Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

nghiên cứu công nghệ khai thác cá ngừ đại dương quanh chà cố định thả ở vùng biển xa bờ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.6 MB, 75 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG






LÊ VĂN BÔN









NGHIÊN CỨU CÔNG NGHỆ
KHAI THÁC CÁ NGỪ ĐẠI DƯƠNG
QUANH CHÀ CỐ ĐỊNH THẢ Ở VÙNG BIỂN XA BỜ






LUẬN VĂN THẠC SĨ









Nha Trang, 2011

2

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG






LÊ VĂN BÔN




NGHIÊN CỨU CÔNG NGHỆ
KHAI THÁC CÁ NGỪ ĐẠI DƯƠNG
QUANH CHÀ CỐ ĐỊNH THẢ Ở VÙNG BIỂN XA BỜ


Chuyên ngành: Khai thác Thuỷ sản

Mã số: 60.62.80




LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HOÀNG HOA HỒNG










Nha Trang, 2011
i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu của đề tài tốt nghiệp đã được đánh giá dựa
trên cơ sở các nguồn số liệu và các chuyến nghiên cứu thực nghiệm hoàn toàn trung
thực. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu để có kết quả nghiên cứu của luận văn do
tôi thực hiện và chưa có ai công bố ở bất kỳ tài liệu nào. Đây là một phần kết quả của
đề tài nghiên cứu cấp Bộ về lĩnh vực khai thác cá ngừ đại dương mà tôi là một thành
viên chính của đề tài.


Nha Trang, ngày 25 tháng 08 năm 2011

Tác giả



Lê Văn Bôn




















ii

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự hướng dẫn tận tình của TS.
Hoàng Hoa Hồng; Các thầy trong Khoa Khai thác Thuỷ sản - Trường Đại học Nha

Trang đã có nhiều ý kiến góp ý cho tôi thực hiện đề tài.
Tôi xin cảm ơn Ban Lãnh đạo Viện Nghiên cứu Hải sản đã quan tâm, tạo mọi
điều kiện thuận lợi và đã cho tôi được phép sử dụng một số kết quả nghiên cứu của đề
tài do Viện quản lý để tôi hoàn thành nội dung nghiên cứu của luận văn tốt nghiệp.
Xin cảm ơn các đồng nghiệp, các cán bộ nghiên cứu khoa học của Phòng Nghiên cứu
Công nghệ Khai thác và Hội đồng Đào tạo sau đại học của Viện Nghiên cứu Hải sản
đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài.


Nha Trang, ngày 25 tháng 08 năm 2011

Tác giả



Lê Văn Bôn















iii

MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN ii
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT v
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ vii
MỞ ĐẦU 1
Chương 1 - TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 3
1.1. Nghiên cứu ngoài nước 3
1.1.1. Nghiên cứu tập tính cá ngừ 3
1.1.2. Nghiên cứu công nghệ khai thác cá ngừ đại dương 3
1.1.3. Hiện trạng nghề câu tay khai thác cá ngừ đại dương quanh chà ở Philippines.4
1.1.3.1. Tàu thuyền 4
1.1.3.2. Ngư cụ sử dụng cho nghề câu tay 4
1.1.3.3. Chà tập trung cá ngừ đại dương 5
1.1.3.4. Kỹ thuật khai thác nghề câu tay quanh chà 6
1.1.3.5. Hiệu quả kinh tế của nghề câu tay cá ngừ quanh chà ở Philippines 8
1.2. Các đặc điểm sinh học chủ yếu liên quan đến khai thác của cá ngừ đại dương
9
1.3. Nghiên cứu trong nước 11
1.3.1. Nghiên cứu nguồn lợi cá ngừ đại dương 11
1.3.2. Nghiên cứu công nghệ khai thác cá ngừ đại dương 15
Chương 2 - NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 16
2.1. Nghiên cứu thiết kế chà cố định và thả chà cố định ở những vùng biển xa bờ,
nơi có cá ngừ đại dương tập trung 16
2.2. Nghiên cứu công nghệ khai thác cá ngừ đại dương quanh chà cố định thả ở
vùng biển xa bờ 16

2.2.1. Phương pháp nghiên cứu 16
2.2.2. Tàu thuyền và thiết bị nghiên cứu 21
2.2.3. Thời gian, phạm vi ngư trường tiến hành nghiên cứu 23
Chương 3 - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 24
3.1. Nghiên cứu thiết kế các loại chà thả ở vùng biển xa bờ có độ sâu lớn 24
3.1.1. Thiết kế phần bè nổi 24
3.1.2. Phần dây liên kết (dây neo chà) 26
3.1.3. Thiết kế phần đá dằn và neo (xem hình 16) 28
i

iv

3.1.4. Kỹ thuật thả chà 30
3.1.4.1. Phương pháp dò độ sâu đáy biển 30
3.1.4.2. Phương pháp thả chà 31
3.2. Nghiên cứu thiết kế các loại câu dùng cho câu quanh chà 31
3.2.1. Thiết kế bộ câu tay và câu buộc chà 31
3.2.2. Thiết kế vàng câu quanh chà 32
3.3. Tập tính cá ngừ đại dương quanh chà 33
3.4. Sản lượng và năng suất khai thác 35
3.4.1. Sản lượng khai thác 35
3.4.2. Năng suất khai thác 37
3.5. Độ sâu ăn mồi của cá quanh chà 37
3.6. Thời gian cá ăn mồi quanh chà 39
3.7. Khoảng cách cá phân bố quanh chà 40
3.8. Phân bố tần suất chiều dài của cá ngừ vây vàng và cá ngừ mắt to bắt gặp
trong các mẻ câu thử nghiệm 41
3.9. Qui trình công nghệ khai thác cá ngừ đại dương quanh chà 42
3.9.1. Qui trình công nghệ khai thác câu tay cá ngừ đại dương quanh chà 42
3.9.2. Qui trình công nghệ khai thác câu vàng cá ngừ đại dương quanh chà 45

3.9.3. Kỹ thuật câu buộc chà 46
3.10. Qui trình xử lý và bảo quản cá ngừ đại dương 47
3.11. Một số khó khăn trong công tác nghiên cứu thử nghiệm trên biển nghề câu
cá ngừ đại dương quanh chà ở Việt Nam 49
3.12. Đánh giá hiệu quả nghề câu cá ngừ đại dương quanh chà ở Việt Nam 50
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 51
1. Kết luận 51
2. Đề xuất 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO 53
PHỤ LỤC 54







v

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT

Chữ viết tắt Nội dung viết tắt
1 B Chiều rộng
2 BFAR Cục nghề cá và Nguồn lợi thuỷ sản Philippine
3 CP Chi phí
4 Cv Mã lực
5 D Đường kính
6 DT Doanh thu
7 E Hướng Đông

8 FAO Tổ chức lương thực thế giới
9 H Chiều cao
10 h Giờ
11 JICA Tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản
12 K/c Khoảng cách
13 Kg Kilogram
14 KH Khấu hao tàu
15 L Chiều dài
16 LN Lợi nhuận
17 m Mét
18 mm Milimet
19 N Hướng Bắc
20 PA Polyamide
21 Pb Chì
22 PE Polyethylene
23 Peso Đơn vị tiền tệ của Philippine: 1USD = 55,5Peso; 1USD =
15.894 đồng (tại thời điểm 9/10/2005)
24 PL Plastic
25 PP Polypropylene
26 PVC Polyvinylclorua
27 S Hướng Nam
28 SE Hướng Đông Nam
29 SEAFDEC Trung tâm phát triển nghề cá Đông Nam Á
30 Sonar Máy dò cá ngang
31 TB Trung bình
32 TL Tiền lương
33 USD Đô la Mỹ
34 V Đơn vị đo dòng điện
35 WTPO Tổ chức nghề lưới vây cá ngừ thế giới


vi

DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1. Ước tính trữ lượng và khả năng khai thác cá ngừ đại dương 12
Bảng 2. Lực cản của dây neo chà thả ở độ sâu 1.000 - 2.000m 27
Bảng 3. Lực cản của một cụm chà ở độ sâu 1.000 - 2.000m 28
Bảng 4. Lực căng chịu lực của một số cỡ dây PP của công ty Nghĩa Thái 28
Bảng 5. Sản lượng khai thác 35
Bảng 6. Phân loại cá ngừ đại dương theo trọng lượng 36
Bảng 7. Năng suất khai thác 37
Bảng 8. Độ sâu ăn mồi của cá quanh chà 38
Bảng 9. Thời gian cá ăn mồi quanh chà 39
Bảng 10. Khoảng cách phân bố của cá quanh chà 40
Bảng 11. Chiều dài trung bình (cm) của cá ngừ vây vàng và cá ngừ mắt to đánh bắt
quanh chà 41




















vii

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Trang
Hình 1. Cấu tạo túi mực 7
Hình 2. Cách mắc mồi câu 7
Hình 3. Câu trên tàu con 8
Hình 4. Cách bắt cá lên tàu con 8
Hình 5. Cá ngừ vây vàng (Thunnus albacares) 1
Hình 6. Cá ngừ mắt to (Thunnus obesus) 1
Hình 7. Bản đồ phân bố ngư trường cá ngừ đại dương vụ Nam (2000 - 2004) 1
Hình 8. Bản đồ phân bố ngư trường cá ngừ đại dương vụ Bắc (2000 - 2004) 1
Hình 9. Sơ đồ bố trí câu tay và câu buộc chà 1
Hình 10. Sơ đồ bố trí câu buộc chà 1
Hình 11. Sơ đồ bố trí câu vàng quanh chà 1
Hình 12. Tàu nghiên cứu câu tay cá ngừ đại dương PY92979TS 21
Hình 13. Sơ đồ nguyên lý hoạt động của máy dò cá đứng CVS - 108 23
Hình 14. Thi công phao chà phi nhựa 1
Hình 15. Phao chà bè tre 1
Hình 16. Hệ thống đá dằn neo 1
Hình 17. Bè tre tam giác 1
Hình 18. Cấu tạo cục dò để xác định độ sâu vị trí thả chà 30
Hình 19. Tín hiệu đàn cá ngừ đại dương nhỏ ở độ sâu 15 - 25m 1
Hình 20. Tín hiệu đàn cá ngừ đại dương lớn ở độ sâu 40 - 45m 1
Hình 21. Tỷ lệ % sản lượng khai thác theo các loài cá 1

Hình 22. Tỷ lệ % sản lượng cá ngừ đại dương khai thác được theo các hình thức câu 1
Hình 23. Độ sâu ăn mồi của cá quanh chà 1
Hình 24. Thời gian ăn mồi của cá quanh chà 1
Hình 25. Phân bố tần suất chiều dài của cá ngừ vây vàng và cá ngừ mắt to đánh bắt
quanh chà 1


1

MỞ ĐẦU
Cá ngừ đại dương là đối tượng chính để khai thác ở vùng biển xa bờ, hơn nữa
chúng là đối tượng di cư, nếu chúng ta không tiến hành khai thác sẽ là một lãng phí
lớn. Để khai thác đối tượng này, hiện tại ngư dân Việt Nam mới chỉ sử dụng nghề câu
vàng. Đội tàu làm nghề câu vàng hiện tại mới chỉ phát triển ở mức độ thủ công bán cơ
giới, trình độ công nghệ khai thác còn lạc hậu nên hiệu quả đánh bắt chưa cao.
Hiện nay trên thế giới chỉ có Philippines sử dụng công nghệ khai thác cá ngừ đại
dương quanh chà cố định thả ở ngư trường có độ sâu lớn bằng nghề câu tay. Nghề câu
tay cá ngừ đại dương quanh chà đã được ngư dân Philippines sử dụng cho hiệu quả
khá cao. Theo báo cáo của Sở Thủy Sản Davao Philippines tháng 8/2005 khi đoàn cán
bộ của Viện Nghiên cứu Hải sản tham quan tại đây cho thấy, mỗi chuyến biển hoạt
động của đội tàu làm nghề câu tay cá ngừ vây vàng từ 5 - 7 ngày cho năng suất khai
thác bình quân từ 3 - 5 con cá ngừ vây vàng/1 người câu [1]. Chính vì vậy cần được
nhanh chóng áp dụng nghề câu tay cá ngừ đại dương quanh chà cố định thả ở độ sâu
lớn vào nước ta.
Năm 2005, Viện Nghiên cứu Hải sản được Bộ Thuỷ Sản giao cho thực hiện đề
tài “Nghiên cứu cải tiến công nghệ mới trong nghề câu cá ngừ đại dương ở vùng biển
miền Trung và đông Nam Bộ” với các nội dung sau:
- Nghiên cứu ứng dụng công nghệ khai thác cá ngừ đại dương quanh chà thả cố
định ở độ sâu lớn bằng nghề câu tay
- Nghiên cứu cải tiến công nghệ khai thác cá ngừ đại dương bằng nghề câu

vàng
- Nghiên cứu xác định phương pháp khai thác đạt hiệu quả cao, xây dựng mô
hình tổ chức sản xuất
Được sự đồng ý của Ban Lãnh đạo Viện Nghiên cứu Hải sản, đề tài luận văn tốt
nghiệp chương trình cao học có tên “Nghiên cứu công nghệ khai thác cá ngừ đại
dương quanh chà cố định thả ở vùng biển xa bờ” được phép sử dụng một phần kết quả
nghiên cứu của đề tài cấp Bộ kể trên làm nguồn số liệu để xử lý và đánh giá kết quả
nghiên cứu của Luận văn theo đề cương nghiên cứu đã được Hiệu trưởng Trường Đại
học Nha Trang phê duyệt.



2

* Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Đề xuất giải pháp công nghệ khai thác cá ngừ đại dương quanh chà cố định thả ở
vùng biển xa bờ.
* Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghề câu cá ngừ đại dương quanh chà ở vùng biển xa bờ miền Trung và đông
Nam Bộ.
* Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
+ Ý nghĩa lý luận:
- Sử dụng chà là một trong những giải pháp để tập trung loài cá ngừ đại dương
có tốc độ di chuyển nhanh có hiệu quả. Cá ngừ đại dương tập trung quanh chà sẽ giúp
ta chủ động hơn trong việc đánh bắt, góp phần giảm chi phí sản xuất. Nâng cao hiệu
quả cho nghề khai thác xa bờ.
- Thực tế đánh bắt cá ngừ đại dương bằng nghề câu tay quanh chà cố định ở độ
sâu lớn ở Philippines khá hiệu quả. Có thể nghiên cứu công nghệ khai thác cá ngừ đại
dương quanh chà cố định phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.
+ Ý nghĩa thực tiễn của đề tài:

- Đề xuất mô hình khai thác cá ngừ đại dương có hiệu quả.
- Góp phần bảo vệ, giảm áp lực khai thác và duy trì nguồn lợi hải sản ven bờ.
- Tạo điều kiện cho việc chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp đối với đội tàu khai thác
hải sản ven bờ. Tạo thêm việc làm cho đội ngũ lao động nghề cá.
- Gắn kết được nghiên cứu khoa học nghề cá với thực tiễn sản xuất.
















3

Chương 1 - TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Nghiên cứu ngoài nước
1
1
.
.
1

1
.
.
1
1
.
.


N
N
g
g
h
h
i
i
ê
ê
n
n


c
c


u
u



t
t


p
p


t
t
í
í
n
n
h
h


c
c
á
á


n
n
g
g





Nghiên cứu tập tính cá ngừ quanh chà là một trong những hướng nghiên cứu
được chú ý (John Hampton & Kevin Bailey, 1993). Người ta thấy rằng cá ngừ có tập
tính tập trung quanh chà hoặc núp dưới các vật trôi nổi trên mặt biển. Nói chung, chà
lớn có khả năng tập trung được nhiều cá ngừ và cá khác hơn là các chà nhỏ. Một ví dụ
điển hình của điều này là một cái cây to dài 80m đã cho sản lượng khai thác 1.500 tấn
cá ngừ trong vòng 2 tuần (K.Bailey.1982) [6].
Vào ban ngày đàn cá thường ở cách chà 1 hải lý và nó thường ở bề mặt phía trên
gió so với chà. Khi chiều muộn, đàn cá sẽ quay trở lại chà và tập trung hơi sâu dưới
chà suốt đêm. Trước bình minh 1 - 2 giờ, đàn cá ngừ lại từ từ nổi lên sát chà. Đây là
thời điểm thuận lợi nhất để đánh bắt cá. Sau bình minh cá vẫn ở sát chà từ 2 - 3 giờ
nữa, vẫn còn cơ hội để đánh bắt cá nhưng ít hơn.
Có dấu hiệu về sự phân tầng của cá ngừ dưới chà. Cá ngừ vằn phân bố ở độ sâu
10 - 20m, cá ngừ vây vàng phân bố sâu hơn và ngừ mắt to phân bố sâu tới 100m.
Độ sâu phân bố của cá ngừ cũng khác nhau theo từng loài và bị thay đổi bởi
những yếu tố sinh học như là mật độ phù du, cá nhỏ (mồi ăn), nhiệt độ nước, độ muối,
dòng chảy và cường độ sáng. Nghiên cứu được độ sâu phân bố của cá có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc thả độ sâu của lưỡi câu cho phù hợp để đảm bảo hiệu quả khai
thác.
Người ta đã xác định được rằng độ sâu di chuyển của cá khác nhau giữa ngày và
đêm. Vào ban đêm, độ sâu di chuyển của cá ngừ mắt to khoảng 20 - 50m, nhưng vào
ban ngày thường đạt đến 300m. Có thể nói chắc chắn rằng độ sâu phân bố của cá ngừ
mắt to và ngừ vây vàng thường trong khoảng 50 - 200m (J.Hampton & K.Bailey,
1993) [6]. Đa số các loài cá ngừ cỡ nhỏ như: cá ngừ đại dương giống, ngừ vằn, ngừ
chù,… thường phân bố ở gần mặt nước.
Một số tàu nghiên cứu như Shinro Maru, Magasaki Maru, Kyosho Maru,…đã sử
dụng máy dò cá có tần số 14Khz; 28Khz để nghiên cứu độ sâu phân bố của cá ngừ phụ
thuộc vào thời gian trong ngày; vào lớp nước xáo trộn; địa hình đáy, loài cá ngừ [8].

1
1
.
.
1
1
.
.
2
2
.
.


N
N
g
g
h
h
i
i
ê
ê
n
n


c
c



u
u


c
c
ô
ô
n
n
g
g


n
n
g
g
h
h




k
k
h
h

a
a
i
i


t
t
h
h
á
á
c
c


c
c
á
á


n
n
g
g





đ
đ


i
i


d
d
ư
ư
ơ
ơ
n
n
g
g


Để khai thác cá ngừ đại dương, có thể sử dụng loại nghề sau:
4

- Nghề lưới vây khai thác cá ngừ: Đối tượng khai thác chủ yếu của nghề lưới vây
cá ngừ là các loại cá ngừ cỡ nhỏ (ngừ vằn, ngừ chù, ngừ ồ ). Các tàu khai thác cỡ lớn
đã được sử dụng với công suất máy tàu từ 1.000 cv đến 2.500 cv và hơn nữa. Kích
thước lưới vây được tăng cường, chiều dài giềng phao vàng lưới lên đến 1.500m và
hơn nữa, chiều cao vàng lưới đạt đến 150m. Các vàng lưới vây nói trên còn được dùng
để đánh bắt các đàn cá ngừ vây vàng, cá ngừ mắt to cung cấp giống cho nghề nuôi cá
ngừ. Để khai thác được cá ngừ đại dương đã trưởng thành, chiều cao vàng lưới phải

đạt 200 - 220m và đòi hỏi kỹ thuật đánh bắt phức tạp hơn.
Việc dò tìm cá được thực hiện bằng cách sử dụng ống nhòm, máy dò cá ngang
(Sonar); máy bay; Rađa tìm chim [8]
- Nghề câu vàng cá ngừ đại dương: Được phát triển mạnh với quy mô công
nghiệp ở các nước và khu vực có nghề cá phát triển như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn
Quốc Đội tàu của các nước này được cơ giới hoá cao trong công tác thu, thả vàng
câu. Các nghiên cứu về ngư trường, tập tính cá, sự di cư của cá đã hỗ trợ cho việc
khai thác đạt hiệu quả cao.
Vàng câu được trang bị trên các tàu này thường có chiều dài tới 100 km, với số
lượng lưỡi câu đạt đến 2.200 cái. Tổng chiều dài dây nhánh thường là 20 - 25 m;
Khoảng cách giữa các dây nhánh từ 40 - 50 m; khoảng cách giữa các phao ganh từ 300
-350 m [8].
1
1
.
.
1
1
.
.
3
3
.
.


H
H
i
i



n
n


t
t
r
r


n
n
g
g


n
n
g
g
h
h




c
c

â
â
u
u


t
t
a
a
y
y


k
k
h
h
a
a
i
i


t
t
h
h
á
á

c
c


c
c
á
á


n
n
g
g




đ
đ


i
i


d
d
ư
ư

ơ
ơ
n
n
g
g


q
q
u
u
a
a
n
n
h
h


c
c
h
h
à
à







P
P
h
h
i
i
l
l
i
i
p
p
p
p
i
i
n
n
e
e
s
s


1.1.3.1. Tàu thuyền
Nghề câu tay cá ngừ đại dương thường sử dụng tàu mẹ chở theo 4 - 6 tàu con để
câu quanh chà. Tàu mẹ thường có chiều dài từ 10 - 27m lắp máy công suất từ 80 -
180cv, tàu thường có trọng tải 18 - 32 tấn, giá thành vỏ tàu & máy khoảng 280.000 -

2.400.0000 peso, số thủy thủ đi trên tàu là 7 - 18 người, thời gian chuyến biển từ 10 -
36 ngày; tàu con được đóng theo mẫu của Cục nghề cá và Nguồn lợi thuỷ sản (BFAR)
và có chiều dài 1,4m, lắp máy công suất 11,5cv. Số lượng tàu câu tay tại thành phố
General Santos ước chừng khoảng 4.000 chiếc có trọng tải lớn hơn 18 tấn [1], [10].
1.1.3.2. Ngư cụ sử dụng cho nghề câu tay
- Dây câu chính: Dùng vật liệu cước PA số 120 - 140
- Dây câu thứ hai: Vật liệu dùng cho dây câu thứ hai cũng là PA sợi đơn số 60 -
90.
5

- Trang thiết bị phụ tùng kèm theo:
+ Ống câu: ống câu có hình vành khăn, vật liệu dùng làm ống câu là nhôm hoặc
gỗ có đường kính ngoài từ 238 - 350 mm, đường rãnh có đường kính từ 160 - 195mm
dùng để quấn dây câu.
+ Chì: dùng viên chì ống có kích thước: chiều dài từ 112 - 115mm, đường kính
20 - 30mm, trọng lượng từ 300 - 400g (hoặc dùng dây kim loại có trọng lượng 0,5kg,
đường kính 2,5mm.
+ Khoá xoay: để chống xoắn, hai đầu viên chì dùng hai khoá xoay bằng đồng có
chiều dài 63mm.
+ Lưỡi câu: Dùng lưỡi câu hình chữ J (kích thước L x H x B = 50 x 30 x 25mm,
vật liệu bằng thép không gỉ) hoặc lưỡi câu hình bán nguyệt (kích thước L x H x B = 58
x 32 x 34mm, vật liệu thép không gỉ) [1], [9].
Bản vẽ cấu tạo, tổng quát một bộ câu tay cá ngừ đại dương quanh chà ở
Philippine như phụ lục 1, phụ lục 2.
1.1.3.3. Chà tập trung cá ngừ đại dương
- Để tập trung cá ngừ đại dương, ngư dân Philippine sử dụng chà cố định thả ở độ
sâu lớn, chà cố định được thả ở một vài ngư trường của Philippine. Tuy nhiên, không
liệt kê được chính xác tổng số cây chà. Tuy vậy, chỉ riêng ở vùng vịnh Moro ở miền
Nam Philippine ước tính có khoảng 3.000 cây chà. Nghề câu tay cá ngừ quanh chà
thường dùng ba mươi cây chà cho một tàu khai thác [1], [10].

- Cấu tạo chà: Chà có cấu tạo là những cây tre buộc lại bởi cây mây hoặc dây
chuối. Nó được buộc thon dần từ đầu tới đáy. Vào buổi tối, bè tre được thắp sáng bởi
đèn dầu lửa làm tăng khả năng hấp dẫn cá của chà. Bè tre nổi dập dềnh trên mặt nước
chặn hướng di cư của cá. Bè tre gồm một hoặc hai lớp gồm 15 cây tre, mỗi cây có
chiều dài 10 - 15 mét và mỗi lớp tre có chiều rộng từ 2 - 4 m. Những cây tre được buộc
chặt với nhau bằng dây giềng nylon. Phía đầu bè tre được buộc bởi những đoạn dây
đai cắt ra từ lốp ô tô. Một thùng dầu rỗng được đổ đầy đá và bê tông được dùng làm
neo cho chà. Cạnh của đoạn cắt ra từ lốp ô tô được gắn lưng chừng vào đỉnh của thùng
phi và được liên kết với dây neo. Đoạn cuối của đường dây neo được gắn dây xích liên
kết với bè tre. Mỗi một trọng vật nặng khoảng 500kg. Số trọng vật cần làm neo cho
chà phụ thuộc vào độ sâu nơi thả chà. 3 - 4 trọng vật dùng làm neo thả chà ở độ sâu
1.500 - 2.200m và 5 - 6 trọng vật cho độ sâu 5.000m. Đoạn trên của dây neo có chiều
6

dài 40m được làm bằng cáp thép nhằm ngăn chặn sự phá hoại của các tàu khác cắt dây
neo. Một phao được buộc vào đường dây neo giống như một phao tín hiệu. Mặt dưới
của chà là một vật hấp dẫn cá, treo một đường dây lá dừa có chiều dài 25 - 35m,
khoảng cách giữa hai lá dừa là 2m, phía cuối đường dây buộc trọng vật nặng 10kg. Vật
nặng nhằm ngăn chặn không cho dây chà vướng vào dây neo. Trên bề mặt của bè tre
có treo một vài lá dừa nổi lên để đánh dấu vị trí thả chà ở trên biển [9], [10]
- Ngư trường thả chà cá ngừ của Philippin là biển tây Sulu, đông Sulu, biển
Bohol, ngoài vùng nước Batangas và tây bắc Luzon và một phần vùng nước thuộc
quần đảo Philippin là nơi cá ngừ và cá nổi nhỏ có thể sinh sống. Chà cố định được thả
ở độ sâu 3.000m và cách bờ biển 60m [1], [10]. Nhìn chung, đa số chà được thả ở ngư
trường gần bờ.
1.1.3.4. Kỹ thuật khai thác nghề câu tay quanh chà
- Chuẩn bị mồi câu:
+ Mồi chính: dùng mồi mực và mồi cá ngừ nhỏ, trọng lượng mồi mực khoảng 70
- 100g, mồi cá ngừ nhỏ có trọng lượng khoảng 100 - 200g.
+ Mồi phụ: là mực hoặc cá ngừ nhỏ cắt nhỏ và thường từ 5 - 6 miếng nhỏ.

+ Túi mực: để thu hút cá ngừ (xem hình 1).
+ Các viên đá nhỏ
+ Cách mắc mồi câu: móc lưỡi câu vào con mực (hoặc cá ngừ nhỏ), móc túi mực
vào đốc câu, đặt mồi câu và túi mực lên hòn đá có trọng lượng 400 - 500g, sau đó
dùng dây câu quấn 3 - 4 vòng quanh hòn đá để cố định con mực (hoặc cá ngừ nhỏ) vào
hòn đá, tiếp theo đặt 2- 3 miếng mực thái nhỏ (hoặc cá ngừ thái nhỏ) lên hòn đá và
quấn chặt 4 - 5 vòng vào hòn đá, tiếp tục đặt 2 - 3 miếng mực còn lại và quấn vào hòn
đá, sau đó chập đôi dây câu lại và luồn đầu chập vào các vòng quấn để cố định dây câu
không tuột khỏi hòn đá và cũng đảm bảo sao cho khi giật mạnh dây câu đá và những
miếng mồi nhỏ sẽ bung ra, dùng que tre nhỏ đã được buộc vào dây câu chính đâm vào
túi mực (xem hình 2).
Ghi chú: Mồi câu hàng ngày đủ các loại là 30 - 50kg dùng cho 12 người câu.




7











Hình 1. Cấu tạo túi mực











Hình 2. Cách mắc mồi câu
- Kỹ thuật thả câu: khi mồi câu đã chuẩn bị xong, thuyền trưởng điều khiển tàu
chạy chậm lại quanh chà cách chà 1 khoảng 300 - 500m, sau đó các thuỷ thủ tung mồi
câu xuống nước (tung nhịp nhàng, tránh giật cục sẽ làm hòn đá bung ra), nới dây câu
cho mồi câu chìm xuống độ sâu cần câu (40 - 200m), dùng tay giật mạnh dây câu
nhiều lần cho đến khi hòn đá bung khỏi dây câu, các miếng mồi nhỏ cũng sẽ tung ra,
khi đá bung ra sẽ kéo theo que tre khỏi túi mực và nước mực sẽ phụt ra khỏi túi tạo
thành như là khi con mực đang chạy sẽ tăng khả năng hấp dẫn cá ngừ.
- Ngâm câu: Khi thả câu xong là thời gian ngâm câu, thời gian ngâm thường từ 5
- 10 phút, nếu không có cá ăn sẽ thu lưỡi câu lên và thay mồi khác.
- Kỹ thuật thu câu: Kéo dây câu nhịp nhàng để thu câu, để tránh dây câu bị rối,
khi thu chì ta phải để riêng ra. Thu chì xong ta thu tiếp đến lưỡi câu và mồi câu, kiểm
tra mồi câu nếu còn đủ độ tươi thì sử dụng làm mồi câu tiếp, tháo bỏ túi mực và mắc
túi mực mới.
Sau vài lần thả câu mà cá không ăn câu, thuyền trưởng sẽ điều khiển tàu tới các
cây chà khác để câu có cá.
Ghi chú: Nếu dòng chảy mạnh thì buộc tàu con vào chà câu. Nếu dòng chảy yếu
thì tàu nhỏ chạy quanh cây chà câu.
- Kỹ thuật bắt cá: Khi có cá ăn câu, nếu câu ở trên tàu mẹ thì 2 thuỷ thủ thay
nhau kéo dây câu để bắt cá. Do cá mới ăn câu còn rất khoẻ nên khi kéo dây câu phải
rất thận trọng, cá chạy loăng quăng thì phải nới dây câu để không bị bứt lưỡi khỏi

miệng cá, cá bơi có xu hướng trồi lên mắt nước phải thu nhanh dây câu. Nếu câu ở tàu
con thì phải gọi 1 tàu khác đến hỗ trợ thu dây câu bắt cá (xem hình 4). Bắt cá trên tàu
mẹ dễ dàng hơn tàu con, thời gian bắt cá ở tàu con có khi kéo dài tới 1 - 1,5 giờ, khi cá
đã mệt thì mới thu dây câu và kéo cá lên mặt nước, cá trồi lên mặt nước thì một thuỷ
8

thủ dùng móc sắt nhọn móc vào mang cá (tránh móc vào thân cá sẽ làm giảm giá trị
của cá) kéo lên tàu.










Hình 3. Câu trên tàu con










Hình 4. Cách bắt cá lên tàu con

- Cách giết cá: có hai cách để giết cá. Dùng dòng điện để giết cá và cách truyền
thống là dùng vồ đập vào đầu để giết cá. Với cá ngừ có trọng lượng 35 kg dùng dòng
điện để giết cá, sử dụng điện thế 24V, sau 2,2 phút cá chết máu sẽ chảy ra từ mang cá
mà không ảnh hưởng tới đầu và thân cá, đối với cá ngừ có trọng lượng 55kg thì dùng
cây sắt nhọn chọc vào đầu cá cho đến khi cá chết và cắt vây cá [1], [9].
1.1.3.5. Hiệu quả kinh tế của nghề câu tay cá ngừ quanh chà ở Philippine
Theo kết quả thu thập được từ chuyến tham quan thực tập tại Philippine của các
cán bộ đề tài thì nghề câu tay cá ngừ đại dương quanh chà ở Philippine đạt hiệu quả
kinh tế cao do các nguyên nhân sau:
- Do dòng chảy ở vùng biển Philippine yếu nên chi phí cho việc thả 1 cây chà ở
độ sâu (2.548 - 2.912m) thấp khoảng 30.000 peso (540,54USD). Chà được thả gần bờ
do vậy chỉ cần sử dụng tàu banca có công suất máy nhỏ 11,5cv để đánh bắt, thời gian
chạy từ bờ ra ngư trường hết khoảng 1 - 3 giờ nên chi phí chuyến biển thấp. Cá di cư
gần bờ, cá tập trung quanh chà nhiều, sản lượng khai thác trung bình 1chuyến biển 5
ngày của 1 tàu banca nhỏ hoạt động gần bờ là 290kg và 1.450kg trong 25 ngày. Thu
nhập bình quân 1 tháng của 1 người ngư dân làm nghề câu tay cá ngừ quanh chà là
11.000peso (200USD).
- Đối với tàu có công suất lớn do chà tập trung cá ngừ được thả nhiều ở cùng một
ngư trường, chỉ riêng ở vùng vịnh Moro ở miền Nam Philippine ước tính có khoảng
3.000 cây chà. Nghề câu tay cá ngừ quanh chà thường dùng ba mươi cây chà cho một
tàu khai thác. Với tàu mẹ lắp máy 180cv, chiều dài tàu 27,45m chở theo 6 tàu con lắp
9

máy 11,5cv hoạt động chuyến biển 36 ngày lợi nhuận tàu đạt 890.000 peso
(16.036,04USD), tiền lương thuỷ thủ là 15.700 peso (282,88USD) [2].
Từ các kết quả trên ta rút ra kết luận: nghề câu tay cá ngừ đại dương quanh chà ở
Philippine là nghề có hiệu quả kinh tế cao. Ngư dân Philippine sử dụng nghề này là
nghề chính trong khai thác cá ngừ đại dương dùng cho xuất khẩu.
1.2. Các đặc điểm sinh học chủ yếu liên quan đến khai thác của cá ngừ đại dương
Cá ngừ đại dương bao gồm: Cá ngừ vây vàng (Thunnus albacares), cá ngừ mắt

to (Thunnus obesus), cá ngừ vây xanh (Thunnus thunnys), cá ngừ vây dài (Thunnus
alalunga). Cá ngừ vây xanh không phân bố ở biển Việt Nam nên chúng ta chỉ đi
nghiên cứu đặc điểm sinh học của cá ngừ vây vàng và cá ngừ mắt to.







+ Cá ngừ vây vàng (xem hình 5)
Cá ngừ vây vàng sống ở các đại dương, cả ở vùng biển nhiệt đới và ôn đới,
nhưng ngoại trừ vùng biển Địa Trung Hải. Ngư trường chính của loài cá này kéo dài
25
o
theo đường kinh tuyến Bắc.
Cá ngừ vây vàng chủ yếu ăn các loài cá khác, giáp xác và động vật chân đầu.
Ngư dân thường sử dụng lưới vây để đánh bắt cá ngừ vây vàng kích thước nhỏ, thường
sống ở tầng mặt. Đối với cá có kích cỡ lớn hơn, sống sâu hơn ở tầng giữa, ngư dân sử
dụng câu vàng để khai thác. Sản lượng khai thác cá ngừ vây vàng hàng năm chiếm
khoảng 62% tổng sản lượng cá ngừ trên toàn thế giới (1,6 triệu tấn) [3], [5].
Kích thước tối đa: 239cm (cá đực/không xác định giới tính), trọng lượng tối đa
được công bố: 200 kg, tuổi tối đa theo báo cáo: 8 năm.
Môi trường: có rạn đá ngầm; di cư đại dương; nước lợ, nước biển, phạm vi độ
sâu 1 - 250m.
Khí hậu: nhiệt đới; 15 - 31
o
C; 45
o
N - 45

o
S.
Đặc điểm hình dáng: Tia vây lưng cứng: 11-14; tia vây lưng mềm: 12-16; tia
Hình 5. Cá ngừ vây vàng
(Thunnus albacares)
Hình 6. Cá ngừ mắt to
(Thunnus obesus)
10

vây hậu môn cứng: 0-0; tia vây hậu môn mềm: 11-16; Số đốt xương sống: 39. Vây
đuôi và vây lưng thứ 2 có chiều dài bằng 20% chiều dài toàn thân cá. Vây bụng rất dài,
thường kéo dài gần đến vây lưng thứ 2, nhưng không vượt quá tia vây cuối cùng của
vây lưng thứ 2. Màu sắc của cá thay đổi từ màu xanh đen đậm có ánh kim qua màu
vàng đến màu bạc trên vùng bụng
Đặc điểm sinh học: Xuất hiện ở bên trên và bên dưới các tầng có nhiệt độ đột
biến. Kết đàn chủ yếu theo kích cỡ, thành các nhóm đơn loài hoặc đa loài. Cá lớn thì
thường kết đàn với cá heo, và cũng đi theo các vật trôi nổi hoặc vật khác. Thức ăn chủ
yếu của loài cá này là cá, giáp xác và mực. Rất nhạy cảm với những nơi nồng độ ôxy
thấp, vì thế thường không bắt gặp ở độ sâu dưới 250m ở các vùng biển nhiệt đới. Thời
kỳ đẻ cao điểm nhất là vào mùa hè, theo từng đợt. Ngư dân thường dùng lưới vây để
vây bắt những đàn cá ở gần bề mặt nước. Sản phẩm cá ngừ vây vàng được đóng hộp
hoặc cấp đông, cũng có thể để tươi, hun khói hoặc dùng làm sashimi [3], [5].
+ Cá ngừ mắt to (xem hình 6)
Cá ngừ mắt to sống ở các đại dương khắp thế giới trên các vùng biển nhiệt đới,
cận nhiệt đới và ôn đới. Phần lớn chúng sinh sống ở vùng Thái Bình Dương, đặc biệt
là vùng Bắc bán cầu. Tuy nhiên lại không thấy chúng ở vùng biển Địa Trung Hải.
Chúng sống tách biệt khỏi các loài cá khác, động vật giáp xác và mực. Sản lượng đánh
bắt hàng năm khoảng 250.000 tấn.
Kích thước tối đa: 250 cm (cá đực/không xác định giới tính); trọng lượng tối đa
được công bố: 210 kg, tuổi tối đa theo báo cáo: 11 năm.

Môi trường: môi trường gần mặt nước; di cư đại dương; môi trường biển; phạm
vi độ sâu 0 - 250m.
Khí hậu: Cận nhiệt đới, 13 - 29
0
C, 45
0
N - 43
0
S.
Đặc điểm hình dáng: số gai lưng (tổng số): 13 - 14; các tia mềm ở lưng (tổng
số): 14 - 15; số gai hậu môn: 0 - 0; số tia mềm ở hậu môn: 14 - 14. Số đốt sống: 39. Là
loài có kích thước lớn, dày nhất ở giữa gốc vây lưng thứ nhất. Hai bên sườn dẹt, bụng
có màu hơi trắng. Ở các mẫu cá sống, dọc theo sườn cá có một dải màu xanh óng ánh.
Vây lưng thứ nhất có màu vàng thẫm, các vây lưng thứ hai và vây hậu môn màu vàng
nhạt, các vây con có màu vàng sáng, mép vây có màu đen.
Đặc điểm sinh học: Sống ở những vùng nước có nhiệt độ từ 13
o
- 29
o
C, nhưng
nhiệt độ tối ưu là từ 17
o
C đến 22
o
C. Việc cá xuất hiện thất thường có liên quan chặt
11

chẽ đến những thay đổi về mùa vụ và khí hậu, thể hiện ở nhiệt độ bề mặt và nhiệt độ
của tầng nhiệt nhảy vọt. Cá con và cá trưởng thành cỡ nhỏ hợp thành đàn ở bề mặt
thành các nhóm đơn loài hoặc hợp lẫn với các loài cá ngừ khác và các vật trôi nổi. Cá

trưởng thành nằm ở các tầng nước sâu hơn. Trứng và ấu trùng cá sống ở gần mặt nước.
Ban ngày và ban đêm chúng ăn nhiều loài cá khác nhau, động vật chân đầu, và giáp
xác. Thịt cá có giá trị cao và được dùng để chế biến sashimi. Cá được tiêu thụ chính ở
dạng đóng hộp hoặc ướp đông, nhưng cũng được bán ở dạng tươi [3], [5].
1.3. Nghiên cứu trong nước
1
1
.
.
3
3
.
.
1
1
.
.


N
N
g
g
h
h
i
i
ê
ê
n

n


c
c


u
u


n
n
g
g
u
u


n
n


l
l


i
i



c
c
á
á


n
n
g
g




đ
đ


i
i


d
d
ư
ư
ơ
ơ
n

n
g
g


Các nghiên cứu về cá ngừ ở trong nước mới chỉ tập trung chủ yếu vào điều tra
nguồn lợi, đặc điểm sinh học, ngư trường khai thác. Tuy nhiên, các nghiên cứu chưa có
điều kiện nghiên cứu sâu, các số liệu nghiên cứu còn mỏng. Cụ thể công trình nghiên
cứu về nguồn lợi cá ngừ:
Đề tài “Nghiên cứu trữ lượng và khả năng khai thác nguồn lợi cá nổi (chủ yếu là
cá ngừ vằn, cá ngừ vây vàng, cá ngừ mắt to) và hiện trạng cơ cấu nghề nghiệp khu vực
biển xa bờ miền Trung và Đông Nam Bộ năm 2002 - 2004” đã đi sâu hơn vào nghiên
cứu nguồn lợi cá ngừ, bước đầu có đánh giá cụ thể về nguồn lợi cá ngừ vằn, ngừ vây
vàng và ngừ mắt to ở vùng biển xa bờ miền Trung và đông Nam Bộ [5].
+ Các đối tượng cá ngừ khai thác chủ yếu tại vùng biển Việt Nam
Theo kết quả điều tra của tác giả Đào Mạnh Sơn từ năm 2000 đến năm 2004 cho
thấy họ cá thu ngừ là đối tượng khai thác chính của nghề câu vàng, chiếm 17,55-
60,79% sản lượng câu vàng vụ Nam và 2,19 - 66,80% sản lượng câu vàng vụ Bắc.
Trong đó chủ yếu là cá ngừ vây vàng và cá ngừ mắt to [5].
+ Trữ lượng và khả năng khai thác bền vững một số loài cá ngừ đại dương ở
biển Việt Nam
Trong những năm gần đây số lượng tàu thuyền và cường lực đánh bắt ngày càng
tăng, nhưng năng suất đánh bắt cá nổi lớn ở vùng biển xa bờ lại có xu hướng giảm
xuống. Cá ngừ vằn là đối tượng khai thác chính của nghề lưới rê ở vùng biển xa bờ
cũng trong tình trạng tương tự.
Tổng hợp các nguồn số liệu, trữ lượng cá ngừ vằn vùng biển xa bờ miền Trung
và Đông Nam Bộ ước tính vào khoảng 618.000 tấn, khả năng khai thác bền vững là
216.000 tấn; trữ lượng cá ngừ vây vàng và cá ngừ mắt to vào khoảng 44.853 - 52.591
tấn và khả năng khai thác bền vững khoảng 17.000 tấn (bảng 1) [5].
12


Bảng 1. Ước tính trữ lượng và khả năng khai thác cá ngừ đại dương
Loài cá
Trữ lượng
(tấn)
Khả năng khai thác
bền vững
(tấn)
Cá ngừ vằn 618.000 216.000
Cá ngừ vây vàng, cá ngừ mắt to 44.853 - 52.591 17.000
Tổng cộng 662.853 - 670.591

233.000
(Nguồn: Đào Mạnh Sơn 2005)
+ Ngư trường khai thác chính một số loài cá ngừ đại dương
Những kết quả nghiên cứu ban đầu cho thấy, cá ngừ đại dượng xuất hiện quanh
năm ở vùng biển ngoài khơi miền Trung nước ta, mùa vụ khai thác chính từ tháng 11
đến tháng 4 năm sau, mùa phụ từ tháng 5 đến tháng 10. Tuy nhiên, tháng 10 - 12, thời
tiết xấu nên nhiều tàu không đi khai thác, ở nhà sửa chữa tàu, trang thiết bị và ngư cụ
chuẩn bị cho mùa đánh bắt tiếp theo.
Ngư trường khai thác cá ngừ đại dương ở nước ta gồm có 3 ngư trường chính là:
Vùng biển xa bờ tỉnh Phú Yên, tọa độ (vĩ độ:12
0
00N - 13
0
00N, kinh độ: 110
0
30E-
112
0

00E), vùng biển tỉnh Khánh Hòa (vĩ độ: 12
0
00N - 13
0
00N, kinh độ: 110
0
00E -
112
0
00E) và vùng biển phía Tây quần đảo Trường Sa (vĩ độ: 8
0
00N - 10
0
00N, kinh độ:
110
0
00E - 115
0
00E).
Ngư trường hoạt động nghề câu vàng cá ngừ đại dương thay đổi theo mùa.
Thông thường, những tháng đầu mùa (tháng 12 - 3 năm sau), tàu thường khai thác ở
vùng biển Bắc Biển Đông, Đông Bắc Hoàng Sa, Bắc Trường Sa, các tháng giữa mùa
(tháng 4 - 6) ở vùng biển Trường Sa, miền Trung và những tháng còn lại ở vùng biển
Nam Trường Sa, Nam Biển Đông. Như vậy, cá ngừ có tính di cư theo mùa (từ đầu
năm đến cuối năm) từ Bắc xuống Nam. Ngư trường phân bố cá ngừ đại dương năm
2000 - 2004 như hình 7, 8 [5].












13




































Hình 7. Bản đồ phân bố ngư trường cá ngừ đại dương vụ Nam (2000 - 2004)
(Nguồn: Đào Mạnh Sơn 2005)
14





































Hình 8. Bản đồ phân bố ngư trường cá ngừ đại dương vụ Bắc (2000 - 2004)
(Nguồn: Đào Mạnh Sơn 2005)

15

1
1
.

.
3
3
.
.
2
2
.
.


N
N
g
g
h
h
i
i
ê
ê
n
n


c
c


u

u


c
c
ô
ô
n
n
g
g


n
n
g
g
h
h




k
k
h
h
a
a
i

i


t
t
h
h
á
á
c
c


c
c
á
á


n
n
g
g




đ
đ



i
i


d
d
ư
ư
ơ
ơ
n
n
g
g


Hiện nay ở nước ta việc khai thác cá ngừ đại dương quanh chà cố định thả ở độ
sâu lớn là hoàn toàn mới mẻ, vì vậy chúng ta cần học tập kinh nghiệm của Philippines,
tìm cách du nhập công nghệ đồng thời phải cải tiến sao cho phù hợp với điều kiện
nghề cá, phù hợp với qui mô tàu thuyền và tiền vốn đầu tư còn hạn chế của ngư dân.
Dưới đây sẽ phân tích sâu về công nghệ đánh bắt cá ngừ của nước ta.
- Trong 2 năm 2002 và 2003, Viện Nghiên cứu Hải sản đã thực hiện thành công
đề tài “Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật khai thác cá ngừ bằng nghề lưới vây khơi”. Kết
quả nghiên cứu của Đề tài đã đưa ra được các mẫu lưới vây khai thác cá ngừ đạt hiệu
quả cao cho vùng biển xa bờ Đông - Tây Nam Bộ. Ngoài ra Đề tài cũng đưa ra được
quy trình kỹ thuật khai thác cá ngừ bằng nghề lưới vây kết hợp với chà, máy dò ngang
cũng như các thiết bị khác phục vụ cho quá trình khai thác cá ngừ. Đặc biệt nhờ có
máy dò cá ngang, kết hợp với lưới vây đã được cải tiến, đề tài đã đánh bắt được nhiều
mẻ lưới vây trên 10 tấn cá ngừ. Mẻ có sản lượng cao nhất là 25 tấn cá ngừ được đánh

bắt vào ngày 3/4/2003 tại vùng biển Đông Nam Bộ. Tuy nhiên, trong các mẻ lưới chưa
bắt được đối tượng cá ngừ vây vàng và cá ngừ mắt to [4].
Nói chung, khi phát triển nghề lưới vây khai thác cá ngừ ở nước ta còn gặp
những khó khăn cơ bản như: Kích thước và tốc độ tàu lưới vây của nước ta rất nhỏ so
với yêu cầu của nghề vây cá ngừ. Ngoài ra công nghệ khai thác của các tàu Việt Nam
còn khá thô sơ như: Trang bị máy thu lưới, thu giềng rút yếu; kỹ thuật dò tìm cá còn
lạc hậu; kết cấu tàu chưa phù hợp cho việc thả lưới ở đuôi tàu (các tàu lưới vây cá
ngừ hiện đại của Tổ chức nghề lưới vây cá ngừ thế giới (WTPO) có chiều dài tàu phổ
biến từ 50m đến 110m, với công suất máy chính 1.000 - 2.500cv và tốc độ hành trình
đạt tới 15 hải lý/giờ).
- Nghề lưới rê đã khai thác được một số loài cá ngừ có kích thước nhỏ như: cá
ngừ chù, ngừ ồ, ngừ bò, ngừ chấm và khai thác được cá ngừ đại dương (cá ngừ vây
vàng, cá ngừ mắt to) cỡ nhỏ. Để phát triển nghề cá theo hướng hội nhập với thế giới
thì nghề lưới rê sẽ chỉ còn được phép hoạt động với chiều dài vàng lưới < 2,5 km và
điều này sẽ làm cho nghề lưới rê dần bị mai một. Như vậy nghề lưới rê chỉ được dùng
cho việc điều tra nguồn lợi cá ngừ mà không dùng để khai thác cá ngừ đại dương.
- Hiện nay ở Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu nào về công nghệ khai
thác cá ngừ đại dương quanh chà cố định thả ở vùng biển xa bờ.

16

Chương 2 - NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Nghiên cứu thiết kế chà cố định và thả chà cố định ở những vùng biển xa bờ,
nơi có cá ngừ đại dương tập trung
Để thực hiện nội dung này, đề tài thực hiện phương pháp nghiên cứu sau:
+ Xác định ngư trường khai thác cá ngừ đại dương dựa vào tài liệu thống kê.
- Xác định vị trí thả chà.
- Thu thập các số liệu về dòng chảy,… ở khu vực khai thác làm cơ sở cho việc
tính toán thiết kế chà cố định.
+ Thiết kế chà cố định thả ở vùng biển xa bờ có độ sâu lớn dựa vào các mô hình

thực tế của Philippines.
- Tiến hành tính toán, thiết kế chà thông qua tính toán sức cản của cụm chà, tính
độ thô dây neo, trọng lượng đá dằn …
- Tính toán hệ thống là dừa trang bị cho mỗi cụm chà.
+ Tiến hành thả chà ở ngư trường đã xác định
2.2. Nghiên cứu công nghệ khai thác cá ngừ đại dương quanh chà cố định thả ở
vùng biển xa bờ
2
2
.
.
2
2
.
.
1
1
.
.


P
P
h
h
ư
ư
ơ
ơ
n

n
g
g


p
p
h
h
á
á
p
p


n
n
g
g
h
h
i
i
ê
ê
n
n


c

c


u
u


+ Đề tài đã sử dụng tàu câu cá ngừ đại dương của ngư dân Phú Yên, tàu có số
đăng ký PY92979TS, công suất máy chính là 160cv để tiến hành nghiên cứu thử
nghiệm.
+ Sử dụng máy dò cá đứng thăm dò nhằm xác định vị trí tập trung của cá ngừ
quanh chà làm cơ sở cho việc tiến hành hoạt động khai thác.
+ Đánh bắt thử nghiệm khai thác cá ngừ quanh chà cố định bằng các nghề: câu
tay, câu buộc chà, câu vàng quanh chà. Xem bố trí thử nghiệm các nghề ở hình 9, hình
10 và hình 11.
- Nghiên cứu độ sâu thả câu hợp lý bằng cách sử dụng nhiều dây câu để theo dõi
độ sâu ăn mồi của cá. Dự kiến độ sâu lưỡi câu là 20 - 40 - 60 - 80 - 100 - 120 - 140 -
160 - 180 - 200m và 250m.
- Nghiên cứu bán kính câu quanh chà đạt hiệu quả cao. Căn cứ vào sản lượng thu
được ở các bán kính khác nhau để đánh giá.
- Nghiên cứu thời gian cá ăn mồi quanh chà.
+ Phương pháp thu số liệu

×