Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

tìm hiểu những vấn đề lý thuyết chung nhất về nguồn nhân lực chất lượng cao (nnl clc), chỉ ra những kinh nghiệm trong phát triển nnl clc tại một số nước trên thế giới, hạn chế trong phát triển nnl clc tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1011.75 KB, 99 trang )


1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Tìm ra được nguồn lực đột phá thúc đẩy cho quá trình phát triển KT -
XH là điều mà các nhà lãnh đạo ở mỗi quốc gia đều hết sức quan tâm. Điều
này lại càng trở nên cần thiết và quan trọng, nhất là trong bối cảnh hội nhập
KTQT cùng với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trong việc giành được vị thế
cao giữa các nền kinh tế trên thế giới.
Nhận thức được vai trò vô cùng quan trọng của nguồn lực đột phá thúc
đẩy quá trình phát triển KT - XH của đất nước, trong mỗi giai đoạn các nhà
lãnh đạo Việt Nam luôn tìm kiếm những nguồn lực ấy làm đòn bẩy cho quá
trình phát triển.
Trong giai đoạn 1986 - 1997, đứng trước khó khăn sau thời kỳ thống
nhất đất nước cũng như sự tan rã của hệ thống các nước XHCN, Chính phủ
Việt Nam đã đưa ra hàng loạt các chính sách cải cách mang tính đột phá nhằm
đưa nền kinh tế thoát khỏi tình trạng khủng hoảng như: thúc đẩy tự do lưu
thông hàng hóa, cho phép thành lập công ty tư nhân, thực hiện khoán 10 (giao
ruộng đất từ các HTX cho nông dân), giải thể và sáp nhập DNNN hoạt động
kém hiệu quả, mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài, ký hiệp định thương mại tự
do với EU năm 1992, bình thường hóa quan hệ với Mỹ và gia nhập ASEAN
năm 1995. Chính những chính sách cải cách quan trọng này đã giúp Việt Nam
thoát ra cơn khủng hoảng trầm trọng. Theo số liệu của WB, tăng trưởng GDP
của Việt Nam trong giai đoạn 1986 - 1996 đạt 6,6%; lạm phát từ mốc 3 con số
vào đầu những năm 1980 đã giảm xuống chỉ còn ở mốc 12,7% năm 1995 và
4,5% năm 1996.
Những cải cách quan trọng trong giai đoạn 1986 - 1997 đã giúp kinh tế
Việt Nam có những bước phát triển khởi sắc, thoát khỏi khủng hoảng. Tuy
nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1998 (có khởi nguồn từ Thái
Lan) đã tác động đến nền kinh tế của các quốc gia trong khu vực trong đó có
Việt Nam. Đứng trước một cuộc khủng hoảng kinh tế châu lục có những ảnh


hưởng tiêu cực vô cùng to lớn đến sự phát triển KT - XH của quốc gia, các
nhà lãnh đạo đã đưa ra những chính sách nhằm tạo một động lực phát triển
mới cho đất nước như: cho phép các doanh nghiệp trực tiếp xuất khẩu, ban
hành Luật Doanh nghiệp (2000), đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa DNNN, ký

2
hiệp định song phương với Mỹ (2001), hình thành sàn giao dịch chứng khoán
(2000). Những chính sách mang tính giải phóng các nguồn lực của các thành
phần kinh tế đã góp phần đưa kinh tế Việt Nam bước qua khó khăn của cuộc
khủng hoảng kinh tế châu Á - 1998: theo số liệu của WB, tốc độ tăng trưởng
bình quân của Việt Nam giai đoạn 1998 - 2006 đạt 7,1%; lạm phát được giữ ở
mức ổn định 4,5%.
Giai đoạn 2007 - nay, nền kinh tế thế giới chứng kiến một loạt những
biến động lớn đỉnh điểm là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008.
Cuộc khủng hoàng tài chính toàn cầu đã mang lại những ảnh hưởng vô cùng
tiêu cực đến các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam: tăng trưởng có
xu hướng trững lại, tình trạng thất nghiệp và lạm phát có xu hướng gia tăng,
Những ảnh hưởng tiêu cực mà cuộc khủng hoảng mang lại đặt ra một bài toán
khó khăn đối với các nhà lãnh đạo Việt Nam. Đó là, phải tìm ra một giải pháp
mang tính đột phá và bước ngoặt để đưa kinh tế hồi phục. Một số các đề án đã
được đưa ra nhằm đưa nền kinh tế bước ra giai đoạn khó khăn như: tái cơ cấu
các tổ chức tín dụng, tái cơ cấu DNNN, tái cơ cấu đầu tư công, cải cách hệ
thống tài chính. Mặc dù đã có những giải pháp nhất định, tuy nhiên nền kinh
tế Việt Nam vẫn chưa thực sự thoát khỏi được những ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng: tốc độ tăng trưởng kinh tế có xu hướng giảm so với thời kỳ
trước (theo số liệu của WB, tăng trưởng bình quân trong giai đoạn 2007 -
2013 chỉ đạt 6,2%) trong khi mức tăng trưởng bình quân của CPI giai đoạn
này là 11,8%. Có thể phần nào thấy được, các chính sách đưa ra trong giai
đoạn 2007 - 2013 chưa có được sự tác động hiệu quả giúp nền kinh tế vượt
qua được giai đoạn hậu khủng hoảng.

Vấn đề ở đây đó là việc phải tìm ra một nguồn động lực mới mang tính
đột phá làm đòn bẩy mới cho quá trình phát triển KT - XH. Một trong những
nguồn nội lực còn chưa được khai thác ở công suất tối đa đó chính là bộ phận
"NNL CLC" của đất nước. Yếu tố "nhân lực" luôn là yếu tố mang lại sự đột
phá nhiều nhất trong hầu hết các mô hình phát triển của các quốc gia đi trước.
Đã có rất nhiều quốc gia trên thế giới xây dựng các mô hình phát triển lấy
"nhân lực" đặc biệt là bộ phận "NNL CLC" là trung tâm của sự phát triển.
Đây chính là một trong những kinh nghiệm để Việt Nam có thể học hỏi để tạo
được sức bật mới, mạnh hơn, bứt phá hơn dựa vào "NNL CLC", để có thể
thoát ra tình trạng khó khăn của nền kinh tế hiện tại.

3
2. Mục đích, phạm vi, câu hỏi và phƣơng pháp nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
+ Tìm hiểu những vấn đề lý thuyết chung nhất về NNL CLC.
+ Chỉ ra những kinh nghiệm trong phát triển NNL CLC tại một số nước trên
thế giới.
+ Nêu lên những điểm hạn chế trong phát triển NNL CLC tại Việt Nam và
nguyên nhân của những hạn chế đó.
+ Đề xuất những giải pháp nhằm phát triển NNL CLC tại Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Theo nội dung:
Để phát triển NNL CLC cần phải có chương trình phát triển toàn diện:
thể lực, trí lực, kỹ năng và kỷ luật lao động, nhân cách đạo đức. Giải pháp để
phát triển NNL CLC phải là giải pháp toàn diện cho các nội dung trên, bao
gồm: nhóm giải pháp về dinh dưỡng và chăm sóc y tế, chăm sóc sức khỏe để
phát triển thể lực; nhóm giải pháp về đào tạo và sử dụng NNL CLC để phát
triển trí lực; nhóm giải pháp khác để phát triển kỹ năng và kỷ luật lao động,
nhân cách đạo đức. Tuy nhiên, trong các nhóm giải pháp trên, nhóm giải pháp
về đào tạo và sử dụng NNL CLC được xem là vấn đề khẩn cấp quyết định khả

năng tìm ra và thực hiện con đường phát triển mới để tạo ra đột phá phát triển
kinh tế Việt Nam.
Trong nhóm giải pháp về đào tạo và sử dụng NNL CLC, các giải pháp
về đào tạo là một nội dung tương đối rộng bao gồm phát triển hệ thống giáo
dục đại học, gửi nhân lực ra nước ngoài đào tạo, thuê chuyên gia giỏi trong và
ngoài nước thực hiện các chương trình đào tạo và rèn luyện cho các nhóm
nhân sự chủ chốt trong các cơ quan, các biện pháp về đào tạo trong công việc
(on – the – job training). Tuy nhiên, trong các giải pháp về đào tạo kể trên,
các giải pháp thứ hai và thứ ba mang tính chất thuê gia công nhân lực và chỉ
tập trung vào một lực lượng nhân lực mũi nhọn, không thể tạo ra được một
lực lượng lao động chất lượng cao đồng đều phổ biến và càng không thể là
biện pháp chỗ dựa lâu dài cho mục tiêu phát triển NNL CLC. Giải pháp về
đào tạo trong công việc (on – the – job training) thường được thực hiện sau
khi người lao động đã được đào tạo trong các chương trình giáo dục chính
thức ở các trường học (formal schooling). Giải pháp đầu tiên (phát triển giáo

4
dục đại học) chính là phần việc chủ yếu nhất, là điều kiện cần cho mọi điều
kiện khác để tạo ra được một nền tảng về cung chắc chắn cả về số lượng và
chất lượng NNL CLC.
Nhằm tập trung đi sâu và giải quyết những vấn đề vừa mang tính thời
sự (Nghị quyết đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống giáo dục Việt Nam)
vừa mang tính tiên quyết nhất để phát triển cả về chất và lượng của NNL
CLC, trong phạm vi khóa luận này, tác giả chỉ tập trung phân tích các vấn đề
xoay quanh việc phát triển hệ thống giáo dục đại học nhằm tạo ra một nguồn
cung lao động chất lượng cao dồi dào, cộng với các vấn đề liên quan đến việc
sử dụng NNL CLC nhằm tạo ra một sức cầu đủ lớn để cân bằng với lượng
cung được sinh ra. Ngoài ra, các vấn đề về thể chế để khớp nối thị trường, lưu
thông quan hệ cung cầu lao động chất lượng cao cũng được bàn tới ở một số
nội dung nhất định trong khóa luận.

+ Theo thời gian:
Khóa luận nghiên cứu các vấn đề về phát triển NNL CLC tại Việt Nam
trong giai đoạn 2005 - 2012.
+ Theo không gian:
Khóa luận thực hiện nghiên cứu các vấn đề về phát triển NNL CLC
trên phạm vi các nước Trung Quốc, Mỹ, Singapore và Việt Nam.
- Câu hỏi nghiên cứu:
+ NNL CLC và phát triển NNL CLC là gì?
+ Phát triển NNL CLC có vai trò như thế nào đối với phát triển kinh tế xã hội
của đất nước?
+ Các quốc gia trên thế giới đã thực hiện những biện pháp gì để phát triển
NNL CLC và họ đã đạt được những kết quả như thế nào? Bài học nào có thể
rút ra từ kinh nghiệm phát triển NNL CLC ở các nước này?
+ Thực trạng về việc phát triển nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam?
+ Giải pháp nào để phát triển NNL CLC ở Việt Nam?
- Phương pháp nghiên cứu:
Khóa luận sử dụng phương pháp phân tích thống kê, phân tích mô tả,
phân tích so sánh để tổng hợp tình hình thực tế và đánh giá thực trạng và đề ra
giải pháp phát triển NNL CLC tại Việt Nam.


5
3. Kết cấu của khóa luận
- Khóa luận có kết cấu gồm 4 chương:
+ Chương 1: Một số vấn đề lý luận về phát triển NNL CLC
+ Chương 2: Kinh nghiệm phát triển NNL CLC của một số nước trên
thế giới
+ Chương 3: Thực trạng phát triển NNL CLC tại Việt Nam
+ Chương 4: Giải pháp phát triển NNL CLC tại Việt Nam





















6
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO

1.1. Một số vấn đề cơ bản về NNL và NNL chất lƣợng cao (NNL CLC)
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực
Thuật ngữ "nguồn nhân lực" bắt đầu xuất hiện từ những năm cuối thế
kỷ XX tại một số nước ở Tây Âu và Bắc Mỹ với hàm ý là một nguồn lực của
quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trên thế giới hiện nay, thuật ngữ
"nguồn nhân lực" là một khái niệm có rất nhiều cách tiếp cận và có nhiều định
nghĩa khác nhau.

Theo Beng, Fischer & Dornhusch (1995), cho rằng "nguồn nhân lực là
toàn bộ trình độ chuyên môn mà con người tích lũy được, có khả năng đem lại
thu nhập trong tương lai".
Theo Nicholas Henry: "nguồn nhân lực là nguồn lực con người của
những tổ chức (với quy mô, loại hình, chức năng khác nhau) có khả năng và
tiềm năng tham gia vào quá trình phát triển của tổ chức cùng với sự phát triển
kinh tế - xã hội của quốc gia, khu vực, thế giới".
Còn tại Việt Nam, cũng có khá nhiều các khái niệm liên quan đến thuật
ngữ "nguồn nhân lực", có thể kể đến một vài các khái niệm "nguồn nhân lực"
như:
Theo GS. Viện sỹ Phạm Minh Hạc: "nguồn nhân lực là tổng thể các
tiềm năng lao động của một nước hay một địa phương, tức là nguồn lao động
được chuẩn bị ở các mức độ khác nhau, sẵn sàng tham gia một công việc lao
động nào đó".
Theo GS. Nguyễn Tiệp: "nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao
động cho XH thông qua những khả năng về thể lực, trí lực và tâm lực của
người lao động. NNL chính là yếu tố cấu thành LLSX, giữ vai trò quyết định
đến sự phát triển KT - XH quốc gia".
Có thể thấy được, mặc dù hiện nay có rất nhiều cách hiểu khác nhau về
khái niệm "nguồn nhân lực", nhưng có thể thấy được tất cả các định nghĩa về
"nguồn nhân lực" luôn có hai nội dung bên trong đó là số lượng và chất lượng
nguồn nhân lực.

7
Số lượng nguồn nhân lực được biểu hiện thông qua quy mô và tốc độ
phát triển nguồn nhân lực.
Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện thông qua các mặt như: sức
khỏe, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn - kỹ thuật, năng lực thực tế về kỹ
năng nghề nghiệp, tính năng động sáng tạo, phẩm chất đạo đức của nguồn nhân
lực.

1.1.2. Khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao
Cũng giống như khái niệm "nguồn nhân lực", hiện nay đang có rất
nhiều định nghĩa khác nhau về "nguồn nhân lực chất lượng cao" (NNL CLC) .
Khi bàn tới thuật ngữ "NNL CLC", đại từ điển kinh tế thị trường của
Trung Quốc cho rằng, đó là những người, trong điều kiện xã hội nhất định, có
tri thức chuyên môn nhất định, có năng lực và kỹ năng cao, với tính lao động
sáng tạo của bản thân trong điều kiện hoạt động của xã hội, có khả năng góp
phần cống hiến nào đó đối với sự phát triển của xã hội.
Ở Việt Nam, thuật ngữ "NNL CLC" thường được hiểu theo nhiều cách
thức khác nhau. Theo TS. Lê Hồng Điệp, có ba cách tiếp cận về khái niệm
NNL CLC tại Việt Nam hiện nay:
Cách tiếp cận thứ nhất nhấn mạnh tới khả năng và vai trò của NNL
CLC gắn với quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam. Cách tiếp cận này cho rằng,
NNL CLC là đội ngũ nhân lực có trình độ và năng lực cao, là lực lượng xung
kích tiếp nhận chuyển giao công nghệ tiên tiến, thực hiện có hiệu quả việc
ứng dụng công nghệ vào điều kiện nước ta, là hạt nhân đưa lĩnh vực chuyên
môn của mình đi vào quá trình CNH, HĐH. Theo cách tiếp cận này, khả năng
của NNLCLC được thể hiện ở trình độ và năng lực cao; vai trò của NNL CLC
thể hiện ở vai trò xung kích trong tiếp nhận và chuyển giao công nghệ tiên
tiến và vai trò dẫn dắt những bộ phận nhân lực có trình độ và năng lực thấp
hơn đi lên với tốc độ nhanh.
Cách tiếp cận nhấn mạnh tới trình độ chuyên môn cao và khả năng
thích ứng nhanh của NNL CLC: Cách tiếp cận này cho rằng, NNL CLC là
LLLĐ có học vấn, có trình độ chuyên môn cao và nhất là có khả năng thích
ứng nhanh với những thay đổi nhanh chóng của công nghệ sản xuất.
Cách tiếp cận về NNL CLC với tư cách là cá nhân lao động riêng lẻ
gắn với tiêu thức phân loại về chuyên môn, kỹ thuật: Theo cách tiếp cận này,

8
nhân lực chất lượng cao là khái niệm để chỉ một con người, một lao động cụ

thể có trình độ lành nghề (về chuyên môn, kỹ thuật) ứng với một ngành nghề
cụ thể theo cách thức phân loại lao động về chuyên môn, kỹ thuật nhất định
(trên đại học, cao đẳng, công nhân lành nghề).
Cách tiếp cận nhấn mạnh tới trình độ cao và khả năng thích ứng nhanh,
đồng thời nhấn mạnh tới phẩm chất và khả năng sáng tạo tri thức của NNL
CLC: Theo cách tiếp cận này, NNL CLC là bộ phận tinh túy nhất của NNL.
Lực lượng này có trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật cao, có kỹ năng
lao động giỏi và có khả năng thích ứng nhanh với những biến đổi liên tục của
công nghệ sản xuất, có phẩm chất tốt và có khả năng vận dụng sáng tạo
những tri thức, kỹ năng đã được đào tạo vào quá trình sản xuất nhằm đem lại
năng suất, chất lượng, hiệu quả cao.
Dù các nhà nghiên cứu có những góc độ tiếp cận khác nhau về NNL
CLC nhưng tổng hợp lại, có thể nhấn mạnh tới những đặc trưng cốt lõi sau
của lực lượng này:
Một là, về vai trò và tầm quan trọng: NNL CLC là LLLĐ ưu tú nhất,
thực hiện vai trò dẫn đường đối với NNL nói chung trong quá trình phát triển
kinh tế xã hội.
Hai là, về số lượng: NNL CLC chỉ bao gồm một bộ phận nhân lực
trong tổng số nhân lực quốc gia.
Ba là, về chất lượng: NNL CLC được đánh giá thông qua các yếu tố cơ
bản sau: (1) phẩm chất đạo đức, (2) trình độ chuyên môn, nghiệp vụ được đào
tạo, (3) khả năng thích ứng và sáng tạo trong công việc.
Tổng hợp từ những cách tiếp cận nêu trên, có thể khẳng định rằng:
NNL CLC là một bộ phận nhân lực quan trọng nhất của NNL, có trình độ học
vấn và chuyên môn kỹ thuật cao, có kỹ năng lao động giỏi, có năng lực sáng
tạo và đặc biệt là khả năng thích ứng nhanh, đáp ứng những yêu cầu của thực
tiễn, biết vận dụng tri thức, kỹ năng đã được đào tạo vào quá trình sản xuất
nhằm đem lại năng suất, chất lượng, hiệu quả cao.
1.2. Vai trò của NNL CLC trong quá trình phát triển kinh tế xã hội
NNL CLC là đầu tàu giữ vai trò khởi động, lái và kéo cả quá trình phát

triển KT - XH. Vai trò của lực lượng này thể hiện ở tính tiên phong trong việc
nắm bắt các xu hướng, tận dụng các cơ hội và định hướng cho quá trình phát

9
triển KT - XH; tính tiên phong trong ứng dụng và triển khai tri thức hiện đại
nhằm tạo ra những bước phát triển đột phá; tính tiên phong trong sáng tạo tri
thức hiện đại nhằm thúc đẩy phát triển KT- XH đất nước.
1.2.1. Nắm bắt các xu hướng, tận dụng các cơ hội và định hướng phát triển
kinh tế xã hội
NNL CLC phần lớn là những người được đào tạo chuyên sâu, có khả
năng khái quát vấn đề và nhìn ra tính quy luật của các quá trình phát triển. Vì
vậy, lực lượng này sẽ là những người đầu tiên nhìn ra các xu hướng phát
triển, nhìn thấy các thời cơ phát triển, biết tận dụng các cơ hội và đưa ra định
hướng phát triển kinh tế và xã hội ở cả tầm vi mô và vĩ mô.
Ở mỗi bộ phận của NNL CLC, vai trò này thể hiện ở những khía cạnh
khác nhau trong quá trình phát triển KT - XH.
Bộ phận NNL CLC thuộc nhóm nhân viên kỹ thuật, nhân viên nghiệp
vụ, kỹ sư thực hành giữ vai trò tiên phong trong việc nắm bắt xu hướng thay
đổi của cung và cầu thị trường, từ đó đưa ra những giải pháp kỹ thuật công
nghệ, những sản phẩm có tính sáng tạo đột phá. Đây là điều kiện tiên quyết để
thu về cho doanh nghiệp lợi nhuận siêu ngạch, đồng thời tạo ra những đầu tàu
tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Bộ phận NNL CLC thuộc nhóm lao động quản lý, lao động nghiên cứu
và lao động chuyên gia là bộ phận mấu chốt trong việc dự báo tương lai, nhận
diện cơ hội và nắm bắt cơ hội phát triển, từ đó đưa ra định hướng và chiến
lược phát triển cho hộ gia đình, doanh nghiệp và cho cả quốc gia.
1.2.2. Ứng dụng và triển khai tri thức hiện đại nhằm tạo ra những bước
phát triển đột phá
Vai trò tiên phong của NNL CLC không chỉ dừng lại ở việc nắm bắt và
định hướng mà còn ở việc thúc đẩy trên thực tế các yếu tố để hiện thực hóa

quá trình phát triển đất nước. Các yếu tố đó chính là việc ứng dụng; triển khai
các tri thức hiện đại để thực hiện quá trình thay đổi môi trường kinh tế, văn
hóa, xã hội, tạo thuận lợi nhất cho việc học hỏi, đổi mới, sáng tạo nhằm thúc
đẩy sự phát triển đột phá của đất nước. Tri thức hiện đại trước hết bao gồm:
tri thức quản trị quốc gia, tri thức khoa học xã hội, tự nhiên và công nghệ, tri
thức quản trị kinh doanh. Vai trò tiên phong trong ứng dụng và triển khai tri
thức hiện đại của NNL CLC bắt nguồn từ những yêu cầu sau của thực tiễn:

10
Một là, dưới tác động của cuộc CMKHCN, những tri thức hiện đại luôn
luôn thay đổi với quy mô và tốc độ cực nhanh. Với những thay đổi nhanh
chóng đó, chỉ có NNL CLC mới có khả năng theo kịp để tiếp thu, ứng dụng
và triển khai tri thức mới. Thông qua vai trò tiên phong của họ, đại bộ phận
NNL mới có cơ hội tiếp xúc và triển khai trên quy mô rộng những tri thức
hiện đại phục vụ thành công cho việc phát triển đất nước.
Hai là, ở các nước đang phát triển, khả năng cập nhật tri thức hiện đại
còn rất hạn chế. Do đó, khoảng cách giữa trình độ tri thức hiện tại của những
quốc gia kém phát triển so với trình độ tri thức hiện đại của thế giới là rất lớn.
Chỉ có thể trông cậy vào NNL CLC trong việc tăng tốc để tạo sức bật, bắt kịp
với tốc độ phát triển ngày càng nhanh của nguồn tri thức hiện đại, từ đó ứng
dụng vào quá trình tạo bước đột phá trong phát triển, thì quốc gia đó mới có
thể có những cơ hội nhằm phát triển kinh tế theo hướng hiện đại.
1.2.3. Sáng tạo tri thức hiện đại nhằm thúc đẩy phát triển KT - XH đất
nước
Để có thể có bước đột phát trong phát triển đất nước đòi hỏi tất yếu đó
là phải liên tục có sự đổi mới và sáng tạo tri thức. Tuy nhiên, sáng tạo tri thức,
đặc biệt là những tri thức theo kịp xu hướng phát triển của thời đại, có giá trị
kinh tế lớn không phải là khả năng vốn có của NNL nói chung. Chỉ có những
LLLĐ có trình độ chuyên môn cao, được làm việc trong những môi trường
chuyên nghiệp mới tạo lập được khả năng sáng tạo tri thức khoa học để thúc

đẩy quá trình xây dựng và phát triển kinh tế. Vai trò tiên phong trong sáng tạo
tri thức khoa học của NNL CLC thể hiện ở những nội dung sau:
- Sáng tạo những con đường và cách thức phù hợp với đặc tính của dân
tộc nhằm thực hiện thành công các bước phát triển đột phá của đất nước.
- Sáng tạo nên những tri thức khoa học tự nhiên và công nghệ - yếu tố
đầu vào không thể thiếu trong quá trình phát triển kinh tế.
- Sáng tạo nên những mô hình, cách thức tổ chức quản lý, quản lý xã
hội; mô hình, cách thức tổ chức, quản lý kinh tế mới phù hợp với hành trình
hướng tới nền kinh tế tri thức.
Như vậy, NNL CLC - thông qua trình độ, phẩm chất và khả năng tiêu
biểu của mình sẽ là lực lượng đóng vai trò tiên phong trong công cuộc phát
triển ở mỗi quốc gia. Tại quốc gia nào, NNL CLC không được phát triển để

11
thực thi vai trò tiên phong này thì quốc gia đó khó có thể có được sự phát
triển đột phá trong tương lai.
1.3. Các lý thuyết liên quan đến vai trò của việc phát triển NNL CLC tới
tăng trƣởng kinh tế
1.3.1. Mô hình Lucas giản đơn - mô hình tăng trưởng hai khu vực
Giả sử một nền kinh tế có hai khu vực: khu vực sản xuất (gồm các
doanh nghiệp) và khu vực giáo dục (gồm các trường đại học). Các doanh
nghiệp sản xuất ra hàng hóa - dịch vụ, được sử dụng trong tiêu dùng và được
đầu tư vào vốn sản xuất vật chất. Còn các trường đại học sản xuất ra một nhân
tố sản xuất gọi là "kiến thức", được sử dụng tự do trong hai khu vực. Nền
kinh tế được mô tả bằng hàm sản xuất của doanh nghiệp, hàm sản xuất của
các trường đại học và phương trình tích lũy vốn.
Sử dụng hàm sản xuất Coob - Douglas, hàm sản xuất của doanh nghiệp
của mô hình nội sinh được xây dựng có xét tới vai trò của vốn con người:

Trong đó, u là tỷ lệ lao động đang làm việc trong khu vực giáo dục và

1-u là tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực sản xuất. E là lượng kiến thức
(quyết định hiệu quả lao động). Như vậy, thu nhập của khu vực sản xuất được
hình thành bởi kết quả của tích lũy vốn sản xuất (K) và hiệu quả tích lũy vốn
của khu vực giáo dục thể hiện ở số lao động hiệu quả trong khu vực sản xuất
(1-u)EL. Vốn vật chất được tích lũy theo quy luật vận động thông thường và
phương trình tích lũy được xác định:

Trong đó, s là tỷ lệ tiết kiệm trong GDP, là tỷ lệ khấu hao bình quân
của vốn sản xuất.
Hàm sản xuất của khu vực giáo dục (các trường đại học) có sự vận
động khác hơn. Không giống như vốn vật chất, vốn con người không phải là
một phần của sản lượng được tích lũy và chuyển hóa thành vốn sản xuất. Hơn
thế nữa, việc tạo ra vốn con người mới đòi hỏi sử dụng vốn con người hiện
có. Vốn con người được tạo ra thông qua giáo dục và kiến thức hiện có là yếu
tố chủ yếu trong việc tạo ra giáo dục. Do vậy, nếu chúng ta giả định vốn con
người tương lai được sản xuất ra từ chính vốn con người, thì sự gia tăng vốn
nhân lực hay hàm sản xuất của khu vực các trường đại học được mô tả:

12

Từ logic như trên, có thể tổng hợp các phương trình liên quan đến tăng
trưởng kinh tế theo mô hình Lucas như sau:
Hàm sản xuất của các doanh nghiệp
Phương trình tích lũy vốn
Hàm sản xuất của các trường đại học
Mô hình này kết luận rằng nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng liên tục
cho dù không có cú sốc công nghệ ngoại sinh nào xảy ra. Sự tăng trưởng liên
tục ở đây là nhờ tốc độ tạo ra kiến thức ở các trường đại học không hề suy
giảm.
Có hai biến quan trọng quyết định trong mô hình này. Đó là, tỷ lệ thu

nhập được sử dụng cho tiết kiệm và đầu tư (s) sẽ quyết định tới lượng vốn vật
chất ở trạng thái ổn định. Bên cạnh đó, tỷ lệ lao động trong các trường đại học
(u) sẽ quyết định tốc độ tăng trưởng của kiến thức. Cả s và u đền tác động tới
tốc độ tăng thu nhập của nền kinh tế ở trạng thái ổn định.
Mô hình Lucas còn đề cao vai trò của Chính phủ trong việc thúc đẩy
phát triển kinh tế thông qua đầu tư trực tiếp và gián tiếp cho giáo dục như
khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào những ngành công nghiệp sử dụng
nhiều tri thức như phần mềm máy tính, viễn thông Tuy vậy, giáo dục là một
yếu tố quyết định đến khả năng gia tăng thu nhập của mỗi cá nhân cũng như
lượng vốn con người của một đất nước. Các gia đình nghèo thường rơi vào
vòng luẩn quẩn: trình độ giáo dục thấp - kỹ năng nghề nghiệp thấp - thu nhập
thấp. Sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập và tài sản càng cao, thì cái
vòng luẩn quẩn này càng kéo dài. Vì vậy, chính phủ các nước đang phát triển
cần hướng tới các chính sách cung ứng giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học,
bởi đây chính là khu vực quyết định tăng trưởng kinh tế trong dài hạn.
1.3.2. Mô hình Romer (Động cơ tăng trưởng)
Mô hình Romer nội sinh quá trình công nghệ bằng cách đưa vào mô
hình sự tìm kiếm những kiến thức, ý tưởng mới của các nhà nghiên cứu quan
tâm đến lợi nhuận từ các phát minh của họ.
Hàm sản xuất gộp trong mô hình Romer mô tả vốn K, lao động L, được
kết hợp để sản xuất đầu ra Y, sử dụng quỹ (tập hợp) các ý tưởng; sáng chế;
phát minh A:

13

Mô hình Romer cho rằng, để tạo ra tăng trưởng, số lượng các ý tưởng;
phát minh; sáng chế mới phải được mở rộng theo thời gian. Nó xảy ra nếu số
lượng các nhà nghiên cứu tăng. Ở đây, con người là đầu vào chủ yếu của quá
trình sáng tạo. Dân số lớn hơn tạo ra số ý tưởng; phát minh; sáng chế mới
nhiều hơn và bởi vì các ý tưởng là không cạnh tranh nên tất cả mọi người

trong nền kinh tế đều thu được lợi ích.
Nền kinh tế trong mô hình của Romer bao gồm ba khu vực: khu vực
sản xuất sản phẩm hàng hóa cuối cùng, khu vực sản xuất hàng hóa trung gian
và ku vực nghiên cứu.
* Khu vực sản xuất hàng hóa cuối cùng:
Khu vực sản xuất hàng hóa cuối cùng trong nền kinh tế của mô hình
Romer bao gồm một số lượng lớn các doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo, các
doanh nghiệp kết hợp lao động với vốn để tạo ra sản phẩm thuần nhất Y:

Đầu ra Y được sản xuất bằng cách sử dụng lao động Y và một số các
hàng hóa vốn khác mà chúng ta cũng gọi là "các hàng hóa trung gian". Tại
bất kỳ thời điểm nào, A đo lường lượng hàng hóa vốn sẵn có cho khu vực sản
xuất hàng hóa cuối cùng, và các doanh nghiệp trong khu vực sản xuất hàng
hóa cuối cùng coi số lượng này là cho trước. Các phát minh; sáng chế; ý
tưởng mới trong mô hình tương ứng với các hàng hóa vốn được các khu vực
sản xuất hàng hóa cuối cùng sử dụng để sản xuất ra sản phẩm.
* Khu vực sản xuất hàng hóa trung gian:
Khu vực sản xuất hàng hóa trung gian bao gồm các nhà độc quyền,
những người sản xuất hàng hóa vốn để bán cho khu vực hàng hóa cuối cùng.
Các doanh nghiệp này thu được quyền lực độc quyền thông qua việc mua
thiết kế cho một hàng hóa vốn cụ thể từ khu vực nghiên cứu. Do vấn đề bảo
vệ bản quyền, nên ta giả thiết là một loại hàng hóa vốn chỉ do một doanh
nghiệp sản xuất. Theo mô hình Romer, các doanh nghiệp trong khu vực sản
xuất hàng hóa trung gian sẽ tăng cường đầu tư cho nghiên cứu và triển khai để
có thể tạo ra thật nhiều các phát minh; sáng chế mới nhằm thu được càng
nhiều quyền lực độc quyền càng tốt. Các phát minh; sáng chế là một lợi thế

14
cạnh tranh quan trọng và quyết định nhất đối với các doanh nghiệp trong khu
vực sản xuất hàng hóa trung gian.

* Khu vực nghiên cứu:
Theo Romer, khu vực nghiên cứu về cơ bản giống như đào vàng. Bất
kỳ ai cũng có thể "tự do thăm dò" cho các ý tưởng, và phần thưởng cho việc
thăm dò là phát hiện ra một "mỏ vàng" có thể bán được. Các ý tưởng; phát
minh; sáng chế trong mô hình Romer là các thiết kế hàng hóa vốn mới đó có
thể là một chip máy tính nhanh hơn hay một cách thức mới trong các tổ chức
sản xuất. Khi một thiết kế mới được phát hiện, nhà phát minh nhận được một
bằng phát minh từ chính phủ cho phép độc quyền sản xuất loại hàng hóa này.
Nhà phát minh bán bằng phát minh cho một doanh nghiệp sản xuất hàng hóa
trung gian và sử dụng tiền kiếm được để tiêu dùng và tiết kiệm.
Mô hình Romer cho rằng, tiến bộ công nghệ là động lực của tăng
trưởng kinh tế trong dài hạn. Các ý tưởng; phát minh; sáng chế mới sẽ làm
cho các doanh nghiệp có được lợi thế cạnh tranh lớn và thúc đẩy nền kinh tế
đi lên. Tiến bộ công nghệ sinh ra khi các cá nhân đi tìm kiếm những ý tưởng
mới. Bản chất không cạnh tranh của các ý tưởng hàm ý rằng sản xuất được
đặc trưng bởi hiệu quả kinh tế tăng theo quy mô. Tỷ lệ tăng trưởng trong các
ý tưởng; phát minh; sáng chế được gắn chặt với tỷ lệ tăng trưởng dân số. Một
số lượng lớn hơn các nhà nghiên cứu có thể tạo ra một số lượng lớn hơn các
phát minh; sáng chế mới và đó là nguyên lý cơ bản tạo ra tăng trưởng thu
nhập theo đầu người. Chính bởi lý do đó, chính phủ các quốc gia đặc biệt là
các quốc gia đi sau cần tích cực đầu tư cho nghiên cứu và triển khai để có thể
thúc đẩy năng lực sáng tạo của đội ngũ nhà phát minh sáng chế thông qua các
chính sách khuyến khích, đầu tư nghiên cứu triển khai của khu vực doanh
nghiệp, hoàn thiện cơ chế liên quan đến vấn đề bản quyền để có thể tạo ra
nhiều hơn phát minh; sáng chế mới để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài
hạn.
1.4. Nội dung và tiêu chí phát triển NNL CLC phục vụ cho quá trình
phát triển KT - XH
1.4.1. Nội dung phát triển NNL CLC
Phát triển NNL CLC là quá trình tạo ra sự chuyển biến cả về số lượng

và chất lượng NNL CLC. Vì vậy, nội dung phát triển NNL CLC phải đáp ứng
những yêu cầu sau:

15
1.4.1.1. Gia tăng số lượng NNL CLC
Để đáp ứng yêu cầu tạo ra những bước phát triển đột phá cho đất nước,
cần phải có một LLLĐ được đào tạo tốt, có đủ kiến thức và kỹ năng cần thiết
cho ngành mình làm việc, không ngừng nâng cao kiến thức và kỹ năng, thích
nghi được với sự phát triển của KH - CN.
Muốn phát triển NNL CLC đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, trước
tiên phải gia tăng nhanh chóng số lượng lao động tri thức, lao động quản lý và
lao động dữ liệu. Lực lượng này phải chiếm tỷ lệ vượt trội trong tổng LLLĐ
quốc gia. Trong đó, phải đặc biệt chú trọng tới việc gia tăng số lượng lao
động trí thức và lao động dữ liệu (bao gồm đội ngũ nhân lực KH - CN) - đó là
lực lượng nòng cốt tiếp thu, ứng dụng và sáng tạo tri thức KH - CN hiện đại
để đưa nền kinh tế quốc gia thích ứng với trình độ phát triển của thế giới.
Việc gia tăng số lượng NNL CLC là điều kiện cần để phát triển lực lượng
này.
Trong nền kinh tế công nghiệp, cách tổ chức lao động phổ biến là mô
hình sản xuất hàng hóa kiểu Taylor. Đây là cách thức tổ chức lao động đề ra
yêu cầu tối thiểu về kỹ năng đối với LLLĐ. Chỉ cần thành thạo một số động
tác lặp đi, lặp lại và không cần động não, LLLĐ có thể hoàn thành nhiệm vụ
của họ.
Trong thời đại công nghệ thông tin và thế giới phẳng, do tác động của
rất nhiều yếu tố, nhu cầu của người tiêu dùng trở nên đa dạng và cao cấp hơn.
Sản phẩm của phương thức sản xuất hàng hóa hàng loạt không còn thu hút
được người tiêu dùng toàn cầu. Sự tinh tế và khác biệt trong mỗi sản phẩm trở
thành thị hiếu nổi trội và đồng thời cũng mang lại những giá trị kinh tế rất cao
cho các sản phẩm. Do đó, mô hình sản xuất linh hoạt, sử dụng công nghệ chế
tạo theo chuyên môn hóa linh hoạt đang dần được thay thế cho mô hình sản

xuất linh hoạt. Quan điểm nền tảng trong cách tổ chức này cho rằng: chính
những người lao động trực tiếp là người biết được cách nào là tốt nhất, tiết
kiệm nhất để thực hiện quy trình công việc trên dây chuyền linh hoạt, do vậy,
hệ thống sáng kiến được triển khai từ dưới lên và sản xuất được cải tiến liên
tục theo hệ thống sáng kiến đó.
Như vậy, khác với mô hình Taylor đòi hỏi công nhân nắm vững một
động tác chuyên môn hóa được chi tiết đến mức đơn giản, mô hình tổ chức
linh hoạt trong nền sản xuất hiện đại yêu cầu có một đội ngũ công nhân đa

16
năng, luôn có ý thức về sáng kiến đổi mới. Nói cách khác, mô hình tổ chức
lao động mới đòi hỏi một LLLĐ đại chúng trực tiếp tham gia sản xuất có độ
linh hoạt cao, có khả năng sáng tạo và đổi mới, có trình độ đào tạo cao.
Như vậy, nhu cầu đối với NNL CLC tồn tại ở mọi xã hội nhưng trong
thời đại công nghệ phát triển với những bước đột phá liên tiếp như ngày nay,
nhu cầu này có một sự phát triển về chất. Trong nền kinh tế công nghiệp, nhu
cầu đối với NNL CLC tuy rất cần thiết nhưng mới chỉ dừng lại ở quy mô nhỏ.
Ngày nay, nhu cầu lớn hơn đối với NNL CLC không chỉ thể hiện ở LLLĐ
gián tiếp, các nhà phân tích xử lý thông tin, thiết kế - tư vấn mà còn đối với
LLLĐ trực tiếp tham gia các nhóm làm việc trong mô hình tổ chức sản xuất
linh hoạt. Sự mở rộng quy mô nhu cầu này chính là sự đột biến về chất của
nhu cầu đối với NNL CLC trong nền kinh tế, cho phép nền kinh tế có bước
phát triển nhảy vọt so với nền kinh tế công nghiệp.
1.4.1.2. Hình thành và phát huy những tố chất phù hợp với yêu cầu của thời đại
Để có thể tạo ra những bước phát triển đột phá cho đất nước, NNL
CLC phải hình thành được và phát huy trên thực tế những tố chất đặc trưng
của NNL CLC phục vụ cho công cuộc phát triển KT - XH.
a. Hình thành và phát huy tố chất thích ứng
Tố chất thích ứng được biểu hiện ở khả năng tự điều chỉnh, khả năng
thích nghi để làm chủ được trước sự thay đổi nhanh chóng của vốn tri thức

nhân loại. Chỉ khi nào NNL CLC hình thành được khả năng này ở tầm cao
tương xứng với thời đại thì quốc gia đó mới có thể theo kịp và vươn lên trong
sự phát triển chung của thế giới. Sự khẳng định này dựa vào những lý do cơ
bản sau:
- Tri thức của nhân loại liên tục thay đổi với tốc độ rất nhanh đòi hỏi
NNL phải có khả năng thích nghi, sự năng động rất cao thì mới có thể theo
kịp và tiếp thu được những tri thức mới cập nhật.
- Cuộc CMKHCN đang diễn ra nhanh như vũ bão, các công nghệ mới
liên tục xuất hiện, các thành tựu và những phát minh sáng chế liên tiếp được
giới thiệu bởi vậy, các quốc gia nếu như không muốn bị tụt lại so với phần
còn lại của thế giới buộc phải chạy theo guồng quay này. NNL cần phải có sự
thay đổi, cập nhật liên tục những công nghệ mới để tránh khỏi sự tụt hậu. Bên
cạnh đó, họ cũng cần phải đi trước công nghệ, tạo ra xu thế bằng cách tạo nên

17
những công nghệ mới, những phát minh mới để không bị tụt hậu so với guồng
quay phát triển của KH - CN.
b. Hình thành và phát huy tố chất sáng tạo
Ngày nay, các phát minh và sáng chế là một trong những yếu tố hàng
đầu được các quốc gia quan tâm nhằm tạo nên lợi thế cạnh tranh đột phá trong
thời đại mới. Quốc gia nào sở hữu năng lực sáng tạo lớn với những phát minh,
sáng chế mang tính bước ngoặt và có tính định hướng cho thị trường, quốc gia
đó sẽ nắm trong tay lợi thế cạnh tranh và thu được những lợi ích KT - XH vô
cùng to lớn. Tuy vậy, việc có được tố chất sáng tạo ở bộ phận nhân lực không
phải là chuyện quá đơn giản. Bộ phận nhân lực có thể có được khả năng sáng
tạo đều là những người được đào tạo bài bản, được tiếp xúc với các thành tựu
công nghệ hiện đại, được nghiên cứu trong những môi trường thuận lợi. Hầu
như, chỉ có một tỷ lệ nhỏ trong LLLĐ có khả năng sáng tạo, đó chính là NNL
CLC. Tố chất sáng tạo trong bộ phận NNL CLC được đánh giá là yếu tố
mang tính đột phá quan trọng nhất giúp các quốc gia đang phát triển có thể

tạo nên những sức bật đột phá trong quá trình phát triển, từ đó rút ngắn
khoảng cách với các quốc gia đi trước.
Tóm lại, những nội dung nêu trên hướng tới việc phát triển NNL CLC
để đáp ứng yêu cầu tạo ra bước phát triển đột phá cho đất nước cả về số lượng
và chất lượng, đồng thời xét trên cả hai phương diện đào tạo và sử dụng NNL
CLC. Đó là những nội dung hướng tới việc phát triển về chất, phát triển mang
tính bước ngoặt đối với NNL CLC trong thời đại có sự chuyển biến mang tính
cách mạng của nhân loại hiện nay.
1.5. Tiêu chí đánh giá quá trình phát triển NNL CLC
1.5.1. Các tiêu chí đánh giá về gia tăng số lượng NNL CLC
Theo TS. Lê Hồng Điệp, các tiêu chí đánh giá về gia tăng số lượng
NNL CLC bao gồm:
(1) Sự gia tăng tỷ lệ lao động trình độ đại học trên tổng số LLLĐ
Tiêu chí này đánh giá tốc độ gia tăng số lượng và tỷ trọng LLLĐ trình
độ đại học trên tổng số LLLĐ quốc gia. Đây là tiêu chỉ phản ánh trực tiếp về
sự gia tăng NNL CLC.
(2) Sự gia tăng tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân

18
(3) Sự gia tăng số lượng sinh viên, sinh viên mới tuyển, sinh viên tốt
nghiệp hàng năm
Lực lượng tạo nguồn trực tiếp cho đội ngũ nhân lực CLC của mỗi quốc
gia chính là đội ngũ sinh viên đang theo học tại các trường đại học. Vì vậy,
tiêu chí (2) và (3) là những tiêu chí đánh giá sự gia tăng lực lượng tạo nguồn
cho đội ngũ nhân lực chất lượng cao của mỗi quốc gia.
1.5.2. Các tiêu chí đánh giá khả năng thích ứng và khả năng sáng tạo tri
thức KH - CN hiện đại của NNL CLC
Theo nghiên cứu của WB, một số tiêu chí nhằm đánh giá khả năng
thích ứng cũng như khả năng sáng tạo tri thức KH - CN hiện đại của NNL
CLC bao gồm:

(1) Mức độ sẵn có của lao động sản xuất chất lượng cao
(2) Mức độ sẵn có của cán bộ hành chính chất lượng cao
(3) Mức độ sẵn có của cán bộ quản lý hành chính chất lượng cao
(4) Sự thành thạo của lao động công nghệ cao
(5) Sự thành thạo tiếng Anh của đội ngũ nhân lực chất lượng cao
(6) Mức độ thành thạo kỹ năng của đội ngũ cán bộ hành chính
(7) Mức độ thành thạo kỹ năng của đội ngũ chuyên gia
(8) Mức độ thành thạo kỹ năng của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính
(9) Năng suất lao động của đội ngũ nhân lực chất lượng cao
Chín tiêu chí nêu trên nhằm đánh giá tố chất thích ứng của NNL CLC
thông qua đội ngũ nhân lực chất lượng cao điển hình: đội ngũ cán bộ quản lý
hành chính, đội ngũ chuyên gia, đội ngũ nhân lực chất lượng cao nói chung.
Khả năng thích ứng được đánh giá thông qua mức độ thành thạo kỹ năng, sự
thành thạo tiếng Anh, sự thành thạo công nghệ cao, năng suất lao động và
mức độ sẵn có của NNL CLC
(10) Số đơn đăng ký phát minh sáng chế được Tổ chức sở hữu trí tuệ
thế giới cấp
(11) Số bài viết được đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế
Tiêu chí (10) và (11) đánh giá tố chất sáng tạo của NNL CLC. Số đơn
đăng ký sáng chế quốc tế, số bài viết được đăng trên tạp chí quốc tế phản ánh

19
mức độ biểu hiện tố chất sáng tạo của NNL CLC trong xu thế hội nhập và
phát triển kinh tế.
1.6. Những yếu tố tác động trực tiếp đến phát triển NNL CLC đáp ứng
yêu cầu phát triển KT - XH
Quá trình phát triển NNL CLC bị tác động bởi rất nhiều yếu tố với mức
độ và phạm vi tác động khác nhau. Phần này tập trung phân tích hai nhóm yếu
tố tác động trực tiếp và quan trọng nhất tới quá trình phát triển NNL CLC.
1.6.1. Nhóm yếu tố phía cung: Đào tạo NNL CLC

Tri thức được coi là một nguồn vốn quyết định trong nền kinh tế tri
thức. Tuy nhiên, việc tiếp nhận vốn tri thức lại không dễ dàng như việc tiếp
nhận vốn dưới dạng tiền tệ. Chuyển giao tiếp nhận vốn tri thức phải qua GD -
ĐT. Điều này có nghĩa là GD - ĐT tác động trực tiếp và quan trọng nhất tới
việc phát triển cả về số lượng và chất lượng vốn tri thức được tích lũy ở NNL.
Đối với NNL CLC, giáo dục đại học tác động trực tiếp và mang tính đột phá
tới chất lượng, những tố chất tiêu biểu của lực lượng này.
Kết quả nghiên cứu về mối quan hệ giữa lao động được đào tạo và
NSLĐ của Viện Nghiên cứu Khoa học Lao động và Xã hội năm 2011 cho
thấy, nếu tăng thêm một năm được đào tạo thì NSLĐ sẽ tăng thêm 12% và
nếu tăng 1% tỷ trọng lao động có trình độ đại học - cao đẳng trở lên trong
tổng số LLLĐ thì NSLĐ toàn xã hội sẽ tăng thêm 0,55%. Cũng theo kết quả
nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Khoa học Lao động và Xã hội, NNL chất
lượng càng cao (thể hiện bằng số năm đi học cao), thì năng suất và theo đó là
tiền lương càng lớn.
Do sự tác động mang tính quyết định của giáo dục đại học tới chất
lượng và NSLĐ nên các quốc gia không ngừng cải cách, đầu tư cho GD - ĐT
đặc biệt là tìm ra những con đường và cách thức mới để phát triển giáo dục
đại học. Chỉ bằng cách đó, NNL CLC mới được nâng cao, phù hợp với yêu
cầu phát triển của thời đại mới. Sự tác động của giáo dục đại học với quá trình
phát triển NNL CLC được thể hiện trên các mặt sau:





20
1.6.1.1. Tác động của giáo dục đại học tới số lượng NNL CLC
Quy mô và mô hình phát triển giáo dục đại học sẽ tác động tới số lượng
NNL CLC.

Căn cứ vào quy mô đào tạo, có thể chia các mô hình giáo dục đại học
thành các nhóm: Giáo dục đại học tinh hoa, giáo dục đại học đại chúng, giáo
dục đại học phổ cập.
Giáo dục đại học tinh hoa tạo ra một lực lượng nhân lực tinh hoa,
chiếm số ít trong tổng số LLLĐ. Mô hình giáo dục này phù hợp với xã hội
nông nghiệp và giai đoạn đầu của xã hội công nghiệp.
Giáo dục đại học đại chúng tạo ra một lực lượng đông đảo nhân lực
chất lượng cao phục vụ cho quá trình phát triển ở trình độ công nghiệp và hậu
công nghiệp cuối thể kỷ XX, đầu thế kỷ XXI. Mỹ là quốc gia đi đầu trong
việc xây dựng mô hình giáo dục đại học đại chúng vào những năm 1970.
Giáo dục đại học phổ cập phát triển mạnh ở Mỹ, các nước Tây - Bắc
Âu , Hàn Quốc, Nhật Bản vào thập kỷ đầu của thế kỷ XXI để phục vụ cho
nhu cầu NNL CLC trong thời đại mới.
Như vậy, một hệ thống giáo dục đại học phù hợp là một hệ thống mà ở
đó việc quy hoạch mạng lưới các trường ĐH phải đảm bảo việc đào tạo đủ
yêu cầu cả về số lượng và chất lượng NNL CLC. Nếu hệ thống đại học chỉ
hướng vào việc đào tạo đội ngũ tinh hoa thì số lượng nhân lực có trình độ đại
học sẽ là thiểu số. Nếu hệ thống đại học được thiết kế đa dạng, phong phú,
hướng vào đại chúng, ở đó có sự kết hợp giữa đào tạo lực lượng tinh hoa và
đào tạo lực lượng đại chúng thì sẽ tác động rất lớn tới tốc độ gia tăng NNL
CLC. Từ đó, NNL CLC có thể phục vụ tốt nhất cho quá trình phát triển của
các quốc gia trong thời đại ngày nay.
1.6.1.2. Tác động của giáo dục đại học tới việc hình thành và phát huy tố chất
thích ứng và tố chất sáng tạo
Xã hội công nghiệp hình thành cách đây hàng trăm năm đã sản sinh ra
các trường đại học truyền thống - nơi cung cấp các kiến thức cao cấp ổn định
trong nhiều thập niên. Loại trường này vẫn đang tồn tại ở nhiều quốc gia trên
những nét cơ bản. Việc tổ chức và hoạt động các trường đại học truyền thống
thường khá ổn định và rất ít thay đổi về chương trình đào tạo, cách thức tổ
chức và hoạt động do vậy, khả năng tác động của nó tới việc hình thành và


21
phát huy tố chất thích ứng và tố chất sáng tạo của người được đào tạo là rất
kém.
Ngày nay, nhân loại đang bước vào kỷ nguyên tri thức dựa trên nàng
tảng của CNTT và viễn thông. Tri thức và thông tin đã trở thành một thứ vốn
quý tạo nên giá trị gia tăng của các ngành sản xuất, kinh doanh, tổ chức và
quản lý. Mô hình đại học truyền thống đang trở nên lỗi thời và đang được
thay thế bằng mô hình đại học mới – mô hình đại học tự chủ, ở đó có khả
năng đào tạo ra những người lao động có khát vọng tạo ra những thay đổi, có
khả năng thích ứng và sáng tạo để có thể thực sự làm chủ một cách tự tin
trong xã hội. Theo mô hình này, trường đại học là một cơ sở xã hội tự chủ.
Trường đại học được trao quyền tự chủ một cách rộng rãi để có thể tạo ra
những con người tự chủ cho xã hội thay vì giảng dạy cho sinh viên những
chân lý tuyệt đối đã định sẵn. Đây là một bước chuyển biến quan trọng và có
ý nghĩa trong tư duy cơ bản của ngành giáo dục.
Trong mô hình đại học tự chủ, trường đại học, hơn ở bất kỳ nơi nào
khác, là môi trường tự do tư tưởng, từ đó, triển khai các quyền tự chủ khác
như tự chủ về chương trình, phương pháp dạy học, tự chủ về nhân sự, Bộ
chủ quản chỉ làm chức năng quản lý nhà nước theo hướng quản lý để phát
triển, phát huy khả năng sáng tạo, sáng kiến đa dạng của các nhà giáo, các nhà
khoa học nhằm cống hiến cho sự phát triển và nâng cao chất lượng NNL
trong bối cảnh cuộc CMKHCN đang diễn ra với tốc độ cao. Trong môi trường
có điều kiện tự chủ cao như vậy, các trường đại học có thể phát huy mọi khả
năng về vật chất và sức mạnh trí tuệ đặc thù của mình để đào tạo lực lượng
lao động có khả năng thích ứng và sáng tạo cao.
1.6.2. Nhóm yếu tố từ phía cầu: Sử dụng NNL CLC
Vấn đề sử dụng hay chính xác hơn là vấn đề thu hút và trọng dụng là
động cơ, là cái đích và là một khâu trong quá trình đào tạo và hiện thực hóa
giá trị của NNL CLC nói chung và nhân tài nói riêng. Việc thu hút và trọng

dụng NNL CLC không chỉ tác động trực tiếp đến việc phát triển lực lượng
này mà còn tác động quyết định tới sự hưng thịnh của mỗi quốc gia.
Bằng các chính sách trọng dụng đối với NNL CLC, tố chất thích ứng
và tố chất sáng tạo sẽ được phát huy để lực lượng này đủ khả năng thúc đẩy
mỗi quốc gia trong hành trình tạo nên những bước phát triển đột phá.


22
*Những chính sách trọng dụng đối với NNL CLC nói chung
Một là, chính sách tuyển dụng, bố trí công việc và thăng tiến.
Tác động rõ nét nhất của chính sách tuyển dụng đối với việc phát huy
tố chất và khả năng của NNL CLC được thể hiện ở chỗ, nếu chính sách và
phương pháp tuyển dụng hợp lý, khách quan, chính xác thì sẽ tuyển dụng
được lao động thực sự có trình độ, năng lực và nghề nghiệp phù hợp với yêu
cầu tuyển dụng ngay từ đầu. Đội ngũ nhân lực chất lượng cao được tuyển
dụng sẽ phát huy được thế mạnh của mình ở vị trí phù hợp với trình độ
chuyên môn của họ.
Việc bố trí, phân công công việc hợp lý dựa trên cơ sở năng lực và
phân tích công việc sẽ có tác động lớn tới việc phát huy lòng yêu nghề, sự
linh hoạt và năng động của đội ngũ nhân lực chất lượng cao trong quá trình
làm việc.
Chính sách thăng tiến cần mang tính mở và linh hoạt đối với tất cả đội
ngũ nhân lực để tạo động lực phấn đấu, cống hiến và vươn lên trong quá trình
làm việc. Khi cơ hội thăng tiến rộng mở đối với đội ngũ thì họ sẽ có động lực
để sáng tạo và bứt phá nhằm khẳng định khả năng của mình.
Hai là, chính sách tiền lương.
Chính sách tiền lương tác động rất lớn tới ý thức và trách nhiệm của đội
ngũ lao động nói chung. Nếu tiền lương và mức thu nhập mang tính công
bằng, đánh giá chính xác và hợp lý năng lực của người lao động, đặc biệt là
lao động có trình độ cao thì người lao động sẽ gắn bó và cống hiến tối đa

năng lực của họ. Để tiền lương thực sự phát huy tác dụng trong việc thúc đẩy
khả năng của NNL CLC, thì chính sách tiền lương phải hết sức linh hoạt, bám
sát những thay đổi của thị trường lao động. Trong đó, sự linh hoạt phải thể
hiện rõ nét trong việc điều chỉnh chính sách tiền lương của đội ngũ nhân lực
CLC làm việc trong khu vực công so với khu vực tư. Nếu không điều chỉnh
được sự bất hợp lý về tiền lương giữa hai khu vực thì chất lượng đội ngũ cán
bộ hành chính nhà nước sẽ rất thấp. Quốc gia sẽ khó có đủ điều kiện để thực
hiện bước phát triển đột phá bởi sự kìm hãm của chính bộ phận nhân lực hành
chính chất lượng thấp.



23
Ba là, chính sách đãi ngộ về mặt xã hội.
Ngoài tiền lương, những đãi ngộ về mặt xã hội có ảnh hưởng rất lớn tới
sự gắn bó và cống hiến tài năng của NNL CLC cho công việc. Nếu những
chính sách về BHXH, an sinh xã hội, tạo thuận lợi cho đời sống sinh hoạt
thường ngày của người lao động và gia đình họ thì họ sẽ yên tâm cống hiến và
gắn bó lâu dài với công việc.
Bốn là, chính sách hỗ trợ trong hoạt động nghiên cứu triển khai.
Trong thành phần NNL CLC, có nhóm NNL quan trọng thực hiện các
hoạt động nghiên cứu - triển khai nhằm thúc đẩy mạnh mẽ việc hình thành
những dòng sản phẩm đột phá, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Đây là
một hoạt động đặc thù và cần có điều kiện làm việc hiện đại và đầu tư lớn. Vì
vậy, nếu chính sách hỗ trợ trong hoạt động nghiên cứu - triển khai thực sự
quan tâm đến việc hỗ trợ để nhóm nhân lực KH - CN có điều kiện làm việc
trong môi trường lý tưởng thì họ sẽ sản sinh ra nhiều sản phẩm trí tuệ mang
tính sáng tạo cao và có tính ứng dụng cao với xã hội.

















24
CHƢƠNG 2: KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO
CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI
2.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung Quốc là quốc gia nằm trên khu vực Đông Á. Đây là quốc gia có
dân số đông nhất thế giới và là nền kinh tế đứng số một châu Á và đứng thứ
hai toàn cầu. Năm 2011, GDP theo giá cố định (2005) năm 2011 của Trung
Quốc đạt 5,44 nghìn tỷ USD.
Biểu đồ 2.1: GDP theo giá cố định năm 2005 của Trung Quốc
giai đoạn 2000 - 2011
Đơn vị tính: tỷ USD

Nguồn: Tổng hợp Số liệu thống kê của Ngân hàng Thế giới
Kể từ năm 1978, sau khi thực thi hàng loạt những chính sách cải cách
KT - XH đồng bộ, nền kinh tế Trung Quốc đã thu được một loạt các thành tựu

đáng ghi nhận như trở thành nền kinh tế số hai thế giới sau Mỹ xét theo tổng
GDP, các ngành công nghệ điện tử; công nghệ cao phát triển mạnh và trở
thành mũi nhọn của nền kinh tế, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng
tập trung phát trển những ngành có hàm lượng khoa học - kỹ thuật và chất
xám cao, Một trong những chính sách mang tính bước ngoặt mà Chính phủ

25
Trung Quốc áp dụng đó là việc thực hiện phát triển NNL CLC và thúc đẩy
năng lực tự chủ sáng tạo của NNL. Những chính sách đó đã phát huy tác
dụng, thúc đẩy đưa nền kinh tế Trung Quốc phát triển theo hướng hiện đại,
dựa trên những tiến bộ khoa học - kỹ thuật tiên tiến.
2.1.1. Các chính sách của Trung Quốc trong việc phát triển NNL CLC
2.1.1.1. Xây dựng đặc khu nhân lực chất lượng cao
Học tập kinh nghiệm công tác nhân lực chất lượng cao của quốc tế và
vận dụng cách làm của các đặc khu kinh tế đã xây dựng trong thời kỳ đầu cải
cách mở cửa, Trung Quốc đã lựa chọn một số khu vực có đặc điểm phù hợp
để xây dựng đặc khu nhân lực chất lượng cao đủ điều kiện hòa nhập với quỹ
đạo quốc tế. Năm 2011, Trung Quan Thôn được quy hoạch trở thành đặc khu
nhân lực chất lượng cao cấp quốc gia. Chính phủ Trung Quốc đã ban hành 13
chính sách hỗ trợ đặc biệt cho khu vực này trên các phương diện như sử dụng
kinh phí KH - CN dành cho nhân lực chất lượng cao, ưu đãi thuế nhập khẩu
đối với những sản phẩm đặc thù, hỗ trợ vốn với các dự án quan trọng , qua
đó đã kích thích sức sáng tạo của nhân lực KH - CN, hình thành được hệ
thống thể chế, cơ chế có lợi cho sự trưởng thành và phát huy vai trò của nhân
lực chất lượng cao.
Từ khi nằm trong quy hoạch trở thành đặc khu nhân lực chất lượng cao
cấp quốc gia, Trung Quan Thôn như một khối "nam châm" khổng lồ, thu hút
rất nhiều nhân tài trong và ngoài nước. Đặc khu là nơi tập trung 211 điểm
cung cấp cơ sở hạ tầng về khoa học kỹ thuật cấp quốc gia, chiếm 90,60%
điểm cung cấp của Bắc Kinh và chiếm 17,20% trong tổng số điểm cung cấp

toàn quốc, trong đó có 67 phòng thực nghiệm trọng điểm cấp quốc gia, chiếm
30% toàn quốc; có 50 trung tâm nghiên cứu công nghệ kỹ thuật dự án nhà
nước, chiếm 35,50% toàn quốc; có 37 trung tâm nghiên cứu dự án nhà nước,
chiếm 29,10% toàn quốc.
Vài năm gần đây, các địa phương như Thượng Hải, Thiên Tân, Vũ
Hán, đang tích cực nghiên cứu, đẩy nhanh tiến trình xây dựng đặc khu nhân
lực chất lượng cao. Thượng Hải lập kế hoạch xây dựng khu thí nghiệm đổi
mới nhân tài quốc tế ở Phố Đông, Thiên Tân đề xuất ý kiến đẩy nhanh tiến
trình vươn tới đỉnh cao nhân tài ở khu kinh tế mới Bân Hải.

×