Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

hiện trạng, giải pháp quản lý sản xuất và kinh doanh giống cá rô phi (oreochromis spp.) tại tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (697.6 KB, 72 trang )

i


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU IX
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1
1.1. Đặc điểm sinh học cá rô phi 1
1.1.1. Đặc điểm phân loài 1
1.1.2. Đặc điểm dinh dưỡng 2
1.1.3. Một số đặc điểm sinh thái 2
1.1.3.1. Nhu cầu ôxy hoà tan (DO) 2
1.1.3.2. Nhiệt độ 3
1.1.3.3. Giá trị pH 3
1.1.3.4. Độ muối 4
1.1.3.5. Ammonia và Nitrite 4
1.1.4. Đặc điểm sinh trưởng 4
1.1.5. Đặc điểm sinh sản 4
1.2. Tình hình nghiên cứu sản xuất giống cá rô phi 7
1.2.1. Nghiên cứu sản xuất giống cá rô phi trên thế giới 7
1.2.2. Nghiên cứu, sản xuất cá giống cá rô phi ở Việt Nam 10
1.3. Các điều kiện và hiện trạng phát triển thủy sản tỉnh Hải Dương 12
1.3.1. Các điều kiện phát triển thủy sản tỉnh Hải Dương 12
1.3.1.1. Vị trí địa lý 12
1.3.1.2. Đặc điểm địa hình 12
1.3.1.3. Khí hậu thời tiết 13
1.5.1.4. Nguồn nhân lực phát triển thuỷ sản 13
1.3.1.5. Tiềm năng phát triển nuôi trồng thuỷ sản 14
1.3.2. Hiện trạng phát triển nuôi thủy sản tỉnh Hải Dương 15
1.3.2.1. Hiện trạng diện tích nuôi thủy sản 15
1.3.2.2. Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản 16
1.3.2.3. Năng suất nuôi trồng thuỷ sản 17


1.3.2.4. Hiện trạng phát triển nuôi trồng thuỷ sản các vùng tập trung 17
1.3.3. Sản xuất và cung ứng giống thuỷ sản 18
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 19
ii


2.1. Nội dung nghiên cứu 19
2.2. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu 19
2.3. Phương pháp nghiên cứu 20
2.3.1. Phương pháp thu thập số liệu 20
2.3.2. Phương pháp chọn mẫu nghiên cứu 21
2.3.3. Phương pháp tích và xử lý số liệu 22
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 22
3.1. Hiện trạng sản xuất và kinh doanh giống cá rô phi tại tỉnh Hải Dương 23
3.1.1. Hiện trạng sản xuất giống cá rô phi 23
3.1.1.1. Số cơ sở và công suất thiết kế sản xuất giống cá rô phi 23
3.1.1.2. Diện tích cơ sở sản xuất giống cá rô phi 24
3.1.1.3. Năng lực sản xuất của các cơ sở sản xuất giống cá rô phi 25
3.1.1.3.1. Công suất thiết kế 25
3.1.1.3.2. Trang thiết bị của cơ sở sản xuất giống 26
3.1.1.3.3. Hệ thống ao 26
3.1.1.3.4. Lực lượng lao động của các cơ sở sản xuất giống thuỷ sản 28
3.1.1.3.5. Số lượng đàn cá bố mẹ của các cơ sơ xuất giống cá rô phi 29
3.1.1.2 Hiệu quả kinh tế của các trại giống 30
3.1.1.2.1. Thu nhập của các trại giống từ hoạt động sản xuất 30
3.1.1.2.2. Chi phí sản xuất 31
3.1.1.2.3. Lợi nhuận của các trại giống 31
3.1.2. Hiện trạng cơ sở kinh doanh giống cá rô phi 32
3.1.2.1. Số cơ sở kinh doanh giống cá rô phi 32
3.1.2.2. Kết quả điều tra các cơ sở kinh doanh giống cá rô phi 34

3.1.2.3. Lực lượng lao động của cơ sở kinh doanh giống thuỷ sản 35
3.1.2.4. Hiệu quả kinh tế của các cơ sở ương nuôi cá rô phi giống 35
3.1.2.4.1. Thu nhập của các cơ sở ương nuôi cá rô phi giống 35
3.1.2.4.2. Chi phí ương nuôi 36
3.1.2.4.3. Lợi nhuận của các cơ sở ương nuôi giống 36
3.1.3. Đánh giá chung về hiện trạng sản xuất và kinh doanh cá rô phi 36
3.1.3.1. Kết quả đạt được 36
3.1.3.2. Khó khăn 37
iii


3.1.3.3. Hạn chế, tồn tại và nguyên nhân 37
3.2. Giải pháp quản lý sản xuất và kinh doanh cá rô phi giống 38
3.2.1. Giải pháp về quản lý sản xuất giống 38
3.2.2. Giải pháp về cơ chế chính sách 40
3.2.2.1. Chính sách giao khoán, cho thuê diện tích đất, mặt nước 40
3.2.2.2. Chính sách hỗ trợ đầu tư sản xuất và kinh doanh giống cá rô phi 40
3.2.2.3. Chính sách hỗ trợ rủi ro 40
3.2.3. Giải pháp quản lý sản xuất 41
3.2.4. Giải pháp quản lý môi trường trong sản xuất 41
3.2.5. Giải pháp về đào tạo và khuyến ngư 42
3.2.5.1. Giải pháp về đào tạo 42
3.2.5.2. Giải pháp khuyến ngư 43
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 44
4.1. Kết luận 44
4.2. Kiến nghị 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………… 46

















iv


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, do tôi thực hiện.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được ai công bố trong bất
kì công trình nghiên cứu nào khác. Các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được
chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, ngày 15 tháng 4 năm 2013

Tác giả luận văn



Nguyễn Văn Hữu




v


LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Nha Trang, Viện
nghiên cứu Hải sản và cơ quan công tác đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá
trình học tập và thực hiện luận văn thạc sỹ này.
Tác giả bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới thầy PGS.TS. Nguyễn Đình Mão
người đã định hướng và tận tình chỉ dẫn tôi trong quá trình thực hiện luận văn. Qua
đây, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy, cô giáo đã giảng dạy cung cấp
kiến thức cơ bản trong quá trình học tập cho tôi.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn tới UBND tỉnh Hải Dương, Sở Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn tỉnh Hải Dương, Chi cục Thủy sản Hải Dương; UBND và Phòng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Hải Dương, huyện Tứ Kỳ, huyện Gia
Lộc,…. và và các hộ tham gia sản xuất và kinh doanh giống cá rô phi tại tỉnh Hải
Dương đã sắp xếp thời gian, cung cấp thông tin trong luận văn này cho tôi.
Với lòng biết ơn chân thành nhất, xin gửi đến gia đình và bạn bè đã luôn động
viên và giúp đỡ tôi để hoàn thành công trình nghiên cứu này./.

Tác giả luận văn



Nguyễn Văn Hữu

vi



DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Các giai đoạn phát triển noãn sào của cá rô phi 5
Bảng 1.2. Các đặc điển phân biệt cá rô phi đực và cá cái 6
Bảng 1.3: Diễn biến diện tích NTTS (ha) toàn tỉnh Hải Dương 15
Bảng 1.4: Diễn biến sản lượng thuỷ sản nuôi (tấn)………………………………… 16
Bảng 3.1: Kết quả điều tra công suất thiết kế các cơ sở sản xuất cá giống trên địa bàn
tỉnh Hải Dương năm 2012 21
Bảng 3.2: Diện tích ao sản xuất giống cá rô phi tỉnh Hải Dương năm 2012………….22
Bảng 3.3: Công suất của các trại sản xuất giống cá rô phi đến năm 2012……………23
Bảng 3.4: Hệ thống ao và trang thiết bị của các cơ sở sản xuất giống cá rô phi tỉnh Hải
Dương năm 2012 24
Bảng 3.5: Lao động của các cơ sở xuất giống cá rô phi năm 2012 26
Bảng 3.6: Đàn cá bố mẹ của các trại sản xuất giống cá rô phi đến năm 2012……….27
Bảng 3.7: Hiệu quả sản xuất các trại sản xuất giống cá rô phi đến năm 2012 29
Bảng 3.8: Số cơ sở ương giống cá rô phi trong tỉnh Hải Dương 30
Bảng 3.9: Sản lượng ương nuôi giống cá rô phi tỉnh Hải Dương…………………….31
Bảng 3.10: Diện tích cơ sở ương giống cá rô phi tỉnh Hải Dương……………… 32
Bảng 3.11: Số lao động tại cơ sơ ương nuôi giống cá rô phi đến năm 2012……… 32
Bảng 3.12: Hiệu quả cơ sơ ương nuôi giống cá rô phi đến năm 2012 34














vii


DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1: Cá rô phi vằn (O. niloticus) 1
Hình 1.2: Cố rô phi hồng (O. aureus
)
……………………………………………………… 2
Hình 3.1: Bờ ao tại trại cá Tứ Kỳ sạt lở…………………………………………… 25
Hình 3.2: Ao nuôi cá bố mẹ Công ty CP cá giống Ninh Giang không đảm bảo kỹ
thuật……………………………………………………………………………… 25





viii


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT Chữ viết tắt Diễn giải nghĩa
1 ASEAN Hiệp hội các nước Đông Nam Á
2 ATVSTP An toàn vệ sinh thực phẩm
3 BQ Bình quân
4 CĐ Cố định

5 DT Diện tích
6 ĐVPD Động vật phù du
7 ĐVT Đơn vị tính
8 GĐ Giai đoạn
9 FAO Tổ chức lương thực - Nông nghiệp của Liên hợp Quốc
10 FCR Hệ số sử dụng thức ăn
11 KT- XH Kinh tế - xã hội
12 NN&PTNT Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
13 NTTS Nuôi trồng thủy sản
14 QCVN Quy chuẩn Việt Nam
15 SX Sản xuất
16 TCN Tiêu chuẩn ngành
17 TS Thủy sản
18 Tr.đ Triệu đồng
19 UBND Ủy ban nhân dân







ix


MỞ ĐẦU
Ngành thủy sản chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh
tế-xã hội của Việt Nam và đã trở thành một ngành kinh tế quan trọng của đất nước.
Bình quân giai đoạn 2001-2011, kinh tế thủy sản đóng góp khoảng trên 3%/năm vào
GDP toàn quốc, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, xóa đói

giảm nghèo, và giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động; góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam. Trong những năm qua sản xuất thủy sản
đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận cả về sản lượng và giá trị. Năm 2011, tổng
sản lượng thủy sản đạt trên 5,2 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt trên 6,11 tỷ USD.
Hàng thủy sản Việt Nam đã có mặt ở trên 160 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới;
ngành thủy sản luôn giữ vững vị trí tốp 10 nước xuất khẩu thủy sản hàng đầu thế giới.
Những kết quả mà ngành thủy sản Việt Nam đạt được trong giai đoạn qua là nhờ
có sự đóng góp quan trọng từ nghề nuôi trồng thủy sản. Năm 2011, tổng sản lượng
nuôi trồng thủy sản đạt 3 triệu tấn. Nuôi trồng thủy sản ở nước ta đã có sự thay đổi về
phương thức và hoạt động tổ chức sản xuất. Chuyển mạnh từ sản xuất mang tính tự
cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá đáp ứng thị trường; từ quy mô hộ gia đình đơn lẻ
sang quy mô trang trại, công ty và tổ hợp tác và chuyển từ nuôi các đối tượng truyền
thống sang nuôi các đối tượng có giá trị thương mại cao.
Đối với lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, con giống đóng vai trò rất quan trọng trong
sự phát triển, góp phần đảm bảo năng suất, chất lượng, hiệu quả và bảo vệ môi trường
của NTTS. Đặc biệt đối với các mô hình nuôi thâm canh và bán thâm canh, yêu cầu
bắt buộc là nguồn giống phải được cung cấp chủ động từ sản xuất nhân tạo để đảm bảo
về số lượng và chất lượng một cách kịp thời, đúng mùa vụ.
Tuy nhiên, việc quản lý sản xuất giống, kinh doanh giống cá rô phi hiện nay gặp
nhiều khó khăn, chưa quản lý được đàn cá bố mẹ cũng như là chất lượng đàn cá giống
thả nuôi. Các dòng cá bố mẹ được chọn lọc mà các viện chuyển giao cho các tỉnh
không được bảo tồn và duy trì nên số lượng giảm dần. Đàn cá bố mẹ hiện nay là không
rõ nguồn gốc, cỡ cá bố mẹ nhỏ (200 – 300 g/con). Việc quản lý sản xuất lưu thông
giống cá rô phi còn lỏng lẻo, cá giống bán trên thị trường không có nhãn mác, không
nguồn gốc, không phân biệt được cá đã chuyển giới tính hay không.
x


Tỉnh Hải Dương cũng không nằm ngoài những khó khăn trên. Là tỉnh có diện
tích nuôi cá rô phi tập trung lớn nhất nước, nhu cầu cá rô phi giống khoảng 40 triệu

con, trong khi đó năng lực sản xuất của tỉnh mới chỉ đạt 12 triệu con, còn lại nhập từ
các tỉnh lân cận và từ nước ngoài. Hầu hết số lượng giống nhập về tỉnh không kiểm
soát được, dẫn đến chất lượng cá giống không đạt yêu cầu, ảnh hưởng đến người nuôi.
Vì vậy quản lý tốt sản xuất và kinh doanh giống cá rô phi của tỉnh Hải Dương sẽ góp
phần quản lý tốt sản xuất và kinh doanh giống cá rô phi trên toàn quốc.
Xuất phát từ những thực tế trên, tôi thực hiện đề tài: “Hiện trạng, giải pháp
quản lý sản xuất và kinh doanh giống cá rô phi (Oreochromis spp.) tại tỉnh Hải
Dương” nhằm góp phần quản lý tốt sản xuất và kinh doanh giống cá rô phi tại tỉnh Hải
Dương.
Nội dung chính của đề tài:
- Đánh giá hiện trạng sản xuất và kinh doanh cá rô phi giống ở tỉnh Hải Dương.
- Đề xuất định hướng và giải pháp quản lý sản xuất cá rô phi giống ở tỉnh Hải
Dương.












1



CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Đặc điểm sinh học cá rô phi
1.1.1. Đặc điểm phân loài
Cá rô phi thuộc bộ cá vược Percifomes, họ Cichlidae, là loài cá có nguồn gốc từ
Châu Phi, có phân bố ở 100 quốc gia trên thế giới [15]. Hệ thống phân loại cá rô phi
như sau:
Giới: Animalia
Ngành: Chordata
Lớp: Actinopterygii
Bộ: Perciformes
Họ: Cichlidae
Chi: Oreochromis










Hiện nay, đã phân loại được khoảng hơn 80 loài cá rô phi, trong đó có khoảng
gần 10 loài có giá trị kinh tế trong nuôi trồng thủy sản. Đối với các loài cá rô phi có giá
trị kinh tế, cá rô phi vằn O. niloticus, cá rô phi xanh O. aureus và cá rô phi hồng
Oreochromis sp. là những loài cá quan trọng, đang được nuôi phổ biến ở hầu hết các
nước nhiệt đới và cận nhiệt đới trên thế giới hiện nay (Macintosh & Little, 1995) [24].
Cá rô phi vằn O. niloticus được nhập vào miền Nam Việt Nam năm 1973, đến
năm 1977 dòng cá này được chuyển ra thuần hóa ở Miền Bắc và được lưu giữ gen tại
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I. Cá rô phi vằn khi đó thường được gọi với tên
cá rô phi Đài Loan, dòng cá này có ưu điểm lớn nhanh, nhịp sinh sản thưa hơn so với

dòng cá rô phi đen được nhập trước đây và chúng đã nhanh chóng thích nghi với điều
Hình 1.1: Cá rô phi vằn (O. niloticus)
Hình 1.2: Cá rô phi hồng (O. aureus)
2


kiện khí hậu tại miền Bắc, với những ưu điểm như vậy cá rô phi vằn đã trở thành đối
tượng nuôi đầy triển vọng và được nuôi rộng rãi trong cả nước [6].
Năm 1994, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I đã nhập nội một số phẩm
giống cá rô phi như: Cá rô phi vằn dòng Thái Lan từ Thái Lan, cá rô phi GIFT thế hệ
thứ 5, cá rô phi vằn dòng Swansea, và cá rô phi xanh O. aureus từ Philippines, cá rô
phi hồng Oreochromis sp từ Đài Loan và Thái Lan. Các giống cá rô phi nhập nội sau
đó tiến hành nuôi thử nghiệm ở một số địa phương: Quảng Ninh, Hải Dương, Nghệ
An và Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I, kết quả cho thấy: Cá rô phi vằn dòng
Thái Lan, dòng GIFT, và cá rô phi hồng đã thể hiện ưu thế sinh trưởng, thích ứng với
điều kiện nuôi cá nước ta, được người nuôi cá quan tâm. Các dòng cá rô phi vằn dòng
GIFT, dòng Thái Lan và cá rô phi hồng hiện đang được sử dụng làm giống nuôi ở
nhiều vùng nuôi trong cả nước [8].
1.1.2. Đặc điểm dinh dưỡng
Cá rô phi là loài ăn tạp, thức ăn của chúng chủ yếu thực vật phù du (tảo lục và
tảo lam), động vật phù du, mùn bã hữu cơ, ấu trùng côn trùng, động vật đáy [24],
[37]. Ở giai đoạn cá hương chúng ăn sinh vật phù du, chủ yếu là động vật phù du và
một ít thực vật phù du. Ở giai đoạn cá giống đến cá trưởng thành chúng chủ yếu ăn
mùn bã hữu cơ và thực vật phù du. Đặc biệt cá rô phi có khả năng hấp thụ 70-80%
tảo lục, tảo lam mà các loài cá khác khó có khả năng tiêu hoá [3], [8], [11].
Trong quá trình nuôi, người nuôi thường bổ sung ngô, cám gạo, bột cá và thức
ăn công nghiệp để làm thức ăn cho cá Tuy nhiên, tùy theo giai đoạn phát triển của
cá mà bổ sung các loại thức ăn khác nhau.
1.1.3. Một số đặc điểm sinh thái
a. Nhu cầu ôxy hoà tan (DO)

Hàm lượng ôxy hòa tan là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất của chất
lượng nước, ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá. Nhu cầu về
hàm lượng ôxy hòa tan và lượng tiêu hao ôxy hòa tan của cá tăng theo nhiệt độ và
mức độ sử dụng thức ăn của cá. Khi mức độ nuôi thâm canh cao thì hàm lượng ôxy
hòa tan trở thành yếu tố hạn chế tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá.

Nhiều loài cá tăng
trưởng chậm đi khi hàm lượng ôxy hòa tan nhỏ hơn 5 mg/L (Boyd, 1996).
3


Cá rô phi có khả năng sống trong môi trường nước có hàm lượng ôxy hòa tan
thấp, có thể chịu được mức ôxy hoà tan 0,1 mg/lít [15]. Khi hàm lượng ôxy hoà tan
trong nước dưới 1 mg/lít chúng có thể sử dụng ôxy trong không khí [18]. Tuy nhiên,
tỷ lệ sống của cá sẽ giảm, phụ thuộc thời gian kéo dài trong tình trạng ôxy hoà tan
trong nước thấp. Cá rô phi sống được trong bể nước có hàm lượng ôxy hòa tan 1,2
mg/l trong thời gian 36 giờ [15].
b. Nhiệt độ
Nhiệt độ là một trong những yếu tố môi trường quan trọng nhất ảnh hưởng đến
quá trình sinh trưởng và phát triển của cá. Cá rô phi là loài cá có nguồn gốc nhiệt đới,
nên có khả năng thích nghi ở điều kiện nhiệt độ cao tốt hơn nhiệt độ thấp. Nhiệt độ
giới hạn cho sinh trưởng và phát triển của cá rô phi từ 11- 42
o
C. Nhiệt độ thích hợp
cho tăng trưởng của cá trong khoảng 20 -35
o
C, nhiệt độ tối ưu cho sự sinh trưởng,
phát triển của cá khoảng 28- 30
o
C [15].

Nhiệt độ thích hợp cho cá rô phi sinh sản là 26 – 29
o
C. Khi nhiệt độ nước
xuống dưới 20
o
C thì tuyến sinh dục của cá ngừng phát triển. Nhiệt độ cũng ảnh
hưởng rất lớn đến sự phát triển của trứng và cá con sau khi nở. Biên độ nhiệt thích
hợp cho sự phát triển phôi của cá rô phi là 25 – 30
o
C và cho cá con là 28 - 30
0
C. Sau
khi nở 8 ngày ở nhiệt độ nước 24
o
C, cá bột cá rô phi bắt đầu ăn thức ăn bên ngoài,
khoảng thời gian này rút ngắn còn 5 ngày khi nhiệt độ nước tăng lên 28
0
C và 3 ngày
khi nhiệt độ nước là 30
0
C [15].
Trong cùng một loài thì ngưỡng chịu nhiệt của các dòng cá rô phi cũng có sự
khác nhau về khả năng chịu lạnh. Khả năng thích ứng với biên độ nhiệt của cá rô phi
còn phụ thuộc vào kích cỡ cá, sự thuần hóa và độ mặn của môi trường nước. Cá rô
phi giai đoạn cá hương chịu lạnh kém hơn khi ở môi trường nước ngọt, nhưng ở môi
trường nước lợ cá chịu lạnh tốt hơn.
c. Giá trị pH
Giá trị pH ảnh hưởng đến tính độc của amonia, nitrit và Hydrogen sulfphile
trong nước. pH quá cao hoặc quá thấp đều ảnh hưởng tới sức khoẻ cá và quá trình
trao đổi chất trong thủy vực.

Đối với cá rô phi và một số loài cá nước ngọt, pH thích hợp cho sinh trưởng và
4


phát triển của chúng là từ 6,5 – 8,5. Ngưỡng pH giới hạn của cá rô phi từ 4 - 11 đối
với cá rô vằn [18], pH thấp hoặc cao quá ngưỡng cho phép đều ảnh hưởng không tốt
đến quá trình sinh trưởng và phát triển của cá rô phi [36]. Quá trình sinh trưởng và
khả năng sinh sản của cá rô phi giảm rõ rệt khi giá trị pH thấp dưới 6,5.
d. Độ muối
Cá rô phi có thể sinh trưởng và phát triển trong môi trường nước ngọt, nước lợ
và có thể phát triển ở môi trường nước biển có độ mặn tới 32‰. Cá phát triển tối ưu ở
độ mặn dưới 5‰ [1] [2] [3]. Tuy nhiên, khả năng thích ứng với nồng độ muối của cá
rô phi còn phụ thuộc vào kích cỡ, tuổi của cá và điều kiện khí hậu của vùng nuôi Cá
càng nhỏ thì ngưỡng độ mặn càng thấp.
e. Ammonia và Nitrite
Trong nước ammonia tồn tại 2 dạng NH
3

và NH
4
+

và được gọi là hàm lượng
nitrogen tổng số. Sự chuyển hoá ammonia giữa 2 dạng NH
3

và NH
4
+


phụ thuộc vào
độ pH và nhiệt độ của nước. Hàm lượng NH
3

tăng cao khi pH và nhiệt độ nước tăng
cao. Ammonia ở dạng NH
4
+

không gây độc cho thuỷ sinh vật, trừ khi hàm lượng quá
cao. Trong khi đó, ammonia ở dạng NH
3

gây độc cho cá, tôm. Nồng độ ammonia gây
độc cho cá phụ thuộc hàm lượng ôxy hòa tan và tình trạng sức khỏe của cá, khi hàm
lượng ôxy hòa tan trong nước thấp thì NH
3

gây độc cho cá với nồng độ thấp, cá có
thể chết ở nông độ ammonia 0,5 mg/l [15].
1.1.4. Đặc điểm sinh trưởng
Cá rô phi là loài lớn nhanh, tuy nhiên tốc độ sinh trưởng của cá phụ thuộc vào
nhiệt độ, thức ăn, mật độ nuôi và loài cá. Cá rô phi vằn sau một tháng nuôi đạt 2-3
g/con. Sau hai tháng nuôi, cá đạt 15-20 g/con. Trong quá trình nuôi thương phẩm, sau
5-6 tháng nuôi cá đực có thể đạt 400-500 g/con [3], [5], [8].
1.1.5. Đặc điểm sinh sản
Thành thục sinh dục: Sự thành thục sinh dục của cá rô phi tuỳ thuộc theo từng
loài, phụ thuộc vào kích cỡ, tuổi cá và môi trường sống. Cá rô phi O. mossambicus
thành thục sớm hơn loài O. niloticus. Trong ao nghèo dinh dưỡng cá thường thành
thục ở cỡ nhỏ hơn nuôi trong ao có điều kiện dinh dưỡng tốt. Trong tự nhiên, cá rô

5


phi thành thục sinh dục lần đầu sau 4 – 6 tháng tuổi, khi cá đạt khối lượng 100-150
g/con. Tuy vậy kích thước thành thục sinh dục của cá rô phi phụ thuộc vào điều kiện
chăm sóc và độ tuổi cá. Cá rô phi khi nuôi trong mô hình thâm canh năng suất cao, cá
cái tham gia sinh sản lần đầu khi khối lượng đạt trên 200g, trong khi đó ở điều kiện
nuôi kém, cá cái bắt đầu đẻ khi khối lượng cơ thể mới khoảng 100g [1], [16]. Khi
điều kiện môi trường thuận lợi, giàu dinh dưỡng, cá rô phi lớn nhanh và phát dục ở
kích cỡ lớn, ngược lại trong điều kiện môi trường không đầy đủ chất dinh dưỡng, cá
thành thục ở kích thước nhỏ [1].
Chu kỳ sinh sản: Cá rô phi là loài thành thục rất sớm, thường sau 3 đến 5 tháng
nuôi cá đã thành thục sinh dục và tham gia sinh sản. Chu kỳ sinh sản của cá từ 30 - 35
ngày/lứa. Cá sinh sản nhiều lần trong năm, ở những vùng khí hậu ấm áp quanh năm
như các tỉnh phía Nam cá rô phi O. niloticus có thể đẻ 11 - 12 lần/năm. Còn ở các tỉnh
miền Bắc cá chỉ đẻ 5 - 6 lần trong năm. Quan sát buồng trứng cá rô phi cho thấy: trong
buồng trứng cá lúc nào cũng có trứng ở các giai đoạn từ giai đoạn còn non đến giai
đoạn thành thục. Số lượng trứng mỗi lần đẻ từ vài trăm trứng đến khoảng vài nghìn
trứng. Tuy nhiên, khi nhiệt độ nước xuống dưới 20
o
C kéo dài trong nhiều ngày thì cá
ngừng sinh sản [1], [3]. Sự hình thành và phát triển tuyến sinh dục của cá rô phi phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố như tuổi, cỡ cá, chế độ dinh dưỡng, nhiệt độ nước, độ mặn…
Nghiên cứu sự phát triển buồng trứng của cá rô phi cho thấy, sự phát triển của
trứng cũng được chia thành 6 giai đoạn như những loài khác. Tiêu chuẩn phân chia giai
đoạn được dựa vào kích thước của noãn bào có trong nang buồng trứng, Tacon và CTV
(1996) đã mô tả tóm tắt 6 giai đoạn phát triển của tế bào trứng cá rô phi như sau:
Bảng 1.1. Các giai đoạn phát triển noãn sào của cá rô phi
Giai đoạn Kích thước noãn bào (µm)
I 500 – 700

II 800 – 1000
III 1100 – 1300
IV 1400 – 1600
V > 1700
VI 500 – 700+ >1700
(Nguồn: Nguyễn Thị Hoa, 2008)
Tập tính sinh sản: Đối với cá rô phi, sự phát triển và hình thành các đặc điểm
sinh sản, dấu hiệu sinh dục phụ được thể hiện rất rõ ở cả con đực và con cái trước khi
6


tham gia sinh sản (Ambali, 1990). Cá đực đến tuổi phát dục thì mép vây đuôi, vây
lưng và vây bụng có màu rực rỡ. Đối với cá cái thì mép vây đuôi, vây lưng và vây
bụng có màu hơi vàng. Cá rô phi đực và cá rôi phi cái còn được phân biệt thông qua
quan sát lỗ huyệt sinh dục [1] [2] [3], cụ thể như sau:
+ Cá đực: có hai lỗ, phía trước là lỗ hậu môn, phía sau là rãnh huyệt (huyệt
niệu sinh dục).
+ Cá cái: Có ba lỗ, phía trước là lỗ hậu môn, phía sau là lỗ niệu sinh dục và ở
giữa là lỗ sinh dục.
Bảng 1.2. Các đặc điển phân biệt cá rô phi đực và cá cái
Ðặc điểm phân biệt Cá đực Cá cái
Ðầu To và nhô cao
Nhỏ, hàm dưới trễ do
ngậm trứng và con
Màu sắc
Vây lưng và vây đuôi sặc
sỡ có màu hồng hặc hơi đỏ
Màu nhạt hơn
Lỗ niệu và lỗ sinh dục
Hai lỗ: lỗ niệu sinh dục và

lỗ hậu môn.
Ba lỗ: lỗ niệu, lỗ sinh dục
và lỗ hậu môn
Hình dạng lỗ huyệt
Ðầu thoát lỗ niệu sinh dục
dạng lồi, hình nón dài và
nhọn.
Dạng tròn, hơi lồi và
không nhọn như ở cá đực
(Nguồn: Lê Văn Thắng, 1999 )
Cá rô phi là loài cá thành thục và sinh sản trong điều kiện bình thường ao nuôi
mà không cần tác nhân kích thích sản. Cá rô phi O. niloticus đực đào hố ở đáy ao, cá
cái đẻ trứng vào hố cùng thời điểm đó cá đực phóng tinh dịch vào trứng của cá cái.
Sau khi trứng đã thụ tinh, cá cái ngậm trứng vào miệng và ấp trứng trong đó. Mỗi cá
cái trung bình đẻ từ vài trăm đến 2.000 trứng/lần sinh sản. Thời gian ấp tính từ khi cá
cái thu trứng từ ổ để ấp trong miệng đến khi thành cá bột khoảng 10 ngày. Thời gian
ấp đến khi trứng nở tuỳ thuộc vào nhiệt độ nước. Ở nhiệt độ 20
o
C, thời gian ấp kéo
dài 6 ngày, ở nhiệt độ 30
o
C thời gian kéo dài khoảng 3 ngày. Sau khi nở, cá bột tiếp
tục đựơc cá mẹ bảo vệ cho đến khi cá con sử dụng hết noãn hoàng thì chúng sẽ sử
dụng thức ăn ngoài và bắt đầu cuộc sống tự lập [25].
7


1.2. Tình hình nghiên cứu sản xuất giống cá rô phi
1.2.1. Nghiên cứu sản xuất giống cá rô phi trên thế giới
Cá rô phi là loài cá thành thục và có thể sinh sản ở điều kiện ao nuôi bình

thường mà không cần kích thích sinh sản. Tuy nhiên, do nhu cầu về giống cá rô phi
ngày càng cao nên cần thiết phải tiến hành sản xuất giống nhân tạo [25]. Có 2 phương
pháp sản xuất giống nhân tạo cá rô phi là sản xuất giống cá rô phi trong ao và sản
xuất giống trong giai.
Pillay (1990) đã mô tả kỹ thuật sản xuất giống cá rô phi trong ao đất. Cá bố mẹ
đã thành thục sinh dục được thả chung trong một ao đã được chuẩn bị sẵn và cho ăn
hàng ngày. Trong thời gian này cá tự sinh sản trong ao, sang tháng thứ 2 chuyển cá
bố mẹ sang ao khác và dùng ngay ao cho đẻ để làm ao ương cá bột. Quá trình nuôi
vỗ, cho đẻ tiếp tục được lặp lại ở ao kế tiếp. Nhược điểm của phương pháp này là
kích cỡ cá giống không đồng đều, mặt khác do kích cỡ cá ương không đều nên có
hiện tượng những con lớn tấn công con nhỏ hơn. Để hạn chế nhược điểm này hàng
ngày phải vớt cá bột khi thấy chúng bơi thành đàn trong ao rồi chuyển sang ao khác
ương riêng. Phương pháp cho sinh sản cá rô phi trong ao đất dễ áp dụng, giá thành
sản xuất rẻ nên được áp dụng ở nhiều nước như ở Trung Quốc, Thái Lan,
Phillipines [25], [30].
Phương pháp sản xuất giống trong giai, lồng được áp dụng trong ao đất, các
mặt nước hở. Giai được làm bằng lưới nylon 10 x 2 x 1 m. Mật độ thả cá bố mẹ 4
con/m
2
, tỷ lệ đực cái là 1:3. Khi thấy cá bột xuất hiện, tiến hành thu cá bột đưa sang
ương trong giai có kích cỡ 10 x 2 x 1,5 m, mật độ ương khoảng 1000 con/m
2
. Ưu
điểm của phương pháp này là quản lý tốt sự sinh sản đàn cá bố mẹ được áp dụng
trong chọn giống và tạo ra con lai toàn đực ở nhiều nước trong đó có Việt Nam
[25], [30].
Nuôi cá rô phi thương phẩm bằng con giống được lấy từ tự nhiên và cá thuần
để nuôi thường chậm lớn và không kiểm soát được mật độ do thành thục sớm, dễ sinh
sản tự nhiên trong ao nuôi. Trong thời gian ấp trứng trong miệng, cá cái thường
không bắt mồi hoặc bắt mồi rất ít, do đó tăng trưởng của cá rất thấp [22], [25], [30].

Vì vậy, để nâng cao tốc độ sinh trưởng của cá và để dễ dàng kiểm soát mật độ nuôi,
8


người nuôi cần quan tâm đến việc sử dụng các đàn cá rô phi đơn tính đực. Khi nuôi
cá rô phi đơn tính, do cá không có khả năng sinh sản sẽ giúp kiểm soát được quần đàn
cá trong ao, cá có thể tận dụng tốt lượng thức ăn cho sinh trưởng.
Có nhiều phương pháp khác nhau để tạo quần đàn cá rô phi đơn tính đực: (i)
Chọn cá đực, cá cái riêng biệt dựa vào khác biệt hình thái bên ngoài, (ii) chuyển giới
tính bằng hormone, (iii) phương pháp lai xa và tạo cá siêu đực [25], [30].
Tạo ra đàn cá đơn tính đực bằng cách loại bỏ cá cái dựa vào quan sát bộ phận
sinh dục ngoài bằng mắt thường là phương pháp sơ khai, đơn giản, tốn nhiều nhân
công và chỉ thực hiện khi đã phân biệt rõ cá đực, cái bằng hình thái ngoài (khi cá đạt
cỡ 5-10 g/con). Sự chính xác phương pháp này thấp và phụ thuộc vào tay nghề của
người chọn [31]. Theo Mire (1995) đây là phương pháp được áp dụng rộng rãi ở
Israel trong những năm 1970. Tuy nhiên, hiện nay rất ít cơ sở sản xuất giống sử dụng
phương pháp này để sản xuất cá rô phi đơn tính [29].
Sản xuất cá rô phi đơn tính đực bằng phương pháp cho ăn hormone được áp
dụng rộng rãi trên thế giới trong vòng 20 năm gần đây, cá rô phi 5-7 ngày tuổi sau khi
tiêu hết noãn hoàng được cho ăn thức ăn có trộn hormone (thường dùng
17
α
-
Methyltestosterone
,
liều lượng 60mg/kg thức ăn, trong khoảng thời gian từ 21 ngày).
Đây là công nghệ tương đối đơn giản, kết quả ổn định có thể tạo ra đàn cá có tỷ lệ
đực cao (đạt 92-100%), dễ áp dụng, đầu tư thấp hơn so với phương pháp lai xa và
chọn cá đực bằng tay. Hiện nay, công nghệ này được áp dụng khá phổ biến trong sản
xuất cá rô phi đơn tính đực ở Thái Lan, Phillippines, Brazil, Israel, Trung Quốc [25],

[34]. Tuy nhiên, những lo ngại về ảnh hưởng của hormone sử dụng đến môi trường
và sức khỏe con người đã thúc đẩy việc tìm kiếm các công nghệ khác để tạo cá rô phi
đơn tính đực [25].
Công nghệ lai xa và công nghệ cá siêu đực được xây dựng trên cơ sở khoa học
di truyền điều khiển giới tính ở cá rô phi. Theo Hicking (1960) cho lai 2 loài O.
urolepis, O. hurnorum với O. mossambicus tạo ra thế hệ con đơn tính đực, các nghiên
cứu sau này được tiến hành trên nhiều loài khác nhau: T. nilotica x T. nornorum
(Pruginin and Kanyike, 1960), T. nilotica X T. aurea (Fishelson, 1962), T. nilotica X T.
variabilis, T. spilurus niger X T. hornorum, T. vulcani X T. hornorum, T. vulcani X T.
9


aurea, T. nilotica X T. macrochir (Lessent, 1968). Công nghệ lai xa ngoài việc tạo thế
hệ con lai toàn đực còn cải thiện tốc độ sinh trưởng, khả năng chịu lạnh [30]. Tuy
nhiên, tỷ lệ đực ở đàn con lai dao động từ 70-100% và phụ thuộc vào mức độ “thuần
chủng” của cá bố mẹ. Tỷ lệ cá đực còn có sự khác biệt khi sử dụng các loài khác nhau.
Do vậy, ngay ở Trung Quốc, Đài Loan và Israel công nghệ lai xa mới sử dụng ở một
phạm vi nhất định. Để có đàn cá toàn đực thường vẫn phải kết hợp lai xa với công nghệ
chuyển giới tính bằng hormone. Công nghệ sản xuất cá rô phi đơn tính bằng phương
pháp lai xa được sử dụng phổ biến ở Đài Loan, Israel, Trung Quốc [23], [33].
Hiện nay, dựa trên cơ chế di truyền điều khiển giới tính ở cá rô phi bằng việc
tạo ra con cái giả (XY) và kỹ thuật lai phân tích hướng tới việc tạo ra hàng loạt cá rô
phi đực có kiểu gen đơn tính (YY). Khi sử dụng cá siêu đực (YY) sinh sản với cá cái
thường (XX) tạo đàn cá toàn đực (XY). Dựa trên cơ chế di truyền điều khiển giới tính
này người ta đã tạo ra đàn cá rô phi siêu đực O. niloticus dòng Egypt- Swansea lai với
các dòng cá rô phi vằn O. niloticus để tạo ra cá rô phi đơn tính. Tuy nhiên, tỷ lệ cá
đực tạo ra không ổn định và khác nhau trên từng cá cái. Do đó, công nghệ này cũng
chỉ được áp dụng trong phạm vi nghiên cứu, chưa được áp dụng phổ biến trong sản
xuất [12].
Kỹ thuật chọn giống đã được áp dụng ở nhiều nước nhằm nâng cao chất lượng

giống cá rô phi, đặc biệt nâng cao tốc độ sinh trưởng, khả năng chịu lạnh và khả năng
chịu mặn của cá. Dự án cải thiện chất lượng di truyền cá rô phi (GIFT) được tiến
hành từ năm 1988 dưới sự hợp tác của 4 tổ chức: Trung tâm quốc tế quản lý nguồn
lợi động vật thuỷ sản (ICLARM), Cục thuỷ sản và nguồn lợi thuỷ sản Phillipines
(BFAR), Trung tâm nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt/Trường đại học miền trung Luzon
(FAC/CLSU) và Viện nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản Nauy (AKVAFORSK) bằng
nguồn kinh phí từ Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) và Chương trình phát triển
Liên hiệp Quốc (UNDP).
Trong khoảng thời gian 1988-1995, dự án đã tiến hành chương trình chọn
giống nâng cao tốc độ sinh trưởng cá rô phi vằn dựa trên chọn lọc gia đình đã tạo cá
rô phi vằn dòng GIFT. Cá rô phi vằn dòng GIFT đã được nuôi thử nghiệm và được
dùng làm giống nuôi ở nhiều nước trên thế giới. Kết quả thử nghiệm đã khẳng định cá
rô phi dòng GIFT có tốc độ sinh trưởng vượt trội so với các dòng cá rô phi hiện có ở
10


một số nước Châu Á và Châu Phi. Trong vòng 5 năm (1992- 1997) mục tiêu của
Chương trình chọn giống là chọn lọc tính trạng tăng trưởng. Tuy nhiên, các tính trạng
khác cũng được chọn lọc như: tỷ lệ sống, khả năng kháng bệnh và tuổi thành thục
muộn. Thành công của dự án đã mở ra cơ hội chọn giống cá rô phi tại nhiều quốc gia,
đàn cá rô phi tạo ra từ dự án GIFT đã cung cấp cho nhiều nước để tiếp tục chọn giống
như ở Indonesia, Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ, Fiji, Thái Lan, Bangladesh và
Philippines [16].
1.2.2. Nghiên cứu, sản xuất cá giống cá rô phi ở Việt Nam
Năm 1951, lần đầu tiên cá rô phi đen (O. mossambicus) được nhập vào Việt
Nam từ Thái Lan [12]. Năm 1973, cá rô phi vằn (O. niloticus) được di nhập vào miền
Nam nước ta từ Đài Loan, đến năm 1977 chúng được chuyển ra miền Bắc nuôi. Tuy
nhiên, do không quản lý tốt trong quá trình nuôi dẫn đến sự lai tạp giữa cá rô phi vằn
với loài cá rô phi đen khiến cho chất lượng di truyền của loài cá rô phi vằn bị thoái
hoá, kéo theo đó là sản lượng cá rô phi của nước ta trong khoảng thời gian 1980-1990

bị giảm sút nghiêm trọng [2].
Từ năm 1993- 1994, một số dòng cá rô phi đã được nhập nội như cá rô phi vằn
dòng Thái và cá rô phi dòng GIFT thế hệ chọn giống thứ 5 nhập từ Thái Lan, cá rô
phi vằn dòng Swansea và cá rô phi xanh O. aureus nhập từ Philippines, cá rô phi
hồng O. sp nhập từ Đài Loan và Thái Lan. Kết quả nuôi thử nghiệm tại một số địa
phương cho thấy cá rô phi dòng GIFT thể hiện sự vượt trội về sinh trưởng và khả
năng thích ứng với điều kiện môi trường ở nước ta [2]. Tốc độ sinh trưởng của cá rô
phi dòng GIFT cao hơn các dòng cá khác ở Việt Nam từ 15-20% [4].
Hiện nay, cá rô phi dòng GIFT được người nuôi quan tâm và nuôi phổ biến ở
nước ta. Để ổn định và nâng cao chất lượng giống của cá rô phi dòng GIFT, Viện
Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 1 đã thực hiện chương trình chọn giống cá rô phi
dòng GIFT với 2 tính trạng là tăng trưởng và khả năng chịu lạnh. Năm 2000, chương
trình đã chọn được dòng cá rô phi thế hệ thứ 4 có sức sinh trưởng cao hơn 16,6 % so
với đàn cá ban đầu. Đến nay, chương trình chọn giống này vẫn tiếp tục được tiến
hành ở Viện 1 với nguồn kinh phí của dự án NORAD. Cá rô phi được chọn thể hiện
tính ưu việt như tăng trưởng nhanh, thích ứng với điều kiện khí hậu Việt Nam. Từ
11


năm 2002 đến nay, đã sản xuất được hơn 2,5 triệu cá rô phi dòng GIFT thuộc thế hệ
chọn giống thứ 3, 4, 5 ở hầu hết các địa phương trong cả nước [4].
Bên cạnh các nghiên cứu về chọn giống, năm 1997, Viện nghiên cứu Nuôi
trồng thuỷ sản I đã tiến hành nghiên cứu lai xa cá rô phi O. niloticus dòng Egypt- AIT
lai với O. aureus, cá siêu đực O. niloticus dòng Egypt- Swansea lai với O. aureus và
cá siêu đực O. niloticus dòng Egypt- Swansea lai với cá cái đực O. niloticus nhằm tạo
ra đàn cá đơn tính tỷ lệ đực trung bình 65,3-83,2% [13]. Tuy nhiên, do tỷ lệ cá đực
tạo ra không ổn định nên kỹ thuật này không được áp dụng phổ biến tại nước ta.
Năm 1994-1997, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thuỷ sản I áp dụng thành công
công nghệ chuyển giới tính cá rô phi bằng hormone từ Học viện Công nghệ Châu Á
(AIT). Trứng cá rô phi được thu từ khi cá mẹ đang ấp trong miệng đưa vào ấp trong

hệ thống khay ấp. Cá sau khi tiêu hết noãn hoàng được đưa ra giai cắm trong ao để
ương, cá được cho ăn thức ăn bằng bột cá nghiền mịn trộn với hormmone 17α-
Methyltestosteron với liều lượng 60 mg/kg thức ăn, bổ sung thêm vitamin C với liều
lượng 10 g/1kg thức ăn. Sau 21 ngày xử lý, cá đạt tỷ lệ sống 72,2%, tỷ lệ đực đạt trên
95%. Đến nay công nghệ sản xuất cá rô phi đơn tính đực bằng hormone đã được áp
dụng rộng rãi trên cả nước [6].
Theo Phạm Anh Tuấn (2006), số cơ sở sản xuất cá rô phi đơn tính nước ta tăng
liên tục trong những năm qua. Năm 2002, cả nước có 10 cơ sở sản xuất giống cá rô
phi đơn tính, đến năm 2004 đã có tới 57 cơ sở sản xuất cá rô phi đơn tính. Đáng chú ý
là Trại cá giống của Công ty thương mại quốc tế Việt Long với quy mô 20 ha tại Bến
Tre, đã áp dụng công nghệ sản xuất cá rô phi đơn tính bằng hormone. Năm 2004,
Công ty đã sản xuất được trên 60 triệu giống cá rô phi đơn tính 21 ngày tuổi. Cũng
trong năm 2004, Công ty TNHH Hải Thanh tại Thành Phố Hồ Chí Minh, đã sản xuất
được 82 triệu cá rô phi giống bằng công nghệ chuyển giới tính sử dụng hormone[8].
Những năm gần đây một số cơ sở sản xuất giống tại các địa phương miền Bắc đã
nhập công nghệ sản xuất giống cá rô phi bằng phương pháp lai xa khác loài từ Trung
Quốc, Đài Loan. Tuy nhiên, sản lượng cá giống tạo ra còn hạn chế về chất lượng, mặt
khác chất lượng, tỷ lệ đực chưa được các cơ quan có chức năng kiểm tra [8].
Tuy nhiên, các cơ sở sản xuất giống thường không đáp ứng được số lượng cá
12


giống đúng vụ ở miền Bắc mặc dù đã áp dụng công nghệ lưu cá giống qua đông và
sản xuất cá giống trong vụ đông xuân tại các nguồn nước ấm. Vì thế, hàng năm một
lượng lớn cá giống được chuyển từ miền Nam ra và cá từ Trung Quốc, Đài Loan sang
để cung cấp cho nhu cầu con giống của người dân tại các tỉnh miền Bắc [8].
1.3. Các điều kiện và hiện trạng phát triển thủy sản tỉnh Hải Dương
1.3.1. Các điều kiện phát triển thủy sản tỉnh Hải Dương
a. Vị trí địa lý
Hải Dương là một trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc nước ta

và được xem là tỉnh có nhiều lợi thế để phát triển NTTS với sản lượng lớn. Hải
Dương nằm ở trung tâm vùng đồng bằng Bắc Bộ, nơi hợp nhất nhiều chi lưu của hệ
thống sông Thái Bình và đang dần dần trở thành tỉnh có nền công nghiệp phát triển.
Tỉnh Hải Dương có vị trí địa lý phía Bắc giáp với tỉnh Bắc Ninh; phía Nam giáp với
tỉnh Thái Bình; phía Đông giáp với thành phố Hải Phòng và Quảng Ninh; phía Tây
giáp với tỉnh Hưng Yên.
Tỉnh Hải Dương được xem là tâm điểm của tam giác kinh tế Bắc Bộ (Hà Nội,
Hải Phòng và Quảng Ninh), có các tuyến đường quốc lộ chạy qua như Quốc lộ 5,
tuyến đường vận chuyển và giao thương giữa Hà Nội, Hải Phòng và ra thị trường
Quốc tế; tuyến đường quốc lộ 8 với mục đích trung chuyển và giao thương giữa Hà
Nội (sân bay Nội Bài) với các tỉnh Bắc Ninh và Quảng Ninh, đặc biệt vùng cửa khẩu
Móng Cái và khu du lịch vịnh Hạ Long. Ngoài ra, tỉnh Hải Dương còn có các tuyến
đường huyết mạch khác đi Thái Bình và đường Quốc lộ 10, lợi thế quan trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh.
b. Đặc điểm địa hình
Do sự bồi đắp của phù sa thuộc hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình, nên
trên toàn lãnh thổ tỉnh Hải Dương có tới 89% diện tích đồng bằng và chỉ 11% diện
tích đồi núi (khu vực phía đông bắc, một phần của cánh cung Đông Triều). Vùng
đồng bằng có độ cao trung bình 3-4 m và thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Tuy
nhiên, trong từng vùng có cốt đất cao thấp xen kẽ nhau rất phức tạp. Địa hình của tỉnh
Hải Dương được phân ra các vùng chính:
13


(1) Vùng núi thấp phía đông bắc: có độ cao bình quân 200-300m, cao nhất là
núi Dây Diều. Các dãy núi phân bố không thống nhất cùng hướng, chúng được cấu
tạo bởi đá trầm tích với tầng đất mỏng.
(2) Vùng đồi bát úp lượn sóng và núi đá vôi: phân bố tập trung ở huyện Chí
Linh và một phần huyện Kinh Môn.
(3) Vùng đồng bằng phù sa: được hình thành do bồi đắp phù sa của các con

sông thuộc hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình.
c. Khí hậu thời tiết
Hải Dương nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, mùa nóng ẩm từ tháng 4 đến
tháng 9, mùa lạnh từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm 23-
24
o
C. Tháng có nhiệt độ thấp nhất trong năm là tháng 1 (trung bình 17,5
o
C), tháng
cao nhất trong năm là tháng 6 (trung bình 28,6
o
C). Chế độ nhiệt của tỉnh Hải Dương,
nhìn chung thích hợp cho các đối tượng thuỷ sản. Tuy nhiên, vào những thời gian có
gió mùa đông bắc, nhiệt độ lạnh nên cần chú ý đến việc trú đông cho các đối tượng
nuôi như cá rô phi, tôm càng xanh và đặc biệt là việc phòng trừ bệnh của các đối
tượng nuôi thuỷ sản vào những ngày trở gió và biến động nhiệt độ quá cao.
Số giờ nắng cả năm của Tỉnh đạt 1.650 giờ, lượng mưa trung bình chỉ đạt
1.500 mm năm, độ ẩm tương đối trung bình cả năm 86%.
d. Nguồn nhân lực phát triển thuỷ sản
Số liệu thống kê của tỉnh Hải Dương năm 2012 cho thấy, toàn tỉnh có trên 1,72
triệu người, tăng 3,4% so với năm 2000, trong đó số hộ NTTS có 14.000 hộ (chiếm
3,5% số hộ toàn tỉnh) và phân bố không đồng đều trên 12 huyện và thành phố. Dân số
của Tỉnh tập trung chủ yếu ở vùng nông thôn chiếm 84% và thành thị 16%; phân theo
giới Nam chiếm 48,5%, Nữ chiếm 51,5%. Mật độ dân số trung bình 1.043 người/km
2
,
tuy có thấp hơn so với vùng ĐBSH

(1.218 người/km
2

), nhưng cao hơn nhiều so với
bình quân toàn quốc (252 người/km
2
).
Dân số tỉnh Hải Dương thuộc loại dân số trẻ, nhưng lại là nguồn lực cho sự
phát triển kinh tế trong thời gian tới. Năm 2012 dân số từ 1-15 tuổi chiếm 24% dân số
14


toàn tỉnh, từ 25 cho đến 34 tuổi chiếm 32,1%, dân số từ 35 cho đến 45 tuổi chiếm
32,6%, và dân số có độ tuổi trên 60 chiếm 11,7%.
e. Tiềm năng phát triển nuôi trồng thuỷ sản
Tổng diện tích đất và mặt nước tiềm năng cho phát triển NTTS nước ngọt của
toàn Tỉnh là 17.300 ha, trong đó có 8.000 ha ruộng trũng, chiếm 46% diện tích tiềm
năng; 2.500 ha mặt nước lớn, chiếm 14%; 6.000 ha ao hồ nhỏ, chiếm 35% và 800 ha,
loại hình khác, chiếm 5%.
Trong tổng diện tích đất tiềm năng ruộng trũng (8.000 ha), có khoảng 3.595 ha
diện tích ruộng trũng tập trung (với vùng có diện tích trên 50ha/vùng), chiếm 45%
diện tích ruộng trũng. Trong đó huyện Tứ Kỳ có diện tích lớn nhất toàn tỉnh (891 ha,
chiếm 24,8%), tiếp đến huyện Ninh Giang (607 ha, chiếm 16,9%), huyện Kinh Môn
(491 ha, chiếm 13,7%); các huyện còn lại có diện tích không quá 400 ha.
Với tiêu chí diện tích ruộng trũng tập trung trên 50ha/vùng, có thể là liên huyện,
có thể liên xã hoặc liên thôn; trên địa bàn toàn Tỉnh có 38 vùng; bao gồm huyện Tứ Kỳ
12 vùng, Ninh Giang 6 vùng, Kinh Môn 5 vùng, huyện Bình Giang và Thanh Miện
mỗi huyện 4 vùng, Chí Linh 3 vùng, Gia Lộc 2 vùng và Cẩm Giàng 1 vùng.
Nguồn lợi thuỷ sản tỉnh Hải Dương thuộc khu hệ cá nước ngọt đồng bằng sông
Hồng, bao gồm khu hệ cá nuôi (cá bản địa và cá du nhập) và khu hệ cá tự nhiên với 8
bộ, 19 họ, 53 giống và 65 loài. Trong đó bộ cá chép có số lượng loài nhiều nhất (30
loài, chiếm 46%), tiếp đến bộ cá vược (15-20 loài, chiếm 23-30%). Khu hệ cá nuôi rất
phong phú về thành phần và số lượng loài. Trong 30 loài có giá trị kinh tế thì có 14

loài cá đang được nuôi phổ biến. Trong đó, có 9 loài nhập nội như cá trắm có, cá mè
trắng Trung Quốc, 2 loài cá rô phi, cá trê phi, mè hoa, rô hu, cá mrigal, chim trắng.
Một số loài thuộc khu hệ cá tự nhiên có giá trị kinh tế cao đang được thuần hoá
để đưa vào nuôi như cá quả, cá rô đồng, lươn… Ngoài ra, một số loài lưỡng cư, giáp
xác, động vật thân mềm khác như ba ba, ếch, tôm càng xanh, ốc cũng đang được thuần
hoá để đưa vào nuôi Các loài động vật đặc hữu vùng nước lợ như rươi, cáy, cà ra,
dạm, cá nhệch, cá mòi, tôm rảo tập trung nhiều ở huyện Ninh Giang, Thanh Hà.
Tuy nhiên, do nhiều nhân tố tác động đến nguồn lợi cá tự nhiên như khai thác
(đánh điện, đăng chắn, đó) và các hoạt động sản xuất nông nghiệp (sử dụng thuốc trừ
15


sâu) đã dần dần làm suy giảm nguồn lợi thuỷ sản. Nhìn chung, nguồn lợi thuỷ sản tự
nhiên hầu như không đáng kể, mà sản lượng cá chủ yếu dựa vào nguồn cá nuôi ở các
ao hồ và vùng diện tích chuyển đổi.
1.3.2. Hiện trạng phát triển nuôi thủy sản tỉnh Hải Dương
a. Hiện trạng diện tích nuôi thủy sản
Mặc dù diện tích tiềm năng cho NTTS nước ngọt tỉnh Hải Dương là 17.300 ha,
nhưng cho đến thời điểm năm 2012, diện tích đã đưa vào NTTS lên đến 10.197 ha
chiếm 58,8% tổng diện tích tiềm năng, đạt tốc độ tăng trưởng trung bình năm về diện
tích là 6,9%/năm.
Bảng 1.3: Diễn biến diện tích NTTS toàn tỉnh Hải Dương
ĐVT: ha
TT Địa phương 2007 2008 2009 2010 2011 2012
1 Tp Hải Dương 204

212

229


209

134

121

2 Chí Linh 545

520

506

522

631

701

3 Nam Sách 664

682

774

782

785

813


4 Thanh Hà 861

851

846

822

679

695

5 Kinh Môn 304

371

383

520

596

625

6 Kim Thành 219

291

292


393

403

414

7 Gia Lộc 869

940

1.050

1.323

1.402

1.508

8 Tứ Kỳ 829

959

1.054

1.228

1.411

1.575


9 Cẩm Giàng 984

1.073

1.074

1.136

1.189

1.234

10 Bình Giang 722

727

730

732

755

755

11 Thanh Miện 432

442

498


525

736

751

12 Ninh Giang 671

698

709

751

907

1.002


Tổng 7.304

7.766

8.145

9.343

9.828

10.197


Nguồn: Chi cục thuy sản Hải Dương
Công nghệ NTTS ở Hải Dương chủ yếu theo phương thức quảng canh cải tiến
(chiếm 73-92% tổng diện tích nuôi), trong khi đó diện tích nuôi bán thâm canh chỉ
chiếm 8-27%. Nhưng diện tích nuôi bán thâm canh có xu hướng ngày càng tăng và

×