Tóm tắt nội dung:
Thay đổi thực sự không phải là thay đổi thế giới mà là thay đổi chính bản thân
mình. Khi chúng ta nghèo khó thì thế giới cũng như vậy,ngược lại, khi chúng ta giàu
có thì thế giới thay đổi theocách chúng ta muốn. Trong thế giới phức tạp này, muốn
tìm ra biện pháp giải quyết thì chỉ có bốn bước, lần lượt là: xác định mục tiêu, tìm ra
biện pháp hiệu quả nhất, phát hiện ra những kỹ thuật mới để áp dụng cho biện pháp
này, đồng thời tận dụng kỹ thuật ấy một cách thông minh nhất. Cần phải thực hiện
bốn bước cho dù nó phức tạp nhất hay đơn giản nhất.
Cuộc sống thường lạnh lùng và tàn khốc. Làm thế nàođể tìm ra sự công bằng cho
mình trong xã hội này?Bạn hãy đọc cuốn sách chứa đầy những quan niệm nhân sinh
của tỷ phú giàu nhất thế giới BillGates. Muốn thành công thì hãy chấp nhận hiện thực.
Chỉ khi nào chấp nhận hiện thực thì bạn mới thay đổi được nó.Cần phải tin rằng chỉ có
mình mới làm cho mình thành công. Khi ấy, công việc, cuộc sống và cả cuộc đời bạn
cũng sẽ thay đổi.
Chương I: Cuộc sống là không công bằng, hãy làm quen với điều đó
Quá khứ có thể đưa đến kết quả của tương lai nhưng quá khứ không phải là tương
lai!
Chúng ta khi được sinh ra có 3 điểm không thể lựa chọn:
Một là, ai là bố mẹ mình; hai là, bạn sinh ra trong một gia đình như thế nào; Ba là,
gia đình mình ở nước nào.
Ba điểm này vô cùng quan trọng, thậm chí quyết định tiền đồ và vận mệnh của
chúng ta, nhưng thật tiếc, chúng ta không có quyền lựa chọn chúng. Bắt đầu từ khi
chúng ta có mặt trên đời, tất cả đều đã trở thành những hiện thực mà dù muốn hay
không, ta chỉ có thể chấp nhận.
Bố mẹ bạn có thể là những nhà tỉ phú, sống trên đỉnh của xã hội, được người đời
ngưỡng mộ, có quyền quyết định cuộc sống của rất nhiều người; nhưng họ cũng có
thể là những người dân nghèo ăn không đủ no, sống vất vưởng, bị người đời ghẻ lạnh,
không biết ngày mai sẽ sống như thế nào.
“Trước 30 tuổi thì nhìn cha kính con, sau 30 tuổi thì nhìn con kính cha”. Câu nói
này có nghĩa là, khi bạn chưa đến tuổi 30, người đời nhìn cha bạn như thế nào thì họ
cũng nhìn bạn như thế, nhưng sau khi bạn 30 tuổi, người đời nhìn bạn thế nào thì họ
cũng nhìn cha bạn như thế.
Đừng oán trách người đời, điều này không liên quan gì đến cách nhìn nhận của họ,
hơn nữa dù bạn than vãn thì cũng không có tác dụng gì.
Bố mẹ có thể là người có nhiều năng lực, có khả năng tạo dựng cho chúng ta một
cuộc sống tốt đẹp, một môi trường học tập và phát triển tốt, mang lại cho chúng ta các
mối quan hệ tiềm năng, hỗ trợ cho chúng ta nguồn vốn lớn giúp ta có vị trí xuất
phát cao, những người cùng trang lứa phấn đấu 10 năm, 20 năm cũng khó có thể đạt
được mức xuất phát điểm của chúng ta.
Nếu có được bố mẹ và một gia đình như vậy, chúng ta càng cần phải trân trọng,
đón lấy ngọn đuốc lớn từ tay bố mẹ với lòng biết ơn sâu sắc, phấn đấu phát triển sự
nghiệp của họ thêm lớn mạnh. Nếu bố mẹ nghèo khó, đói rét, hèn mọn, chúng
ta thường bị kỳ thị, bị tổn thương, bị đối xử lạnh nhạt, muốn phát triển nhưng không
có tiền, không có cơ hội và nguồn lực: tìm việc làm thì không biết đường biết lối,
không có mối quan hệ, đành phải ở tầng thấp nhất của xã hội, vật lộn để mưu sinh.
Chúng ta cảm thấy mình như cây cỏ dại mọc trên miếng đất hoang, tự mọc lên rồi lụi
tàn, không ai ngó ngàng đến. Nếu đúng như vậy, bạn cũng đừng oán thán, bởi vì cuộc
sống vốn không có sự công bằng. Hoàn cảnh gia đình không phải là điều chúng ta
được lựa chọn, vì thế nó không chứng minh được điều gì. Sự thành công hay thất bại
của bố mẹ không đại diện cho giá trị bản thân chúng ta, quá khứ không phải là
hiện tại, càng không thể đại diện cho tương lai. Là thanh niên, chúng ta không nên
than thở về sự rách nát của con tàu mình đã đi trong quá khứ, bởi quá khứ đã qua rồi,
chúng ta cần đứng mạnh khỏe trên bến tàu của hiện tại. Dù xuất thân nghèo hèn hay
giàu sang, xuất phát điểm của chúng ta đều giống nhau. Một thanh niên có xuất thân
thế nào, điều đó không ảnh hưởng đến ngày mai của anh ta, tương lai phụ thuộc vào
việc chúng ta nắm bắt nó như thế nào. Đối với những người được sinh ra trong gia
đình nghèo khó, muốn thành đạt trong tương lai thì việc cần làm ngay lúc này là rộng
lượng với quá khứ của mình. Nếu bây giờ chúng ta vẫn tự nói với bản thân những câu
như: “Nếu bố mình là tỉ phú, nếu mình có được nhiều sự ủng hộ hơn hoặc có nhiều
mối quan hệ mạnh hơn thì tốt”, “Nếu khi vào đại học mình chọn nghề khác thì tốt”…,
những điều này chỉ làm tăng sự đau khổ và hối hận, kết quả là bản thân cảm thấy tiền
đồ mờ mịt, bất lợi.
Chúng ta nên bình thản chấp nhận quá khứ của mình, dừng những suy nghĩ oán
trách lại, làm những việc mình có thể làm, phải làm và muốn làm; nếu không, công
việc dồn lại, bạn sẽ giống như người vác hành lí quá nặng, phải vất vả bước từng
bước. Nếu không rộng lượng với quá khứ của mình, quá khứ không như ý sẽ cản trở
năng lực của chúng ta. Bởi vậy, tốt nhất bạn hãy dùng thời gian và sức lực để làm
những việc có thể thay đổi hiện tại, chứng minh giá trị tồn tại của bản thân. Một huấn
luyện viên nổi tiếng đã từng nói: “Thượng đế để mắt của bạn ở phía trước đầu là vì
muốn bạn nhìn về phía trước, đi lên phía trước, chứ không phải để bạn suốt ngày nhìn
về quá khứ”.
Có người đã miêu tả về quá khứ của mình như thế này: Tôi tin rằng có một ngày,
những giọt nước mắt tôi đã khóc sẽ biến thành những bông hoa, hàng trăm hàng nghìn
vết thương mà tôi đã phải chịu sẽ khiến tôi tỏa sáng….
Bởi thế, dù trước đây chúng ta nghèo khó hay thấp hèn, thất bại hay không được
như ý, chúng ta cũng nên rộng lượng với quá khứ, quên đi sự bất hạnh của bản thân,
trả lại cho thế giới một con người thực, một con người chân chính.
Bà Rice, cố vấn an ninh quốc gia Mỹ, khi 10 tuổi, theo cả gia đình đến Washington
du lịch. Cô bé Rice khi đó rất muốn được vào tham quan Nhà Trắng, nơi cô mong ước
được đến từ lâu, nhưng vì là người da đen nên cô không thể vào Nhà Trắng như
những người khác. Cô bé Rice không vì thế mà oán trách bố mình, cô nhìn về hướng
Nhà Trắng hồi lâu, sau đó quay đầu lại nói với bố: “Sẽ có một ngày, con sống ở trong
đó!”.
Cô bé Rice tuy nhỏ nhưng đã hiểu rằng, đối với cô, đối với cả cộng đồng người da
đen, chẳng có tác dụng gì khi oán trách việc bản thân là da đen, oán trách tại sao
không thể có sự bình đẳng giữa người da đen và da trắng… Điều cô bé có thể làm là
rộng lượng, chấp nhận, sau đó tìm cách để thay đổi. Quả nhiên, 25 năm sau, Rice,
người đã tốt nghiệp Đại học Denver với thành tích xuất sắc, trở thành chuyên gia các
vấn đề liên quan đến Nga, có thể đường hoàng bước vào Nhà Trắng, đảm nhiệm
chức vụ Cố vấn các vấn đề liên quan đến nước Nga cho Tổng thống. Sau này, bà được
thăng chức Quốc vụ khanh, trở thành nhà ngoại giao nổi tiếng. Quy định cấm người
da đen bước vào Nhà Trắng, dưới ảnh hưởng mạnh mẽ của sự phát triển xã hội, đã
trở thành quá khứ.
Một người cha đưa cậu con trai đến tham quan nhà của Van Gogh. Sau khi nhìn
chiếc giường gỗ nhỏ và đôi giày hở mõm, cậu con trai hỏi cha: “Tranh của Van Gogh
đắt tiền thế, ông ấy phải là triệu phú mới phải chứ!”. Người cha cười và nói: “Van
Gogh sinh thời nghèo đến nỗi không lấy được vợ”.
Năm thứ hai, người cha đưa cậu con trai đi Đan Mạch, đến nhà của Andersen, cậu
con trai lại băn khoăn hỏi: “Cha ơi, Andersen chẳng phải sống ở trong cung điện ư?”.
Người cha cười và nói: “Andersen là con trai một người thợ đóng giày, ông ấy
sống trong căn gác cũ nát này”.
Người cha vốn làm nghề thủy thủ, quanh năm bận rộn trên các bến cảng ở Đại Tây
Dương, nhưng vì ông là người da đen nên thu nhập chẳng được là bao. Cậu bé con
trai của ông chính là Eton Black, là phóng viên da đen đầu tiên giành giải thưởng
Pulitzer trong lịch sử nước Mỹ. Hai mươi năm sau, khi nhớ lại thời niên thiếu, Eton
Black nói: “Khi đó nhà tôi rất nghèo, bố mẹ tôi phải bán mồ hôi và sức lao động để
nuôi gia đình. Nhìn thấy những người da đen như bố mẹ, chỉ có thể làm những công
việc vừa bẩn thỉu, vừa vất vả mà lương lại thấp, tôi đã quen với việc nghĩ rằng những
người da đen có địa vị thấp hèn như chúng tôi thì không thể làm được việc gì. Chính
vì bố nói cho tôi biết về Van Gogh và Andersen, họ đã giúp tôi hiểu rằng, Thượng đế
không coi thường những người có địa vị thấp hèn. Những người giành được
thành công không được lựa chọn trước từ hoàn cảnh xuất thân, họ thành công do
những phấn đấu của chính bản thân họ. Thành công không thuộc về quá khứ mà chỉ
thuộc về tương lai”.
Một người nhìn nhận quá khứ của mình như thế nào thì họ sẽ có một tương lai như
thế. Chúng ta có thể thanh thản đối mặt với quá khứ thì sẽ có một tương lai xán lạn.
Nếu chúng ta không nỗ lực thay đổi địa vị thấp hèn, hoàn cảnh nghèo khó thì đừng hy
vọng người khác có thể đồng cảm với mình. Chẳng sự đồng cảm và bi lụy nào có thể
cứu vớt những người tự coi thường mình.
Trở ngại mà con người khó vượt qua nhất chính là quá khứ của bản thân. Chúng ta
không nên để quá khứ bám lấy chúng ta, trói buộc chúng ta, không được để tương lai
cũng giống như quá khứ.
Rộng lượng với quá khứ gian khó, thậm chí đầy oán hận của mình chính là vì bản
thân chúng ta chứ không phải vì ai khác. Vui vẻ bỏ qua, rộng lượng với những người
và sự việc trong quá khứ, điều đó khiến cho chúng ta cảm thấy khỏe khoắn, tinh thần
thoải mái, thanh thản.
Thử nghĩ xem, nếu lúc nào cũng nghĩ đến những nỗi đau mà người khác đã gây ra
cho mình trong quá khứ, chúng ta sẽ tiêu tốn rất nhiều thời gian và sức lực quý báu
của bản thân, khoảng thời gian và sức lực đó nên để thực hiện mục đích và ước mơ
của mình. Chúng ta nên nhìn về phía trước, đồng thời hành động một cách tích cực,
chứ không phải chỉ dậm chân tại chỗ hoặc dừng lại ở quá khứ. Chúng ta hãy bỏ đi
gánh nặng ân oán, giải phóng bản thân khỏi sự khống chế của người khác để xuất phát
một cách thanh thản nhẹ nhàng.
Thoát khỏi những đau khổ trong ký ức, áp dụng những hành động tích cực để thay
đổi những điểm mình không hài lòng, đấy là điểm mấu chốt để một người trưởng
thành và hướng đến thành công. Bạn phải nhớ rằng, quá khứ không thể quyết
định hiện tại và tương lai của chúng ta, trừ phi chúng ta chìm đắm trong nó! Chẳng ai
có quyền lựa chọn tương lai của chúng ta, trừ phi chúng ta cho họ cái quyền đó.
Sau khi chúng ta đạt được thành công từ những việc mình làm, sự thương xót và
đồng cảm mà trước đây chúng ta mong mỏi, đến lúc này không còn quá quan trọng.
Trước khi thảo luận vấn đề này, chúng ta hãy tìm hiểu câu chuyện của một người:
Nếu bên cạnh chúng ta có một người như thế, chúng ta sẽ đánh giá họ như thế nào?
Sinh ra đã không thuộc một chủng tộc được ưu tiên, sinh ra đã bị xã hội cướp đi bao
cơ hội, chẳng có lựa chọn nào khác là lao động cật lực; từ nhỏ đã thích chuyện
tình yêu, chẳng khác nào “một tên lưu manh nhóc con”; ngay đến một cơ thể khỏe
mạnh cũng không có, còn mong anh ta làm được gì? Gì cũng sợ, anh ta chính là kẻ
nhát gan; làm việc gì cũng không kiên trì, nhất định anh ta chẳng thể thành công; ai
nói gì cũng không tin, tự cho mình là thông minh, người như thế sẽ chịu thiệt thòi; trí
óc như người bình thường, anh ta chỉ có thể sống cuộc sống như người bình
thường mà thôi.
Một người như vậy, ưu điểm không bao nhiêu mà nhược điểm thì khá nhiều. Nếu
một người như vậy có thể vượt lên, điều nảy không thể xảy ra, trừ phi là sao Hỏa rơi
xuống Trái đất.
Chúng ta lại tìm hiểu về câu chuyện của một vĩ nhân:
Cuộc đời của ông quả là một quả là một truyền kỳ. Xét từ những thành tựu ông đạt
được trong đời, chúng ta không thể không coi ông là một thiên tài khác người. Một
người bị bệnh bẩm sinh, không tốt nghiệp được đại học, 38 tuổi mới thực sự có được
chút sự nghiệp, dựa vào 6000 đô la để khởi nghiệp, gây dựng công ty thành một công
ty lớn nhất toàn cầu về quảng cáo, có phải là người độc nhất vô nhị hay không? Bây
giờ, tôi có thể nói rằng, cậu bé da đen và vị tỉ phú vừa được nhắc đến ở trên chỉ là một
người, tên ông là David Ogilvy, người sáng lập ra Công ty Quảng cáo Ogilvy &
Mather.
Nếu đối chiếu từng việc của David Ogilvy trước năm 38 tuổi với người sáng lập ra
Ogilvy & Mather sau năm 38 tuổi, chúng ta chẳng tìm thấy một điểm nào mang tính
tất nhiên, cũng không thể giải thích được làm thế nào một người không có tính kiên trì
có thể tạo ra một công ty tập đoàn đa quốc gia lớn mạnh như vậy, càng không thể giải
thích được một người mắc bệnh bẩm sinh lại có thể sống đến 88 tuổi, đồng thời chúng
ta cũng không thể giải thích được một người cái gì cũng sợ lại có thể làm được gián
điệp mấy năm, một người trí óc bình thường tại sao lại có được một năng lực đáng
kinh ngạc đến vậy. Những việc này đã được David Ogilvy chứng minh là sự thực
bằng chính những hành động của mình. Có thể có người sẽ nói thành công của
David Ogilvy là trường hợp cá biệt, không mang tính phổ biến, thành công của ông ấy
không thể được lặp lại. Vậy chúng ta hãy xem quá khứ của ông có cá biệt không? Nếu
chỉ dựa vào phần đời trong quá khứ thì liệu ai dám khẳng định ông sẽ thành đạt? E là
chỉ một chút bóng dáng của một người thành đạt cũng không thể tìm thấy.
Những thành tựu mà ông đạt được trong phần đời sau có liên quan gì đến những
hành động ông đã làm trong quá khứ không? E là không có. Không thể tìm thấy nhân
tố nào quyết định tương lai của ông trong quá khứ.
Vạn vật đều tồn tại theo quy luật riêng của nó, chỉ có cuộc đời của chúng ta là có
vô vàn những biến cố. Một nhà triết học đã nói: “Quy tắc không bao giờ thay đổi của
cuộc sống chính là thay đổi”. Một nhà nhân chủng học nổi tiếng từng nói: “Vận mệnh
của bất cứ ai đều không thể đoán được”.
Cuộc đời của chúng ta chỉ có hơn 20.000 ngày, hàng ngày chúng ta không ngừng
thay đổi do những sự lựa chọn khác nhau. Hôm nay có thể là một người ăn xin, ngày
mai có khi lại là một tỉ phú; ngày hôm nay quyền cao chức trọng, ngày mai có thể là
tù nhân. Cuộc đời của con người là không thể dự đoán, nói cách khác là mọi thứ đều
có thể.
Bởi vậy, nếu trước đây chúng ta làm sai chuyện gì, hiện nay gặp phải những bất
hạnh gì thì cũng đừng quá quan tâm đến những chuyện đó. Hãy coi đó là những yếu tố
giúp chúng ta thay đổi.
Trong một cuộc gặp mặt của các tỉ phú, siêu sao trên thế giới, John Eyton, nhà kinh
doanh ô tô nổi tiếng thế giới gặp Churchill, bạn của ông sau này trở thành Thủ tướng
Anh, hai người hàn huyên đủ chuyện, sau cùng Eyton kể với Churchill chuyện trước
đây mà ông không muốn nhớ đến.
Eyton sinh ra ở một miền quê xa xôi, bố mẹ mất sớm, Eyton ở với chị gái. Chị gái
ông kiếm tiền bằng việc làm thợ giặt và bảo mẫu, hai chị em bữa no bữa đói. Sau khi
chị lấy chồng, vì anh rể không ưa em vợ, Eyton được gửi về nhà cậu, mợ ông rất cay
nghiệt, khi ông còn đi học, quy định mỗi ngày ông chỉ được ăn một bữa, ông còn phải
đi dọn phân ngựa, cắt cỏ. Khi làm thợ học việc, Eyton không thuê được nhà, ông phải
ngủ trong một nhà kho bỏ hoang ở ngoại ô gần một năm…
Churchill không ngờ vị tỉ phú này lại có một quá khứ buồn khổ như vậy, ông thắc
mắc hỏi: “Chúng ta quen nhau đã mấy năm rồi, sao tôi chưa từng nghe thấy ông nói
đến chuyện đó?”
Eyton cười và nói: “Quá khứ có gì đáng nói đâu cơ chứ? Cố gắng thay đổi nó là
được. Ngày hôm qua và ngày hôm nay chẳng liên quan gì đến nhau. Nếu cứ nhất định
khiến chúng phải có mối liên hệ với nhau thì xem hôm nay anh làm được gì, kéo dài
tình trạng bi đát ngày hôm qua hay là làm cho ngày hôm nay khác ngày hôm qua?”
Hôm qua chúng ta là ai không quan trọng, hôm nay chúng ta là ai cũng không quan
trọng, vấn đề then chốt là ngày mai chúng ta là ai. Nếu chúng ta của ngày mai vẫn là
chúng ta của ngày hôm nay thì ngày hôm nay chúng ta đã bị thời đại chôn vùi rồi.
Chúng ta có từng nghi ngờ vào những điều mà chúng ta vẫn tin là quy tắc bất biến
của cuộc sống?
Chúng ta có từng nghi ngờ vào những sự sắp xếp và những lời dạy bảo của bố mẹ
và thầy giáo không?
Chúng ta có từng nghi ngờ những lời nói về sự thành đạt của thần tượng của chúng
ta không?
Có thể nói một cách khẳng định rằng, rất nhiều người chưa từng bao giờ nghi ngờ.
Đặc biệt là với những kinh nghiệm, chuẩn mực đã được những người thành đạt
nghiệm chứng và cho rằng có hiệu quả, chúng ta lại càng tin tưởng. Những lời khuyên
và cảnh báo của họ trở thành sợi dây cao áp mà chúng ta không dám chạm tới. Thế là
có không ít thanh niên chỉ đi trong cái ranh giới đã được người thân, thầy giáo, bạn
bè, thần tượng vẽ sẵn mà không suy nghĩ gì, để tránh bị thất bại, tránh bị tổn
thương. Bởi vậy, khi còn rất nhỏ, chúng ta đã quen với việc tiếp nhận rất nhiều câu từ
như: kẻ ngốc nói mơ, làm người phải biết thân biết phận, làm người phải thật thà, phải
thực tế, đi từng bước, cần cù sẽ được đền đáp, con người có số, suy nghĩ lung tung
chẳng ích gì, làm những việc mình nên làm, làm những việc mình có thể làm, thành
công có điều kiện của nó…
Tóm lại, nếu họ nói là phải đi bộ thì bạn đi bộ, phải qua cầu thì qua cầu, phải đi
ngựa thì đi ngựa, đũa mốc không được chòi mâm son.
Những người tuân thủ quy định, hiểu biết, nghe lời, phục tùng, vẫn luôn được cho
là những đứa con ngoan, những học trò ngoan, nhân viên tốt. Chúng ta đã quen chấp
nhận những tiêu chuẩn ấy một cách vô thức, đồng thời cũng đem những tiêu chuẩn đó
ra làm thước đo xem chúng ta nên làm việc gì, không nên làm việc gì. Hãy suy nghĩ
theo hướng ngược lại, chúng ta làm như vậy có phải là mong muốn thực sự của bản
thân chúng ta hay không? Làm như vậy có thực sự chịu trách nhiệm với cuộc đời của
chúng ta hay không? Chưa chắc!
Khi còn nhỏ, Bill Gates bị coi là không tôn trọng phép tắc, là một đứa trẻ cá biệt.
May mắn thay, Bill Gates có một bà mẹ vĩ đại. Vào “Ngày của mẹ” năm 1975, Bill
Gates khi đó đang học tại Đại học Harvard gửi tặng mẹ một tấm bưu thiếp:
“Con yêu mẹ! Từ trước đến nay chưa bao giờ mẹ bảo con kém hơn những đứa trẻ
khác, mẹ luôn tìm kiếm những điểm đáng để khích lệ trong những việc con làm. Con
luôn nhớ về tất cả những ngày tháng con được ở cùng mẹ”.
Nghĩ lại, chúng ta hầu như đều lớn lên trong sự phủ định của một số người. Dù
chúng ta chăm chỉ như thế nào thì trong mắt bố mẹ vẫn chưa phải là tốt nhất; dù
chúng ta nỗ lực như thế nào thì thầy giáo vẫn tìm ra những điểm chưa đạt yêu cầu.
Trong mắt của người đi trước, suy nghĩ của giới trẻ đều non nớt, chưa trưởng thành,
nhất định sẽ thất bại.
Các chuyên gia tâm lí Mỹ từng làm một cuộc điều tra: Ai là người làm bạn tổn
thương nhất? Kết quả điều tra thật bất ngờ, đứng ở vị trí cao nhất là “bố mẹ”, đứng vị
trí thứ hai là “anh chị em”, thứ ba là “con cái”. Bố mẹ, anh chị em, con cái là những
người thân cận nhất của chúng ta, tại sao lại là người làm ta “tổn thương nhất?”. Thực
ra nếu suy nghĩ thật kỹ thì quả đúng như thế. Họ là những người luôn cho rằng
họ xứng đáng có quyền giúp chúng ta lựa chọn, quyết định, họ thích phán đoán người
khác nên làm thế này, không nên làm thế kia dưới góc độ, kinh nghiệm, nhận thức, lập
trường của bản thân.
Những người này, thường quen với việc làm phức tạp hóa những chuyện đơn giản,
làm cho những việc dễ dàng trở nên khó khăn, khiến cho lớp trẻ cảm thấy thật khó
khăn để thực hiện được suy nghĩ của mình, để từ đó thể hiện quyền uy và sự chính
xác của họ. Trên thực tế, lời khuyên của bất kỳ ai cũng đều xuất phát từ mục đích của
chính họ, nhưng lại chụp cho nó một cái mũ với danh nghĩa là vô tư. Lãnh đạo giáo
dục nhân viên quen với công việc, nói là vì đại cục; giáo sư giảng bài cho sinh viên
đều là những lời cao siêu khó hiểu, để thể hiện học vấn uyên bác của mình; những
người thành đạt nói về thành công, liệt kê những ví dụ để chứng minh mình là thiên
tài.
Chúng ta làm gì cũng phải nhìn trước ngó sau, muốn thắng sợ thua, những thái độ
đó đều liên quan đến những quan niệm, những sự giáo dục mà chúng ta tiếp nhận.
Chúng ta không dám hỏi bản thân mình có bao nhiêu trong số những điều mà chúng ta
coi là chân lí là thực sự đúng đắn? Thành công trong cuộc đời có khó đạt được đến thế
không? Có phải chỉ dành cho những thiên tài hay không?
Trên thực tế, những việc mà chúng ta cho rằng chúng ta không làm được là những
việc mà chúng ta đã không làm; những việc chúng ta cho rằng rất khó khăn là những
việc chúng ta không dám làm, vì thế mới trở nên khó khăn.
Những năm 60 của thế kỷ XX, một sinh viên người Hàn Quốc thi đỗ vào một
trường Đại học nổi tiếng ở châu Âu chuyên ngành Tâm lí học. Ở đó, anh có cơ hội
tiếp xúc với rất nhiều nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và các nhân sĩ nổi tiếng thế
giới từng giành được những thành tựu siêu việt trong các lĩnh vực. Khi còn ở Hàn
Quốc, những người này được coi là những thiên tài độc nhất vô nhị, mấy nghìn năm
mới có một người, sự thành công của họ gần như đã trở thành huyền thoại, điều này
khiến anh cảm thấy bản thân khó có thể đạt được những thành công tương tự. Thế
nhưng, khi anh nhìn thấy những người này, anh phát hiện ra họ cũng giống những
người bình thường. Khi họ đi trong khuôn viên trường, họ chẳng khác gì những người
bình thường, khí chất và cử chỉ thậm chí còn không bằng các giảng viên và giáo
sư bình thường khác.
Những nhân vật vĩ đại được người Hàn Quốc tôn sùng cũng giống như những
người bình thường, thường hay đến quán cà phê trong trường uống cà phê, tán gẫu,
đọc sách báo. Để có thể tiếp xúc nhiều hơn nữa với những nhân vật mình ngưỡng mộ,
anh thường đến những quán cà phê đó, tìm cơ hội để giao lưu, trò chuyện với họ.
Qua tiếp xúc, anh phát hiện ra rằng những nhân sĩ thành đạt, bao gồm cả những
người đoạt giải Nobel, những huyền thoại làm giàu và những người có quyền uy trong
một số lĩnh vực học thuật, họ đều rất bình thường, chỉ có điều họ hài hước, phong độ
hơn một chút, có thể dễ dàng liên hệ những học vấn uyên bác với những ví dụ trong
cuộc sống, khiến cho những người dù không có văn hóa cũng có thể hiểu được. Trong
mắt những người này, chẳng có gì là thần bí, mọi điều đều có thể, kể cả những thành
tựu vĩ đại. Họ đạt được thành tích bởi vì bản thân họ dám làm còn người khác thì
không.
Qua tiếp xúc với những nhân vật vĩ đại này, anh đã hiểu họ một cách sâu sắc, kết
luận anh rút ra là, bất kỳ người bình thường nào cũng có thể đạt được thành công,
những nhân sĩ thành đạt trước khi thành công cũng chẳng khác gì những người bình
thường. Lúc này anh mới ý thức được rằng khi còn học ở Hàn Quốc, anh đã bị những
nhân sĩ thành đạt, thầy giáo, đại gia trong nước làm lóa mắt. Trước những người thanh
niên, họ luôn biến những thứ đơn giản thành cao siêu khó hiểu, biến sự thành đạt mà
tầng lớp thanh niên mơ ước đạt được thành thứ khó khăn chẳng khác gì lên trời. Họ
làm như vậy vì sau khi đạt được thành công, với sự kiêu ngạo, họ treo cao những sự
khó khăn vất vả để người khác phải ngưỡng mộ, đồng thời lo sợ rằng những thanh
niên sau khi tìm được con đường dẫn đến thành công sẽ đạt được những thành công
lớn hơn, dập tắt vầng hào quang của họ. Là một sinh viên khoa tâm lí, anh cho rằng
cần phải nghiên cứu tâm lí ngoắt ngoéo của những nhân sĩ người Hàn Quốc. Vài năm
sau, anh lấy đề tài nghiên cứu là “Thành công không khó như bạn tưởng tượng”, viết
thành luận văn tốt nghiệp, nộp cho một vị giáo sư nổi tiếng.
Vị giáo sư đọc xong, vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, ông cho rằng đây là một phát
hiện mới về phương diện tâm lí học. Phát hiện nay tuy tồn tại khá phổ biến ở phương
Đông, thậm chí là ở nhiều nơi trên thế giới, nhưng chưa có được sự coi trọng cần
thiết, chưa có ai coi đó là một đề tài để nghiên cứu sâu.
Đối với lí luận kỳ quặc mà ngoắt ngoéo về thành công ở Hàn Quốc, vị giáo sư thấy
vô cùng lo buồn. Ông liền viết thư cho một người bạn học, người này khi đó đã trở
thành một nhân vật quyền cao chức trọng ở Hàn Quốc. Trong thư ông viết: “Tôi
không dám nói rằng tác phẩm này giúp được bao nhiêu cho anh, nhưng tôi dám khẳng
định rằng nó có thể gây chấn động hơn bất cứ sắc lệnh chính trị nào được ban hành”.
Về sau, cuốn luận văn được xuất bản tại Hàn Quốc và bán rất chạy. Cuốn sách này
khiến cho tầng lớp thanh niên tỉnh ngộ, kiểm điểm lại tất cả những gì mình đã chấp
nhận bấy lâu nay, xác định lại tương lai của mình. Họ ý thức được, muốn thành công,
đầu tiên phải điều chỉnh lại những điều chưa đúng mà họ học được khi còn nhỏ, vứt
bỏ triệt để những thứ rác tinh thần đã ăn sâu mọc rễ trong tư tưởng họ.
Thành công không liên quan gì đến học vị, xuất thân, cơ hội… Chỉ cần quan tâm
đến một lĩnh vực nào đó, kiên trì theo đuổi thì sẽ thành công, bởi vì thời gianvà trí tuệ
mà Thượng đế ban cho chúng ta đủ đề chúng ta hoàn thành tốt đẹp một công việc.
Một số người quanh chúng ta không thành công, nếu không phải là vì họ bị “dọa” làm
cho sợ thì cũng là vì họ chẳng muốn làm việc gì, hoặc việc họ làm quá phức tạp.
Anh thanh niên Hàn Quốc này đã định nghĩa lại khái niệm thành công và dùng
hành động để chứng minh luận văn của mình. Sau khi về nước, với những cố gắng,
cuối cùng anh đã trở thành Chủ tịch tập đoàn ô tô lớn của Hàn Quốc.
Trung Quốc có câu tục ngữ với ý là nghe người khác khuyên bảo thì sẽ được ăn no.
Nếu cuộc đời chúng ta chỉ cầu “ăn no” thì việc gì cũng nên nghe theo ý kiến của
người khác. Nhưng nếu chúng ta muốn có một sự nghiệp trong cuộc đời, thì hãy
kiểm điểm lại thế giới nội tâm của bản thân, kiểm tra lại vốn kiến thức và kinh nghiệm
mình thu nhận được, xem thứ nào là thực sự đúng đắn và lành mạnh.
Năm 2003, một sinh viên vừa mới tốt nghiệp đại học ở bang California thì nhận
được giấy báo gọi đi lính. Người thanh niên này rất ghét cuộc sống quân ngũ, nhưng
luật pháp nước Mỹ quy định, bất cứ thanh niên nào đến tuổi và phù hợp với yêu cầu
của quân đội đều phải phục tùng việc điều động vô điều kiện. Không thể trốn tránh
được việc đi lính, thế là anh ấy liền cầu nguyện sao cho mình không bị điều đến đội
Hải quân lục chiến - nơi bị quản lí nghiêm khắc nhất, yêu cầu khắc nghiệt nhất, cuộc
sống vất vả nhất, môi trường nguy hiểm nhất. Lời cầu nguyện của anh ta đã không
phát huy tác dụng, anh ta bị điều động đến chính đội Hải quân lục chiến Mỹ, anh
chỉ còn biết phục tùng.
Sau khi nhận được giấy gọi nhập ngũ, người thanh niên này rất đau khổ, sợ hãi, cả
ngày ngơ ngẩn, lo lắng không yên, như sắp phải đi đến một nơi không có đường quay
về. Anh ta lo lắng bị điều ra chiến trường, không đi giết người thì cũng sẽ bị người
giết.
Ông nội của chàng trai là giáo sư ở Đại học California, thấy cháu trai mình nhìn
tương lai với con mắt sợ hãi như vậy, liền đi làm công tác tư tưởng cho cháu: “Chàng
trai trẻ, đi lính là nghĩa vụ của mỗi người công dân, không ai có thể trốn tránh. Có
rất nhiều sinh viên đại học như cháu khi bị gọi đi lính, họ đều rất lạc quan, tại sao
cháu lại lo sợ như vậy?”
“Ông ơi, ông không biết đấy thôi, cháu phải vào đội Hải quân lục chiến. Chắc ông
đã biết vào Hải quân lục chiến nghĩa là thế nào, đó là đội quân lúc nào cũng phải đi
giữa ranh giới của cái sống và cái chết”.
Vị giáo sư mỉm cười và nói: “Dù là vào Hải quân lục chiến, cháu cũng sẽ hai khả
năng, một là được ở bộ phận bên trong, hai là vào bộ phận bên ngoài.
Nếu cháu được phân vào bộ phận bên trong thì hoàn toàn có thể tránh được việc
phải ra chiến trường”.
Người thanh niên hỏi lại: “Nhưng cháu vẫn có 50% khả năng bị điều đến bộ phận
bên ngoài!”
Vị giáo sư nói: “Nếu vậy thì cũng sẽ có hai khả năng, một là phục vụ trên lãnh thổ
nước Mỹ, hai là phục vụ trên lãnh thổ nước ngoài. Nếu cháu được giữ lại trên lãnh thổ
nước Mỹ thì có gì phải lo lắng đâu?”
Người thanh niên hỏi lại: “Nếu cháu bị phân ra nước ngoài thì sao?”
Ông nội trả lời: “Thế thì cũng có hai khả năng, một là có thể cháu được phân đến
những quốc gia hòa bình thân thiện, hai là cháu được phân đến những nơi để gìn giữ
hòa bình. Nếu cháu được phân đến những quốc gia hòa bình chẳng phải là tốt hơn ở
Mỹ, nơi cháu đã quá quen thuộc hay sao?”
Người thanh niên hỏi lại: “Nếu không may cháu bị phân đến những khu vực đang
đánh nhau thì sao?”
Vị giáo sư nói: “Thế thì cũng có hai khả năng, một là lập được công và bình an trở
về, hai là không may bị thương. Nếu cháu có thể bình an trở về, những gì cháu có
được trong cuộc sống chiến trường chẳng phải là đáng để chúc mừng hay sao?”
Người thanh niên hỏi lại: “Chắc gì cháu đã may mắn thế? Nhỡ cháu bị thương thì
sao?”
Vị giáo sư cười, nói: “Cháu cũng vẫn có hai khả năng, một là hồi phục khỏe mạnh
sau khi bị thương, hai là hy sinh anh dũng. Nếu có thể bình phục khỏe mạnh sau khi bị
thương thì còn gì phải lo lắng đâu? Cùng lắm là thêm một vết sẹo trên cơ thể, cũng
là một việc vinh quang chứ!”
Người thanh niên lại hỏi: “Thế nếu cháu không may hy sinh thì sao?”
Vị giáo sư nghe xong cười lớn: “Cháu đã hy sinh rồi, mọi thứ đều không còn liên
quan đến cháu, càng chẳng có gì phải lo lắng!”
Vị giáo sư nói với cháu trai: “Chàng trai, ông nói với cháu nhiều như vậy, thực ra
là muốn nói với cháu, dù cháu ở đâu, làm gì thì đều có thể xảy ra hai khả năng, cháu
có quyền lựa chọn khả năng nào cháu muốn. Dù là phục tùng quân đội một cách
tuyệt đối thì cháu vẫn có quyền lựa chọn, trừ phi cháu từ bỏ quyền lựa chọn của mình,
nghe theo sự sắp xếp của mệnh lệnh một cách bị động”.
Người thanh niên trong câu chuyện này đã phạm sai lầm như thế nào? Sai lầm của
anh ta là quen với việc được người khác sắp xếp, lựa chọn. Từ trước đến nay anh ta
chưa từng nghĩ đến mục đích của mình, không biết phải làm gì, và làm như thế nào để
đạt được mục đích.
Mỗi việc đều có hai hướng phát triển, mỗi hướng phát triển đều có một kết quả.
Hướng đi khác nhau thì kết quả sẽ khác nhau, một là thứ mà ta mơ ước, một là thứ ta
ghét bỏ.
Chúng ta thường nói số phận con người do trời định. Chúng ta lựa chọn lối sống
như thế nào thì cuộc sống của chúng ta sẽ như vậy. Mỗi sự chọn lựa đều có những kết
quả tương đối của nó.
Cuộc sống là sự tổng hợp của các kiểu lựa chọn của chúng ta.
Thời trung học, chúng ta lựa chọn thái độ đối với học tập: phương pháp học tập
như thế nào, về cơ bản sẽ quyết định kết quả thi vào trường đại học của chúng ta; ở
đại học, chúng ta sử dụng thời gian 4 năm như thế nào, làm được đến mức độ nào lại
quyết định bước khởi đầu của chúng ta sau khi ra trường; Trong xã hội, chúng ta lựa
chọn ngành nghề nào, lựa chọn phương thức kinh doanh như thế nào thì chúng ta sẽ
có cuộc sống như thế.
Mỗi người chúng ta, dù là cao quý hay bình thường đều có quyền lựa chọn tương
lai của mình. Cách lựa chọn chính là suy nghĩ và hành động của chính họ. Phạm vi lựa
chọn rất lớn, chỉ cần chúng ta muốn làm, tự nguyện làm; về kết quả, tất nhiên một sự
lựa chọn đúng đắn sẽ đem lại kết quả tốt, ngược lại, lựa chọn sai lầm sẽ đem lại kết
quả xấu, hơn nữa không thể thay đổi được bởi đó là lựa chọn của chính chúng
ta. Đáng tiếc là, hiện nay rất nhiều thanh niên lại vứt bỏ quyền lựa chọn tương lai của
mình, họ quen hoặc thích được người khác sắp xếp hơn, từ những việc nhỏ như thi
vào trường đại học nào, học chuyên ngành gì, đến những chuyện lớn như đi đến nơi
nào để phát triển sự nghiệp, lựa chọn ngành nghề nào, làm công việc gì.
Người khác có thể lựa chọn cho chúng ta phương hướng của cuộc sống, nhưng
không ai có thể chịu trách nhiệm đối với kết quả của cuộc đời chúng ta. Không phải là
họ không muốn mà là không thể chịu trách nhiệm, kể cả bố mẹ của chúng ta.
Nếu đã không ai có thể chịu trách nhiệm về cuộc đời của chúng ta thì tại sao chúng
ta lại quen với việc để người khác quyết định phương hướng cuộc đời của chúng ta?
Đó là bởi vì từ bé đến giờ chúng ta luôn được dạy bảo phương pháp tư duy mỗi khi
có việc phải lựa chọn thì trước tiên đều hỏi ý kiến bố mẹ hoặc thầy giáo xem bản thân
làm như thế có đúng không. Họ nói đúng thì chúng ta làm, họ nói không đúng thì
chúng ta không làm.
Lâu dần, trong đầu chúng ta hình thành một quán tính, cứ gặp sự lựa chọn là bản
thân không cần phải suy nghĩ, lập tức đi hỏi ý kiến hoặc cách nhìn của người khác.
Điều người khác chấp nhận tức là đúng, người khác phản đối tức là sai, từ đó chưa
bao giờ nghĩ đến việc, sự lựa chọn này đối với mình là đúng hay không.
Bố mẹ và thầy giáo muốn việc gì chúng ta cũng hỏi ý kiến họ, đồng thời rất thích
tận dụng kinh nghiệm của mình để đưa ra các lựa chọn cho chúng ta. Họ cho rằng,
làm như thế là có trách nhiệm với chúng ta, họ sợ chúng ta đi sai hướng. Nhưng thực
ra đó là ảnh hưởng xấu, nói một cách khác, đó là kiểu tước đoạt, chúng ta bị mất đi
cảm giác trách nhiệm, không có lợi cho sự trưởng thành và chín chắn của chúng ta. Bố
mẹ và thầy giáo có quyền kiểm tra và giám sát, khuyên bảo quá trình trưởng thành của
chúng ta, nhưng không nên quyết định thay chúng ta. Chúng ta mới là người quyết
định thực sự cho tương lai của chính mình. Đương nhiên, bất kỳ sự lựa chọn nào
có liên quan đến tương lai của mình, chúng ta cũng nên tham khảo ý kiến và kinh
nghiệm của nhiều người, nhưng phải sáng suốt nhận thức được rằng, phục tùng một
cách mù quáng theo sự sắp xếp của xã hội, của người khác, cũng giống như việc phản
đối họ một cách mù quáng, đều dẫn đến những hậu quả mang tính hủy diệt và không
có trách nhiệm với bản thân. Giao tay lái chiếc xe cuộc đời mình vào tay người khác,
chúng ta khó tránh được việc phải đóng vai hành khách.
Kinh nghiệm của những người thành đạt cho chúng ta thấy, bất kỳ một cuộc sống lí
tưởng, hạnh phúc, thành đạt nào, về cơ bản cũng đều được quyết định bởi những lựa
chọn và hành động của chính bản thân họ. Khi chúng ta thực sự nhận thức được và
sử dụng quyền lựa chọn của mình thì chúng ta sẽ không để hoàn cảnh làm chủ bản
thân, không đi ngược lại nguyện vọng của mình để làm vừa lòng người khác, chấp
nhận sự sắp xếp một cách vô điều kiện.
Khi chúng ta quyết định phương hướng cho tương lai của mình, chúng ta có thể
biết một cách rõ ràng rằng, khi nào, ở đâu có cơ hội và có trách nhiệm để quyết định
những gì phù hợp với nhu cầu của chúng ta. Tự mình lựa chọn hướng đi cho mình,
thành công có quyền chúc mừng, thất bại thì dũng cảm chịu trách nhiệm.
Sự thành công của một quyết định càng kích thích chúng ta đưa ra những quyết
định lớn hơn, chúng ta cũng sẽ không vì một thành công nhỏ mà trở nên kiêu ngạo, tự
mãn. Trong hành trình cuộc đời, chúng ta sẽ luôn biết rõ vai trò bản thân trong những
thành công và thất bại của mình, từ đó có thể tìm được đúng vị trí, nắm chắc phương
hướng của mình.
Chương II: Thế giới không quan tâm đến lòng tự trọng của bạn. Thế giới
mong bạn đạt được những thành tựu trong cuộc sống trước khi bạn cảm thấy dễ
chịu
Thanh niên hiện nay có lòng tự trọng vô cùng mạnh mẽ, nhưng bên thực ra trong
lòng lại vô cùng mềm yếu, điểm này hơi giống với đồ sứ. Đặc biệt là đối với thành
viên mới trong xã hội, tuy không có thành tựu gì nhưng lại hy vọng một cách mãnh
liệt rằng các thành viên khác trong xã hội sẽ tôn trọng mình.
Không thể không nói rằng đây là một suy nghĩ đơn phương. Chuyện này cũng
giống như trong tình yêu, nếu bạn không phù hợp với tiêu chuẩn “người tình trong
mộng” của đối phương thì bạn càng yêu sâu sắc sẽ càng bị đối phương coi thường.
Nếu muốn được đối phương quan tâm đến thì việc bạn cần làm là phải đạt được tiêu
chuẩn của đối phương. Thanh niên thường hy vọng mỗi một thành viên trong xã hội
đều chú ý đến lòng tự trọng của họ, nhưng trên thực tế, thế giới này không quan tâm
đến lòng tự trọng của chúng ta, dù cho lòng tự trọng của chúng ta có mạnh đến đâu.
Có người nói rằng, muốn có được sự tôn trọng của người khác thì phải có lòng tự
tôn, nhưng nếu chỉ có lòng tự tôn không thôi thì cũng chưa đủ. Tự mình tôn trọng
mình thì rất dễ, nhưng để người khác tôn trọng mình thì không đơn giản như thế.
Thanh niên muốn có lòng tự tôn thì phải có tố chất để giành được sự tôn trọng của
người khác – chúng ta phải là người mà xã hội cần, chứ không phải là gánh nặng cho
sự phát triển của xã hội. Trái đất này từ khi xuất hiện các quốc gia thì có quốc gia phát
triển, có quốc gia lạc hậu, có quốc gia văn minh, có quốc gia ngu muội, dân chúng
cũng được phân chia thành những người cao quý và thấp hèn, giàu có và nghèo khổ.
Con người chỉ cần lựa chọn sự sống thì đã phải đối mặt với sự khác biệt này. Sự
khác biệt này có thể thay đổi nhưng không phải mỗi người đều có thể thay đổi.
Mỗi người đều mong muốn được sống ở các nước phát triển, văn minh, được sinh
ra trong những gia đình giàu có và quyền quý. Đáng tiếc là không ai có quyền lựa
chọn trong việc này. Khi chúng ta được sinh ra, tất cả những điều này đã được quy
định sẵn. Con người là loài động vật có cảm xúc, sống quần cư. Không ai có thể tồn
tại mà tách rời khỏi một quốc gia, một tập thể. Tự khẳng định mình và giành được sự
tôn trọng của các thành viên trong tập thể là mong muốn tối thiểu của một người.
Chúng ta có nhu cầu, nhưng người khác lại không có nghĩa vụ phải đáp ứng nhu
cầu của chúng ta.
Chúng ta có tồn tại hay không, người khác có quyền không cần quan tâm, họ chỉ
cần sự tồn tại của chúng ta không ảnh hưởng đến lợi ích bản thân họ. Nhiều người rất
thực tế, họ không có thời gian và hứng thú quan tâm đến những người không liên
quan đến mình, trừ phi người này có thể đem lại cho họ những lợi ích thực tế.
Đa số thanh niên tạm thời vẫn là những “kẻ yếu” trong xã hội. Nếu bố mẹ chúng ta
quyền cao chức trọng, giàu có thì người khác có thể sẽ tôn trọng chúng ta nhưng trên
thực tế là họ đang tôn trọng con trai của một người nào đó chứ không phải chỉ
đơn thuần là tôn trọng bản thân chúng ta. Rời khỏi bố mẹ, chúng ta cũng giống như
những thanh niên khác, chỉ có hai bàn tay trắng.
Nếu chúng ta muốn thông qua bố mẹ và gia đình để giành được sự tôn trọng của
người khác thì trong mắt người khác, chúng ta càng trở thành kẻ yếu. Bố mẹ không
phải là chúng ta, họ chỉ đại diện cho bản thân họ trong xã hội, chúng ta cũng không
thể đại diện cho họ.
Xét từ một góc độ nào đó, con người nhìn con người theo hai cách, một là ngưỡng
mộ, một là coi thường. Sự ngưỡng mộ là dành cho những người có địa vị cao hơn
mình, có quyền lực lớn hơn mình, giàu có hơn mình; sự coi thường là dành cho những
người có địa vị thấp hơn mình, quyền lực ít hơn mình, nghèo hơn mình.
Đây là điểm yếu trong tính cách con người mà chúng ta không nên có, nhưng điều
này lại thường xuyên xảy ra. Có thể bạn sẽ hỏi rằng, đôi khi, ngay cả sinh mệnh của
đồng loại, con người cũng dễ dàng cướp đoạt, thế thì tại sao phải tôn trọng một
người không bằng mình chứ?
Buffett không sợ người khác nói ông nghèo, hơn nữa cũng chẳng ai dám nói. Bởi vì
những người nói ông nghèo đều cho rằng ông không bình thường, khi họ thấy, những
nhận xét của họ không hưởng gì đến suy nghĩ của ông.
Những người thất bại khi không có tiền lại càng sợ người khác nói họ không có
tiền hay bất tài. Họ cho rằng nói họ như vậy là sỉ nhục họ, là không quan tâm đến lòng
tự trọng của họ. Nếu nói họ có tiền, họ lại cho rằng như thế là mỉa mai, là moi móc sự
đau khổ của họ, là một sự đả kích mà họ khó có thể chấp nhận. Xem ra, đối với những
người thất bại thì chỉ có cách là im lặng. Thế nhưng nếu không ai nói gì, họ lại cho là
chẳng ai quan tâm đến họ, lạnh nhạt với họ, chưa chắc anh ta đã cảm thấy khá
hơn. Trên thực tế, một người dù nghèo hay giàu đều là một thành viên trong xã hội,
mọi người nên tôn trọng lẫn nhau. Tuy nhiên, muốn có được lòng tôn trọng của người
khác thì chúng ta phải có những phẩm chất nhất định.
Chúng ta gặp một người ăn xin ở cửa, tháng đầu tiên bạn có thể không do dự mà
thông cảm, thương hại anh ta, giúp đỡ anh ta. Bạn nghĩ rằng, con người đều có những
lúc không gặp may, có thể một ngày nào đó mình cũng như họ, cần sự giúp đỡ của
người khác. Nếu tháng thứ hai người ăn xin này vẫn đến cửa nhà chúng ta, chúng ta
vẫn có thể cố gắng hết mình giúp đỡ anh ta.
Nếu người ăn xin này 3 tháng, nửa năm, một năm thậm chí là 3 năm đều đến trước
cửa nhà chúng ta, liệu chúng ta còn thương cảm không? Ăn xin đã trở thành một nghề
của anh ta, thói quen muốn được hưởng thụ mà không cần phải lao động đã trở
thành bản chất của anh ta, chúng ta cứ tiếp tục ủng hộ và đồng cảm thì kết quả sẽ như
thế nào?
Khi Thượng đế đưa chúng ta đến với thế giới này, Ngài không đưa ra bất cứ sự sắp
xếp nào đối với chúng ta. Bởi vì Ngài biết rằng, dù mình có quyền lực vạn năng cũng
không thể sắp xếp cho tất cả mọi người được như ý.
Thượng đế không sắp xếp chúng ta là để chúng ta tự sắp xếp mình. Trong xã hội có
rất nhiều vị trí, chúng ta đều có thể đạt được. Dù những vị trí chúng ta mong muốn
gần như đã đủ người thì bằng nỗ lực bản thân, chúng ta vẫn có khả năng giành
được. Tất cả những thứ thuộc về con người trên thế giới này đều không có gì là vĩnh
viễn. Nếu như có thì đó là sự thay đổi; chúng ta không thay đổi bản thân thìcũng sẽ bị
người khác thay đổi. Đương nhiên, những thứ thuộc về chúng ta bao gồm cả những
cách nhìn và cách đánh giá của người khác đối với chúng ta. Người khác lựa chọn
những từ ngữ nào để nói về chúng ta, đối xử với chúng ta với thái độ như thế nào là
tùy thuộc vào bản thân chúng ta chứ không phải họ.
TRƯỚC TIÊN PHẢI CÓ CHÚT THÀNH CÔNG
Nước Mỹ những năm 70 của thế kỷ XX, ý thức về sự tự trọng được đánh thức. Cá
tính và quyền tự lựa chọn cuộc sống, quyền được tôn trọng đã trở thành một vấn đề xã
hội. Bố mẹ cũng coi con cái là một cá nhân độc lập, thầy giáo cũng bắt đầu gieo vào
suy nghĩ của học sinh quan niệm về lòng tự trọng. Tiếp theo đó là quan niệm về thành
công; mỗi một người thành đạt đều không ngừng thổi phồng cái gọi là “quan niệm về
thành công”, đồng thời hình thành rất nhiều những câu nói nổi tiếng khích lệ tinh thần
kiểu khẩu hiệu như : “Tuổi trẻ là vốn quý”, “Tin tưởng bản thân - mọi thứ đều có thể”,
“Hãy làm những việc bạn cho là đúng”…
Những người thành đạt, bản thân họ có thể không mấy thành đạt, nhưng họ thích
lên giọng nói về thành công với lớp thanh niên, biến thành công trở thành một việc hết
sức dễ dàng, khiến lớp thanh niên nghe mà “hừng hực khí thế”, cảm thấy rằng ngày
mai mình sẽ thành bá chủ thế giới, có mọi thứ trong tay.
Lớp thanh niên rất thích nghe những câu khẩu hiệu đó, cảm thấy mọi việc trước
mắt họ đều trở nên rất đơn giản. Họ say đắm với tương lai của mình, rất ít người
nghiên cứu một cách nghiêm túc xem những cảm giác thực sự tốt đẹp đó xuất phát từ
cái gì. Tự tin không đơn giản chỉ là tin tưởng vào bản thân, thành công cũng không
phải chỉ cần có niềm tin là đủ. Nhiều thanh niên ngộ nhận, cho rằng cha ông họ sở dĩ
không giàu có là vì thế hệ trước lớn lên trong sự phủ định, không tự tin, không có
quyết tâm, khả năng tiếp nhận sự vật mới kém, phấn đấu một cách máy móc, đơn giản
và lặp lại mà không phát triển lên tầm cao mới.
Bởi vậy, họ cảm thấy bản thân tiềm tàng nhiều khả năng lớn, họ cho rằng mình có
được sự giáo dục cao, có tuổi trẻ, có nhiệt huyết, việc gì đối với mình cũng vô cùng
đơn giản. Chỉ cần họ dám nghĩ, dám làm thì mọi thứ đều có thể.
Thế là, những đứa trẻ lớn lên trong sự khích lệ, với lòng tự tin cực độ, cho rằng
mình là giỏi nhất. chỉ cần mình tốt nghiệp từ một trường danh tiếng, có học vấn cao
thì sau khi tốt nghiệp nhất định sẽ có lương cao, địa vị cao.
Họ không biết mình là ai, không biết quanh mình đang xảy ra chuyện gì. Họ thích
bình luận về sự tốt xấu của những người quanh mình nhưng lại không biết mình tốt
hay xấu. Họ có quá nhiều khát vọng và ước mơ nhưng lại không biết vươn cách để
biến ư[ớc mơ thành hiện thực.
Họ là một lớp người đặc biệt do hoàn cảnh xã hội tạo ra, suy nghĩ chuyện gì cũng
lấy mình làm trung tâm, lấy mình làm xuất phát điểm, luôn nghĩ đến mình nhiều hơn
mà ít nghĩ đến người khác. Dám làm nhưng hời hợt, liều lĩnh nhưng yếu đuối. Vì vậy,
khi bắt đầu bước chân vào xã hội, họ cần phải bước từng bước một cách chắc chắn và
thận trọng, bình tĩnh đối mặt với những hiện thực tàn khốc.
Những người như vậy họ không hề ý thức được rằng, từ lúc 7 tuổi đến năm 27 tuổi,
từ tiểu học đến thạc sĩ, họ đều đang trong quá trình học hỏi, cũng học được rất nhiều
kiến thức, nhưng trên thực tế, những kiến thức mà họ học được có thể sẽ chẳng
bao giờ dùng tới, những kiến thức cần dùng thì trong 20 năm qua lại không học. Sở dĩ
họ quá tự tin về bản thân là vì họ còn chưa biết, thực tế, để làm được một việc thì khó
đến mức nào.
Quá tự tin về bản thân, họ sẽ không bao giờ có được sự chuẩn bị đầy đủ. Gặp phải
chút khó khăn là đã thất bại, mất hết tự tin, tìm nhiều lí do để đổ lỗi cho sự thất bại.
Thực ra những người thanh niên này đã phạm sai lầm về tư tưởng và hành động.
Về tư tưởng, họ cho rằng, tất cả những gì đã xảy ra đều không quan trọng, cũng
không liên quan đến bản thân. Những việc lớn, việc quan trọng trước mắt mới là
những việc đáng để mình phải làm.
Về hành động, họ luôn tìm những việc lớn có thể thay đổi vận mệnh của mình
trong chớp mắt. Họ cho rằng chỉ cần nắm được một cơ hội thì có thể “từ phòng ngủ
leo được lên thiên đường”.
Những người thanh niên này bôn ba trên đường đời, chẳng mấy chốc là mấy năm,
mấy chục năm trôi qua, sau cùng lạc đường. Ngoảnh đầu lại, rất nhiều người đã thành
công, trở thành triệu phú với những việc mà trước đây mình không muốn làm;
những nhân viên nhỏ của công ty trước đây, giờ cũng đã trở thành những người phụ
trách công ty, thậm chí trở thành cổ đông của công ty. Những thành tựu mà họ đạt
được hiện nay chính là thứ mà mình vẫn mơ ước. Không có một ông chủ nào lại giao
công ty cho một người tự tin thái quá về bản thân, nhưng sẽ lựa chọn người đã thành
đạt. Quá tự tin trước khi mình giành được thành công là sự mù quáng và tự cao tự đại.
Cảm giác tốt về bản thân sau khi đã giành được những thành tựu cụ thể lại là sự tự tin.
Hai trạng thái này khác nhau hoàn toàn về bản chất.
Trước khi thành đạt, thanh niên nên làm những việc nhỏ hợp với sức mình, giành
lấy những thành công nhỏ. Đương nhiên, trong xã hội, làm việc không giống như đi
thi trong trường học. Thi trong trường là một hình thức kiểm tra những kiến thức đã
học, thậm chí là để kiểm tra trí nhớ của bạn.
Nhớ được bao nhiêu bây giờ trở nên không quan trọng, bởi vì chỉ cần bạn tìm kiếm
những thứ mình cần trên google, chẳng có gì là không tìm được. Những người có thể
đạt điểm tối đa trong các kỳ thi, nếu bản thân mình không biết đưa ra câu hỏi,
cân nhắc câu hỏi, giải quyết vấn đề thì họ có nhớ được bao nhiêu kiến thức cũng
chẳng có tác dụng gì. Hiệu quả của kiến thức không nằm ở chỗ bạn nhớ được bao
nhiêu, mà là ở chỗ bạn có thể dùng kiến thức để giải quyết bao nhiêu vấn đề.
Làm việc, thực ra là giải quyết vấn đề, giải quyết những vấn đề mà mình gặp phải,
giải quyết những vấn đề mà người khác gặp phải.
Khi không giải quyết được vấn đề, hoặc trước khi giải quyết vấn đề mà tự tin thái
quá là một sự thiếu hiểu biết. Thanh niên không muốn làm những việc nhỏ vì họ chờ
đợi để làm những việc lớn có thể thay đổi vận mệnh. Tuy nhiên, không tồn tại một
việc lớn có thể làm thay đổi vận mệnh, bởi vì một việc lớn được tạo thành từ những
việc nhỏ.
Những việc quan trọng thường rất đơn giản, nhưng nếu không có phương pháp thì
rất khó thực hiện. Những việc nhỏ làm không tốt thì việc lớn nhất định không thể
hoàn thành.
Quá tự tin không phải là điều xấu, nhưng phải có tiền đề là sự thành đạt. Cũng
giống như ý định lớn nhất của Microsoft, không phải là duy trì danh hiệu “công ty tốt
nhất, kiếm nhiều tiền nhất thế giới” cũng không phải là “đánh bại tất cả các đối thủ”,
mà là tập trung tất cả các nhân tài trên thế giới về Microsoft. Đội ngũ của
Microsoft,bao gồm những nhân tài hàng đầu thế giới, tạo ra những thành tích hàng
đầu, họ có cơ sở để nói rằng họ là một đội ngũ hàng đầu thế giới, nhưng đội ngũ này
luôn ý thức được rằng, ưu thế của mình chỉ có 18 tháng.
Trong đội ngũ hàng đầu thế giới đó, không có ai dám tự tin thái quá, dù họ đều đã
giành được những thành tích mà người khác không thể đạt được. Bởi vì mỗi người
đều ý thức được rằng, không có người xuất sắc nhất, chỉ có người xuất sắc hơn.
Thành công là từ được người hiện đại nhắc tới nhiều nhất. Những thanh niên đều
mơ ước thành công, khát vọng thành công, nhưng có bao nhiêu thanh niên có thể hiểu
được thành công thực sự là như thế nào? E rằng chẳng có nhiều.
Thanh niên hiểu một cách đơn giản, thành công là có một tài sản lớn, có địa vị cực
cao trong xã hội, nắm trong tay quyền lực tuyệt đối, có được một trong 3 thứ đó, tức
là thành công. Rất nhiều “nhà thành công học” đã định nghĩa về thành công như
thế, thậm chí còn định nghĩa thành công một cách đơn giản là kiếm tiền, kiếm nhiều
tiền hơn.
Nếu định nghĩa thành công như vậy, tuy không thể nói là hoàn toàn sai lầm nhưng
chắc chắn không thể nói là đúng đắn nhất. Theo đuổi thành công dựa vào cách hiểu
như vậy thì dù có đạt được mục đích, bạn cũng không có cảm giác thành đạt, ngược
lại còn đánh mất đi rất nhiều thứ quan trọng, quý giá, thậm chí là vô giá, như vậy cũng
dễ bị những thứ mà mình đạt được khống chế và điều khiển, khiến cho bản thân
không có cảm giác yên tâm, thậm chí không thể thoải mái cùng gia đình ngồi xem một
bộ phim. Một kết quả như vậy sao có thể gọi là thành công? Tiền bạc, quyền lực và
địa vị, đều có hai cách để đạt được:một là thông qua những phương pháp, những con
đường không chính đáng; hai là thông qua việc cung cấp cho người khác những dịch
vụ chu đáo và chất lượng, từ đó giành được thành công. Dù rằng cả hai cách cuối
cùng đều có thể đạt được mục đích nhưng cách thứ nhất có được từ sự thiệt hại của xã
hội, quốc gia và dân chúng, sẽ khiến cho dân chúng ở về phía đối lập với họ, gây ra
hiểm họa khôn lường cho tương lai dân chúng và sự ổn định của xã hội. Thứ mà họ
theo đuổi là một hố sâu trên con đường tương lai của mình, là nấm mồ để họ tự chôn
mình. Đối với người khác, đối với bản thân cũng như đối với xã hội, một “thành
công” như thế là một tai nạn.
Cách thứ hai cũng sẽ đạt được mục tiêu như cách đầu tiên, nhưng họ dựa vào
những kiến thức và sức lực của bản thân, tạo ra nhiều của cải hơn nữa cho xã hội,
cung cấp những dịch vụ mà dân chúng cần, nâng cao chất lượng cuộc sống của dân
chúng, thậm chí là thay đổi quan niệm về mô hình cuộc sống của dân chúng. Những
người như vậy, tiền bạc, quyền lực và địa vị họ có được là sự báo đáp và khen
thưởng của xã hội dành cho họ. Họ cũng sẽ dùng của cải và quyền lực của mình để
duy trì sự hài hòa của xã hội. Thanh niên có cách hiểu về thành công khác nhau thì
phương thức để theo đuổi thành công cũng khác nhau, dẫn đến việc họ sẽ có những
cuộc sống khác nhau. Những người không mơ ước thành công thì nhất định không thể
thành công; những người hiểu sai về thành công cuối cùng sẽ thất bại, phải trả giá cho
những sai lầm của mình. Chỉ có những người hiểu về thành công một cách đúng đắn,
dù xuất phát điểm của họ như thế nào, họ phải trải qua những khó khăn gì thì kết quả
chỉ có một: hoàn hảo. “Người Microsoft” rất yêu quý Microsoft. Ví dụ như Microsoft
Thượng Hải, đó là điểm nóng của những thanh niên trẻ, cường độ làm việc ở đó
vô cùng cao, nhưng tỉ lệ chảy máu chất xám ở đó chỉ ở mức 3,4%, thấp hơn nhiều so
với tỉ lệ bình quân 7% ở các đơn vị kinh doanh khác ở Thượng Hải. Dù làm việc ở
“Microsoft Thượng Hải” sẽ nhận được sự báo đáp rất hậu hĩnh về vật chất, nhưng
rất nhiều thanh niên trẻ lại không coi Microsoft là nơi trú chân cả đời của mình, mà
coi đó là một sân khấu để mình trưởng thành. Họ tin tưởng rằng ở sân khấu này, họ sẽ
từ một nhân tài chuyên ngành trở thànhmột nhân tài đa ngành, từ một kỹ sư phần mềm
trở thành một giám đốc kinh doanh.
Khi họ thu được của cải vật chất, kinh nghiệm làm việc từ Microsoft, điều mà họ
suy nghĩ nhiều nhất là làm thế nào để báo đáp lại xã hội, làm thế nào để đảm đương
trách nhiệm mà xã hội và thời đại giao cho họ.
Ví dụ như Đường Tuấn, dựa vào năng lực và của cải của anh ấy, chắc chắn có thể
lập một công ty có hiệu ích cao, nhưng anh ấy lại không thể tự mình quản lí kinh
doanh một công ty. Anh từng nói: “Nếu một ngày rời khỏi Microsoft, tôi chấp nhận
đến một công ty nhà nước đang gặp khó khăn, chỉ cần lương 1tệ/năm”. Nghe Đường
Tuấn, một người có mức lương mấy chục nghìn một năm, một người có giá trên
100 triệu nói như vậy, ai nấy đều vô cùng ngạc nhiên, nhưng người của Microsoft thì
không. Nguyên nhân là vì những người của Microsoft Trung Quốc đều có một tâm
nguyện chung, là chấp nhận làm giám đốc doanh nghiệp, đem những kinh nghiệm
quản lí học được ở Microsoft để áp dụng vào các doanh nghiệp trong nước. Đối với
họ, sự hưng thịnh của các doanh nghiệp trong nước chính là sự báo đáp tốt nhất và lớn
nhất của họ.
Đường Tuấn nói: “Tôi sẽ không phát triển sự nghiệp theo mục đích kiếm tiền, tôi
sẽ không lập công ty riêng, bởi vì lập công ty riêng chỉ là để kiếm được thêm nhiều
tiền hơn. Tôi cũng sẽ không đến làm việc ở bất cứ một công ty có vốn nước ngoài
nào, một là họ không thể hấp dẫn tôi hơn Microsoft, hai là không ai có thể thuê được
tôi”.
Không chỉ có Đường Tuấn, trong tư duy của những người Microsoft Trung Quốc,
họ cho rằng, mình sống trong xã hội, trưởng thành trong xã hội, tất cả những thứ của
mình đều từ xã hội mà có, vì vậy chỉ có đem năng lực và của cải của mình, báo đáp
hết mức cho xã hội mà họ đã sinh ra, trưởng thành và lớn lên, như thế mới là sự thành
công. Trong mắt họ, đó mới là ranh giới cao nhất trong cuộc sống.
Ranh giới và mục tiêu là khác nhau. Ranh giới là một thế giới, là một không gian
lập thể không biên giới, còn mục tiêu thì lại là một cuộc hành trình có điểm cuối.
Trên một mặt phẳng có thể có vô số đoạn thẳng, một khối lập phương có thể có vô
số mặt phẳng. Đoạn thẳng và giữa các đoạn thẳng có thể có sự so sánh về độ ngắn dài,
độ to nhỏ. Thế giới lập thể không bao giờ đánh giá các đoạn thẳng, chúng ta đã quen
với việc yêu cầu bản thân chứ không phải yêu cầu người khác.
Những người thành công thực sự, họ luôn luôn phấn đấu hoàn thiện mình nhưng họ
cũng biết bản thân mình không bao giờ là người tốt nhất, bởi vì mục tiêu thành công
của họ là thay đổi thế giới, chứ không phải chỉ là thay đổi bản thân. Việc thay
đổi đoạn thẳng của mình đã hoàn thành từ lâu. Họ muốn biến mình thành một thế giới
lập thể lớn không giới hạn, để tất cả mọi người cảm nhận được thành công thực sự là
như thế nào.
So với những người bình thường, những người thành công thực sự luôn biết mình
thiếu gì. Còn những người bình thường, ngoài tiền ra họ thường không biết được mình
thiếu thứ gì
Ở Mỹ có một người phụ nữ tên là Briles. Bà là nhà diễn thuyết nổi tiếng, là nhà văn
có sách bán chạy, câu chuyện của bà, người dân Mỹ đều thuộc làu. Mỗi năm, thời
gian đi máy bay của bà chiếm đến 2/3, bởi vì bà phải diễn thuyết ở khắp các bang
trên nước Mỹ, khích lệ những người dân sống ở tầng lớp thấp của xã hội.
Briles sinh ra trong một gia đình công nhân bình thường, mới 20 tuổi đã lấy Smith,
một thanh niên ưa nói lời ong bướm. Sau khi kết hôn, Briles đến định cư tại Los
Angeles, sinh hai đứa con, cuộc sống dù không thể nói là tốt nhưng cũng tạm ổn.
Khi Briles có thai đứa con thứ ba, bộ mặt thật của Smith đã hoàn toàn bộc lộ, ông
ta suốt ngày lang thang bên ngoài, vài ngày cũng không về nhà, nếu có về thì khắp
người đầy mùi rượu, luôn kiếm cớ để cãi nhau với Briles, không những thế còn ra đòn
mạnh tay. Briles vì gia đình, vì con cái, vì muốn chồng về nhà, bà đã xin nghỉ làm ở
sở giao dịch chứng khoán, tập trung tâm sức cho chồng con và gia đình. Bà muốn
thông qua sự nỗ lực của bản thân để giành lại một gia đình yên bình, hạnh phúc, đồng
thời giành lại lòng tự trọng của người phụ nữ.
Briles nghỉ làm, không còn thu nhập, càng khiến cho Smith coi thường dù bà có
nhún nhường thế nào đi nữa. Khi bà sinh đứa con thứ ba, chỉ có đứa con nhỏ ở bên bà
trong bệnh viện. Trở về nhà với nỗi đau buồn tột độ, bà không những không nhận
được lời an ủi nào từ Smith mà còn bị một trận đòn như mưa. Smith đạp Briles ngã từ
tầng hai xuống, Briles yếu đuối lộn vòng từng bậc cầu thang xuống đến tầng một, nằm
sõng xoài trên mặt đất.
Lần này, Briles đã hoàn toàn tỉnh ngộ. Bà ý thức được rằng, muốn có được nhân
cách và lòng tự tôn trước Smith, chỉ có cách là mình phải trở nên giàu có và mạnh mẽ,
nếu chỉ dựa vào sự cầu xin, cam chịu thì càng khiến ông ta không tôn trọng mình. Thế
là, bà yêu cầu ly hôn.
Một người lương thiện với hai bàn tay trắng như Briles không phải là đối thủ của
Smith. Ông ta thông bằng các thủ đoạn bỉ ổi, mua luật sư, giành lấy phần lớn tài sản,
làm vấy bẩn danh tiếng của bà, cuối cùng, ngay quyền giám hộ con cái bà cũng không
có được. Ở Los Angeles, Briles bị mang tiếng là một người vợ không tốt, một người
mẹ không tốt, thậm chí không phải là một người tốt. Trước bất cứ người nào, bà đều
không có được sự tôn trọng tối thiểu mà một người đáng nhận được.
Briles không có cách nào đành phải rời đến California, tìm một công việc, học cách
sống độc lập. Briles nói, thời gian đó, chẳng có ai coi bà là người, ngay đến bản thân
bà cũng nghi ngờ mình là một hắc tinh, chỉ có thể đem lại những điều xấu cho
những người mà mình quen biết. Trong hoàn cảnh ấy, chỉ có sách và Thượng đế làm
bạn với bà.
Tận dụng thời gian rảnh rỗi, Briles viết một cuốn sách, đặt tên là “Từ thiếu nữ
thành phụ nữ”. Bà gửi bản thảo đến hơn 50 nhà xuất bản, và bởi vì bà không phải
người nổi tiếng nên tất cả các nhà xuất bản đều từ chối xuất bản sách của bà, dù các
điều kiện bà đưa ra hết sức bình thường. Tất cả các nhà xuất bản không những không
xuất bản sách của bà mà còn chế giễu bà, nói rằng nghề không hợp với bà nhất chính
là nghề viết sách.
Sau cùng có một nhà xuất bản đã xuất bản sách của bà. Thật bất ngờ, quyển sách
vừa bán ra đã nhận được sự ủng hộ nhiệt liệt của phụ nữ khắp nước Mỹ. Một năm
sách phát hành tới hơn 2 triệu cuốn. Sự thành công của cuốn sách đã thay đổi số
phận của Briles, giúp bà có khả năng mời được những luật sư giỏi nhất, lấy lại quyền
giám hộ con cái của mình, gặp được John, người đàn ông thực sự yêu mình. Hiện nay,
Briles đã trở thành một trong những người phụ nữ kiệt xuất của nước Mỹ đương đại,
trở thành đại diện xuất chúng cho sự chiến thắng cuộc sống bất hạnh. Bởi vì sau đó,
bà từng bị người bạn thân nhất lừa cho khuynh gia bại sản, rồi suýt chết vì bệnh ung
thư tử cung. Bà, một lần nữa phải chịu nỗi đau mất mát, tiếp tục sống một cách mạnh
mẽ dưới mái nhà dột nát…
Là một nhà diễn thuyết nổi tiếng trên toàn nước Mỹ, Briles nhấn mạnh, những
người yếu cũng có nhân cách và lòng tự trọng, nhưng sẽ không có ai quan tâm đến,
thậm chí người khác còn đem việc chà đạp lên nhân cách và lòng tự trọng của người
yếu để làm trò đùa. Sự phản kháng của người yếu chỉ nhận được sự chế giễu của họ
mà thôi. Nếu muốn sống có lòng tự trọng, bạn chỉ có cách là phải giành được thành
công trong sự nghiệp, trở nên mạnh hơn, thành công hơn những người chế giễu bạn.
Rất nhiều người nói rằng lớp thanh niên được sinh ra sau những năm 80 được sinh
ra trong “lọ mật” và vì thế họ cần phải sống trên “chiến trường”. Câu này đã nói một
cách rất rõ ràng và hình tượng về tình trạng cuộc sống của lớp thanh niên hiện
nay. Chúng ta mang theo lòng nhiệt tình và mơ ước, mang theo những kiến thức có
được trong mười mấy năm học, hừng hực khí thế bước vào xã hội, hy vọng làm nên
sự nghiệp lớn, làm được những việc vĩ đại. Thế nhưng chiến trường cuộc sống mang
lại cho chúng ta một cảm nhận rằng: sinh dễ, sống dễ nhưng “sinh sống” thì khó. Trên
“chiến trường” cuộc sống không có khói súng nhưng đầy rẫy đấu sỹ này, muốn giành
được một trận thắng không phải là dễ dàng, chứ đừng nói là giành được thắng lợi
trong cuộc chiến tranh, một chiến dịch.
Những người vốn tay trắng như chúng ta, là những người đến sau trong xã hội,
chưa bắt đầu đã phải chịu trách nhiệm, không thể không đối mặt với nguyên tắc sinh
tồn bất bình đẳng, đối mặt với trò chơi vô hình không có luật chơi, đối mặt với giá
thuê phòng đắt tới mức người nghèo không dám hỏi. Những nhu cầu thiết yếu của
cuộc sống, giống như một cái hố không đáy không thể lấp đầy.
Khi chúng ta nhận thức được rằng tiền bạc không phải là thứ vạn năng, nhưng
không thể không có tiền; khi chúng ta nhận thấy chúng ta đã thực sự trưởng thành,
chúng ta sẽ thấy tiền thực sự là một thứ đáng yêu. Tuy nhiên, khi đó, những cảm giác
mà xã hội mang lại cho chúng ta đã hoàn tất bố cục. Mỗi một ngành nghề đã trở thành
một cái vòng tròn với tường vây bằng sắt thép, bên trong vòng tròn đó là một
mẫu hạm khổng lồ về nhân lực, tiền bạc, quy mô và về tất cả các phương diện. Chúng
ta gần như chỉ có thể trở thành một linh kiện trong chiếc mẫu hạm đó, dựa vào đầu óc
và sức lực để kiếm số tiền ít ỏi để sống, chẳng có lựa chọn nào khác.
Công bằng trở thành một thứ xa xỉ phẩm. Trong quá trình mưu sinh ở thành phố
đông đúc, chúng ta quen với việc chấp nhận, thỏa hiệp. Cuộc sống bảo chúng ta học
cách bỏ qua, học cách lãng quên. Dưới miếng đá mài khổng lồ của xã hội, chúng ta
không những không mài được mình trở nên sắc nhọn mà còn bị mài mòn, dần dần bạn
trở thành người mà chính bản thân mình cũng ghét bỏ.
Nếu chúng ta đã thực sự chấp nhận, tình nguyện làm “con kiến thợ” cho xã hội, cho
người khác, điều đó cũng không sao. Nhưng nhân cách và lòng tự tôn đã được khắc
cốt ghi xương từ bé lại khiến chúng ta day dứt từ trong sâu thẳm tâm hồn. Chúng ta
không muốn sống cuộc sống không lòng tự trọng.
Thánh thần cũng không thể xâm phạm đến nhân cách và lòng tự trọng. Tuy nhiên,
là những kẻ yếu trong xã hội, có thể chúng ta phải chấp nhận sự chà đạp của kẻ mạnh.
Người đã từng làm nô lệ, một khi trở thành chủ nô lệ, sẽ có rất nhiều cách để chà đạp
người nô lệ bởi họ hiểu rõ điểm yếu của người nô lệ. Lúc này chúng ta nên nhẫn nhịn,
tránh than vãn hay phẫn nộ. Khi còn đi học, thầy giáo dạy chúng ta: “Không khom
lưng vì 5 đấu gạo”, dạy chúng ta làm người, dù là giàu hay nghèo thì nhân cách là thứ
mà thánh thần cũng không thể xâm phạm được, và chúng ta vô cùng tin tưởng vào
điều đó. Trước khi bước vào xã hội, chúng ta đã luôn sống như vậy.
Nhân cách và lòng tự trọng là những thứ riêng tư mà chúng ta không cho phép
người khác xâm phạm tới. Xét về bản chất của nhân cách và lòng tự trọng, mỗi người
trong xã hội đều bình đẳng như nhau, nên tôn trọng lẫn nhau. Tuy nhiên, điều này chỉ
có thể làm được trong sách vở. Một kẻ mạnh với nhân cách chưa hoàn chỉnh, sẽ tìm
cách giẫm lên lòng tự trọng của kẻ yếu. Sự khắc nghiệt của cuộc sống hiện thực giống
như một đôi tay độc ác, dù không muốn chúng ta cũng vẫn phải nhẫn nhịn, chờ đợi,
chấp nhận, bị đồng hóa trong quá trình chấp nhận, cho đến khi tất cả những sự chấp
nhận trở thành thói quen. Cách sống đó tuyệt đối không phải là điều chúng ta cần, vì
vậy, bạn phải tìm cách để duy trì, gìn giữ nhân cách và lòng tự trọng của mình.
Bất cứ một luật chơi nào trong cuộc sống đều do kẻ mạnh đặt ra. Hổ dữ không nhìn
thấy nước mắt của thỏ con, không bao giờ nghĩ rằng thỏ cũng là một sinh mệnh trong
rừng. Nó chỉ quan tâm đến việc thịt thỏ có tươi ngon hay không?
Thanh niên muốn duy trì sự hoàn thiện về nhân cách, sống có lòng tự trọng thì phải
dựa vào điều gì?
Không thể dựa vào sự than vãn, cầu cứu và la hét cũng không được, có chăng chỉ
nhận được sự đồng cảm vô giá trị. Trong xã hội hiện đại, chẳng ai dư thừa thời gian
để đồng cảm với những thanh niên đầy đủ chân tay, nội tâm yếu đuối, dùng nước mắt
để duy trì nhân cách và lòng tự trọng. Con người sùng bái những chiến sỹ, cho dù
những chiến sỹ đã hy sinh. Trong thời đại mà bất cứ ai cũng có thể thành công, muốn
sống có lòng tự trọng, chúng ta phải dựa vào thực lực của mình để chứng minh. Anh
hùng không hỏi xuất thân, chỉ có thành công mới có thể khẳng định được giá trị bản
thân. Đồng thời, khi một người giành được thành công trong sự nghiệp, những nỗi
khổ mà anh ta từng trải qua sẽ trở thành câu chuyện hay nhất khích lệ mọi người.
Mỗi người cần phải làm một người có ích, phục vụ cho xã hội, như thế mới có thể
hiểu được giá trị của sự tồn tại. Một người sống dựa dẫm, trở thành gánh nặng của gia
đình, của xã hội, bản thân không có tư cách để nói đến nhân cách và lòng tự trọng.
Chỉ khi thành công bạn mới có thể chứng minh tất cả, nói rõ tất cả và có được điều
mình mơ ước.
Chương III: Bạn không thể kiếm được 40 nghìn đô la ngay khi tốt nghiệp
trung học. Bạn không thể trở thành phó chủ tịch một công ty và có một chiếc ô tô
có gắn điện thoại cho đến khi bạn kiếm được cả hai thứ đó.
I. Khi còn trẻ, học lực càng cao càng tốt
Năm 2007, Bill Gates nhận được giấy mời của trường Đai học Harvard, đọc một bài
diễn văn cho các sinh viên tốt nghiệp. Trong bài diễn văn đó, nhà tỉ phú nổi tiếng thế
giới nói:
Có một câu nói mà tôi đã đợi 30 năm nay, cuối cùng cũng có thể nói ra: “Thưa cha,
con vẫn nói với cha, con sẽ quay lại để lấy lại được bằng tốt nghiệp của con!”
Tôi muốn cảm ơn Đại học Harvard đã cho tôi vinh dự này. Sang năm, tôi sẽ chuyển
công tác (ghi chú: chỉ việc về hưu, rút khỏi Microsoft)… cuối cùng tôi đã có thể viết
trong hồ sơ của tôi rằng tôi có bằng tốt nghiệp đại học chuyên ngành, thật là tuyệt vời.
Tôi mừng cho mỗi một sinh viên ngồi tại đây, bằng tốt nghiệp mà các bạn nhận được
dễ dàng hơn tôi rất nhiều. Tờ báo của Harward gọi tôi là “Sinh viên bỏ học có thành
công lớn nhất trong lịch sử của Đại học Harvard”. Tôi nghĩ điều này khiến tôi có tư
cách đại diện cho lớp sinh viên này phát biểu… trong số những người thất bại, tôi là
người làm tốt nhất. Tuy nhiên, tôi vẫn muốn cảnh tỉnh mọi người, Steve Ballmer (ghi
chú: Tổng giám đốc Microsoft) cũng bỏ học tại Harvard. Bởi vậy, tôi là người có sức
ảnh hưởng rất mãnh liệt. Đó là lí do tại sao tôi được mời đến đọc diễn văn tại lễ tốt
nghiệp của các bạn. Nếu tôi đến đọc diễn văn ở lễ nhập học của các bạn, thì có lẽ số
người có thể kiên trì đến ngày hôm nay để nhận bằng tốt nghiệp chắc sẽ không nhiều.
Đó là sự hài hước của Bill Gates. Dù ông đọc diễn văn trong lễ nhập học của các tân
sinh viên tại Harvard, các sinh viên cũng sẽ không học theo cách thành công của ông:
bỏ học mà trở thành tỉ phú giàu có nhất thế giới. Mỗi sinh viên sẽ càng cố gắng hoàn
thành sự nghiệp học tập của mình, bởi vì ai cũng biết, muốn vào làm việc tại công ty
phần mềm Microsoft của Bill Gates, điều kiện đầu tiên là phải có bằng tốt nghiệp đại
học chuyên ngành. Muốn nổi bật trong Microsoft thì phải là người xuất sắc hơn trong
những người xuất sắc nhất.
Bill Gates không vì bản thân không có bằng tốt nghiệp mà phủ định tác dụng của quá
trình học tập. Microsoft sở dĩ lớn mạnh là vì Microsoft có một đội ngũ nhân tài phần
mềm giỏi nhất thế giới, có đội ngũ nghiên cứu bao gồm các viện sĩ, nhà khoa học,
nghiên cứu sinh, kỹ sư. Những người này đều là những sinh viên ưu tú được đào tạo
từ những trường đại học nổi tiếng trên thế giới.
Microsoft là công ty hàng đầu trên thế giới, mặc dù chúng ta không nhìn thấy ở họ
những nhà máy mọc lên như nấm hay những dây chuyền sản xuất với máy móc khổng
lồ, cũng không nhìn thấy nhiều nhân viên; những gì chúng ta nhìn thấy được chính là
bộ não con người, một chiếc máy tính. Thứ họ bán là kiến thức, là kỹ thuật. Những
con người ngồi sau những chiếc máy tính này có học lực và thành tích cao hơn những
người khác.
Mỗi một người làm việc ở Microsoft đều ý thức được một cách rõ ràng rằng, ngày
hôm nay, giá trị của kiến thức và trí tuệ đã vượt xa so với bất kỳ thời đại nào trong
quá khứ. Nếu ai đó đưa một ví dụ nói rằng không cần tri thức cũng đạt được thành
công để chứng minh rằng tri thức không có giá trị thực, từ đó từ bỏ việc học tập và tu
dưỡng thì người đó không những xuẩn ngốc mà còn rất đáng thương.
Những người nói học tập vô dụng gồm hai loại người: Một là kiểu người thiên tài về
một lĩnh vực nào đó. Sự thành công của thiên tài có thể rất thuận lợi, nhưng thực ra
thành công này không bao giờ tách rời học tập, tư duy và nỗ lực.
Mọi người thường chỉ nhìn thấy thành công đáng kinh ngạc của thiên tài nhưng lại bỏ
qua những cố gắng và trả giá của họ. Có một thực tế là, dù bạn rất thông minh nhưng
nếu không biết cách tiến hành khai thác, dẫn dắt và điều khiển khả năng của bản thân,
bạn cũng không thể trở thành người hữu dụng cho xã hội.
Loại người thứ hai, đa phần họ là những người đạt được học vị thông qua các cuộc thi
cứng nhắc giáo điều, chỉ học những kiến thức trong sách vở chứ không biết cách tổng
hợp kiến thức, vận dụng kiến thức. Họ không biết mình muốn làm gì, có thể làm gì,
đương nhiên không ai muốn thuê họ làm bởi vì họ không thể giải quyết được những
vấn đề thực tế. Những người này, bản thân không biết vận dụng kiến thức, cũng
không học hỏi người khác, tất nhiên sẽ không thể giành được những thành công mang
“tính giai đoạn”.
Trên thế giới không có thành công nào là mãi mãi, chỉ có thành công mang “tính giai
đoạn”. Những thanh niên, chỉ cần giành được thành công mang “tính giai đoạn” thì
đều hiểu được một cách sâu sắc rằng những kiến thức mình có được còn quá ít ỏi. Vì
thế, những người càng giành được nhiều thành công lại càng khiêm tốn, họ luôn khát
khao được học hỏi. Có một thanh niên hỏi Einstein: “Ngài đã là người đứng đầu thế
giới trong lĩnh vực vật lí, gần như không ai có thể vượt qua ngài. Vậy ngài cần gì phải
miệt mài học hỏi kiến thức ở các lĩnh vực khác nữa? Lẽ nào ngài cảm thấy kiến thức
mình có được là chưa đủ?” Einstein không trả lời ngay câu hỏi của người thanh niên
mà lấy một chiếc bút, một tờ giấy, vẽ lên đó một vòng tròn to và một vòng tròn nhỏ,
rồi nói với người thanh niên: “Bây giờ, trong lĩnh vực vật lí, tôi có thể hiểu biết hơn
anh một chút. Giống như vòng tròn nhỏ này tượng trưng cho những hiểu biết của anh
về vật lí, những hiểu biết của tôi về vật lí giống như vòng tròn to này, Tuy nhiên kiến
thức về vật lí là vô biên, với vòng tròn nhỏ, nó chỉ có thể tiếp xúc được một diện tích
nhỏ trong kho tri thức vật lí khổng lồ, những thứ chưa biết mà nó cảm nhận được cũng
ít, còn diện tích tiếp xúc của vòng tròn to với thế giới sẽ lớn hơn, bởi vậy, cảm thấy
những thứ mà mình chưa biết còn nhiều, anh sẽ càng phải cố gắng để học hỏi”.
Có thể thấy, kiến thức không phải là vô dụng, chỉ là chưa có dịp được vận dụng. Nếu
nó được sử dụng, tự nhiên bạn sẽ thấy những kiến thức mình cần luôn thiếu hụt.
Thành công của một người không chỉ dựa vào kiến thức chuyên môn mà cần phải dựa
vào nhiều kiến thức xã hội khác.
Bill Gates chắc chắc là niềm tự hào của Harvard, bởi vì ông từng là sinh viên của
trường này, dù khi ở Harvard, ông không học về chuyên ngành máy tính, và cũng
chưa hoàn thành chương trình học; nhưng Bill Gates chưa từng phủ nhận ảnh hưởng
của Harvard đến cuộc đời ông.
Trong quá trình học các học vị cao, chúng ta sẽ có cơ hội tiếp xúc với những thầy giáo
đã rất thành công, những bạn học vô cùng thông minh và được sống trong một tập thể
những người thông minh. Như thế, chúng ta sẽ nhận được nhiều sự ảnh hưởng vừa vô
hình vừa hữu hình. Dưới những ảnh hưởng này, chúng ta không ngừng hoàn thiện bản
thân, thay đổi bản thân, khẳng định bản thân, đồng thời trở nên thành đạt.