lạ hơn nữa, sau hôm gặp sứ giả,
chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã căng
đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, thành thử phải
chạy nhờ bà con, hàng xóm. Bà con đều vui lịng gom góp gạo thóc ni chú bé, vì
ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu. Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt. Vừa
lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một
cái bỗng biến thành một tráng sĩ mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt. Tráng sĩ
bước lên vỗ vào mơng ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp,
cầm roi nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi thẳng đến nơi
có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng
roi sắt gẫy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ.
Đám tàn quân giẫm đạp nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn).
Đến đấy, một người một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người
lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn, khơng biết lấy gì đền đáp, phong là Phù Đổng Thiên
Vương và lập đền thờ ngay ở quê nhà. Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng,
tục gọi là làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng
những bụi tre đằng ngà ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả mầu
vàng óng như thế, cịn những vết chân ngựa nay thành những hồ ao liên tiếp. Người
ta cịn nói khi ngựa thét lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi
là làng Cháy .
* Ký ức tín ngưỡng
Từ ký ức huyền thoại ấy, thánh Gióng đã đồng thời/kế tiếp trở thành ký ức
tín ngưỡng là một hình thức ký ức cộng đồng sâu sắc và mạnh mẽ nhất.
“Từ lâu người ta đã thờ Ông Đổng - cha khổng lồ ở một cái miếu cổ và cúng

ông bằng bát cơm đĩa cà (cúng chay vào tiết mưa dông đầu hè mồng 9 tháng 4 âm
lịch). Theo các cụ, trước và trong ngày ấy bao giờ cũng có gió bão sấm chớp mưa
to. Các cụ nói: đó là “Ơng Đổng về hái cà” hay “Gió hái cà”. Cũng từ lâu làng
Dóng được gọi là Kẻ - Đổng" và có tục trồng riêng một sào cà để dành cho Ông
Đổng về hái. Ở các ruộng khác, người ta thường cắm cạnh mỗi cây cà một “que
bông”, tức là những que tre dài, ở một đầu có vót thành xơ xoắn xt dính vào thân


que như hoa cà, ngụ ý đẻ dành cho Ông Đổng, kẻo ông trảy cà, gây thiệt hại đến
mùa cà”2.
Từ một đức tin hồn nhiên như vậy, ơng Gióng con của người cha khổng lồ
đã thành Thánh Gióng hay là Phù Đổng Thiên Vương hay Xung Thiên Thần
Vương, và cuối cùng, đã trở thành một trong bốn vị thánh bất tử trong tín ngưỡng
dân gian Việt Nam.
*

Ký ức văn bản

Nhiều thế kỷ về sau với sự phát triển ý thức dân tộc và văn tự, thiên huyền
thoại đó đã được trí thức phong kiến Việt Nam sưu tầm ghi chép và văn bản hóa.
Nó trở thành ký ức văn bản, ví dụ: Đại Việt sử ký tồn thư ghi chép lại về Thánh
Gióng như sau:
"Đời Hùng Vương thứ 6, ở hương Phù Đổng, bộ Vũ Ninh có người nhà giàu,
sinh một con trai, đến năm hơn ba tuổi ăn uống béo lớn nhưng khơng biết nói cười.
Gặp lúc trong nước có tin nguy cấp, vua sai người đi tìm người có thể đánh lui
được giặc. Ngày hơm ấy, đứa trẻ bỗng nói được, bảo mẹ ra mời thiên sứ vào, nói:
"Xin cho một thanh gươm, một con ngựa, vua khơng phải lo gì". Vua ban cho
gươm và ngựa, đứa trẻ liền phi ngựa vung gươm tiến lên trước, quan quân theo sau,
đánh tan quân giặc ở chân núi Vũ Ninh. Quân giặc tự quay giáo đánh lẫn nhau, chết
rất nhiều, bọn sống sót đều rạp lạy, tơn gọi đứa trẻ ấy là thiên tướng, liền đến xin

hàng cả. Đứa trẻ phi ngựa lên trời mà đi. Vua sai sửa sang chỗ vườn nhà của đứa
trẻ để lập đền thờ, tuế thời cúng tế. Về sau, Lý Thái Tổ phong là Xung Thiên Thần
Vương. (Miếu thờ ở cạnh chùa Kiến Sơ, hương Phù Đổng)".
Thiên huyền thoại được lưu giữ vào ký ức văn bản như là một bước tiến của
ký ức văn hóa. Tuy nhiên, sức sống của nó trong ký ức dân gian cịn mạnh mẽ hơn
khi nó bước ra khỏi sử sách để sống một cách mãnh liệt trong tâm thức và trong
khát vọng của nhân dân ta góp nên ký ức cộng đồng. “Khác với sử sách, giàu hơn
sử sách, có những lời kể khi văn xi, khi vần vè của nhiều cụ già trên sáu mươi
tuổi về hình ảnh Dóng sinh ra, lớn lên và phóng ngựa đuổi giặc, gắn chặt với con
người, cây cỏ, đất nước và nghi lễ hội hè miền trung châu".
*

Ký ức không gian

Khơng dừng lại ở đó, thiên huyền thoại cịn được lưu giữ trong Ký ức khơng
gian với nhiếu dấu tích và di tích:
“Ngày nay dấu chân ơng Đổng cịn thấy ở nhiều nơi: làng Bình Tân (Xã Thị
Cầu - Quế Võ) núi Đạm (xã Nam Sơn - huyện Quế Võ), núi Khám (xã Việt Đoàn,
huyện Tiên Sơn), bờ giếng làng Bưởi - nồi (xã An Bình - huyện Gia Lương) đỉnh
Sóc (huyện Đa Phúc, tỉnh Vĩnh Phú) và đặc biệt là làng Dóng mốt (cịn gọi là Vườn
Đổng, Đổng Viên hay Cố Viên), được nhận là vườn quê bà mẹ Dóng”. Ở đây có
một đặc điểm nổi bật trong văn hóa Việt là mối quan hệ biện chứng giữa khơng
gian hóa huyền thoại và huyền thoại hóa khơng gian. Dường như mỗi bước ta đi ở


trung châu mà ngỡ ta đi trong một không gian huyền thoại. Và điều này không chỉ
đúng với huyền thoại Thánh Gióng. GS. Trần Quốc Vượng đã nhận thấy tính đa
bình diện của ký ức khơng gian này bao gồm: một không gian địa lý - lịch sử và
một không gian biểu tượng.
Trước hết giáo sư đề cập tới một không gian địa lý - lịch sử:

"Không gian phân bố các di tich có liên quan đến huyền tích Gióng là một
miền chân núi châu thổ Bắc Bộ, được khoanh lại trong vùng tam giác nâu, với 3
đỉnh là:
1 - Làng Phù Đổng bên bờ sông Đuống: Quê hương và là nơi xuất phát của
Thánh Gióng, người khổng lồ ba tuổi.
2 - Núi Châu Cầu (Vũ Ninh nay thuộc Quế Võ) ở Lục Đầu Giang: "Chiến
trường" chống "Giặc Ân xâm lược, nơi Thánh Gióng giết tướng giặc Ân là Thạch
Linh (tinh Đá).
3 - Núi Sóc hay rặng núi Sót - đúng hơn là miền "trước núi" của dải Tam
Đảo hùng vĩ: Nơi Thánh Gióng cưỡi ngựa bay lên trời. Nối Châu Sơn và Sóc Sơn
là một sống đất cao dần lên, trên đó điểm từng cụm "vết chân ngựa Gióng".
Đó là không gian của một "bộ" (vùng) - bộ Tây Vu trong phức thể gọi là 15
bộ hợp thành "nước" Văn Lang của các vua Hùng - hay là vùng chân núi giáp đồng
bằng, cái nơi của văn hóa Việt và người Việt cổ”.
Sâu hơn không gian lịch sử và địa lý đó là trầm tích một khơng gian biểu
tượng. GS. Trần Quốc Vượng đã giải mã không gian này như sau:
“1 - Vết chân ngựa Gióng: Làm ăn, chủ yếu là làm ruộng trồng lúa, thì mối
quan tâm chính là nước. Nước mưa, trời cho, theo thời mà làm ruộng.
2 - Những bụi tre đằng ngà xưa kia còn mọc thành rừng, ở quanh hồ Tây, ở
ven sông Đuống, sông Dâu, sông Cầu.... CHẶT TRE NÊN GẬY; Kho vũ khí thơng
thường và phổ biển của người dân q.
3 - Cọc buộc ngựa trên một sườn của đất Vũ Ninh sơn (Châu Cầu thất gian)
tơi đã tận mắt nhìn thấy cái gọi là "Cọc buộc ngựa của giặc Ân". Đó là một trụ đá
nhân tạo, cao trên dưới 4 mét, trên nhỏ có ngãng, dưới to có ngõng cắm xuống một
PHIẾN ĐÁ thời Lý tựa như trụ đá chùa Đạm (cũng ở Quế Võ tức châu Vũ Ninh
thời Lý, nơi sử sách chép nhà Lý dựng nhiều chùa: Lâm Sơn, Sùng Nghiêm, Chúc
Thánh... với hình tượng dương vật và ám vật, biểu tượng của Sự sống, của Sức
Mạnh Trần Tục, sự sống và sức mạnh vĩnh hằng.
4 - Ngựa đá giặc Ân. Theo huyền thoại, Thạch Linh, tướng giặc Ân rất tàn
ác, sai làm con ngựa đá rồi bắt dân phải cắt cỏ cho ngựa đá ăn, nếu ngựa không ăn,

người dân bị giết chết.”.


Ngồi ra làm nên ký ức khơng gian cịn có hệ thống đền thờ thánh Gióng. Ví
dụ, đền Phù Đổng hay cịn gọi là đền Gióng thờ Thánh Gióng - Phù Đổng Thiên
Vương, nằm ở xã Phù Đổng, Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Đôi câu đối trước cổng
đền viết: Thiết mã khóa vân cung, tuấn nhạc, liên quan thiên cổ ngưỡng
Thạch long kiều thủy các, sùng từ uy vọng ức niên khâm
(Ngựa sắt vượt cung mây, núi cao rạng rỡ ánh thiêng, ngàn năm nhìn ngắm
Rồng đá chầu gác nước, đền lớn nguy nga vẻ đẹp, muôn thuở tôn sùng)
Trong hậu cung cịn có tượng Thánh Gióng và các tướng hộ vệ, cũng là nơi
giữ các đạo sắc phong của các triều đại phong kiến. Có thể nói ký ức khơng gian ấy
“Và "những vết chân ngựa Gióng" cịn in hằn trên mặt đất, mãi mãi in sâu trong
lòng đất, trong lòng người, trong lòng lịch sử... như chứng cứ mn đời khơng phai
của kỳ tích anh hùng”.
*

Ký ức lễ nghi

Hội Gióng là một lễ hội truyền thống hàng năm được tổ chức ở nhiều nơi
thuộc vùng Hà Nội để tưởng niệm và ca ngợi chiến công của người anh hùng
truyền thuyết Thánh Gióng, một trong tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt Nam.
Theo Nguyễn Văn Huyên thì "việc tổ chức hội Gióng như ngày nay mới bắt đầu từ
khoảng thế kỷ XI, đời Lý Thái Tổ". Lý Công Uẩn trước khi sáng lập ra triều Lý
sống ở chùa Kiến Sơ, gần đền Phù Đổng và thường đến đây dâng hương cầu xin
thần cho biết vận mệnh đất nước. Sau khi lên ngôi, Lý Thái Tổ đã ra lệnh tôn tạo,
mở rộng đền Phù Đổng và quy định thể thức tổ chức lễ hội. Theo Cao Huy Đỉnh:
“Vì trung châu là nơi đã gắn những đặc điểm xã hội và thiên nhiên của mình với
cuộc đời và chiến cơng thần kỳ của Dóng, là nơi đã dựng lên ngơi đền Dóng uy
nghi và mở hội Dóng náo nhiệt hàng năm. Đền Dóng và hội Dóng ấy đã khắc sâu

vào trí nhớ mn đời của nhân dân hình tượng vơ cùng rực rỡ của người anh
hùng.”.
Hội Gióng ở Sóc Sơn và hội Gióng ở xã Phù Đổng, có ý nghĩa và hoàn chỉnh
hơn những nơi khác, từ ý tứ truyền thuyết đến nghệ thuật diễn xướng, hay nói theo
Jan Asman, từ ký ức huyền thoại đến ký ức lễ nghi. Những nghi thức được quan
tâm, chứa đựng trong nó sự huyền bí và sức sống của một huyền thoại gắn liền với
lòng tự chủ dân tộc của người Việt Nam. Ở phương diện này có thể coi hội Gióng
như là hình thức ký ức văn hóa đầu tiên.
Đây là cơ hội để người tham dự được chứng kiến một hệ thống lễ thức với
các thao tác thuần thục, uy nghi, mang tính nghệ thuật và tính biểu tượng cao nhằm
tái hiện mối quan hệ nhiều chiều giữa làng và nước, giữa cá nhân và cộng đồng,
giữa quá khứ và hiện tại, giữa thực và ảo, giữa thiêng liêng và trần tục. Trong bài
viết này dành mối quan tâm và phân tích hội Gióng Phù Đổng.


Hội Gióng Phù Đổng chính thống được tổ chức hàng năm vào hai ngày
mùng 8 và mùng 9 tháng 4 âm lịch tại xã Phù Đổng, huỵện Gia Lâm, thành phố Hà
Nội, nơi sinh ra người anh hùng huyền thoại “Phù Đổng Thiên Vương". Để biểu đạt
những ý tưởng và triết lý dân gian, hội Gióng Phù Đổng có dàn vai diễn hết sức
phong phú và độc đáo. GS. Nguyễn Văn Huyên gọi là hội trận. Chúng tôi xin được
gọi đây là hội cờ tướng. Các quân cờ chia ra hai phe. Một bên là các ông “hiệu", hệ
thống tướng lĩnh của Ơng Gióng: “Phù giá“, đội qn chính quy. Một bên đối địch
là các “cô tướng“, tượng trưng các đạo qn xâm lược. Phường “Ải Lao", trong đó
có “Ơng Hổ", đội quân tổng hợp. “Làng áo đỏ“, đội quân trinh sát nhỏ tuổi. “Làng
áo đen", đội dân binh v.v… Hội Gióng như là một bàn cờ tướng rộng lớn với hàng
trăm quân cờ. Cũng như các đạo cụ, y phục, mỗi một chương mục, mỗi một quân
cờ đều chứa đựng những ý nghĩa hết sức sâu sắc. “Rước khám đường" là trinh sát
giặc; “Rước nước" là để tôi luyện khí giới trước khi xuất quân; “Rước Đống Đàm“
là đi đàm phán kêu gọi hồ bình; "Rước trận Soi Bia" là mơ phỏng cách điệu trận
đánh ác liệt.

Hội Gióng khơng chỉ là hội trận, hội cờ mà còn là một hệ thống tượng trưng.
Lá cờ “lệnh" tôn nghiêm cùng với các động tác múa cờ "lệnh" của ông hiệu Cờ
(tượng trưng Ơng Gióng) là biểu đạt phép luỵện qn để giành thắng lợi. “Binh
pháp phải mưu lược sáng tạo" (múa cờ thuận và múa cờ nghịch). Đội phù giá ngoại
có tới 120 người, đóng khố, cởi trần, đầu đội mũ có hình quả dưa, trên có đính chín
con rồng nhỏ, tượng trưng cho đất, vai đeo một túi “bán nguyệt" có hình nửa vầng
trăng, tượng trưng cho trời, tay cầm chiếc quạt giấy màu nâu khắc cụp, khắc xòe
theo khẩu lệnh của ác ông “Xướng“ và “Xuất“, tượng trưng cho một loại vũ khí có
sức biến ảo khơn lường. Tất cả hoà quyện trong vai diễn phù giá làm nổi rõ sức
mạnh vô địch khi người chiến binh được thấm nhuần hào khí thiêng của đất trời
quê hương. Trong lễ hội có 28 cơ gái trẻ đóng vai tướng giặc, tượng trưng cho 28
đạo quân xâm lược nhà Ân.
GS. Trần Quốc Vượng trong cơng trình Truyền thuyết về ơng Gióng - trong
sách vở và ở ngồi đời đã có một sự đúc kết khá xác đáng như sau: “Tham gia sáng
tác truyền thuyết là người dân trung châu, người Chàm nơ lệ Việt hóa, vị thiền sư
Phật giáo, vị đạo sĩ Lão giáo… rồi từng bước chuẩn nhận của triều đình rồi trả về
cho dân chúng cho làng xã, tạo nên một sự hài hòa dù là tương đối và chưa hồn
tồn nhuần nhuyễn giữa: Truyền thuyết ó Sự thờ cúng óLễ hội”.
Như là một ký ức văn hóa phong phú và đa dạng, lễ hội Thánh Gióng là sự
chuyển hố và tổng hợp từ ký ức huyền thoại óký ức tín ngưỡng ó ký ức khơng
gian ó ký ức văn bản ó ký ức lễ nghi. Có thể nói, lễ hội Thánh Gióng đã biểu tượng
hóa, diễn xướng hóa và vừa mã hóa vừa giải mã huyền thoại Thánh Gióng để
truyền đạt về một ý niệm văn hóa của dân tộc ta, đó là chủ nghĩa anh hùng yêu
nước và đưa nó tái hịa nhập vào ký ức cộng đồng. Ký ức văn hóa đã giải đáp vấn
đề này như sau: “Với tư cách là một khái niệm tổng hợp đối với tất cả tri thức, ký
ức văn hóa điều khiển hành động và trải nghiệm trong khuôn khổ liên hành động
đặc thù của một xã hội và chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác để luyện tập
và chỉ dẫn, lặp đi lặp lại” .



Đúng như Jan Assmann đã viết như sau: “Với khái niệm ký ức văn hóa
chúng ta đã tổng kết đặc điểm độc đáo của mỗi xã hội và mỗi thời kỳ về mặt tái sử
dụng các văn bản, các bức tranh và các nghi lễ, trong đó sự bảo tồn của chúng sẽ
đảm bảo “chân dung tự họa” và đưa đến cho cộng đồng những tri thức được chia xẻ
có tính tập thể về q khứ dựa vào một nhóm những ý thức về sự thống nhất và đặc
trưng”.
Chức năng của ký ức văn hóa là sáng tạo và củng cố một “bức chân dung tự
họa”- như Jan Assmann viết tiếp - Một dân tộc sẽ phát triển bản sắc dân tộc hay
chủ nghĩa dân tộc. Việc dân tộc và nhân dân phát triển “bức chân dung tự họa” là
điều khơng phải bàn cãi”.
Lễ hội nói chung và lễ hội Thánh Gióng nói riêng là sự thể hiện, là sự phát lộ
của kí ức văn hóa ấy, của kí ức tín ngưỡng, kí ức cộng đồng. Lễ hội Thánh Gióng là
một nghi thức thờ cúng anh hùng dân tộc, đồng thời là một cuộc tổng diễn xướng
anh hùng ca Thánh Gióng trên một quy mơ rộng lớn. Nó là một bước phát triển
phong phú của anh hùng ca dân tộc. Một lần nữa, huyền thoại này trong đó có
những yếu tố cổ nhất, hồn nhiên nhất đã sống lại, làm sống lại chủ đề và hình tượng
người anh hùng tập thể của bộ lạc đang được nâng lên thành người anh hùng dân
tộc với một chất lượng mới: một biểu tượng văn hóa có tầm vóc đặc biệt thể hiện
khát vọng mn đời và hào khí của dân tộc ta.
Bài 4: Đền Phù Đổng và Lễ hội Gióng
Phù Đổng là một xã của huyện Gia Lâm, Hà Nội. Đây là quê hương của Trạng
nguyên Đặng Công Chất (1622 – 1683), nữ sĩ Lý Ngọc Kiều (1041 – 1113), nhà
thơ Thế Lữ (1907 – 1989). Tại đây có ngơi đền linh thiêng, ngày 9/12/2013 được
Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt.
Ngơi đền thờ Phù Đổng Thiên Vương, người anh hùng trẻ tuổi trong hệ thống
thần thoại thời Hùng Vương dựng nước. Đền Phù Đổng được xây cất trên nền đất
nhà cũ của mẹ Thánh Gióng. Đền tọa lạc trên khu đất rộng hơn hai mẫu, bao gồm
thủy đình, ngũ mơn, phương đình, hai nhà tiền tế và hậu cung.
Đền còn lưu được cả thảy 21 đạo sắc phong (trong đó đời Lê có 12 đạo, đời
Tây Sơn có 3 đạo, đời Nguyễn có 6 đạo). Sắc có niên đại sớm nhất là sắc Đức Long

năm thứ 5 (1634). Trong đền, có nhiều hiện vật có giá trị như: Chiếc ngai thờ từ thế
kỉ XVII chạm trổ tinh vi; bình hương, nghê đồng, hai thanh kiếm, câu đối do anh
em thi hào Nguyễn Du cung tiến... Tại đền cịn có một bia đá rất đẹp dựng năm
1660, cũng là một hiện vật hiếm thấy tại các ngôi đền khác ở nước ta. Phía sau đền
có một giếng nước trong, gọi là giếng Ngọc.
Ngày xưa tổng Phù Đổng có bốn làng: Phù Đổng, Phù Dực, Đổng Viên và
Đổng Xuyên thì cả bốn làng cùng tổ chức lễ hội. Trước ngày hội, cả làng chọn
xong các tướng của Gióng: Một hiệu cờ (múa cờ), một hiệu chiêng, một hiệu trung
quân (chỉ huy đoàn quân), hai hiệu tiểu cổ (tướng tiên phong) và một đội thám mã
(trinh sát). Còn quân lính thì có 12 phù giá nội, coi như cận vệ và 120 phù giá ngoại


coi như đại qn. Tham gia hội cịn có phường múa hát Ải Lao (phường Tùng
Choạc), trong đó có một ông trùm, một người đánh trống khẩu, một người cầm
cung nỏ (tượng trưng cho người đi săn), một người cầm cần câu (dân chài), hai
người cầm cờ lau (trẻ chăn trâu), một người hóa trang thành con hổ, 12 người cầm
xênh phách. Phường này sẽ hát và múa giúp vui cho hội. Ngồi ra bốn làng cịn
phải cử 28 bé gái từ 10 – 13 tuổi đóng vai tướng giặc Ân.
Hội Gióng bắt đầu từ ngày mồng 6 tháng tư Âm lịch bằng rước lễ. Ngày mồng
8 duyệt 28 nữ tướng, ngày mồng 9 là chính hội.
Mở đầu là rước cờ từ đền Mẫu (nơi thờ mẹ Gióng) về đền Phù Đổng. Tiếp đến
là phường múa Ải Lao diễn trò săn hổ và vây bắt hổ. Trong khi đó ở Đống Đàm
(coi như trận địa giặc Ân), 28 nữ tướng cũng dàn thế trận. Họ ngồi trên kiệu.
Khoảng quá trưa, đội thám mã về đền thơng báo giặc đã đóng quân ở Đống Đàm.
Thế là chiêng trống nổi lên, đoàn qn của chàng Gióng tiến về Đống Đàm dưới
hình thức một đám rước. Đi đầu là 24 thiếu niên dẹp đường rồi đến tướng tiên
phong, ông hổ, phường Ải Lao, các tướng của Gióng và người xem hội.
Chiến trường Đống Đàm là một bãi nhỏ nằm giữa hai con đê. Tại đây đã trải
sẵn ba chiếc chiếu, mỗi chiếc có một bát úp trên một tờ giấy trắng. Chiếu tượng
trưng cho đồng bằng, bát là núi, giấy là mây. Đám rước tới nơi, các tướng đến các

vị trí cuộc chiến bắt đầu... Ba đợt phất cờ dân gọi là ba ván thuận. Các nữ tướng
của giặc Ân lúc này cũng quay khăn về phía đền, tỏ ý bị tan rã. Trống chiêng lại nổi
lên, quân của Thánh Gióng đã thắng.
Đám rước trở về đền mở tiệc khao quân. Nhưng vào giữa bữa tiệc, thám mã
cấp báo rằng quân giặc đang vây ở Sòi Bia. Cuộc chiến đấu cũng diễn ra như ở
Đống Đàm, có điều là hiệu cờ lại phất cờ từ trái sang phải, gọi là ba ván nghịch.
Khi ván thứ ba chấm dứt, quân giặc đại bại, tướng giặc bị bắt giải về đền cùng với
trống chiêng rền vang báo tiếp. Tại đây hai tướng giặc bị hất mũ và phanh áo, ngụ ý
bị chém đầu và lột da. Tiếp đó làm lễ dâng thủ cấp giặc. Xong lễ, tiệc khao bắt đầu,
khơng khí chiến thắng lại bao trùm . Buổi tối có các trị chơi dân gian, diễn tuồng…
được kéo dài tới khuya.
Ngày 16/11/2010, lễ hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc (huyện Sóc Sơn)
đã được UNESCO cơng nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Triệu Chinh Hiểu
5.3. Ứng dụng công nghệ thông tin
- Sử dụng phần mềm Microsoft Office PowerPoint 2003 .
- Máy ảnh.
VI. Hoạt động dạy học và tiến trình dạy học
TRỢ GIÚP CỦA GIÁO VIÊN
Hoạt động 1: Tổ chức lớp

HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH


- Giáo viên ổn định lớp học.
Hoạt động 2: Tìm hiểu khái quát về Phù Đổng - Con người và Lịch sử
I. Giới thiệu khái quát về Phù Đổng –
- GV : Cho học sinh xem một đoạn Con người và lịch sử.
phim giới thiệu về Xã Phù Đổng
( Có thể quan sát bản đồ của Gia 1. Vị trí địa lí

Lâm – vị trí của xã Phù Đổng trên bản
đồ).
- Phù Đổng là một xã nông thôn thuộc
H: Những hiểu biết của em về vị trí địa Huyện Gia Lâm ngoại thành Hà Nội.
lí của Phù Đổng?
- GV : Giới thiệu về vị trí địa lí, diện
tích, dân số
2. Lịch sử ra đời và phát triển
H: Nêu những hiểu biết của em về lịch
sử ra đời và phát triển của Phù Đổng?
- Xã Phù Đổng thuộc vùng đất cổ lâu
đời của đồng bằng châu thổ sông Hồng - Phù Đổng là vùng đất cổ lâu đời của
trong hành lang “ tam cổ” đó là Cổ đồng bằng châu thổ sông Hồng.
Loa , Cổ Giáp , Cổ Bi ( giao thoa giữa
các vùng văn hóa nổi tiếng : Kinh Bắc, - Trước cách mạng tháng 8 thuộc Huyện
Kinh Kì, Phố Hiến xưa)
Tiên Du Bắc Ninh.
- GV: chốt ( Bình).

- 20/4/1961 chuyển về Gia Lâm Hà Nội.

3. Con người
H: Người dân Phù Đổng chủ yếu làm - Phù Đổng là nơi xuất hiện sớm người
nghề gì? Em có nhận xét gì về cuộc Việt cổ.
sống lao động của những người dân của
- Có nhiều danh nhân.
quê hương em?
- GV: Giới thiệu về con người của Phù
Đổng.
Hoạt động 3: Phù Đổng – Văn hóa và di sản

II. Phù Đổng – Văn hóa và di sản
1. Những cơng trình kiến trúc cổ và di
GV: chuyển ý, giới thiệu chung về các tích.
cơng trình kiến trúc văn hóa.
GV: cho học sinh quan sát các hình ảnh
về các cơng trình kiến trúc .
* Cho học sinh chơi trò chơi “ Ai
nhanh”


×