TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
MÔN QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
__ oOo __
TIỂU LUẬN MÔN HỌC
ĐỀ TÀI 10:
BÀN VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ
LÃI SUẤT NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN QUA
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: PGS. TS. TRƯƠNG QUANG THƠNG
SINH VIÊN THỰC HIỆN:
NHĨM 6
LÊ HỒNG LÂM
HUỲNH NGUYỄN BẢO NGUYÊN
LƯƠNG THANH THANH
DƯƠNG THỊ THỦY
NGUYỄN ĐỊNH TƯỜNG
ONG MỸ TÚ
LÝ HOÀNG TUẤN
LỚP:
CAO HỌC K19 – TCDN – Đ2
THÁNG 11 - 2010
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
-i-
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
1. Khái niệm chung về lãi suất 2
1.1. Khái niệm lãi suất 2
1.2. Phân loại lãi suất 2
1.2.1. Phân loại theo tính chất của khoản vay 2
1.2.2. Phân loại theo giá trị thực của tiền lãi 3
1.2.3. Phân loại theo loại tiền cho vay 3
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất 3
1.3.1. Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến cung cầu vốn 3
1.3.2. Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến cung cầu tiền tệ 5
1.3.3. Các nhân tố khác 6
1.4. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế 6
1.4.1. Kích thích lợi ích vật chất để thu hút các khoản tiền tiết kiệm 6
1.4.2. Lãi suất là cơng cụ phân phối vốn, kích thích sử dụng vốn có hiệu quả và
điều chỉnh các hoạt động đầu tư. 6
1.4.3. Lãi suất là công cụ đo lường tình trạng sức khoẻ của nền kinh tế 7
1.4.4. Lãi suất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô của NHTW 7
1.5. Tự do hoá lãi suất 7
1.5.1. Khái niệm về tự do hoá lãi suất 7
1.5.2. Những hạn chế của việc tự do hoá lãi suất đối với các nước đang phát
triển 11
2. Cơ chế quản lý lãi suất của ngân hàng Nhà Nước Việt Nam trong thời gian
qua 12
2.1. Thực trạng điều hành lãi suất ở Việt Nam 12
2.1.1 Giai đoạn Từ năm 1986 đến năm 1991 12
2.1.1 Giai đoạn Từ năm 1986 đến năm 1991 12
2.1.2 Giai đoạn 1992 đến 1995 12
2.1.2 Giai đoạn 1992 đến 1995 12
2.1.3 Giai đoạn từ năm 1996 đến 1999 13
-ii-
2.1.3 Giai đoạn từ năm 1996 đến 1999 13
2.1.4 Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ (8/2000 – 5/2002) 14
2.1.4 Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ (8/2000 – 5/2002) 14
2.1.5 Cơ chế lãi suất thoả thuận (6/2002-5/2008): 16
2.1.5 Cơ chế lãi suất thoả thuận (6/2002-5/2008): 16
2.1.6 Cơ chế điều hành lãi suất theo điều 476 Bộ luật Dân sự 2005 từ tháng 6/2008 đến
cuối năm 2009 17
2.1.6 Cơ chế điều hành lãi suất theo điều 476 Bộ luật Dân sự 2005 từ tháng
6/2008 đến cuối năm 2009 17
2.1.7 Cơ chế điều hành lãi suất từ cuối năm 2009 đến nay: 19
2.1.7 Cơ chế điều hành lãi suất từ cuối năm 2009 đến nay: 19
2.2. Các vấn đề đặt ra trong thời gian tới 20
3. Giải pháp định hướng việc điều hành lãi suất ở Việt Nam 23
3.1. Giải pháp ổn định thị trường tiền tệ của NHNN 23
3.2. Nhóm giải pháp điều hành chính sách lãi suất ổn định và có tính dài hạn
24
3.3. Nhóm giải pháp nhằm đảm bảo điều hành chính sách lãi suất linh hoạt và
kịp thời 25
KẾT LUẬN 27
TÀI LIỆU THAM KHẢO 28
-iii-
Tiểu luận môn học
GVHD : PGS. TS. Trương Quang Thông
LỜI NÓI ĐẦU
Cùng với sự phát triển của Thế giới,Việt Nam đã và đang từng bước đi lên và đạt
được những thành tựu to lớn đặc biệt là lĩnh vực kinh tế.Với chủ trương của Đảng
và Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng
XHCN thì kinh tế đã trở nên khá sơi động và tạo nên sắc thái mới cho nền kinh tế.
Cùng với đà thắng lợi của đất nước trong công cuộc đổi mới nền kinh tế, ngành
ngân hàng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu đổi mới của mình đã tiến
được những bước quan trọng trong hệ thống các công cụ quản lý lãi suất được coi là
nhạy cảm nhất, nó thực sự là vấn đề nóng bỏng nhất thu hút được nhiều tầng lớp
dân cư trong xã hội.
Lãi suất với tư cách là một trong những công cụ của chính sách tiền tệ được
nhiều nhà kinh tế quan tâm nghiên cứu và từ lâu được nhiều quốc gia trên thế giới
sử dụng như một công cụ hữu hiệu điều tiết nền kinh tế. Đặc biệt là trong cơ chế thị
trường lãi suất trở thành công cụ đắc lực để NHTW (ngân hàng trung ương) thực thi
chính sách tiền tệ nhằm điều tiết các mối quan hệ giữa tiết kiệm và đầu tư; lạm phát
và tăng trưởng kinh tế ... Trong từng thời kỳ nhất định cho nên việc thi hành một
chính sách lãi suất thích hợp là vơ cùng phức tạp mà vai trị đó thuộc ngân hàng nhà
nước. Để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế thị trường các
nghiệp vụ ngân hàng đã không ngừng đổi mới và phát triển để phù hợp với điều
kiện thực tiễn của đất nước. Với trọng trách to lớn đó NHTW đã thường xuyên điều
chỉnh lãi suất cho phù hợp phát triển khả năng linh hoạt của các Ngân hàng thương
mại. Năm 1997 luật Ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức ra đời có hiệu lực từ
1/10/1998 đã đánh dấu một giai đoạn mới về hoạt động Ngân hàng ở Việt nam
trong luật Ngân hàng điều 18 ghi “Ngân hàng Nhà nước xác định và công bố lãi
suất tái cấp cơ bản, lãi suất tái cấp vốn”
Đồng thời cịn giải thích tài khoản 12 điều 9 “Lãi suất cơ bản là lãi suất do
Ngân hàng Trung ương công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ổn định lãi suất
kinh doanh”. Điều này là thể hiện rất rõ bản chất lãi suất của Ngân hàng Trung
ương trong nền kinh tế thị trường .
Xuất phát từ những vấn đề mang tính thời sự của lãi suất trên cơ sở những kiến
thức đã học cùng với những kiến thức trong khuôn khổ tài liệu cho phép, nhóm xin
trình bày đề tài: “Cơ chê quản lý lãi suất ngân hàng ở Việt Nam trong thời gian
qua”
Bàn về lãi suất có nhiều vấn đề được đề cập song trong khn khổ của một bài
thuyết trình và kiến thức có hạn, nhóm chỉ đề cập đến một số vấn đề cơ bản nhất.
Khoa Đào Tạo Sau Đại Học
-1-
SVTH : Nhóm 6 – CH TCDN – Đ2
Tiểu luận môn học
1.
GVHD : PGS. TS. Trương Quang Thông
Khái niệm chung về lãi suất
1.1. Khái niệm lãi suất
Lãi suất là giá của vốn tiền tệ, là một chỉ số kinh tê tổng hợp, chịu tác động
bởi nhiều nhân tố kinh tê vĩ mơ, tài chính tiền tệ ở trong nước – ngồi nước.
Trong nền kinh tế ln có những chủ thể tạm thời dư thừa vốn, cùng lúc đó có
những người có cơ hội đầu tư sinh lời cần vốn nhưng lại thiếu vốn. Thị trường tài
chính ra đời làm thơng suốt q trình chuyển vốn từ người thừa vốn sang người cần
vốn, các chủ thể quan hệ vay mượn tín dụng hoặc mua bán các cơng cụ nợ đều đạt
được mục đích của mình; người thừa vốn vừa bảo đảm được vốn vừa thu được lợi,
người thiếu vốn vừa được đáp ứng đủ nhu cầu cho đầu tư. Từ thị trường đó, lãi suất
được hình thành như giá cả của một loại hàng hóa (ở đây là vốn), nó là chi phí mà
người đi vay phải trả cho người cho vay để được quyền sử dụng vốn, nó vận động
tuân theo quy luật cung cầu, xác định trên cơ sở cân bằng giữa cầu và cung về vốn
trên thị trường.
Như vậy, lãi suất chính là tín hiệu thị trường tham gia vào việc nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn và phân bổ nguồn vốn một cách hợp lý.
- Ở trên là lãi suất được hiểu theo nguyên tắc thị trường, song lãi suất cịn được hiểu
là cơng cụ của chính sách tiền tệ của mỗi quốc gia, nó do ngân hàng Trung Ương –
cơ quan thay mặt nhà nước thực thi chính sách tài chính tiền tệ - nắm giữ và sử
dụng nhằm điều chỉnh và can thiệp vào thị trường giúp hạn chế và khắc phục những
yếu kém của nền kinh tế.
- Ngoài ra, khái niệm lãi suất như là chi phí cơ hội của việc giữ tiền cũng tương đối
phổ biến.
Trong đời sống ngày nay chúng ta gặp rất nhiều loại lãi suất khác nhau như lãi
suất các chứng khoán, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, lãu suất danh
nghĩa – lãi suất thực, lãi suất trần – sàn. Sự phân biệt các loại lãi suất này dựa trên
sự liên quan đến vai trị cơng cụ của chính sách tiền tệ, chỉ số lạm phát hoặc kỳ hạn
và rủi ro của mỗi loại chứng khoán. Tuy nhiên một điều quan trọng là hầu hết các
loại lãi suất này đều diễn biến theo nhau. Vì vậy, nếu khơng ghi cụ thể gì khác thì
thuật ngữ lãi suất ở đây mang ý nghĩa khái quát chung.
1.2. Phân loại lãi suất
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài có các cách phân loại như sau :
1.2.1. Phân loại theo tính chất của khoản vay
- Lãi suất chiêt khấu: áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình thức
chiết khấu thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh tốn của
khách hàng. Nó được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá
- Lãi suất tái chiêt khấu: áp dụng khi NHTW cho các ngân hàng trung gian vay
dưới hình thức chiết khấu lại các thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá ngắn hạn
Khoa Đào Tạo Sau Đại Học
-2-
SVTH : Nhóm 6 – CH TCDN – Đ2
Tiểu luận môn học
GVHD : PGS. TS. Trương Quang Thông
chưa đến hạn thanh tốn của các ngân hàng này. Nó cũng được tính bằng tỷ lệ phần
trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá.
- Lãi suất liên ngân hàng: là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay
trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất liên ngân hàng được hình thành qua quan hệ
cung cầu vốn vay trên thị trường liên ngân hàng và chịu sự chi phối bởi lãi suất cho
các ngân hàng trung gian vay của NHTW. Mức độ chi phối này phụ thuộc vào sự
phát triển của hoạt động thị trường mở và tỷ trọng sử dụng vốn vay NHTW của các
ngân hàng trung gian.
- Lãi suất cơ bản: là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ấn định mức
lãi suất kinh doanh của mình. Lãi suất cơ bản được hình thành khác nhau tùy từng
nước, nó có thể do NHTW ấn định (như ở Nhật); hoặc có thể do tự bản thân các
ngân hàng tự xác định căn cứ vào tình hình hoạt động cụ thể của ngân hàng mình (ở
Mỹ, Anh, Úc); hoặc căn cứ vào mức lãi suất cơ bản của một số ngân hàng đứng đầu
rồi cộng (+) hoặc trừ (- ) biên độ dao động theo một tỷ lệ % nhất định để hình thành
lãi suất cơ bản của mình (Malaysia) vv…Mặt dù khác nhau nhưng lãi suất cơ bản
của hầu hết các nước đều hình thành trên cơ sở thị trường và có một mức lợi nhuận
bình qn cho phép.
1.2.2. Phân loại theo giá trị thực của tiền lãi
- Lãi suất danh nghĩa: là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ hay nói
cách khác là loại lãi suất chưa loại trừ đi tỷ lệ lạm phát.
- Lãi suất thực: là lãi suất điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về lạm phát,
hay nói cách khác, là loại lãi suất đã loại trừ đi tỷ lệ lạm phát. Quan hệ giữa lãi suất
thực và lãi suất danh nghĩa được phản ảnh bằng phương trình Fisher:
Lãi suất danh nghĩa = lãi suất thực + tỷ lệ lạm phát
Vì được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về lạm phát nên lãi suất
thực phản ảnh chính xác khoản thu nhập thực tế từ tiền lãi mà người cho vay nhận
được hay chí phí thực của việc vay tiền. Sự phân biệt giữa lãi suất thực và lãi suất
danh nghĩa có một ý nghĩa quan trọng bởi lẽ chính lãi suất thực chứ khơng phải lãi
suất danh nghĩa ảnh hưởng đến đầu tư.
1.2.3. Phân loại theo loại tiền cho vay
- Lãi suất nội tệ: là lãi suất cho vay và đi vay bằng đồng nội tệ
- Lãi suất ngoại tệ: là lãi suất cho vay và đi vay bằng đồng ngoại tệ
Mối liên hệ giữa hai lãi suất này là: iD = iF + ΔE; Trong đó: iD là lãi suất nội tệ,
iF là lãi suất ngoại tệ, ΔE là mức tăng tỷ giá dự tính của đồng ngoại tệ.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất
1.3.1. Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến cung cầu vốn
Lãi suất được xem là giá cả của quyền sử dụng vốn vay do vậy nó sẽ được xác
định trên cơ sở quan hệ cung cầu vốn vay trên thị trường. Cung vốn vay là khối
Khoa Đào Tạo Sau Đại Học
-3-
SVTH : Nhóm 6 – CH TCDN – Đ2
Tiểu luận môn học
GVHD : PGS. TS. Trương Quang Thông
lượng vốn dùng để cho vay kiếm lời của các chủ thể khác nhau trong xã hội. Cầu
vốn vay là nhu cầu vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng của các chủ
thể khác nhau trong nền kinh tế.
Lãi suất
i
O
LS - lượng cung vốn vay
LD - lượng cầu vốn vay
Cung cầu vốn vay
Hình 1.1: Quan hệ giữa cung cầu vốn và lãi suất
Đường cung cầu vốn vay nói trên cho các nhà kinh tế học một mơ hình để xác
định lãi suất thị trường, được gọi là mô hình “khn mẫu tiền vay”. Điểm cân bằng
cung cầu vốn vay tại một thời điểm xác định mức lãi suất thị trường.Các nhân tố
ảnh hường đến lãi suất thị trường bao gồm:
Nhóm nhân tố làm lệch chuyển đường cung vốn
Tài sản và thu nhập: trong giai đoạn đang tăng trưởng kinh tế thu nhập tăng và do
đó tài sản của các chủ thể kinh tế tăng lên, làm tăng khả năng cung ứng vốn.
Rủi ro: nếu như rủi ro mất vốn khi cho vay tăng lên thì việc cho vay trở nên kém
hấp dẫn, cung vốn vay giảm xuống.
Nhóm nhân tố làm lệch chuyển đường cầu vốn
Khả năng sinh lợi dự tính của các cơ hội đầu tư: càng có nhiều cơ hội đầu tư sinh
lợi thì càng làm tăng nhu cầu đi vay. Điều này thường thấy trong điều kiện nền kinh
tế tăng trưởng. Khi kinh tế tăng trưởng, các cơ hội đầu tư sinh lời tăng lên làm cho
nhu cầu vay vốn tăng mạnh. Mặt khác, trong điều kiện kinh tế phát triển, của cải
cũng tăng lên và sẽ kích thích tăng cung vốn vay. Vậy lãi suất sẽ tăng hay giảm?
Trong thực tế thì lãi suất cân bằng trong những điều kiện như vậy thường tăng lên
do hiệu ứng tăng cung vốn vay từ tăng của cải diễn ra chậm hơn tăng cầu vốn vay
do nền kinh tế tăng trưởng nhanh.
Lạm phát dự tính: chi phí thực của việc vay tiền được xác định chính xác hơn
bằng lãi suất thực, nó bằng lãi suất danh nghĩa trừ đi lạm phát dự tính. Với một mức
lãi suất cho trước, khi lạm phát dự tính tăng lên thì chi phí thực của việc vay tiền
giảm xuống, điều này làm tăng nhu cầu vay vốn.
Khi lạm phát dự tính tăng lên, lợi tức dự tính của việc cho vay so với việc đầu tư
vào các tài sản hữu hình giảm xuống tại mọi mức lãi suất làm cho cung vốn vay
Khoa Đào Tạo Sau Đại Học
-4-
SVTH : Nhóm 6 – CH TCDN – Đ2
Tiểu luận môn học
GVHD : PGS. TS. Trương Quang Thông
giảm. Lạm phát dự tính xảy ra cũng làm cho chi phí thực của việc vay tiền giảm dẫn
đến nhu cầu vay vốn tăng lên. Kết quả là lãi suất cân bằng tăng. Nhà kinh tế học
Irving Fisher là người đầu tiên đã nêu ra sự liên hệ giữa lạm phát dự tính với lãi suất
vì vậy mối liên hệ đó cịn được gọi là hiệu ứng Fisher.
Tình hình ngân sách chính phủ: vì chính phủ các nước hiện nay có xu hướng tài
trợ cho thâm hụt ngân sách bằng đi vay nên tình trạng thâm hụt ngân sách của chính
phủ sẽ tác động đến nhu cầu vay vốn của chính phủ và do đó tác động đến nhu cầu
vay vốn của nền kinh tế.
1.3.2. Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến cung cầu tiền tệ
Ứng với mỗi một mức cung cầu tiền sẽ xác định được một lãi suất cân bằng
tương ứng. Cho nên có thể nói những nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu tiền
tệ trên thị trường cũng sẽ ảnh hưởng đến sự biến động của lãi suất trên thị trường.
Lãi suất
MS1
MS2
i1
MD
i2
Cung cầu tiền
Hình 1.2 : Mô hình khn mẫu ưa thích tiền mặt
Để phân tích sự ảnh hưởng của cung cầu tiền tệ tới mức lãi suất cân bằng , mơ
hình “khn mẫu ưa thích tiền mặt” ở hình trên được sử dụng. Khn mẫu ưa thích
tiền mặt cho thấy lãi suất cân bằng thay đổi khi các đường cung, cầu tiền tệ dịch
chuyển.
Nhóm nhân tố làm dịch chuyển đường cầu tiền
Thu nhập: thu nhập tăng lên sẽ làm tăng nhu cầu nắm giữ tiền để giao dịch và là
nơi cất giữ giá trị, do đó làm cho lượng cầu tiền tăng lên và ngược lại.
Mức giá: những thay đổi của mức giá sẽ làm cầu về tiền thực tế thay đổi nếu cầu
tiền danh nghĩa chưa thay đổi.Do nền kinh tế có xu hướng cầu một lượng tiền thực
tế không đổi ứng với một mức lãi suất và thu nhập nhất định nên cầu tiền danh
nghĩa sẽ phải thay đổi theo mức giá để đảm bảo ổn định cầu tiền thực tế. Kết quả là
là một sự gia tăng lên của mức giá sẽ làm lượng cầu tiền tăng lên.
Nhóm nhân tố làm dịch chuyển đường cung tiền
Cung tiền trong nền kinh tế hiện nay phần lớn chịu sự tác động của CSTT của
các NHTW. Cung tiền thay đổi, ngoài những hoạt động nhằm thực thi mục tiêu của
Khoa Đào Tạo Sau Đại Học
-5-
SVTH : Nhóm 6 – CH TCDN – Đ2
Tiểu luận môn học
GVHD : PGS. TS. Trương Quang Thông
CSTT ra, còn chịu ảnh hưởng bởi mức độ phụ thuộc của NHTW vào chính phủ và
chế độ tỷ giá hối đối của nước đó. Nếu sự phụ thuộc của NHTW vào chính phủ
cao thì tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài có thể sẽ tạo sức ép khiến NHTW phải
in thêm tiền mua các chứng khốn chính phủ vào để tài trợ cho thâm hụt ngân sách,
dẫn đến tăng cung tiền. Thêm vào đó, một chế độ tỷ giá hối đối cố định địi hỏi sự
can thiệp của NHTW vào thị trường ngoại hối thông qua hoạt động mua bán ngoại
tệ, và do vậy cũng sẽ ảnh hướng đến cung tiền.
1.3.3. Các nhân tố khác
Tỷ lệ lạm phát: nhân tố này có ảnh hưởng rất lớn đến sự biến động của lãi suất.
Bởi lẽ sự tăng hay giảm tỷ lệ lạm phát kéo theo sự biến động của giá trị tiền tệ, từ
đó ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của người cho vay. Nếu tỷ lệ lạm phát tăng thì lãi
suất phải tăng theo. Lúc đó, các TCTD mới thu hút được nguồn vốn tiền gửi. Khi tỷ
lệ lạm phát giảm thì lãi suất tín dụng cũng giảm. Để đảm bảo hạch toán kinh doanh
cho các TCTD.Ngược lại, NHTW sử dụng lãi suất tín dụng làm cơng cụ kiềm chế
lạm phát. Khi lạm phát tăng cao, NHTW điều chỉnh tăng lãi suất tiền gửi để làm hạ
cơn sốt lạm phát.
Tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế: hoạt động của các doanh nghiệp là
nền tảng của hoạt động tín dụng. Do đó tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế
là cơ sở để xác định lãi suất tín dụng hợp lý. Thơng thường mức lãi suất tín dụng
nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận bình qn. Đó là hài hịa lợi ích người đi vay và người
cho vay.
Chính sách kinh tế của Nhà nước: bằng các chính sách kinh tế, Nhà nước can
thiệp vào thị trường tín dụng, nhằm duy trì sự vận động của lãi suất phù hợp với yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội. Các chính sách ưu đãi cho vay tác động trực tiếp đến
lãi suất, chính sách thuế, ưu đãi đầu tư, cho vay trọng điểm vv…
1.4. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế
1.4.1. Kích thích lợi ích vật chất để thu hút các khoản tiền tiết kiệm
Thơng thường khi có một khoản tiền tiết kiệm, dân chúng thường nghĩ đến việc
sinh lời trên khoản tiền đó như: đầu tư chứng khoán, bất động sản, mua vàng, gửi
tiền vào tài khoản ở ngân hàng và các TCTD khác vv…Một trong những hình thức
đầu tư có tính an toàn khá cao đối với người dân là gửi tiền vào ngân hàng. Để thu
hút được nhiều khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, lãi suất là một trong những biện
pháp hấp dẫn mà các ngân hàng thường sử dụng.
1.4.2. Lãi suất là cơng cụ phân phối vốn, kích thích sử dụng vốn có hiệu quả
và điều chỉnh các hoạt động đầu tư.
Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất tín dụng được coi là cơng cụ quan trọng để
phân phối vốn hợp lý và phù hợp với đường lối phát triển kinh tế từng thời kỳ.
chính sách lãi suất, nếu tạo ra được mức lãi suất cho vay thấp hơn tỷ suất lợi nhuận
Khoa Đào Tạo Sau Đại Học
-6-
SVTH : Nhóm 6 – CH TCDN – Đ2
Tiểu luận mơn học
GVHD : PGS. TS. Trương Quang Thơng
bình quân sẽ có tác dụng thúc đẩy các doanh nghiệp tăng nhu cầu đầu tư, mở rộng
sản xuất, đổi mới thiết bị, trang bị công nghệ sản xuất hiện đại bằng nguồn vốn vay
ngân hàng. Hiệu quả cuối cùng làm tổng thu nhập quốc dân tăng lên .
Mặc khác, lãi suất là căn cứ để các chủ thể kinh tế lựa chọn cơ hội đầu tư. Doanh
nghiệp chỉ kinh doanh khi tỷ suất lợi nhuận cao hơn lãi suất tín dụng. Cá nhân chỉ
gửi tiết kiệm khi lãi suất đem lại cao hơn món đầu tư khác và cao hơn tỷ lệ lạm
phát. Như vậy, lãi suất tín dụng làm thay đổi tỷ lệ giữa tích lũy và tiêu dùng của
doanh nghiệp và cá nhân, đồng nghĩa với việc là họ mở rộng hay thu hẹp đầu tư.
1.4.3. Lãi suất là công cụ đo lường tình trạng sức khoẻ của nền kinh tế
Mỗi một sự biến động, dù là nhỏ nhất cũng ảnh hưởng đến hoạt động của mỗi cá
nhân, tổ chức và của cả nền kinh tế. Ở các nước kinh tế phát triển, giá trái khoán và
lãi suất được yết giá hàng ngày. Người ta có thể căn cứ vào sự biến động của lãi
suất để dự báo các yếu tố khác của nền kinh tế như: tính sinh lời của các cơ hội đầu
tư, mức lạm phát dự tính, mức thiếu hụt ngân sách.Các yếu tố này hợp thành chỉ
tiêu “sức khỏe” của nền kinh tế. Người ta có thể dựa vào lãi suất trong một thời kỳ
để dự báo tình hình kinh tế trong tương lai. Trên cơ sở đó các doanh nghiệp lập kế
hoạch chỉ tiêu trong tương lai của họ, trong khi đó ngân hàng và các nhà đầu tư cần
dự báo lãi suất để quyết định xem chon mua tài sản nào.
1.4.4. Lãi suất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô của NHTW
Lãi suất tín dụng là một cơng cụ thực hiện CSTT, thể hiện trên các mặt:
- Trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát, NHTW có thể tăng lãi suất tiền gửi để rút
tiền từ lưu thông về làm giảm tỷ lệ lạm phát, tạo điều kiện để sức mua của ổn định,
đảm bảo cho sản xuất và lưu thơng hàng hóa phát triển. Ngược lại, khi nền kinh tế
đã suy thối, NHTW thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ để chống suy thoái và lãi
suất giảm xuống.
- Thông qua lãi suất tái chiết khấu để điều chỉnh khối lượng cho vay đối với các
NHTM, nghĩa là điều chỉnh khối lượng cung ứng tiền vào lưu thông. Từ đó mở rộng
hay thu hẹp sản xuất, tăng hay giảm công ăn việc làm.
- Tăng hay giảm lãi suất tín dụng, sẽ ảnh hưởng đến tăng hay giảm số lượng ngoại
tệ trong nước. Vì vậy ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu ngoại tệ, dẫn đến sự thay đổi
tỷ giá do đó ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu hàng hóa trong từng thời kỳ.
1.5. Tự do hố lãi suất
1.5.1. Khái niệm về tự do hoá lãi suất
Tự do hoá lãi suất xuất phát từ những cơ chê điều hành chính sách lãi suất và
sử dụng cơng cụ lãi suất trong chính sách tiền tệ. NHTW có thể tác động vào lãi
suất theo một trong hai cách là dùng qui định hành chính hay dùng tác động
kinh tê .
Ở nhiều nước, NHTW đã khơng cịn quản lý lãi suất bằng các công cụ hành
Khoa Đào Tạo Sau Đại Học
-7-
SVTH : Nhóm 6 – CH TCDN – Đ2
Tiểu luận mơn học
GVHD : PGS. TS. Trương Quang Thơng
chính mà chủ yếu sử dụng công cụ kinh tế là lãi suất cho vay của NHTW đối với
ngân hàng thương mại. Cùng với sự phát triển cao của hệ thống tài chính ngân hàng
quốc tế, quan điểm về điều hành chính sách lãi suất theo cơ chế tự do hố lãi suất
tác động bằng công cụ thị trường tới lãi suất như của:Anh, Mỹ là mục tiêu mà các
quốc gia đều hướng tới. Tự do hoá lãi suất -hạt nhân của tự do hố tài chính -là để
cho lãi suất tự hình thành thị trườngtrên cơ sở: cung cầu về vốn; mức tiết kiệm; thu
nhập và chi tiêu của cá nhân và những nhân tố khác; loại bỏ những áp đặt mang tính
hành chính nên q trình hình thành lãi suất; cho phép các tổ chức tín dụng tự chủ
trong việc ấn định các mức lãi suất. NHTW chỉ gián tiếp tác động lên lãi suất thông
qua các công cụ có tính định hướng, dấu hiệu cho thị trường là các công cụ công cụ
tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, hợp đồng mua lại và dự trữ bắt buộc.
Nó ngược với những quan điểm về điều hành chính sách lãi suất một cách cứng
nhắc thông qua các biện pháp ấn định lãi suất chủ quan, làm mất đi những tính năng
ưu việt của lãi suất. Cơ chế này được gọi là cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp.
Làn sóng tự do hóa lãi suất bắt đầu vào những thập kỷ 80- 90.Vậy nguyên nhân
từ đâu ?
a. Những bất lợi của cơ chê kiểm soát lãi suất trực tiêp.
Trước hết phải thừa nhận rằng, kiểm soát trực tiếp lãi suất có một số ưu điểm và
thuận lợi sau:
- Dễ thực hiện.
- Phù hợp với mức thị trường tài chính sơ khai và mức độ canh tranh kém.
- Chưa có cơng cụ kiểm sốt tiền tệ gián tiếp.
- Hạn chế trong năng lực quản lý.
- Nguồn vốn tín dụng từ NHTW chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của nền
kinh tế. Nhưng đối với nền kinh tế chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và với
quá trình tồn cầu hố đang diễn ra nhanh chóng, thì khơng thể duy trì lâu cách
kiểm sốt lãi suất. Kiểm sốt lãi suất tỏ ra kém hiệu quả do dễ bị các tổ chức tín
dụng lẩn tránh, khả năng cạnh tranh thấp, dẫn đến suy giảm chức năng tài chính của
hệ thống ngân hàng.
Kiểm soát lãi suất dẫn đến suy giảm chức năng trung gian tài chính của hệ thống
ngân hàng:
- Nguồn tiết kiệm và tích luỹ sẽ chảy ra thị trường tài chính phi tổ chức và khơng bị
quản lý chúng biểu hiện dưới dạng :
* Ngân hàng kiểu chính sách tăng lên.
* Cho vay qua thị trường khơng chính thức.
* Nắm giữ ngoại tệ, tích luỹ kim loại quí hàng lâu bền.
- Kiểm soát lãi suất kém hiệu quả trong việc điều hành chính sách tiền tệ:
Kiểm sốt lãi suất sẽ khuyến kích kiểm sốt chi tiết các điều kiện tiền tệ bằng
Khoa Đào Tạo Sau Đại Học
-8-
SVTH : Nhóm 6 – CH TCDN – Đ2
Tiểu luận môn học
GVHD : PGS. TS. Trương Quang Thông
cách áp đặt cơ cấu lãi suất phức tạp như tồn tại nhiều loại trần lãi suất cho vay gây
kém hiệu quả và biến dạng hơn.Việc kiểm soát lãi suất sẽ giảm hiệu quả của việc
kiểm sốt tiền tệ, bởi vì sự gia tăng và mở rộng của các thị trường ngồi thị trường
được kiểm sốt. Các tổ chức kinh tế và ngân hàng thương mại thường tìm cách để
tránh sự kiểm sốt, do đó ngày càng nhiều hoạt động kinh tế diễn ra ngồi tài chính
chính thức, các NHTM cố gắng tìm cách tránh sự kiểm sốt của NHTW bằng cách
tạo ra các sản phẩm mới hoặc các kỹ thuật tài trợ mà nằm ngồi tầm kiểm sốt hoặc
phạm vi quy định trần lãi suất. Trong thực tế, khi các cơng cụ này bị các ngân hàng
lẩn tránh thì các mục tiêu của chính sách tiền tệ sẽ khơng thể thực hiện được.
- Kiểm sốt lãi suất khơng có lợi cho cạnh tranh:
Các tổ chức tín dụng kém hiệu quả có thể được bảo vệ từ sức ép của tự do cạnh
tranh khiến cho q trình giải quyết khó khăn của họ tồn tại kéo dài. Những khó
khăn lớn gắn với sự kiểm soát lãi suất là vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo
đức. Những vấn đề này khi trở nên nghiêm trọng, thì các doanh nghiệp lành mạnh
và các doanh nghiệp tư nhân mới sẽ bị loại khỏi thị trường tín dụng, bởi vì khơng
sẵn sàng trả mức giá cao như các doanh nghiệp đang gặp khó khăn.
b. Tại sao phải tự do hố lãi suất.
Bất kỳ cơ cấu lãi suất dựa trên cơ sở thị trường nào cân bằng được cung cầu tiền
tệ và tín dụng trên thị trường tiền tệ và toàn bộ nền kinh tế thì bản thân nó đã là một
cơ chế kiểm soát tiền tệ hiệu quả nhất và giảm đáng kể sự cần thiết phải dựa vào bất
kỳ công cụ kiểm soát nào khác. Lãi suất do thị trường tự do xác định mang lại
những thuận lợi sau:
- Đảm bảo điều chỉnh tự động và tức thì, do đó giảm rủi ro đối với những sai lầm về
chính sách.
- Truyền tải các tín hiệu chính sách và tác động tới tất cả các bộ phận nền kinh tế.
- Đảm bảo việc phân bổ tiền tệ và tín dụng tối ưu trên cơ sở lãi suất, mức độ rủi ro
tương đối và lợi nhuận thu được.
- Đảm bảo nhất quán giữa chính sách tiền tệ, ngân sách và tỷ giá.
- Làm cho áp lực thị trường tiền tệ thể hiện rõ tức thì.
- Hỗ trợ và bổ sung cho việc quản lý tỷ giá hối đoái.
- Làm giảm sự nhạy cảm chính trị đối với những thay đổi lãi suất.
- Cho phép NHTW rút về sau thị trường mà không mất khả năng kiểm soát.
Trên đây là những thuận lợi của lãi suất tự do hoá, song cơ sở lý luận của q
trình tiến hành tự do hố là nhữg điểm trình bày dưới đây:
- Ở đây, lãi suất tự do hoá, biến động theo cung cầu thị trường về vốn có ý nghĩa
phân bổ nguồn vốn khan hiếm cho những người vay cạnh tranh nhau, đáp ứng nhu
cầu của họ và có hiệu quả nhất; đồng thời có tác dụng thu hút tiền gửi từ các nguồn
lực trong nền kinh tế với chi phí hợp lý nhất được cả ngân hàng và người gửi chấp
Khoa Đào Tạo Sau Đại Học
-9-
SVTH : Nhóm 6 – CH TCDN – Đ2
Tiểu luận môn học
GVHD : PGS. TS. Trương Quang Thông
nhận. Có thể nói rằng lập luận phân bổ nguồn vốn hiệu quả là trung tâm của vấn đề.
Điều này không thể thực hiện trong điều kiện lãi suất bị kiểm sốt hành chính, làm
cho các hoạt đọng đầu tư bị biến dạng. Lãi suất được tự do hoá sẽ linh hoạt hơn so
với khi bị kiểm sốt, có khả năng điều tiết, thích nghi với điều kiện thay đổi, tạo sự
kích thích cho tăng trưởng tài chính, cải tiến và thay đổi cơ cấu mà chính phủ hoặc
là khơng thể quản lý hoặc là chậm thu được kết quả.
- Tự do hoá lãi suất cũng xuất phát từ một thực tế là khơng một chính phủ hay một
NHTW nào có đủ khả năng để phân bổ và kiểm soát sự phân bổ nguồn vốn một
cách có hiệu quả cho hàng ngàn nhu cầu sử dụng vốn khác nhau. Những tranh cãi
về lời giải cho bài toán lãi suất bởi cơ chế kiểm sốt lãi suất đặt ra một vấn đề
khơng thống nhất được giữa ý kiến của các tầng lớp khác nhau. Để giảm thiểu
những tranh luận này, cách tốt nhất là để lãi suất do thị trường quyết định, tức là tự
do hoá, tự do hoá lãi suất cũng buộc NHTW phải thay đổi cách làm việc, tư duy và
đặc biệt là thay đổi các công cụ điều hành chính sách tiền tệ, chủ yếu dựa vào các
cơng cụ gián tiếp để khống chế lãi suất.
- Trên thế giới đang diễn ra q trình tồn cầu hố nhanh chóng mà tồn cầu hố tài
chính là điển hình nhất. Trong lĩnh vực kinh tế, theo nhiều nhà kinh tế, thì kẻ thù
lớn nhất của chúng ta chính là tồn cầu hố. Trong q trình này, nhờ những phát
triển vượt bậc của công nghệ và những nỗ lực của các nước đang phát triển cạnh
tranh thu hút các nguồn vốn quốc tế, các luồng vốn quốc tế đã chảy từ nước này qua
nước khác tự do hơn rất nhiều. Nói chung, lợi ích của tồn cầu hố là rất lớn mà
mỗi quốc gia phải nắm lấy, không thể bỏ qua. Trong lĩnh vực tài chính, tồn cầu cầu
hố đặt ra những cơ hội và thách thức mới, trong đó một thách thức lớn là việc làm
xói mịn và giảm hiệu quả của việc kiểm sốt tiền tệ bằng các cơng cụ trực tiếp như
quy định trần sàn lãi suất; thay vào đó để đảm bảo kiểm sốt tiền tệ các nước dần
chuyển sang thực hiện cơng cụ kiểm sốt lãi suất gián tiếp như nghiệp vụ thị trường
mở, tái chiết khấu, HĐ mua lại..., tức là các công cụ định hướng thị trường để đảm
bảo hội nhập thành công ở lĩnh vực tài chính, trước hết lãi suất phải được tự do hoá.
- Tự do hoá lái suất là một bộ phận cơ bản của tự do hố tài chính. Chủ thuyết Mc
Kinnon- Shaw (1973) đã đi tới kết luận là các nước phát đang phát triển cần tránh
can thiệp và chỉ đạo trên thị trường tài chính, thực hiện tự do hố thị trường tài
chính để chúng tự phản ứng theo các lực lượng thị trường. Chủ thuyết này phản đối
cơ chế kiềm chế tài chính. Theo Mc Kinnon thì cơ chế kiềm chế tài chính được đặc
trưng bởi những bóp méo do chính sách trong hệ thống tài chính quốc gia. Những
chính sách kiềm chế tài chính bao gồm: quy định trần lãi suất dưới mức lãi suất thị
trường, xác định hạn mức tín dụng, quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao và quản lý
vốn để ngăn chặn các đồng tiền ra.
Mc Kinnon và Shaw còn giải thích những động cơ để thực hiện các chính sách
Khoa Đào Tạo Sau Đại Học
-10-
SVTH : Nhóm 6 – CH TCDN – Đ2
Tiểu luận môn học
GVHD : PGS. TS. Trương Quang Thông
này là: khuyến khích đầu tư vào khu vực ưu tiên cũng như làm giảm các chi phí tài
trợ cho thâm hụt ngân sách.
Biểu hiện của một nền kinh tế có cơ chế kiềm chế tài chính là: huy động vốn chủ
yếu và sự thiếu hụt vốn; phân bổ vốn không hiệu quả, sự tồn tại của thị trường tài
chính phi chính thức. Khi kết luận Shaw nhấn mạnh: “khu vực tài chính của một
nền kinh tế có vai trị trong phát triển kinh tế. Nếu nó bị kiềm chế và bóp méo, nó
có thể ngăn cản và phá hoại những động lực cho sự phát triển.
Như vậy những hạn chế của cơ chế tài chính bị kiềm chế tạo ra những cơ sở cho
sự phát triển của cơ chế tài chính mang tính tự do hơn. Tự do hố cho phép hệ
thống ngân hàng tự chủ hơn và điều đó dẫn đến lãi suất tiền gửi và tiền vay cao hơn.
Những thay đổi như vậy trong lĩnh vực tài chính sẽ tác động đến các doanh nghiệp
và các hộ gia đình, khiến họ thay đổi hành vi tiết kiệm và đàu tư của mình theo
hướng có lợi cho tăng trưởng kinh tế. Tăng lãi suất tiền gửi sẽ làm tăng tỷ lệ tiết
kiệm nội địa, thay thế được nguồn vốn đi vay nước ngoài để tài trợ cho đầu tư.
Nguồn vốn tiết kiệm được truyền tải qua hệ thống tải qua hệ thống tài chính ngân
hàng chính thức, mà khơng phải qua thị trường tiền tệ khơng chính thức. Tiết kiệm
trong nước tăng lên và mức lãi suất thực cao làm mở rộng đầu tư và tăng hiệu quả
đầu tư. Kết quả tạo ra một tỷ lệ tăng trưởng rộng hơn.
Quan điểm tự do hoá lãi suất đối với việc kích thích tiết kiệm nội địa ở trên cịn
rất nhiều tranh cãi và ý kiến khác nhau. Trong khi đó vai trị của tự do hố lãi suất
mang lại sự cải thiện việc phân bổ tín dụng và hiệu quả đầu tư lại được thống nhất
cao. Điều này rất cơ bản để đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng bền vững.
1.5.2. Những hạn chế của việc tự do hoá lãi suất đối với các nước đang phát
triển
Tự do hoá lãi suất là mục tiêu của chính sách tiền tệ, song với các quốc gia đang
phát triển việc ngay lập tức từ thái cực này - kiềm chế sang thái cực khác - tự do là
một việc làm không khả thi. Tự do hố lãi suất cần có một trình tự bước đi hợp lý,
nếu không sẽ gây ra những đổ vỡ to lớn cho nền kinh tế.
Nguyên nhân của việc cần có một bước trung gian là:
- Thứ nhất, những thuận lợi do tự do hoá lãi suất mang lại là rất cơ bản, nhưng
cũng tồn tại những trường hợp mà ở đó tự do hố lãi suất khơng được thực hiện tốt
vai trị của mình, như:
(1) Các nước đang phát triển luôn phải đối mặt với hệ thống tài chính cịn kém phát
triển và tình trạng thiếu thơng tin về thị trường tài chính, các sản phẩm tài chính. Do
đó để tự do hố lãi suất làm trịn chức năng của mình thì thị trường tài chính cần
được củng cố và phát triển. Hơn nữa thị trường tín dụng không phải lúc nào cũng đủ
nhanh để điều chỉnh cân bằng cung cầu thị trường khi điều kiện thay đổi và tình
trạng mất cân bằng vẫn là phổ biến của các nền kinh tế đang phát triển.
Khoa Đào Tạo Sau Đại Học
-11-
SVTH : Nhóm 6 – CH TCDN – Đ2
Tiểu luận môn học
GVHD : PGS. TS. Trương Quang Thông
(2) Tự do hoá lãi suất sẽ kém hiệu quả nếu áp đặt vào hệ thống tài chính quá nhiều
các mục tiêu quốc gia.
- Thứ hai, các cơng cụ kiểm sốt tiền tệ gián tiếp như lãi suất tái chiết khấu cịn
chưa có để thay thế cho vai trị cuả lãi suất trong việc điều hành chính sách tiền tệ.
Do đó, cơng cụ kiểm sốt lãi suất vẫn được coi là một công cụ duy nhất và khả thi
để thực hiện chính sách tiền tệ.
- Thứ ba, các nước đang phát triển có nền tảng kinh tế vĩ mơ chưa thực sự vững
chắc đủ để chịu những áp lực của việc tự do hố lãi suất hồn tồn: chúng có thể
làm mất ổn định vĩ mô qua việc tăng lạm phát, nợ nước ngoài và làm suy giảm tăng
trưởng kinh tế.
2. Cơ chế quản lý lãi suất của ngân hàng Nhà Nước Việt Nam trong thời
gian qua
2.1. Thực trạng điều hành lãi suất ở Việt Nam
Diễn biến cơ bản của chính sách lãi suất NHNN từ khi bắt đầu đổi mới đến nay
có thể chia thành bảy giai đoạn sau:
2.1.1 Giai đoạn Từ năm 1986 đến năm 1991
Từ năm 1986 đên năm 1991: Thực hiện tách dần chức năng quản lý Nhà nước ra
khỏi chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng, chuyển hoạt động ngân hàng sang hạch
toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Cơ chế mới về hoạt động ngân hàng đã được
hình thành và hồn thiện dần.
Tháng 5/1990, hai pháp lệnh Ngân hàng ra đời (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam và Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và cơng ty tài chính ) đã
chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ 1 cấp
sang 2 cấp - Trong đó lần đầu tiên đối tượng nhiệm vụ và mục tiêu hoạt động của
mỗi cấp được luật pháp phân biệt rạch ròi.
Trong giai đoạn này, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực hiện cơ chế can thiệp ở
mức độ cao và trực tiếp vào lãi suất thông qua ấn định các mức lãi suất tiền gửi và
lãi suất cho vay. Cơ chế lãi suất âm và mang nặng tính chất bao cấp được duy trì
suốt thời kỳ này với lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước luôn nhỏ hơn
lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Lãi suất danh nghĩa luôn
nhỏ hơn tỷ lệ lạm phát. Lãi suất cho vay ngắn hạn luôn lớn hơn lãi suất cho vay dài
hạn. Lãi suất tiền gửi tiết kiệm luôn lớn hơn lãi suất tiền gửi của các tổ chức kinh tế.
Tình trạng này làm cho lãi suất khơng thực hiện được chức năng vốn có của nó. Lãi
suất khơng cịn là địn bẩy kích thích nhu cầu gửi tiền của cơng chúng, phát huy tính
hiệu quả trong quá trình sử dụng vốn và đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng.
2.1.2 Giai đoạn 1992 đến 1995
Thực hiện chủ trương đường lối chính sách của Đảng trong thời kỳ cơng nghiệp
hố, hiện đại hố hệ thống ngân hàng Việt Nam không ngừng đổi mới và lớn mạnh,
Khoa Đào Tạo Sau Đại Học
-12-
SVTH : Nhóm 6 – CH TCDN – Đ2
Tiểu luận môn học
GVHD : PGS. TS. Trương Quang Thông
đảm bảo thực hiện được trọng trách của mình trong sự nghiệp xây dựng và phát
triển kinh tế đất nước. Những dấu ấn dưới đây liên quan trực tiếp và thúc đẩy quá
trình đổi mới mạnh mẽ hoạt động Ngân hàng.
Năm 1993: Bình thường hố các mối quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ
quốc tế (IMF, WB, ADB)
Năm 1995: Quốc hội thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh thu đối với hoạt động
ngân hàng, thành lập ngân hàng phục vụ người nghèo.
Qua đó, NHNN đã có nhiều bước điều chỉnh trong điều hành chính sách lãi suất.
Chuyển từ cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương để đảm bảo cho
người dân gửi tiền và ngân hàng là người cho vay đều được lợi. Xoá bỏ về cơ bản
sự chênh lệch lãi suất cho vay giữa các thành phần kinh tế, thay vì ấn định lãi suất
cụ thể bằng quản lý lãi suất theo một khung, bao gồm lãi suất tối thiểu về tiền gửi
và lãi suất tối đa về tiền vay. Qua đó, NHNN cho phép ngân hàng thương mại
(NHTM) được thoả thuận lãi suất với khách hàng (áp dụng trong trường hợp huy
động vốn bằng phát hành kỳ phiếu, lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết
kiệm cùng kỳ hạn 0,2%/tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/ tháng).
Lãi suất đã bắt đầu được sử dụng như một công cụ của CSTT cùng với lãi suất tái
cấp vốn được hình thành vào đầu năm 1991 khi hai Pháp lệnh ngân hàng có hiệu
lực. Lãi suất tái cấp vốn được tính bằng % so với lãi suất cho vay của NHTM.
Nhận xét về cơ chê quản lý lãi suất của NHNN giai đoạn 1992 đên 1995.
Tuy hiệu quả của cơng cụ này cịn nhiều hạn chế. Những thay đổi trên thể hiện
chính sách lãi suất đã được cải cách theo hướng linh hoạt hơn và phù hợp hơn với
cơ chế thị trường. Sự thay đổi từ việc ấn định các mức lãi suất cụ thể sang quy định
trần và sàn lãi suất, cho phép các NHTM chủ động, tự quyết định mức lãi cụ thể của
đơn vị mình là bước chuyển biến quan trọng để tiến tới quá trình tự do hoá lãi suất,
làm cho lãi suất linh hoạt hơn, hạn chế đến mức thấp nhất sự can thiệp trực tiếp của
NHNN vào hoạt động của NHTM. Mặc dù vậy, cơ chế này vẫn khống chế trực tiếp
lãi suất trên thị trường, làm giảm tác dụng kích thích và điều tiết hoạt động kinh
doanh của các ngân hàng.
2.1.3 Giai đoạn từ năm 1996 đến 1999
Năm 1997: Quốc hội khoá X thông qua Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam và
Luật các tổ chức tín dụng (ngày 2/12/1997) và có hiệu lực thi hành từ 1/10/1998.
NHNN tiếp tục ấn định mức lãi suất tái cấp vốn và có những đổi mới căn bản về
điều hành lãi suất. Thay vì qui định khung lãi suất tối thiểu về tiền gửi, lãi suất tối
đa về tiền vay. NHNN chỉ qui định các mức lãi suất “trần” theo thời hạn cho vay và
khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình quân là
0,35%/tháng (4,2%/năm) để khắc phục tình trạng hầu hết các ngân hàng thương mại
đều có mức lợi nhuận cao trong khi các doanh nghiệp lại gặp khó khăn về tài chính
Khoa Đào Tạo Sau Đại Học
-13-
SVTH : Nhóm 6 – CH TCDN – Đ2
Tiểu luận môn học
GVHD : PGS. TS. Trương Quang Thông
(khi thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận ở giai đoạn trước).
Trong năm 1997, NHNN đã thay đổi hình thức qui định lãi suất tái cấp vốn,
chuyển sang qui định mức lãi suất cụ thể.
Đên cuối tháng 1/1998, NHNN xoá bỏ qui định chênh lệch lãi suất, chỉ còn qui
định trần lãi suất cho vay. Đặc biệt trong các năm 1998, 1999 cùng với nới lỏng sự
kiểm soát lãi suất, NHNN liên tục điều chỉnh trần lãi suất cho vay theo hướng giảm
cơ cấu trần và mức khống chế lãi suất. Mức lãi suất tái cấp vốn cũng được điều
chỉnh giảm xuống trong thời gian này (từ 1,1% năm 1997 xuống 0,7%/tháng từ 4/9/
99) để phù hợp với chỉ số lạm phát, quan hệ cung- cầu vốn trên thị trường và thực
hiện giải pháp kích cầu về đầu tư của Chính phủ. Qua đó bổ sung thêm cơng cụ điều
hành lãi suất.
Tháng 11/1999, NHNN đưa vào sử dụng nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu
giấy tờ có giá cho các NHTM, lãi suất tái chiết khấu được qui định ở mức thấp hơn
0,05%/tháng so lãi suất tái cấp vốn.
Đến tháng 7/2000, NHNN đưa vào sử dụng nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất thị
trường mở được hình thành qua các phiên giao dịch. (Việc điều chỉnh chính sách lãi
suất như trên nhằm tiến tới việc duy trì một trần lãi suất cho vay, tạo điều kiện để áp
dụng mức lãi suất cơ bản và từng bước tự do hoá lãi suất, mặt khác nhằm mục đích
kích cầu thúc đẩy đầu tư và tiêu dùng.
Nhận xét về cơ chê quản lý lãi suất của NHNN giai đoạn 1996 - 1999
Giai đoạn này tuy NHNN có những thay đổi tích cực, nhưng ảnh hưởng của lãi
suất đối với tổng cầu của nền kinh tế Việt Nam vẫn rất hạn chế.
Có hai lý do:
Thứ nhất, việc giảm phát trong thời gian từ 1996 xuất phát từ sự suy giảm các
yếu tố sản xuất liên quan đến tổng cung nhiều hơn tổng cầu, vì thế các chính sách vĩ
mơ tác động vào tổng cầu sẽ chỉ đem lại hiệu quả hạn chế.
Thứ hai, sự điều chỉnh lãi suất thường là chậm so với thị trường, nên mất đi lợi
thế bất ngờ của sự thay đổi lãi suất. Hơn nữa việc sử dụng các công cụ gián tiếp
khác chưa thực sự có hiệu quả. Việc điều hành trần lãi suất vẫn là một biện pháp
can thiệp hành chính của nhà nước do vậy đã hạn chế tính chủ động, linh hoạt trong
kinh doanh của các NHTM. Điều đó làm hạn chế việc hình thành và phát triển của
các cơng cụ tài chính, dẫn đến nguy cơ làm suy yếu năng lực tài chính của NHTM.
2.1.4 Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ (8/2000 – 5/2002)
Giai đoạn này Nhà nước tiếp tục theo đuổi mục tiêu tăng trưởng, thực hiện chính
sách tiền tệ nới lỏng.
Nội dung của cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ là NHNN điều hành
cơ chế lãi suất theo Luật Ngân hàng để thay thế cho cơ chế lãi suất trần. Lãi suất cơ
bản và biên độ được công bố định kỳ hàng tháng, trường hợp cần thiết NHNN sẽ
Khoa Đào Tạo Sau Đại Học
-14-
SVTH : Nhóm 6 – CH TCDN – Đ2
Tiểu luận môn học
GVHD : PGS. TS. Trương Quang Thông
công bố điều chỉnh kịp thời. Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, về cơ bản các
NHTM, các TCTD được ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất thị trường quốc
tế và cung cầu vốn trong nước của từng loại ngoại tệ. Cơ chế lãi suất này cho thấy
NHNN Việt Nam đã quyết tâm đổi mới chính sách lãi suất theo hướng tự do hố và
từng bước gắn lãi suất trong nước vào thị trường khu vực và thế giới.
Cụ thể, từ tháng 8/2000, lãi suất cho vay nội tệ của ngân hàng được điều chỉnh
theo lãi suất cơ bản của NHNN. Tuy nhiên, các ngân hàng khơng được tính lãi suất
cho vay vượt q lãi suất cơ bản +0,3%/tháng đối với vốn ngắn hạn và +0,5%/tháng
đối với vốn trung, dài hạn.
Giá trị
Văn bản quyết định
Ngày áp dụng
7,20%/năm
1247/2001/QĐ-NHNN 28/09/2001
01/10/2001
7,80%/năm
557/2001/QĐ-NHNN 26/04/2001
01/05/2001
8,40%/năm
237/2001/QĐ-NHNN 28/03/2001
01/04/2001
8,70%/năm
154/2001/QĐ-NHNN 27/02/2001
01/03/2001
9,00%/năm
242/2000/QĐ-NHNN 02/08/2000
05/08/2000
Bảng 2.1: Lãi suất cơ bản 08/2000 – 10/2001
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Cơ chế giới hạn biên độ lãi suất so với lãi suất cơ bản về bản chất khơng khác gì
so với trần lãi suất áp dụng trước đây. Tuy nhiên, trên thực tế mức trần được định ở
mức cao hơn trần lãi suất theo cơ chế cũ. Đồ thị bên dưới cho thấy lãi suất cho vay
của ngân hàng luôn thấp hơn giới hạn biên độ cho phép.
Hình 2.1: Trần lãi suất, lãi suất cơ bản, tự do hóa lãi suất 1998-2002
Nguồn: Vũ Thành Tự Anh (2008)
Khoa Đào Tạo Sau Đại Học
-15-
SVTH : Nhóm 6 – CH TCDN – Đ2
Tiểu luận mơn học
GVHD : PGS. TS. Trương Quang Thơng
Nhìn chung, có nhiều ý kiến nhấn mạnh tính tích cực của cơ chế lãi suất cơ bản.
Trong phạm vi biên độ cho phép, các ngân hàng giờ đây có thể định mức lãi suất
khác nhau tùy theo mức độ rủi ro, chứ khơng cịn áp dụng một mức chung cho tất cả
các khách hàng như trước đây. Như vậy, cạnh tranh trong hệ thống các TCTD gia
tăng và hiệu quả phân bổ vốn cũng được cải thiện. Hơn thế nữa, lãi suất cho vay
thực tế của ngân hàng mặc dù khơng đụng giới hạn biên độ nhưng có xu hướng thay
đổi cùng với lãi suất cơ bản. Thực tế, NHNN trong nhiều trường hợp đã thay đổi lãi
suất cơ bản theo tình hình thay đổi lãi suất trên thị trường. Đây là tín hiệu để có thế
tiến tới tự do hóa hồn tồn lãi suất.
2.1.5 Cơ chế lãi suất thoả thuận (6/2002-5/2008):
Từ ngày 1/6/2002 NHNN áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín
dụng trong nước theo Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN về cơ chế lãi suất thoả
thuận, lãi suất cơ bản do NHNN cơng bố chỉ có tính chất tham khảo. Đây là một sự
cởi trói cho các TCTD trong hoạt động kinh doanh, tạo điều kiện cho các TCTD
chủ động trong hoạt động huy động vốn và cho vay đối với khách hàng. Cơ chế mới
đã tạo ra sự sôi động trong hoạt động kinh doanh và cạnh tranh của các TCTD.
Theo quan điểm của một số chuyên gia, mặc dù NHNN công bố lãi suất cơ bản
nhưng nó ít tác động đến lãi suất thị trường, bởi vì khi có nhu cầu mở rộng tín dụng,
đảm bảo khả năng thanh khoản hoặc cạnh tranh trên thị trường tiền tệ, các NHTM
được tự do ấn định lãi suất huy động hoặc cho vay mà khơng có chế tài nào để xử
lý, để hạn chế tăng lãi suất. Do nhu cầu vay vốn luôn rất lớn, khách hàng chấp nhận
vay vốn với lãi suất cao, các TCTD đua nhau tăng lãi suất huy động vốn để cho vay,
các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng tham gia cạnh tranh tích cực trên thị
trường vốn, lãi suất trái phiếu kho bạc được đẩy lên cao, lãi suất trái phiếu địa
phương tăng vọt… điều đó làm cho thị trường tiền tệ nóng lên, NHNN khó kiểm
sốt được lãi suất thị trường.
Giá trị
Văn bản quyết định
Ngày áp dụng
14.00%/năm
1317/QĐ-NHNN 10/6/2008
11/06/2008
12.00%/năm
1099/QĐ-NHNN 16/5/2008
19/05/2008
8.75%/năm
305/QĐ-NHNN 30/1/2008
01/02/2008
8,25%/năm
1746/QĐ-NHNN 01/12/2005
01/12/2005
Bảng 2.2: Lãi suất cơ bản 12/2005 – 06/2008
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Nhà nước vẫn tiếp tục theo đuổi mục tiêu tăng trưởng, thực hiện chính sách tiền
Khoa Đào Tạo Sau Đại Học
-16-
SVTH : Nhóm 6 – CH TCDN – Đ2
Tiểu luận môn học
GVHD : PGS. TS. Trương Quang Thông
tệ nới lỏng trong giai đoạn 2002-2007. Bên cạnh các công cụ khác của chính sách
tiền tệ nới lỏng, Ngân hàng Nhà nước duy trì chính sách lãi suất ổn định. Mức lãi
suất cơ bản 8,25%/năm do NHNN cơng bố có hiệu lực thi hành từ 01/12/2005 đến
ngày 30/01/2008 kéo dài 26 tháng mới điều chỉnh. Trên thị trường, cuộc đua lãi suất
liên tục tăng cao; lãi suất tín dụng của các NHTM tăng cao đã làm tăng trưởng tín
dụng từ năm 2002 đến năm 2007 tăng bình quân 25%; trong đó năm 2004 tăng
41,65%, năm 2005 tăng 31,04%, năm 2006 tăng 25,44%, năm 2007 tăng 53,89%
tăng kỷ lục suốt 10 năm qua, do nới lỏng chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, đầu
tư cơng kém hiệu quả đã làm cho tổng phương tiện thanh toán năm 2004 tăng
30,39%, năm 2005 tăng 23,43%, năm 2006 tăng 33,59%, năm 2007 tăng 46,12% là
nguyên nhân đẩy lạm phát tăng cao, năm 2007 là 12,63%, năm 2008 tăng lên
19,89% so với năm 2007.
Một thực tế đáng quan tâm nữa là lãi suất huy động vốn của một số NHTM
tương đương hoặc cao hơn lãi suất cho vay của một số NHTM khác. Bởi vậy nếu
các NHTM cứ tăng lãi suất trung và dài hạn lên, thì vốn từ ngân hàng có lãi suất
thấp hơn sẽ chạy sang ngân hàng có lãi suất cao hơn và nếu phát hành trái phiếu
Chính phủ và trái phiếu Đơ thị với lãi suất cao, thì chủ yếu hút vốn từ các NHTM
đầu tư vào đó, ảnh hưởng đến việc cho vay vốn trung và dài hạn của ngân hàng cho
các khách hàng và các dự án.
2.1.6 Cơ chế điều hành lãi suất theo điều 476 Bộ luật Dân sự 2005 từ tháng
6/2008 đến cuối năm 2009
Sau nhiều năm liên tục đạt mức tăng trưởng kinh tế cao từ 7%-8%, năm 2007 đạt
8,48%, nhưng chỉ số giá tiêu dùng đã tăng lên 2 con số 12,63% do nới lỏng chính
sách tiền tệ, chính sách tài khóa và đầu tư công kém hiệu quả. Bội chi NSNN từ
năm 2001-2007 bình quân là 4,95%/GDP. Hai quý đầu năm 2008, cùng với những
bất ổn trên thị trường tài chính thế giới, tình hình kinh tế trong nước cũng diễn biến
hết sức phức tạp. Giá cả tăng cao, cộng với dự tồn tích khá lâu của lượng tiền thừa
đã làm cho nước ta phải đối mặt với nhiều khó khăn nội tại như lạm phát tăng
mạnh, thâm hụt cán cân thương mại cũng đạt mức kỷ lục (hơn 14% GDP), thị
trường chứng khoán liên tục sụt giảm. Trước bối cảnh trên, để giữ vững ổn định
kinh tế vĩ mô, tạo nền tảng tăng trưởng bền vững, chính phủ đã điều chỉnh mục tiêu
tăng trưởng cao sang mục tiêu kiềm chế lạm phát là ưu tiên hàng đầu và tăng trưởng
duy trì ở mức độ hợp lý.
Trước tình trạng lãi suất tín dụng tăng cao và thực hiện chủ trương của Chính
phủ thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt, ngày 16/5/2008 NHNN ban hành Quyết
định số 16/2008/QĐ-NHNN, Điều 1, Khoản 1 quy định “Các tổ chức tín dụng ấn
định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động, lãi suất cho vay) bằng đồng Việt
Nam đối với khách hàng không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân
Khoa Đào Tạo Sau Đại Học
-17-
SVTH : Nhóm 6 – CH TCDN – Đ2
Tiểu luận môn học
GVHD : PGS. TS. Trương Quang Thông
hàng Nhà nước công bố để áp dụng trong từng thời kỳ”. Cách xác định lãi suất
cho vay của các NHTM không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố
theo điều 476 Bộ Luật dân sự thay cho Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN về cơ
chế lãi suất thỏa thuận; đồng thời quyết định lãi suất cơ bản từ 12% lên 14%/năm áp
dụng từ ngày 20/5/2008, như vậy lãi suất trần bị khống chế tối đa là 21%/năm,
nhưng các NHTM nhất là các NHTM cổ phần nhỏ đều tăng lãi suất huy động lên
đến 19,5% và lãi suất cho vay thực cũng tăng lên 23-24%/năm, khiến NHNN phải
vào cuộc bằng biện pháp hành chính và tăng cường thanh tra, kiểm tra; trong khi lãi
suất thị trường liên ngân hàng có lúc lên đến 40%/năm khiến nhiều NHTM có nguy
cơ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh khoản.
Trong điều kiện tiền q nhiều trong lưu thơng, thì việc sử dụng các cơng cụ
chính sách tiền tệ để giảm lượng tiền thừa là hoàn toàn đúng xét cả mặt lý thuyết lẫn
thực tiễn. Sự can thiệp quyết liệt của NHNN cho thấy được chính kiến cũng như sự
quyết tâm của tồn hệ thống ngân hàng trong việc kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên,
phải thừa nhận rằng các NHTM đã trải qua một thời kỳ thực sự khó khăn về thanh
khoản và ln nằm trong tình trạng “nguy cơ”. Để ổn định thị trường tiền tệ, NHNN
đã phải mở rộng cho vay thị trường mở, cho vay tái chiết khấu, tái cấp vốn và đặc
biệt là nới rộng biện pháp đảm bảo tiền vay bằng các hồ sơ tín dụng đối với các
NHTM khơng có các loại giấy tờ có giá nhờ quyết định trên cùng với sử dụng các
cơng cụ chính sách tiền tệ khác như thị trường mở và cho vay tái cấp vốn của
NHNN đã giúp các ngân hàng đã đảm bảo khả năng thanh khoản.
Từ tháng 6/2008 trở đi lãi suất huy động và cho vay của các NHTM đã trở nên
ổn định; các NHTM đặc biệt là NHTM cổ phần nhỏ vẫn đảm bảo khả năng thanh
khoản, khi lạm phát được khống chế (năm 2008 chỉ số lạm phát được công bố ở
mức 1,13% trong tháng 7, 1,56% trong tháng 8, 0,18% trong tháng 9, -0,11% trong
tháng 10, -0,76% trong tháng 11) và cần kích thích tăng trưởng, đầu năm 2009
NHNN lại ban hành Thông tư 01 về việc cho phép NHTM áp dụng lãi suất thỏa
thuận một số lĩnh vực cho vay tiêu dùng, mở thẻ tín dụng từ đó lãi suất trên thị
trường ổn định và mở rộng tín dụng cho các doanh nghiệp, đóng góp đáng kể cho
tăng trưởng kinh tế GDP năm 2009 đạt 5,32% là một trong các nước có mức tăng
trưởng dương trong bối cảnh kinh tế tồn cầu chưa thốt khỏi suy thoái.
Giá trị
Văn bản quyết định
Ngày áp dụng
8.5%/năm
3161/QĐ-NHNN 19/12/2008
22/12/2008
10.0%/năm
2948/QĐ-NHNN 03/12/2008
05/12/2008
11.0%/năm
2809/QĐ-NHNN 20/11/2008
21/11/2008
Khoa Đào Tạo Sau Đại Học
-18-
SVTH : Nhóm 6 – CH TCDN – Đ2
Tiểu luận môn học
GVHD : PGS. TS. Trương Quang Thông
12.0%/năm
2559/QĐ-NHNN 3/11/2008
05/11/2008
13.0%/năm
2316/QĐ-NHNN 20/10/2008
21/10/2008
14.0%/năm
1317/QĐ-NHNN 10/6/2008
11/06/2008
Bảng 2.3: Lãi suất cơ bản 06/2008 – 12/2008
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
2.1.7 Cơ chế điều hành lãi suất từ cuối năm 2009 đến nay:
Đề phòng nguy cơ tái lạm phát cuối năm 2009 và đầu năm 2010, ngày
25/11/2009 NHNN đã ban hành quyết định số 2665/QĐNH về tăng LSCB từ 7%
lên 8%, lãi suất cho vay tăng từ 10.5% lên 12% và quyết định số 2664/QĐNH về
điều chỉnh lãi suất cho vay tái cấp vốn, lãi suất cho vay tái chiết khấu, lãi suất cho
vay qua đêm, lãi suất thanh toán bù trừ giữa NHNN và các TCTD; NHNN tổ chức
họp với các NHTM nhà nước và Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đưa ra mức lãi suất
huy động tiền gởi không quá 10.5%/năm, tưởng chừng thị trường tiền tệ được ổn
định, nhưng từ cuối năm 2009 đến nay, thị trường tiền tệ trong nước đang diễn ra
biến động khó lường, lãi suất huy động và cho vay thực đều vượt quy định của
NHNN. Mức lãi suất huy động cao nhất không được vượt quá 10.5%/năm, nhưng
các ngân hàng đều đưa lãi suất huy động chính thức của mình lên 10.49% và kèm
theo đó là các chương trình khuyến mãi như tặng thêm tiền, quà, cào trúng thưởng
ngay… Nếu cộng thêm giá trị khuyến mãi thì lãi suất huy động của một số ngân
hàng sẽ lên đến mức 11.4% - 12.9%/năm, cao hơn cả lã suất trần cho vay, nhưng
huy động vốn vẫn khó khăn.
Giá trị
Văn bản quyết định
Ngày áp dụng
9%
2868/QĐ-NHNN 29/11/2010
01/12/2010
9%
2619/QĐNHNN 05/11/2010
05/11/2010
8%/năm
2665/QĐ-NHNN 25/11/2009
01/12/2009
Bảng 2.4: Lãi suất cơ bản 12/2009 – 12/2010
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
NHNN, ngày 26-2-2010, đã ra quyết định cho phép các ngân hàng thỏa thuận lãi
suất cho vay trung và dài hạn (có kỳ hạn trên 365 ngày) với doanh nghiệp. Ngày
14/04/2010, NHNN ban hành Thông tư số 12/2010/TT-NHNN hướng dẫn tổ chức
tín dụng cho vay bằng VND đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận. Với thông
Khoa Đào Tạo Sau Đại Học
-19-
SVTH : Nhóm 6 – CH TCDN – Đ2
Tiểu luận môn học
GVHD : PGS. TS. Trương Quang Thông
tư này, chỉ đạo của Chính phủ về việc mở cơ chế thỏa thuận lãi suất đối với các
khoản vay ngắn hạn chính thức được triển khai, sau khi cơ chế trên đã được mở đối
với các khoản vay trung và dài hạn trước đó. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là thỏa thuận
về lãi suất cho vay cao hơn 150% lãi suất cơ bản của NHNN là trái pháp luật hay
khơng vì Điều 476 của Bộ Luật Dân Sự 2005 quy định: lãi suất vay trong các hợp
đồng vay tài sản, bao gồm cả các hợp đồng tín dụng do các bên thỏa thuận không
được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại cho vay tương
ứng. Chưa có quan chức NHNN nào trả lời chính thức vấn đề trên.
Ngày 05/11/2010, lãi suất cơ bản được điều chỉnh lên mức 9%/năm nhằm đề
phòng nguy cơ lạm phát cuối năm.
2.2. Các vấn đề đặt ra trong thời gian tới
Mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất của phần lớn NHTW của các nước trên thế
giới cũng như NHNN Việt Nam là ổn định giá trị đồng tiền quốc gia - thơng qua
việc kiểm sốt lạm phát. Trong đó, lãi suất là một trong những cơng cụ điều hành
chính sách tiền tệ của NHTW để đạt được mục tiêu đó.
Trong điều kiện hiện nay, để đạt được mục tiêu định hướng nêu trên, việc hoạch
định chính lãi suất của NHNN cần phải xem xét đến các yếu tố thực tế sau:
- Nền kinh tế nước ta hiện đang phải đối mặt với áp lực lạm phát và với sự phục
hồi còn thiếu vững chắc: tăng trưởng kinh tế quí I-2010 đạt 5,83%, cao hơn nhiều
so với mức tăng trưởng q I-2009, vốn đầu tư tồn xã hội tăng 26,23% cao hơn rất
nhiều so với mức tăng 9% của quí I-2009, song nhập siêu vẫn ở mức đáng lo ngại
(xuất khẩu 14 tỉ USD, nhập khẩu 17,5 tỉ USD, nhập siêu 3,5 tỉ USD), lạm phát tuy
vẫn trong tầm kiểm sốt nhưng đang có xu hướng tăng trở lại.
- Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có sự phát triển về nhiều mặt, đặc biệt trong việc
ứng dụng các công nghệ ngân hàng mới. Tuy nhiên, năng lực tài chính, năng lực
quản trị, khả năng cạnh tranh của các thành viên trên thị trường tài chính khơng
đồng đều, tính bền vững trong phát triển chưa cao: chỉ có một số ít các NHTM có
vốn điều lệ và tài sản có lớn trong hệ thống các tổ chức tín dụng với 73 ngân hàng
và 8 tổ chức tín dụng phi ngân hàng.
Riêng khối NHTM nhà nước (2 NHTM nhà nước, 3 NHTM mà trong đó Nhà
nước chiếm cổ phần chi phối, 1 ngân hàng chính sách xã hội) vốn điều lệ đã chiếm
27,28% tổng vốn điều lệ của cả khối, thị phần huy động vốn và cung cấp tín dụng
khoảng 60%; mức chênh lệch về thị phần chiếm lĩnh của một ngân hàng lớn nhất
với một ngân hàng lớn kế tiếp là tương đối lớn. Mức độ lớn về vốn điều lệ và tài sản
quyết định khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
Những ngân hàng có vốn nhỏ vẫn có sức mạnh trong cạnh tranh thị trường, song
với một cấu trúc thị trường cịn tồn tại nhiều NHTM có vốn và thị phần thấp thường
nảy sinh những hành vi hạn chế cạnh tranh hay cạnh tranh không lành mạnh. Mặt
Khoa Đào Tạo Sau Đại Học
-20-
SVTH : Nhóm 6 – CH TCDN – Đ2
Tiểu luận môn học
GVHD : PGS. TS. Trương Quang Thông
khác, nhóm ngân hàng lớn, thơng qua thế mạnh của mình trong hệ thống, có thể gây
ảnh hưởng tới chính sách của NHNN nói chung và chính sách lãi suất nói riêng
thơng qua các hành vi chi phối thị trường.
Tình trạng đua nhau tăng lãi suất cho vay và lãi suất huy động trong năm 2008,
và những tháng đầu năm 2010 là biểu hiện rõ nét của tình trạng cạnh tranh thiếu
lành mạnh.
- Trong cấu trúc thị trường hiện nay, thị phần tín dụng áp dụng mức lãi suất chính
sách là khơng nhỏ làm ảnh hưởng đến tính hiệu quả của tự do hóa lãi suất. Dư nợ
tín dụng loại này chiếm khoảng 12% tổng dư nợ. Ngoài các khoản vay áp dụng cơ
chế hỗ trợ lãi suất trong thời gian qua, chúng ta cũng có khơng ít các dự án, các lĩnh
vực sản xuất được áp dụng lãi suất ưu đãi thực hiện thông qua Ngân hàng Phát
triển, Ngân hàng Chính sách xã hội, các dự án đầu tư phát triển được sử dụng các
nguồn vốn ưu đãi ODA khác nữa...
Các chính sách ưu đãi này là cần thiết trong quá trình phát triển nền kinh tế hiện
nay, nhưng ở chừng mực nào đó nó làm giảm hiệu quả của chính sách tự do hóa lãi
suất, vì khi đó lãi suất hình thành trên thị trường chưa phản ánh đúng cung cầu vốn
nên việc phân bổ nguồn vốn qua công cụ lãi suất cũng bị méo mó.
- Các nhà đầu tư nắm bắt thông tin thị trường không đầy đủ, dẫn đến phản ứng theo
“bầy đàn” - là đặc điểm nổi bật trong thị trường tài chính của Việt Nam hiện nay.
Đặc điểm này dễ gây nên những kỳ vọng về lạm phát trước bất cứ một động thái
chính sách kinh tế vĩ mơ nào tạo tín hiệu áp lực lạm phát, nhất là chính sách tiền tệ.
Khoa Đào Tạo Sau Đại Học
-21-
SVTH : Nhóm 6 – CH TCDN – Đ2