Tải bản đầy đủ (.docx) (114 trang)

bí quyết bán hàng thành công - sau 5 phút bạn có được đơn đặt hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (537.93 KB, 114 trang )

2. Quần áo trang sức - ngôn ngữ không lời
Mặt tiền của ngôi nhà là một bộ phận quan trọng cần được trang trí đẹp, sao cho
tương xứng với ngôi nhà. Nhà văn Anh - Shakespeare nói: "Quần áo trang sức là mặt
tiền của con người". Ý kiến này được nhiều người tán đồng. Rất nhiều người vì ăn
mặc luộm thuộm mà bị chỉ trích. Kinh nghiệm chứng minh: Ăn mặc là một trong
những tiêu chuẩn để đánh giá phẩm chất và lòng tự tôn của con người. Những người
khát vọng thành công nên chọn quần áo như chọn bạn đời. Ăn mặc sang trọng sẽ tạo
ra vẻ tôn nghiêm. Ấn tượng của sự ăn mặc có thể mang lại thông tin: bạn là người như
thế nào. Họ có thể xét đoán bạn qua cách ăn mặc: thông minh hay ngu dốt, thành công
hay thất bại, đáng tin hay đáng ngờ, cẩn thận hay đểnh đoảng.
Ăn mặc phải phù hợp với địa vị, lứa tuổi, nghề nghiệp Nếu một học sinh mặc
quần áo đắt tiền, đeo nhẫn kim cương đắt giá, đi xe máy cao cấp dễ làm cho mọi
người cảm thấy phù phiếm. Nếu một người mặc bộ complê cao cấp, nhưng đi giầy rẻ
tiền sẽ bị đánh giá là không biết ăn mặc.
Rất nhiều thanh niên cho rằng, ăn mặc đẹp là phải dùng hàng cao cấp, đắt tiền của
các hãng thời trang nổi tiếng thế giới. Ăn mặc còn phải phù hợp với thu nhập. Nếu
không, bạn sẽ rơi vào cảnh nợ nần chồng chất. Lúc đó, quần áo cao cấp sẽ trở thành
gánh nặng. Ăn mặc phải phù hợp với hoàn cảnh để tạo được sự thoải mái, tiện lợi.
Nếu công tác của bạn đòi hỏi ăn mặc giản dị, gọn gàng thì bạn phải mặc quần áo phù
hợp. Nói chung, ăn mặc là để phục vụ cho công việc, học tập, sinh hoạt vì vậy bạn
không nên quá cầu kỳ trong việc ăn mặc.
Quần áo là ngôn ngữ vật thể không lời, thể hiện được trạng thái tâm lý, chí hướng,
tính cách, hứng thú, sở thích
Người thích tự do thoải mái thường thích mặc quần áo bò. Người nghiêm trang
thích mặc complê, thắt cavát. Đội mũ lệch, phanh cúc áo ngực biểu hiện tính phóng
khoáng. Mặc quần áo đen thể hiện bạn là người lạnh lùng. Mặc quần áo màu tươi thể
hiện sự hoạt bát, hồn nhiên.
Những người thiếu tự tin hay tranh cãi thường ăn mặc giản dị, không thích mặc
quần áo đẹp. Nếu gặp loại người này, tốt nhất không nên tranh luận với họ. Nếu chúng
ta tranh luận, họ sẽ cố tranh cãi để bảo vệ thể diện. Nếu chúng ta thừa nhận ý kiến của
họ, họ sẽ cảm thấy chúng ta khoan dung và sẽ thay đổi thái độ.


Những người muốn nổi bật trong tập thể thường ăn mặc đẹp, hấp dẫn. Họ luôn
muốn tỏ ra họ là người nổi bật. Nếu chúng ta khen ngợi cách ăn mặc của họ, thì họ sẽ
không gây sự với chúng ta.
Những người cô độc, tâm trạng không ổn định thích mặc quần áo hợp thời trang.
Họ không hiểu sở thích của mình, thậm chí không thể nói họ thích gì. Họ cần sự đồng
cảm của mọi người hơn là sự khen ngợi quần áo của họ.
Những người tự cho mình là trung tâm, họ không quan tâm đến thời trang. Tính
tình của loại người này rất cương cường. Họ luôn cho rằng, nếu bắt chước mọi người
về trang phục sẽ làm mất giá trị cao quý của họ.
Những người tâm trạng ổn định thường không thích ăn mặc quá cầu kỳ. Họ không
mù quáng chạy theo thời trang. Họ ăn mặc gọn gàng sạch sẽ, không nổi bật. Họ thích
quần áo giản dị nhưng trang trọng. Họ là người đáng tin cậy. Trong cơ quan, họ là
những người ưu tú.
Phần thứ nhất: Năng lực thứ nhất: Biết người
Sự vĩ đại của nhà lãnh đạo là ở tố chất giỏi nhìn nhận, xét đoán người. Quan sát
hành động, lắng nghe lời nói của người khác, biết tính nết, hiểu suy nghĩ của họ, xét
trình độ thẩm mỹ của họ, đó là 5 mặt cần khảo sát tỉ mỉ rõ ràng.
Biết người thì không thể đánh giá sai về người đó, tránh được nhiều bất lợi trong
công việc.
Cử chỉ và hành động của mỗi người là sự thể hiện của tư tưởng, đạo đức, tính cách
và năng lực của người đó. Con người vốn thông minh có thể che giấu tất cả, song
không thể che giấu hành động của mình. Từ hành động, cử chỉ, ta có thể biết được ý
nghĩ, tâm lý, đạo đức, tính cách của người đó. Vì vậy, quan sát hành động để đánh giá
con người là phương pháp khoa học nhất.
Khi tiếp xúc với một người, bạn nhận thông tin từ lời nói của đối tượng không đến
35%, nhưng nhận thông tin từ tư thế, tác phong của đối tượng từ 65% trở lên.
1. Biết người qua tư thế, tác phong
Trong một khoảng thời gian, một người có rất nhiều động tác, tạo ra rất nhiều tư
thế khác nhau, thí dụ như hai tay đan chéo, chân vắt lên nhau, tay vung lên vung
xuống, mắt liếc ngang liếc dọc, lưng cúi gập một thời gian Là một nhà lãnh đạo, bạn

phải quan sát và đánh giá chính xác biểu hiện sinh động này của họ. Tư thế khác nhau
truyền đạt thông tin tâm trạng khác nhau. Tư thế có thể biểu đạt các hoạt động tâm lý
như tích cực, bình tĩnh, trang trọng, lạc quan, tự tin, vui vẻ…, hoặc mệt mỏi, chán
nản, nôn nóng, bi quan, thất vọng Vì vậy, người lãnh đạo phải hiểu được ý nghĩa nội
dung của từng tư thế, tức kiến thức về những biểu hiện phi ngôn ngữ.
1.1. Tư thế đứng (Dáng đứng)
Tư thế đứng của một người chứng tỏ tình trạng sức khỏe và lòng tự tin của người đó.
Tư thế đứng tiêu chuẩn là: đầu ngẩng, ngực ưỡn, bụng thu, hai chân hơi dạng, đứng
thẳng. Tư thế đứng này giống hình ảnh cây tùng hiên ngang. Đầu ngẩng, hai mắt
ngang bằng, nhìn thẳng về phía trước, miệng hơi mím, nét mặt hơi có vẻ cười, hàm
dưới hơi thu, hai vai thả lỏng hơi nén xuống. Ngực ưỡn, bụng thu, lưng thẳng, hai vai
để xuôi tự nhiên. Hai chân đứng thẳng, gót chân sát mặt đất.
Tư thế đứng không đẹp của một người là thân hình thẳng đờ, ngực nhô, lưng ngang,
vai thuỗn, cột sống ngả về sau, bụng phình, chân cong. Ngoài ra, còn một số tư thế rất
xấu, gây ấn tượng không hay cho mọi người như co đầu rụt cổ, khom lưng vặn vẹo,
chân cong đung đưa
Bất kể là nam hay nữ, tư thế đứng nếu có dáng thẳng, cao, ngay ngắn sẽ gây cảm giác
đẹp cơ bản.
Nói về tư thế đứng của nam giới, các bộ phận thân thể nên vươn lên: Đầu không cúi,
cổ không vẹo, vai không nhô, ngực không ưỡn, lưng không cong, đầu gối không
chùng. Các bộ phận cơ thể đều nên tự nhiên. Về tư thế của nữ giới, đầu hơi cúi (biểu
hiện dáng e lệ, dịu dàng), ngực hơi ưỡn (biểu hiện sức sống dồi dào), khiến người
khác cảm thấy họ là người tự tin), bụng hơi thu, hai mông thả lỏng hơi nổi về phía sau
(biểu hiện nét cong mềm mại của người phụ nữ).
Khi đứng nói chuyện, tư thế đứng nên tự nhiên, không nên giữ mãi một tư thế, khiến
ta mệt mỏi.
Khi đứng, tư thế tay của đối phương cũng biểu hiện rất rõ tâm lý như hai tay xuôi là
biểu hiện trạng thái thả lỏng; hai tay giang biểu hiện ý hoan nghênh và ôm hôn; hai
tay bắt chéo biểu hiện tâm lý phòng vệ, khoanh tay biểu hiện tâm lý kìm chế; giơ hai
tay có lúc biểu hiện chiến thắng, có trường hợp là đầu hàng.

1.2. Tư thế ngồi (Dáng ngồi)
- Khoảng cách chỗ ngồi:
Khoảng cách chỗ ngồi giữa hai người biểu hiện mức độ tình cảm giữa họ. Ví dụ, đôi
tình nhân ngồi gần nhau phản ánh tâm trạng gắn bó như keo sơn. Là người lãnh đạo
bạn không những phải ngồi đúng chỗ mà còn phải biết giữ khoảng cách giữa mình và
nhân viên.
- Phương hướng của chỗ ngồi:
Nếu hai người ngồi đối diện nhau, hai bên đều ở vị trí lý tưởng để quan sát đối
phương. Vị trí này dễ sinh ra xung đột về ánh mắt, gây tâm lý đối địch. Nếu giữa hai
người có một cái bàn hoặc vật nào đó ở giữa thì tạo ra tâm lý an toàn thoải mái.
Những người cùng cấp thường ngồi theo một hướng, nhìn một đối tượng, dễ tạo ra sự
đồng cảm. Sau lưng bạn lúc ngồi là một bức tường, bạn sẽ rất yên tâm, vì không bao
giờ sợ bị đánh lén từ sau lưng (cho dù chỉ là tưởng tượng).
- Ngồi vững hoặc ngồi ghé.
Khi quan sát cách ngồi của một người, bạn có thể biết tâm trạng của người đó. Người
ngồi hẳn vào trong ghế bành, chân duỗi biểu hiện muốn ngồi lâu. Đó là những người
có tâm lý muốn chỗ ngồi (địa vị) chắc chắn. Kẻ ngồi mớm ghế, chân chụm vào nhau
biểu hiện ý muốn sẵn sàng đứng lên. Ngồi như vậy thường có cảm giác không yên, vô
tình biểu hiện tâm lý phục tùng đối phương. Ngồi trước người này, bạn chớ tỏ ra mình
ưu việt hoặc ngạo mạn, bởi vì trong lòng họ đang có tâm lý phản kháng. Ngược lại
bạn biểu hiện sự đồng cảm hoặc quan tâm, họ nhất định sẽ vui sướng trong lòng, tự
nguyện hợp tác với bạn, sẵn sàng giúp đỡ bạn giải quyết khó khăn.
Những người ngồi vững, gác chân lên nhau thường là người thâm trầm, không chịu
thua ai. Nếu là nữ thì người đó tỏ ra tự tin về sắc đẹp và trang phục của mình. Cách
ngồi này dễ gây chú ý của nam giới, đồng thời cũng chứng tỏ dục vọng mãnh liệt.
Người ngồi kiểu này có lòng tự trọng cao, thích làm bà chủ. Cô ta tiếp xúc với nam
giới thoải mái, tự tin và cũng không dễ say mê.
1.3. Dáng đi
Có rất nhiều dáng đi như: Dáng đi dạo thoải mái tự nhiên, dáng đi mệt mỏi, dáng đi
ngất ngưởng, dáng đi ung dung, dáng đi thướt tha, dáng đi hùng dũng…

Mỗi người chúng ta đều có dáng đi riêng của mình, người quen biết họ chỉ cần liếc
qua dáng đi cũng biết đó là ai. Những người đang vui, bước chân của họ khá nhanh;
còn người đang buồn, dáng đi mệt mỏi, chậm chạp. Một kẻ tự cao tự đại khi đi cằm
hất, tay vung lên, chân bước thẳng, bước đi chậm, như có ý để lại ấn tượng cho mọi
người. Một kẻ đang chán nản thường kéo lê đôi chân, hai tay đút túi quần, rất ít ngẩng
đầu nhìn xa.
Cổ nhân có câu "nhất dáng nhì da". Điều này chứng tỏ dáng đứng, dáng ngồi, dáng đi
quan trọng như thế nào. Tất nhiên ta không thể thay đổi được dáng vẻ cha ông đã sinh
ra, song hoàn toàn có thể hạn chế được dáng đi dáng đứng xấu, luyện tập dáng vẻ tự
tin, đàng hoàng. Điều quan trọng là phải giữ cho cơ thể luôn mạnh khỏe, giữ tâm hồn
trong sáng, giữ tâm trạng luôn cân bằng. Có như vậy, việc luyện tập dáng điệu mới đạt
được thành công.
2. Sự kỳ diệu của tư thế tay (động tác tay)
Tư thế tay, tức động tác tay có tác dụng rất kỳ diệu. Có tư thế tay mạnh mẽ biểu
hiện ý chí kiên định, tính cách quả cảm. Có tư thế tay mềm mại uyển chuyển biểu hiện
tình cảm sâu sắc, tâm trạng thanh thản. Vì vậy, người lãnh đạo phải biết sử dụng tư
thế tay của mình và đánh giá thế tay của nhân viên. Diễn thuyết, đàm phán, thảo luận,
dạy học, thậm chí chuyện trò hàng ngày luôn sử dụng thế tay. Thế tay là cái lưỡi thứ
hai.
Thế tay là động tác bổ trợ tăng cường sức cảm hóa của ngôn ngữ, nhưng không
thay thế được ngôn ngữ. Tay vung loạn xạ có thể là do trong lòng bất an tạo ra, cũng
có thể do quá hưng phấn, muốn tăng cường ngữ khí, nhấn mạnh ý nghĩa của lời nói
tạo ra. Vì vậy, bạn không nên sử dụng động tác tay quá nhiều, vì sẽ gây cảm giác khó
chịu cho người khác. Nếu thế tay hợp lý, đúng mức thì sẽ đạt được kết quả không ngờ,
thậm chí có tác dụng hơn lời nói.
Những thế tay thường thấy như sau:
1) Ngửa bàn tay: Bàn tay giơ cao biểu hiện ý vui mừng, ca ngợi, cầu xin. Nếu bàn
tay giơ ngang bằng là động tác của người ăn xin, biểu thị sự chân thành xin ý kiến,
tranh thủ sự giúp đỡ, thông cảm. Nếu tay hạ thấp biểu thị sự bất lực.
2) Sấp bàn tay: Mang ý nghĩa khống chế và phong tỏa, mang tính áp chế và tính uy

quyền của người nói. Tổng thống Mỹ Bush, Thủ tướng Anh Tony Blair, Chủ tịch
Cuba Fidel Castro khi diễn thuyết thường dùng động tác tay. Động tác tay của họ rất
phù hợp với thân phận và địa vị của bản thân.
3) Chém bàn tay: Biểu thị thái độ kiên quyết, quyết đoán.
4) Chụm ngón tay: Bàn tay khum, đầu các ngón tay chỉ vào thính giả. Động tác này
mang tính đối kháng, chỉ thị, nhưng dễ hình thành tính uy hiếp, khiêu khích. Tư thế
này chỉ dùng đối với các diễn giả đã có quan hệ quen thuộc với người nghe.
5) Xòe sấp tay: Lòng bàn tay hướng xuống, sau đó đồng thời xoè ra hai bên. Động
tác này biểu thị sự từ chối, cự tuyệt.
6) Chỉ ngón trỏ: Biểu thị chỉ người nào đó, vật nào đó, ý nào đó hoặc gây chú ý.
Nếu chỉ chìa ngón cái là sự biểu lộ lòng tự hào hoặc ca ngợi. Nếu mấy ngón cùng xoè
ra chỉ sự so sánh hoặc đếm số lượng.
7) Chụm 5 đầu ngón tay (hướng lên trên): Động tác này nhấn mạnh chủ đề, quan
điểm quan trọng, sử dụng khi gặp các vấn đề cần thảo luận.
8) Đẩy lòng bàn tay (ngón tay giơ lên, chụm lại, lòng bàn tay hướng ra ngoài rồi
đẩy ra): Động tác này thường biểu thị gạt bỏ ý kiến của mọi người, bày tỏ thái độ kiên
quyết.
9) Xoa tay: Hai tay xoa vào nhau biểu thị sự suy nghĩ, khiêm tốn, thành khẩn; xoa
tay vào ngực biểu thị tự hỏi mình; tay xoa đầu biểu thị hối hận hoặc nhớ lại.
10) Nắm đấm: Động tác nắm tay thành quả đấm có lúc biểu thị dọa dẫm, có lúc
biểu thị tình cảm xúc động, thái độ kiên quyết, nguyện vọng tất yếu phải thực hiện.
Động tác tay còn có những đặc điểm như:
1) Dùng tay giống như cái bút, vẽ hình ảnh trong không khí: Mọi người thường
dùng tay để biểu thị kích thước, độ cao, độ dài của vật thể. Trong vở kịch, động tác
tay được sử dụng nhiều hơn; ví dụ, mở cửa, đóng cửa, cưỡi ngựa, lên xe đều có thể
thông qua động tác tay để biểu hiện.
2) Dùng tay truyền đạt tình cảm mãnh liệt.
Tư thế tay có thể biểu thị nhấn mạnh, khi hoan hô tay chân nhảy múa; khi phẫn nộ,
tay nắm thành quả đấm; khi hối hận, thường xoa tay giậm chân; khi tỏ sự dũng cảm
thì vỗ ngực; khi đau khổ thì đấm ngực giậm chân; khi thất bại hai tay ôm đầu. Có rất

nhiều thế tay khiến mọi người cảm thấy sự nhiệt tình và vui sướng của đối tượng. Có
động tác tay khinh suất mang dáng vẻ du côn; có động tác tay lại thờ ơ lơ đễnh; có thế
tay khiến mọi người cảm thấy đối tượng dương dương tự đắc; có thế tay như muốn
nói bận tối mắt tối mũi, đang sắp phải làm một việc quan trọng; có động tác tay biểu
thị anh ta muốn nói với bạn một chuyện quan trọng, bạn hãy chờ một chút.
3) Động tác tay chỉ phương hướng hoặc biểu thị con số: Khi hỏi đường mọi người
thường dùng tay chỉ phương hướng, khi muốn tìm người nào đó trong đám đông cũng
dùng tay chỉ. Ngoài ra, động tác tay còn có thể thay thế con số.
3. Kỹ xảo bắt tay
Bắt tay là một thủ tục xã giao phổ biến thường gặp nhất trong giao tiếp. Cách bắt
tay thể hiện trình độ giao tiếp của người bắt tay, cũng thể hiện mức độ tình cảm của
người giao tiếp. Ý nghĩa của bắt tay chủ yếu thể hiện sự hữu nghị, thân mật thay thế
hoặc bổ sung cho lời chào, lời cáo biệt, biểu thị sự cám ơn, chúc mừng, thăm hỏi
Bắt tay chặt, hơi mạnh là sự biểu thị nhiệt tình thành khẩn. Nếu độ bắt vừa phải
chứng tỏ tâm trạng ổn định. Bắt tay vừa lỏng vừa ngắn ngủi bị coi là lãnh đạm, không
nhiệt tình. Khi bắt tay, ngón tay cái không nắm chặt biểu thị không muốn đối phương
nắm chặt tay mình, có ý coi thường đối phương. Dùng hai tay nắm chặt bàn tay đối
phương, lắc nhẹ sang hai bên là biểu hiện sự nhiệt tình, hoan nghênh, cảm kích. Nếu
vừa cầm tay đối phương đã lập tức rời ra là biểu thị sự lãnh đạm và không muốn hợp
tác.
Khi bắt tay, ngón tay nắm chặt là biểu hiện sự thành thực, thân thiết. Khi bắt tay,
lòng bàn tay sấp tỏ ra ngạo mạn, lòng bàn tay ngửa tỏ ra khiêm tốn cung kính. Đưa hai
tay ra bắt tay đối phương biểu hiện khiêm tốn, kính trọng đối phương.Bắt tay chặt hay
lỏng phụ thuộc vào mức độ thân thiết về tình cảm của hai người. Nếu hai bên thân
thiết đã lâu có thể bắt tay lâu hơn. Người bắt tay lâu không muốn rời là người tình
cảm phong phú, thích kết bạn. Nếu kết bạn với họ, sẽ giữ được tình cảm lâu dài.
Người bắt tay bằng hai tay biểu thị tấm lòng lương thiện, nhiệt tình, đôn hậu, mừng
giận thể hiện ra mặt, yêu ghét rõ ràng. Khi bắt tay, nắm chặt tay đối phương, lắc mạnh
chứng tỏ người đó sống lạc quan, tràn đầy hy vọng đối với cuộc đời. Những người
này tạo không khí làm việc tích cực cho đơn vị bằng nhiệt tình, hăng hái của mình.

Khi bắt tay chỉ dùng ngón tay nắm tay đối phương, lòng bàn tay không tiếp xúc với
lòng bàn tay của đối phương chứng tỏ người đó tính ôn hòa, nhạy cảm, dễ xúc động,
tấm lòng lương thiện, dễ đồng cảm. Khi bắt tay nắm chặt, xiết mạnh khiến tay đối
phương bị đau chứng tỏ người này rất tự tin, tinh lực dồi dào, thiên về độc đoán, hai
mắt nhìn thẳng đối phương chứng tỏ người này giỏi suy luận, kiên nghị, thẳng thắn,
có trách nhiệm, đáng tin cậy, thường xuyên góp ý xây dựng cho người khác, khi gặp
khó khăn có thể nêu biện pháp đối phó, rất được người khác tin cậy.
4. Ý nghĩa ngôn ngữ của các bộ phận cơ thể
Ngôn ngữ các bộ phận cơ thể là công cụ truyền thông tin bằng động tác của cơ thể
hoặc sự thay đổi các hình thái bộ phận cơ thể.
Ngôn ngữ của các bộ phận của cơ thể là một loại ngôn ngữ không lời dùng để biểu đạt
tình cảm, dục vọng của con người, nhà tâm lý học Mỹ Edward Koor nói trong cuốn
"Ngôn ngữ không lời" của ông như sau: "Ý nghĩa của ngôn ngữ không lời phong phú
hơn nhiều ngôn ngữ hữu thanh, hơn nữa cũng sâu sắc hơn".
Thông tin ngôn ngữ không lời chiếm tỉ lệ khá lớn so với thông tin ngôn ngữ hữu
thanh. Nội dung ngôn ngữ không lời phong phú, đa dạng, nhiều ý liên tưởng hơn so
với ngôn ngữ hữu thanh. Ký hiệu của ngôn ngữ vô thanh giống như một bức tranh
màu sặc sỡ. Mọi người thường nói trong lòng của mỗi người nam đều có hình ảnh
Lâm Đại Ngọc, trong lòng của mỗi người nữ đều có hình ảnh Hăm lét. Điều đó có
nghĩa là, mỗi người khi tiếp xúc với ký hiệu nghệ thuật, họ đều dựa vào kinh nghiệm
sống của mình, bổ sung, hoàn thiện, sáng tạo. Đến nay các học giả đã phát hiện hơn 2
triệu thông tin phi ngôn ngữ. Morabin phát hiện, sự truyền đạt một thông tin do 7%
ngôn ngữ,
38% âm thanh, 55% phi ngôn ngữ tạo thành. Trong bài "Nhận biết ngôn ngữ hình thể
như thế nào", Davis cũng có kết luận tương tự: Tổng hiệu quả thông tin = 7% chữ viết
+ 38% âm thanh + 55% biểu hiện vẻ mặt.
4.1. Ngôn ngữ không lời dùng mắt
Mắt càng biết nói sự thật hơn so với miệng. Bất kể bạn muốn giấu điều gì thì ánh mắt
của bạn sẽ nói một cách trung thực: tôi đang muốn gì.
Đôi mắt đong đưa của người phụ nữ cho biết thông tin người đó lẳng lơ. Đôi mắt liếc

ngang liếc dọc của người nam chứng tỏ người này có gian ý. Chỉ nhìn mắt của đối
tượng ta cũng biết tình cảm của họ đối với mình. Khi mắt của người phụ nữ giận dữ
có nghĩa là họ bực bội, cự tuyệt. Khi họ nhìn từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, biểu
thị sự khinh thường đối với đối tượng.
* Ngôn ngữ không lời: tức ngôn ngữ vô thanh, không dùng tiếng nói để diễn đạt ý
nghĩ mà dùng các bộ phận cơ thể để biểu đạt ý nghĩ, còn gọi là ngôn ngữ hình thể.
Khi cuộc nói chuyện vào vấn đề chính, đối phương đưa mắt nhìn ra xa, điều đó có
nghĩa là anh ta không hề quan tâm bạn đang nói gì. Khi cặp mắt đối phương lờ đờ tối
sầm thì đối phương đang gặp chuyện không hay hoặc xảy ra sự việc ngoài ý muốn.
Khi đang nói chuyện, mắt đối phương bỗng rực sáng, điều này có nghĩa lời nói của
bạn đã làm xúc động tâm linh của đối phương. Đối phương nhìn chằm chằm vào bạn
và nói: "Việc đã đến nước này, thì cứ phó thác cho số phận mà thôi!". Thái độ này
biểu thị lời nói dối hoặc tội lỗi của mình khi sắp bị bóc trần, biểu thị thái độ cố làm ra
vẻ trấn tĩnh. Khi đối phương đang lo điều gì trong lòng mà không thể nói ra, thì cũng
có ánh mắt, lời nói, biểu hiện như vậy. Đối phương có biểu hiện như vậy có thể hiểu
là họ đang tự ty hoặc đang muốn lừa dối bạn. Khi đang nói chuyện, đối phương thỉnh
thoảng nhìn ra xa, điều đó có nghĩa họ đang suy nghĩ về một việc gì đó. Khi bạn đang
nói đến vấn đề nghiêm túc với người yêu mà bạn quyết định lấy, cô ta thường xuyên
đưa mắt nhìn ra xa ngó nghiêng thì bạn có thể phán đoán trong lòng cô ta đang tính
toán.
Khi bạn nói chuyện với cấp trên mà cấp trên nhìn bạn từ trên xuống dưới, điều đó biểu
hiện sự kiêu ngạo tự phụ. Cấp trên khi nói chuyện với bạn không ngẩng đầu nhìn bạn,
điều này là một triệu chứng không hay. Có thể họ khinh thường cấp dưới, cho rằng
bạn chẳng có tài cán gì. Khi cấp trên nhìn bạn một hồi lâu, có nghĩa là ông ta đang đợi
thông tin nhiều hơn về bạn. Cấp trên thỉnh thoảng nhìn bạn, sau khi gặp ánh mắt bạn
lại nhìn xuống; nếu nhiều lần như vậy có thể khẳng định ông ta đang nghi ngờ bạn.
Khi cấp trên thân thiện thẳng thắn nhìn bạn, thỉnh thoảng chớp mắt, điều này có nghĩa
là ông ta đánh giá bạn rất có năng lực, rất thích bạn, thậm chí bạn phạm sai lầm cũng
được ông ta bỏ qua. Nếu ánh mắt cấp trên sắc lạnh nhìn bạn, điều đó có nghĩa là ông
ta muốn tỏ ra có uy quyền và muốn nói với bạn: “Anh chớ có lừa tôi, tôi có thể nhìn

thấu ruột gan anh". Nếu cấp trên nhìn chăm chú ra ngoài sân, thỉnh thoảng hơi gật
đầu, đây là tín hiệu vô cùng xấu. Điều này có nghĩa là ông ta muốn bạn hoàn toàn
phục tùng, bất kể bạn nói gì, muốn gì, ông ta cũng không thèm nghe.
Các chuyên gia nghiên cứu cho rằng, cấp trên có địa vị khá cao rất ít nhìn trực tiếp
vào mắt cấp dưới. Số lần và thời gian của cấp dưới nhìn vào cấp trên nhiều hơn.
4.2. Ngôn ngữ không lời dùng lông mày
Lông mày dùng để bảo vệ mắt, song cũng có thể truyền đạt thông tin về hành vi tâm
lý. Tâm trạng thay đổi, lông mày cũng thay đổi về hình dáng. Biểu hiện của lông mày
có thể chia thành 5 loại sau:
1) Dướn lông mày
Dướn lông mày biểu thị sự vui mừng phấn khởi hoặc vô cùng kinh ngạc. Khi dướn
lông mày một bên, biểu hiện đối phương không hiểu lời nói, việc làm của bạn và
muốn hỏi. Khi gặp sự việc bạo lực nào đó, bạn có thể nhíu mày hoặc dướn mày. Hai
cách này có lợi đối với bạn. Khi gặp đe dọa, phản ứng của chúng ta thường nhíu lông
mày, khi nguy cơ giảm bớt lại dướn lông mày để nhìn rõ xung quanh.
2) Nhíu lông mày
Nhíu mày ngoài ý nghĩa bảo vệ mắt ra, còn có ý để nhìn rõ sự vật hơn khi gặp nguy
cơ. Đây là phản ứng tự vệ điển hình khi gặp ánh sáng chói. Nhíu lông mày thường chỉ
tâm trạng bực tức, không đồng ý, ác cảm.
3) Nhô lông mày
Nhô lông mày chỉ lông mày dướn lên, dừng một chút rồi lại hạ xuống, thường kết hợp
với bĩu môi biểu thị sự ngạc nhiên không vui, có lúc biểu thị vẻ không còn cách nào
khác. Nhô lông mày có lúc chỉ người nói muốn nhấn mạnh điều gì đó. Khi nói đến
chỗ quan trọng diễn giả có thể không ngừng nhô lông mày.
4) Nghiêng lông mày
Chỉ lông mày bên này dướn lên, bên kia hạ xuống, thường hay thấy ở người nam
trưởng thành. Nó có ý nghĩa một nửa có ý vui mừng, một nửa có ý sợ hãi. Bên dướn
lông mày như muốn nêu một câu hỏi, phản ánh tâm lý nghi ngờ.
5) Lông mày động đậy
Lông mày lay động, lúc lên lúc xuống biểu thị tín hiệu hoan nghênh, là hành vi hữu

nghị. Hai người bạn thân lâu ngày gặp nhau thường có biểu hiện này, kèm theo ngẩng
đầu, mỉm cười, nhưng khi bắt tay, ôm hôn thì rất ít xuất hiện lông mày động đậy.
Trong khi nói chuyện nếu động đậy lông mày có nghĩa là đối phương muốn nhấn
mạnh điều gì đó.
4.3. Ngôn ngữ không lời dùng miệng môi
Miệng là bộ phận làm việc bận rộn nhất như cười, khóc, cắn, hôn, mút, ho, nói, la, hút
thuốc, uống nước Miệng có
4 dạng cơ bản: Đóng mở, dướn lên trên, hạ xuống dưới, dẩu chụm, mím môi lỏng
môi.
Nếu miệng mở mà không mím chặt được, điều đó có nghĩa người đó ý chí bạc nhược.
Mồm miệng nhanh nhảu, lời nói rõ ràng, là người giỏi ăn nói. Môi miệng bĩu về phía
trước có ý khinh thường. Cằm thu là kẻ làm việc tỉ mỉ nhưng hay đa nghi, không thích
giao tiếp. Cằm nâng thì tính kiêu ngạo, lòng tự trọng cao. Khi nói chuyện, mím môi
để nghe có ý tự kiểm điểm. Kẻ nào lời nói không rõ, nói năng chậm chạp nhưng ý chí
kiên định, kiến giải sâu sắc thì tài năng hơn người. Kẻ nào khi nói lấy tay che mồm thì
có tính bảo thủ, hướng nội, không dám bộc lộ mình. Kẻ nào mồm thành chữ nhất, khi
nguy nan thì tính cách kiên cường, nhất định hoàn thành công việc bất chấp mọi giá.
4.4. Ngôn ngữ không lời dùng mũi
Khi nói chuyện, mũi nở ra, phần lớn là đang đắc ý. Khi mũi ra mồ hôi chứng tỏ tâm lý
căng thẳng hoặc nôn nóng. Hình dáng mũi khoằm chỉ kẻ hiểm độc hung bạo. Mũi diều
hâu chỉ người độc ác. Mũi trắng hoàn toàn chỉ tâm trạng sợ sệt không dám làm. Mũi
cân đối, chắc khỏe chỉ tính cách kiên cường. Vuốt mũi trầm ngâm chỉ đối phương
đang suy tính muốn tìm ra cách thích hợp để giải quyết ổn thỏa vấn đề.
Có chuyên gia về ngôn ngữ cơ thể kết luận sau khi đi du lịch: Một, khi đi du lịch nước
ngoài, thường phải dùng ngôn ngữ cơ thể để giao lưu vì ngôn ngữ bất đồng. Vì vậy
"du lịch là phòng thí nghiệm của ngôn ngữ không lời". Hai, mũi là một trong những
căn cứ để đánh giá tính cách con người. Theo sự quan sát của ông ta, phàm những
người sống mũi cao, không nhiều thì ít đều cho mình ưu việt hơn người khác, thường
có biểu hiện ngạo mạn của "sống mũi cao". Về điểm này, ở các nữ minh tinh màn bạc
biểu hiện rất rõ. Ông nói, trong khi đi du lịch giao tiếp với người sống mũi cao khó

hơn giao tiếp với người sống mũi thấp.
4.5. Ngôn ngữ không lời dùng đầu
Đầu của người nam hơi ngẩng biểu hiện tinh thần mạnh mẽ và có sức mạnh. Đầu hơi
thấp, nhìn ngang càng làm cho người nữ trở nên thanh nhã hơn. Gật đầu biểu thị tán
thành, đồng ý. Ngẩng đầu biểu thị vui vẻ phấn khởi. Lắc đầu có nghĩa là phản đối
hoặc nghi ngờ. Đầu cúi chỉ sự mệt mỏi hoặc chán nản. Đầu hơi ngẩng biểu thị kinh
ngạc hoặc chào người quen ở xa. Lắc đầu sang trái rồi sang phải chứng tỏ người này
đang say sưa thưởng thức.
4.6. Ngôn ngữ không lời dùng vai
Động tác của vai có thể biểu đạt ý nghĩa công kích uy nghiêm, yên tâm, nhút nhát, tự
vệ Nhà ngôn ngữ cơ thể Mỹ - tiến sỹ Ruwen phân tích như sau: vai rụt về phía sau
biểu thị sự phẫn nộ do bất mãn, bất bình; nhún vai biểu thị sự lo sợ, bất an; dang hai
tay vai rộng biểu thị tinh thần mạnh mẽ; vai dướn ra phía trước chỉ gánh vác nhiệm vụ
trọng đại. Vai là bộ phận tượng trưng cho sự uy nghiêm của nam giới.
Vai nhỏ, mềm mại là biểu hiện của người nữ dịu dàng đáng yêu. Sau Đại chiến Thế
giới lần thứ II, khi phong trào nam nữ bình đẳng lên cao, có một thời gian thịnh hành
"Thời trang kiểu Mỹ": hai vai áo nữ đều được độn cao. Sau đó thời trang nữ lại trở về
truyền thống, bởi vì vai áo thon nhỏ thể hiện tính cách duyên dáng của người phụ nữ.
4.7. Ngôn ngữ không lời dùng chân
Quan sát chân có thể biết được tâm trạng con người. Nếu trong đàm phán, đối phương
ngồi ghé, mũi chân chạm đất, gót chân không chạm đất. Đây là tư thế mong chờ,
muốn hợp tác. Lúc đó bạn phải tận dụng thời cơ, hai bên có thể đi đến ký kết hợp
đồng cùng có lợi. Khi nói chuyện, thân thẳng, hai chân bắt chéo, tư thế này biểu thị sự
nghi ngờ và đề phòng. Nếu đối phương ngồi trên ghế hai mắt cá chân gập vào nhau thì
chú ý xem đối phương có phải đang kiềm chế không? Bởi vì khi kìm chế tình cảm
mãnh liệt, mọi người thường gập chân để hai mắt cá chân giao nhau. Khi đàm phán,
nếu đối phương ở trong tình trạng căng thẳng thường có biểu hiện như vậy.
Đối với một người ngồi trên ghế gác chân lên thành ghế, bạn phải hết sức cảnh giác,
bởi vì loại người này không có thiện chí hợp tác, không hề để ý đến nhu cầu của
người khác, thậm chí còn có ý nghĩa thù địch nhất định đối với bạn.

5. Động tác thói quen biểu lộ đặc điểm cá tính
Nhà tâm lý học Line nói: "Các loại hành vi thói quen thường ngày của mọi người,
trên thực tế phản ánh mối quan hệ thay đổi tương ứng đặc biệt giữa tình hình khách
quan và tính cách của họ". Điều này giúp cho các nhà lãnh đạo có căn cứ lý luận cần
thiết để nhận biết nhân tài qua những hành vi thói quen thường ngày của nhân viên.
Đặc trưng tính cách của một người đều bộc lộ ở những hành vi thường ngày được lặp
đi lặp lại trở thành thói quen. Sau đây là một số thói quen thường gặp:
5.1. Tay đặt trong túi quần (thói quen)
Hai chân đứng tự nhiên, hai tay đặt trong túi quần, thỉnh thoảng rút tay ra, rồi lại đặt
tay vào túi quần. Tính cách của loại người này khá cẩn thận, thận trọng, gặp việc gì
cũng suy nghĩ đắn đo nhiều lần mới hành động. Trong công tác, họ không linh hoạt,
luôn luôn dùng biện pháp cũ để giải quyết các vấn đề. Năng lực chịu đựng tâm lý đối
với thất bại đột ngột hoặc khó khăn kém. Khi gặp nghịch cảnh, họ oán trời trách
người, buồn bã chán nản.
5.2. Hai tay để sau lưng (thói quen)
Hai chân đứng tự nhiên, hai tay để sau lưng. Tính cách của loại người này hấp tấp, vội
vàng, nhưng khi giao tiếp quan hệ khá hòa hợp với mọi người. Nguyên nhân chủ yếu
là họ rất ít nói "không" với người khác. Những người thích biểu lộ quan cách, thường
có thói quen này. Hoặc hai tay vắt sau lưng, đầu ngẩng, đi đi lại lại. Dáng vẻ họ như
muốn nói: "Ta là lãnh đạo, các anh phải nghe lời". Đây cũng là tư thế tự tin.
5.3. Thường xuyên lắc đầu hoặc gật đầu (thói quen)
Thường xuyên lắc đầu hoặc gật đầu để biểu lộ sự phủ định hoặc khẳng định đối với sự
việc nào đó. Họ là những người rất biết biểu hiện mình, nhưng thường không được
mọi người yêu mến. Những người hay lắc đầu hoặc gật đầu là những người tự ý thức
mãnh liệt, công tác tích cực, làm việc gì cũng có quyết tâm cao, không đạt mục đích
không chịu bỏ cuộc.
5.4. Thở khói thuốc thành vòng tròn (thói quen)
Loại người này có đặc điểm nổi bật: Khi nói chuyện với người khác nhìn chòng chọc
vào đối phương, không thích bị gò bó, là người khá khảng khái, biết trọng nghĩa khí.
Vì vậy, luôn có một đám người vây quanh họ. Những người có thói quen thở khói

thuốc thành vòng tròn có thể chia làm hai loại: nếu thở khói thành vòng tròn lên trên
là người tích cực tự tin, còn thở xuống dưới là người tiêu cực, nhiều quỷ kế.
5.5. Vỗ đầu (thói quen)
Động tác vỗ đầu thường biểu thị đột nhiên có nhận thức mới đối với một việc nào đó.
Giống như người bất chợt tìm ra giải pháp kỳ diệu giải quyết ổn thỏa khó khăn. Nếu
vỗ vào gáy thì người đó rất quan tâm đến công việc. Vỗ trên đầu là muốn làm dịu
căng thẳng. Vỗ trán là kẻ thẳng ruột ngựa, có sao nói vậy, không sợ làm mất lòng
người khác.
5.6. Vỗ lòng bàn tay (thói quen)
Khi nói chuyện, liên tục vỗ vào lòng bàn tay, dang hai tay, động đậy ngón tay biểu thị
nhấn mạnh nội dung câu chuyện. Loại người này làm việc quyết đoán, tự tin, có thói
quen muốn mình đóng vai trò "lãnh tụ" trong bất kỳ trường hợp nào, tính cách hướng
ngoại, có khí phách "nam tử hán đại trượng phu".
5.7. Nói làm bất nhất (thói quen)
Khi bạn đưa cho anh ta một điếu thuốc, hoặc gắp thức ăn cho anh ta, anh ta nói
"không cần đâu", "thôi" nhưng tay vẫn chìa ra lấy, tỏ ra rất khách khí. Loại người này
khá thông minh, nhiều sở thích, xử trí linh hoạt, lão luyện, không sơ suất tùy tiện làm
mất lòng người khác.
5.8. Sờ tóc (thói quen)
Người có thói quen này tính cách rõ ràng, yêu ghét phân minh, đặc biệt rất ghét ác. Họ
thường làm việc mạo hiểm, thích ra hiệu bằng mắt, thích trêu đùa người khác. Trong
số người này có kẻ ít tu dưỡng, nhưng lại biết xử lý quan hệ giao tiếp, xử sự đàng
hoàng, giỏi nắm bắt cơ hội.
5.9. Rung đùi (thói quen)
Người thích rung đùi hoặc giậm chân xuống đất là người tính khá bảo thủ, rất ít quan
tâm đến người khác. Nhưng khi bạn bè gặp khó khăn, anh ta có thể góp những ý kiến
hay không ngờ.
5.10. Sờ cổ (thói quen)
Sờ cổ thường là biểu hiện hối hận. Khi gặp nguy hiểm, con người thường ôm đầu, ôm
gáy. Đây là tư thế phòng vệ. Nhưng những người có thói quen sờ cổ thường là người

rụt rè, sợ làm sai.
5.11. Dang hai tay (thói quen)
Đây là tư thế chân thành và công khai. Người Italia khi bị trắc trở thường dang hai tay
trước ngực như muốn nói: "Anh muốn tôi phải làm như thế nào?". Khi họ làm hỏng
việc, người khác nhắc nhở, họ liền dang hai tay biểu thị họ không có cách giải quyết.
Có lúc họ còn nhún vai, hai tay dang rộng, lòng bàn tay hướng lên trên.
5.12. Áo khoác không cài cúc (thói quen)
Tính cách của loại người này chân thành hữu nghị. Có lúc họ còn bỏ áo khoác ra. Đối
với nhà kinh doanh nếu họ cởi áo khoác, thì khả năng ký kết hợp đồng sẽ dễ dàng. Khi
nhà kinh doanh cảm thấy vấn đề còn vướng mắc, chưa thể ký hợp đồng họ sẽ không
cởi áo khoác. Người nào lúc cởi, lúc đóng cúc áo khoác thì tính tình do dự, ý chí
không kiên định, yếu đuối.
5.13. Đập bàn đánh nhịp (thói quen)
Có hai loại thói quen: Một là, khi nói chuyện dùng tay đập lên bàn hoặc dùng bút gõ
lên bàn theo nhịp đơn đồng thời gót chân đập xuống sàn hoặc rung chân, hoặc dùng
ngón chân đập nhẹ, nhịp điệu này liên tục. Điều đó có nghĩa là anh ta chán với chủ đề
cuộc nói chuyện. Hai là khi xem sách, xem ti vi, đọc báo, đặc biệt là xem bóng đá
bỗng nhiên đánh nhịp. Điều này biểu thị anh ta tán thưởng đối với tình tiết câu chuyện
hoặc động tác nào đó của vận động viên. Những người này là người lạc quan, không
phiền não lâu.
5.14. Hai tay chống cạnh sườn (thói quen)
Những người này muốn trong thời gian ngắn nhất, bằng con đường ngắn nhất để đạt
mục tiêu của mình. Tư thế này giống như biểu hiện chữ V, đại biểu cho thắng lợi
thành công. Đó là những người không làm thì thôi; nhưng đã làm thì làm rất tốt.
6. Quan sát động tác giả của đối phương
Nhận biết động tác giả của đối phương là một kỹ xảo để nhận ra lời nói dối của đối
phương.
Những kẻ nói dối thường dùng động tác giả để che giấu sự thật. Khi một người đến
nhờ vả người nào đó, nếu muốn từ chối, người này thường viện một lý do nào đó. Dĩ
nhiên người cầu xin không biết y đang nói dối, trừ phi lời nói dối bị bóc trần tại chỗ,

song tình hình này rất ít xảy ra. Phần lớn sau khi sự việc xảy ra người nhờ vả mới biết
sự thật. Khi nói dối, những người này thường có một số động tác giả.
6.1. Che miệng
Đây là động tác mang tính trẻ con. Có lẽ trong tiềm thức, người này không muốn nói
dối, do đó dẫn tới hành động này. Cũng có người giả vờ ho, để tìm lý do từ chối yêu
cầu của người nhờ vả. Khi bạn nói, họ lấy tay che mồm thì có thể họ cảm thấy lời nói
của bạn khiến họ không vừa lòng. Họ có thể để tay vào môi, hoặc nắm tay lại để trước
miệng.
6.2. Vuốt mũi
Có lúc, sau khi nói dối, sẽ xuất hiện ý nghĩ không tốt, tiềm thức khiến y lấy tay che
mồm nhưng sợ bạn phát hiện y nói dối liền chuyển nhanh sang vuốt mũi, sau đó lại
nhanh chóng hạ tay xuống nhưng thường những kẻ nói dối khi nói dối hay lấy tay dụi
mũi một lúc hoặc gãi gãi mũi.
6.3. Dụi mắt
Có một số kẻ khi nói dối, thường dụi mắt để tránh ánh mắt đối phương. Nam giới khi
nói dối hoặc nói khoác thường nhìn đi chỗ khác như nhìn xuống sàn nhà. Nữ giới nói
dối chỉ dụi mắt nhẹ vì sợ làm hỏng lớp phấn hóa trang mắt. Có lúc họ còn nhìn lên
trần nhà.
6.4. Kéo cổ áo
Có lúc, kẻ nói dối do bị kích thích ở vùng mặt và cổ nên dùng tay gãi mặt và cổ. Khi y
cảm thấy đối phương nghi ngờ, y thường tự nhiên kéo cổ áo.
6.5. Sờ tai
Những kẻ nói dối có thể xoa toàn bộ tai hoặc vê dái tai. Đây là động tác tranh thủ thời
gian để nghĩ cách nói dối của mình sao cho hợp lý. Lúc gặp khó khăn con người hay
vò đầu bứt tai.
6.6. Gãi cổ
Kẻ nói dối khi nói chuyện thường có thói quen gãi cổ ở phần dưới dái tai. Điều thú vị
là họ thường gãi khoảng 5 lần.
Ngoài các biểu hiện trên, kẻ nói dối còn có các biểu hiện sau:
- Bình thường ít nói, bỗng nhiên nói liến thoắng. Đây là phản xạ tự nhiên bộc lộ tâm

lý lo sợ.
- Nói nhầm lẫn liên tục.
- Giải thích quá nhiều về vấn đề đối phương nghi ngờ và giả vờ tỏ ra thành thực.
- Tinh thần hốt hoảng, không nhìn mắt đối phương.
- Số lần gật đầu tán thành ý kiến đối phương ít.
7. Thói quen hàng ngày
Thói quen không phải ưu điểm, cũng không phải khuyết điểm, nhưng nó ảnh hưởng
đến thành bại, vinh nhục của mỗi người. Nếu hành vi xấu trở thành thói quen thì nó sẽ
theo ta suốt đời. Tuy có thể loại bỏ thói quen xấu, nhưng cái giá phải trả tương đối
cao. Biện pháp tốt nhất là hình thành nhiều thói quen tốt, từ đó sẽ mất dần thói quen
xấu. Người lãnh đạo nên chú ý thói quen của nhân viên, bằng ảnh hưởng của mình
giúp họ khắc phục thói quen xấu.
7.1. Thói quen tàng trữ
Có nhiều người có thói quen tàng trữ các đồ vật mình yêu thích. Họ thu thập, bảo
quản, cất giữ cẩn thận để thưởng thức hoặc cùng người khác thưởng thức. Đây là một
thói quen có ích nhằm thư giãn tinh thần, thưởng thức nghệ thuật, tăng kiến thức.
Song cũng có nhiều người tàng trữ các đồ vật không có giá trị chỉ để dùng khi có việc
nào đó. Nhiều khi những đồ vật này quá nhiều, chiếm nhiều không gian, gây mất vệ
sinh môi trường. Vì vậy nên bỏ đi những đồ không cần thiết, không nên để lại quá
nhiều.
7.2. Thói quen đọc sách
Bacon nói: "Đọc sách có thể giúp con người hiểu biết, nói chuyện có thể làm cho con
người nhanh trí, sáng tác có thể làm cho con người chính xác".
Người thích đọc lịch sử thì thông thái, thích đọc thơ ca thì lanh lợi, thích đọc sách
toán thì tinh tế, thích đọc triết học thì thâm thúy, thích đọc sách luân lý thì trang
nghiêm, thích đọc sách logic, tu từ thì giỏi biện luận. Từ xưa đến nay, những người tài
giỏi đều phải đọc sách. Đọc sách là gốc của tài năng. Nghe nói, Ngụy Hiếu Văn
Hoàng đế "tay không rời sách", Tống Thái Tổ - Triệu Khuông Dật yêu sách như tính
mạng, Tống Thái Tông Triệu Quang Nghĩa ngày đọc 3 quyển sách, Khang Hy Hoàng
đế mỗi ngày đọc sách 10 tiếng.

7.3. Thói quen hút thuốc
Hút thuốc quá nhiều có hại cho sức khỏe. Người nào cai được thuốc chứng tỏ có nghị
lực phi thường. Đại đa số kẻ hút thuốc có tính hướng ngoại, người không hút thuốc
tính tình hướng nội. Đây cũng là do môi trường tạo ra. Vì giao tiếp nhiều nên nhiễm
thói quen hút thuốc. Kẻ hút thuốc tuy tính tình khoáng đạt, nhưng thường qua loa đại
khái. Những người không hút thuốc thường cẩn thận, hà tiện.
II. Nghe tiếng nói
1. Tiếng nói của con người
Ngôn ngữ là công cụ quan trọng để trao đổi thông tin, trao đổi tình cảm. Thông qua
tiếng nói, ngôn ngữ trở nên tiện lợi, sinh động, hiệu quả. Mỗi người có một tiếng nói
riêng. Có người tiếng sang sảng, có người tiếng nói sắc lạnh. Có người tiếng nói mạnh
mẽ dõng dạc song có người tiếng nói lí nhí yếu ớt.
Khi trẻ em căng thẳng, tiếng nói thường ấp úng, nói lắp. Có người khi nói hay mở
đầu bằng cụm từ "Anh biết không?”. Cố ý lên cao giọng là có ý cảnh cáo người khác,
biểu thị tâm trạng không vừa lòng. Huýt sáo có lúc biểu thị tâm trạng vui vẻ, có lúc
che đậy sự lo lắng.
Tiếng nói của con người phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: tình trạng sức khỏe, môi
trường sinh tồn, cơ quan phát âm, tâm trạng, trình độ văn hóa Những người diễn
thuyết, nhà giáo, ca sỹ cần phải có giọng nói truyền cảm, đầy sức thuyết phục. Đối với
họ, âm thanh ngôn ngữ vô cùng quan trọng. Họ thường xuyên "rèn luyện" giọng nói,
khổ công tập luyện. Các nhà hùng biện cổ Hy Lạp thường luyện giọng rất gian khổ.
Nhà hùng biện lớn nhất thời cổ Hy Lạp Demosthemes (384- 322 Trước công nguyên)
đã ra bờ biển ngậm sỏi gào thét, nói to để khắc phục tật nói lắp từ nhỏ của mình.
Nếu phổi của bạn khỏe thì tiếng nói của bạn mạnh mẽ, vì vậy bạn nên chú ý rèn
luyện thở sâu, thở dài và giữ gìn không khí nơi ở luôn trong sạch.
II. Nghe tiếng nói 1. Tiếng nói của con người
Tiếng nói con người giống như khí ở giữa trời đất, chia thành trong và đục. Tiếng
nói trong nhẹ và nổi lên trên, tiếng nói đục nặng và chìm xuống dưới.
Sinh lý học cho rằng, tiếng nói khỏe xuất phát từ đan điền. Đan điền của con người
ở dưới rốn từ 3,3 đến 9,9 cm. Đạo gia chia đan điền thành 3 phần: thượng, trung và hạ

đan điền. Tiếng phát ra từ đan điền vừa mạnh vừa nặng, hài hòa, vang xa, là biểu hiện
của tạng thận khỏe mạnh. Thận khỏe thì thân thể tự nhiên khỏe mạnh. Khí từ đan điền
khỏe thì tiếng nói sang sảng hài hòa, mang lại cảm giác thoải mái.
Tiếng yếu khi ra khỏi họng, ngừng ở giữa lưỡi và răng. Thanh khí không đủ, gây
cảm giác yếu ớt suy kiệt, là biểu hiện của tạng thận suy yếu.
Sách "Lễ ký" đã từng bàn đến quan hệ giữa nội tâm và tiếng nói: Khởi nguồn của
tiếng nói là do nội tâm sinh ra. Nhịp đập trái tim con người là do tự nhiên. Cảm thấy
tự nhiên như vậy là nhờ biểu hiện của tiếng nói. Tiếng nói tương ứng (với nhịp đập
trái tim) vì vậy mới phong phú.
Tiếng nói của con người thay đổi theo sự thay đổi của thế giới nội tâm, cho nên nếu
nội tâm yên ổn thì tiếng nói hài hòa. Nội tâm vui vẻ thoải mái thì tiếng nói trong trẻo
tươi vui, nội tâm khỏe mạnh (hưng thịnh) thì tiếng nói mạnh mẽ, nhiệt tình.
Chương "Nghe nhìn" trong cuốn "Dật Chu Thư" có nói tới
4 điểm sau đây:
1) Người nội tâm giả dối, tiếng nói căng thẳng, ấp a ấp úng, nói lắp. Đây là biểu
hiện của tâm hư.
2) Người nội tâm thành thực, tiếng nói trong trẻo, có nhịp điệu rõ ràng. Đó là biểu
hiện của sự thanh thản.
3) Người nội tâm bỉ ổi, gàn dở, độc ác, tiếng nói quái lạ nghe rất chói tai.
4) Người nội tâm khoan hồng đại lượng, nhã nhặn, tiếng nói ôn tồn hòa nhã như
nước chảy hiền hòa.
Tiếng nói khác nhau mang lại cảm giác khác nhau. Các nhà tâm lý chia tiếng nói
thành mấy loại sau:
1 - Tiếng trầm mà thô: Tính cách chín chắn, thái độ lịch sự, tính thích ứng khá tốt.
2 - Tiếng sang sảng: Sức lực dồi dào, có khí chất của nhà nghệ thuật, có tình cảm,
có đạo đức, nhiệt tình.
3 - Tiếng nói nhanh: Tinh thần hừng hực, sức sống mạnh mẽ, tính cách hướng
ngoại.
4 - Tiếng nói vang cuối câu tinh thần sôi nổi, có sức thuyết phục, có ấn tượng.
5 - Tiếng nói lý nhí, âm mũi: Gây cảm giác khó chịu cho người khác bởi tính cách

yếu đuối, nhút nhát.
6 - Tiếng nói đều đều: Gây cảm giác nhạt nhẽo, cứng nhắc, bởi tính cách lạnh lùng,
không có hồn.
3. Nhận biết tính cách qua tiếng nói
Tiếng nói phản ánh tâm trạng con người. Con người thường có 7 tâm trạng tình
cảm sau đây:
Hỷ: Vui mừng, phấn khởi
Nộ: Tức giận, phẫn nộ Bi: Bi ai, buồn thương Khủng: Sợ hãi, kinh sợ Ái: Yêu, quý
mến
Tăng: Ghét, thù ghét
Dục: Ham muốn
Giọng nói là một trong những yếu tố quan trọng của tiếng nói. Giọng nói lớn biểu
hiện uy quyền. Tiếng nói to có thể áp chế người khác. Tiếng nói nhỏ có lúc cũng có
hiệu quả, gây chú ý của người nghe. Tiếng nói lúc to, lúc nhỏ sẽ gây chú ý của người
nghe vì sự thay đổi của giọng nói.
Tiếng nói sang sảng sẽ làm cho người nghe phấn chấn. Tiếng nói lí nhí rên rỉ sẽ
làm cho người nghe khó chịu, buồn chán. Tiếng nói nhanh có tác dụng giục giã người
khác. Tiếng nói quá nhanh gây cảm giác hỗn loạn, vội vã. Tiếng nói chậm biểu hiện
sự chín chắn, thành thực. Tiếng nói quá chậm làm người nghe bực bội vì họ phải chờ
đợi.
Sau đây là những loại giọng nói cơ bản:
Giọng nói này thường sử dụng trong các trường hợp nhờ vả, hỏi thăm, an ủi, bày tỏ
ý kiến. Đây là giọng nói nhã nhặn, dễ nghe, có hồn. Tiếng nói không gấp không chậm,
đem đến cảm giác hiền hòa, thân thiết, hữu nghị, tinh tế, thoải mái. Những người nam
có giọng nói này thì tính cách khoan hồng đại lượng, rộng rãi, đức độ; người nữ có
giọng nói này là người lương thiện, dịu dàng, quan tâm người khác. Người sử dụng
giọng nói này phần lớn là người nhã nhặn, khiêm tốn. Giọng nói này không dùng
trong trường hợp kiên trì lập trường, phản đối người khác, bảo vệ chính nghĩa hoặc
muốn nhấn mạnh trong khi nói.
Giọng nói này sử dụng trong các trường hợp kêu gọi, cổ vũ, thuyết phục, nhấn

mạnh. Những người nhiệt tình, tính cách khoáng đạt thường có giọng nói này. Giọng
nói tràn đầy sinh lực có tác dụng thuyết phục người nghe, mang lại tâm lý cổ vũ thúc
giục mọi người. Những người chí lớn, tính cách anh hùng, dũng cảm, không sợ khó
khăn gian khổ thường có giọng nói này.
Đây là giọng nói của người không có dũng khí, thiếu tự tin, sức chịu đựng kém,
nhút nhát. Họ là loại người vừa gặp khó đã chán nản, buồn bã. Trong tác phẩm
"Khổng Tử gia ngữ" có câu chuyện như sau:
Khổng Tử trên đường đi qua nước Tề, bỗng nghe tiếng khóc rất bi ai liền nói với
các học trò: "Tiếng khóc này tuy bi thương, nhưng không phải là đang khóc người
chết". Đi một đoạn Khổng Tử gặp người khóc thảm thiết. Người này tên là Khâu Ngô
Tử. Khổng Tử hỏi: "Ở đây không phải là chỗ bi ai. Vì sao ông lại khóc thê thảm như
vậy?". Khâu Ngô Tử trả lời sau khi thở dài: "Cuộc đời tôi có 3 tội lỗi lớn. Nay tôi đã
già mới hiểu ra, nhưng không thay đổi được nữa nên mới khóc thảm thiết như vậy".
Khổng Tử không hiểu ý bèn hỏi tiếp. Khâu Ngô Tử trả lời: "Thời trẻ tôi rất thích
học, chu du khắp nơi. Khi trở về thì cha mẹ đều mất cả. Là người con trai lại không
chăm sóc bố mẹ già, không lo chuyện tang ma cho bố mẹ, đó là tội lỗi lớn thứ nhất.
Tôi làm tôi tớ của vua Tề bao năm, vua Tề nay sống xa hoa kiêu ngạo, hống hách. Tôi
nhiều lần can gián nhưng không được. Đây là tội lỗi lớn thứ hai. Tôi vốn có nhiều bạn
bè không ngờ sau này đều tuyệt giao hết. Đây là tội lỗi lớn thứ ba. Cây muốn lặng, gió
chẳng dừng. Con muốn nuôi dưỡng cha mẹ, cha mẹ đều không còn. Thời gian đã trôi
qua không thể trở lại. Tôi không thể gặp lại được cha mẹ. Tôi là kẻ thất bại lớn. Vậy
còn mặt mũi nào sống trên đời này nữa". Nói xong, Khâu Ngô Tử nhảy xuống sông tự
vẫn. Con người đến bước đường cùng, bi thương mà tự sát, thật đáng thương.
Khổng Tử chỉ nghe tiếng khóc mà phân biệt được không phải khóc người chết, mà
là vì một nguyên nhân khác. Từ đó có thể thấy, chỉ cần nghe tiếng nói cũng có thể
nhận ra ý nghĩa ẩn chứa.
4. Nhận biết con người qua âm sắc
Tạp chí "Khoa học cơ thể con người" cho rằng: Tiếng nói của người là do khí qua
dây thanh, khiến dây thanh rung động tạo ra sóng âm thanh. Cảm nhận tiếng nói của
con người không phải vô hạn. Tai người chỉ cảm nhận được sóng âm từ tần số 2000

Hz đến 20 Hz. Sóng âm dưới 20 Hz và trên 2000 Hz thì con người không nghe được.
Tiếng nói của con người có sắc thái tình cảm nồng hậu, có thể tạo ra hiệu ứng tâm lý
phức tạp. Tiếng nói mạnh yếu, nhanh chậm, cao thấp, trong đục đều biểu thị tình cảm
phức tạp của con người. Sách "Linh Sơn bí diệp" có câu: "Quan sát thanh khí có thể
đoán được tính tình của con người, nghe chất giọng có thể phân biệt được bản chất
của con người, nghe thanh lực có thể biết được sức khỏe con người, nghe sắc điệu
giọng nói có thể biết tình cảm của con người". Thanh khí gần giống với âm lượng
trong thanh học. Qua tiếng nói biết được nội tâm thực sự của con người là một kỹ xảo
giao tiếp.
4.1. Âm sắc sâu trầm
Những người tiếng nói âm sắc sâu trầm lắng đọng thường là tài cao, nhã nhặn, hiểu rõ
tình người, có trách nhiệm đối với người khác và đối với xã hội, có thể tin cậy được.
Nhưng do tính phức tạp của quan hệ xã hội, những người này lại không được trọng
dụng. Ước mơ hoài bão của họ không có cách nào thực hiện được. Đại biểu cho
những người này là Khuất Nguyên thời kỳ Tiên Tần.
4.2. Âm sắc sắc bén
Những người âm sắc sắc bén, lời nói sắc sảo, thích tranh luận, khiến người đối thoại
bối rối. Những người này nhìn nhận vấn đề nhạy bén, nhưng do thấy rõ và công kích
nhược điểm của người khác nên dễ dẫn đến thù oán. Những người này xử sự bỏ gốc
lấy ngọn, đắc tội với nhiều người, vì vậy thường rơi vào cảnh bị cô lập.
4.3. Âm sắc cương cường
Những người âm sắc cương cường làm việc nguyên tắc, công bằng, vô tư, phải trái rõ
ràng. Nhưng do cứng nhắc, không linh hoạt nên khó thương lượng bàn bạc với người
khác. Tuy được người khác tôn trọng vì tính quang minh chính trực, bênh vực kẻ yếu,
tấn công kẻ ác, nhưng nhiều khi không đạt hiệu quả cao trong công tác.
4.4. Âm sắc dịu dàng, hiền hòa
Những người tiếng nói âm sắc dịu dàng hiền hòa là người nhân từ, khoan hồng độ
lượng, thái độ công bằng bao dung. Trong giao tiếp, họ tỏ ra đáng yêu, không thích
tranh luận, sợ tổn thương hòa khí. Những người này giỏi giao tiếp, có thể làm những
nghề thuộc ngành ngoại giao, giáo dục

4.5. Âm sắc ôn hòa
Những người âm sắc ôn hòa, tốc độ nói chậm, giọng hòa nhã, người tính nhã nhặn,
không thích tranh đấu, dễ hòa hợp với mọi người. Song họ thường tỏ ra sợ sệt, né
tránh. Tuy vậy trong lịch sử có câu chuyện sau đây:
Thời Tây Tấn, sau khi cha qua đời, Vương Trạm cư tang 3 năm. Khi kỳ tang đã mãn,
Vương Trạm làm nhà bên mộ cha. Vương Tế là cháu gọi Vương Trạm bằng chú, mỗi
lần đi tảo mộ đều không vào thăm chú, Vương Trạm cũng không gặp cháu. Nếu có
gặp nhau hai chú cháu chỉ nói vài câu xã giao mà thôi. Một hôm, Vương Tế vô tình
hỏi một số chuyện, Vương Trạm khi trả lời, tiếng nói, âm điệu thích đáng, âm sắc ôn
hòa trôi chảy khiến Vương Tế ngạc nhiên, bất giác giật mình. Vương Tế cảm thấy chú
mình không còn là người nhút nhát, không có ý kiến riêng, ý chí bạc nhược nữa. Càng
nói chuyện, Vương Tế càng kính nể. Từ đó, Vương Tế không dám coi thường Vương
Trạm nữa. Vương Tế tuy tài hoa xuất chúng, tính cách hào phóng, nhưng trước mặt
Vương Trạm cảm thấy xấu hổ thấp kém. Có lần sau khi nói chuyện với Vương Trạm,
Vương Tế bất giác than: "Trong nhà có danh sĩ mà 30 năm nay lại không biết".
Tấn Vũ Đế mỗi lần gặp Vương Tế thường lấy Vương Trạm để trêu Vương Tế: "Ông
chú ngốc trong nhà ngươi đã chết chưa?". Vương Tế không biết trả lời ra sao. Lần này
Vương Tế trả lời: "Chú thần không ngốc" và kể những ưu điểm của Vương Trạm. Tấn
Vũ Đế hỏi: "Có thể so sánh với ai?”. Vương Tế trả lời: "Ở dưới Sơn Đào, ở trên Ngụy
Thư". Nhờ sự giới thiệu của Vương Tế, năm 28 tuổi, Vương Trạm bắt đầu tham gia
chính sự.
4.6. Âm sắc nhẹ bổng
Những người tiếng nói nhẹ bổng là những người hấp tấp vội vàng. Họ trước khi làm
không hề chuẩn bị hoặc lên kế hoạch, thường làm việc một cách ngẫu hứng. Họ không
làm việc một cách tuần tự mà thường làm “cho xong”. Kết quả công việc không tốt,
bởi làm bừa làm ẩu.
4.7. Âm sắc vang ngân
Những người tiếng nói vang ngân là những người có năng lực tư duy độc đáo, dám
nói "không" với lãnh đạo, dám thách thức với truyền thống lạc hậu. Họ có tinh thần
đổi mới, làm việc sáng tạo. Khuyết điểm của họ là không giữ được bình tĩnh trước vấn

đề phức tạp. Họ không được mọi người thông cảm, ủng hộ.
5. Nhận biết con người qua tranh luận
Tranh luận là dùng lý lẽ thuyết phục đối phương. Nếu bắt bẻ ngôn ngữ (lời nói) thì
đối phương không phục. Nếu dùng đạo lý công bằng, chính trực để phân biệt đúng sai,
đạt tới mức thấu tình đạt lý thì đối phương sẽ tâm phục khẩu phục.
Qua tranh luận, lãnh đạo sẽ biết được kẻ nào có hiểu biết thấu đáo, kẻ nào hiểu biết
nông cạn. Người có tài khi tranh luận thì giảng giải có đầu có cuối, trình bày lý lẽ có
sức thuyết phục, đưa ra các thí dụ độc đáo điển hình, có biện pháp giải quyết khả thi,
được mọi người tán thành ủng hộ. Đó là những người nhìn thấu bản chất của vấn đề,
thái độ ung dung, "nói có sách", đưa ra chứng cứ cụ thể.
Song có kẻ tranh luận, dồn đối phương đến chỗ không trả lời được, khiến đối
phương bẽ mặt tức giận bỏ về. Về hình thức, người này tuy là kẻ chiến thắng nhưng
thực chất là kẻ thất bại.
Có kẻ giỏi ăn nói, biết tìm chỗ sơ hở của đối phương để phản đối, nhờ 3 tấc lưỡi
biến đen thành trắng. Mặc dù biết kẻ giỏi khoa môi múa mép, song mọi người không
tìm ra lý lẽ xác đáng để bác bỏ. Những kẻ như vậy không được mọi người tin phục.
Họ sẽ bị mọi người chê cười.
Người giỏi ăn nói thực sự phải là người khi thấy đối phương không nghe ý kiến của
mình thì chuyển đề tài nói chuyện sang chủ đề đối phương hứng thú, sau khi thấy
không khí trở lại bình thường mới quay lại vấn đề chính, dẫn dắt câu chuyện một cách
tự nhiên. Trong khi tranh luận, nếu có thái độ khiêm tốn, tôn trọng đối phương thì đối
phương sẽ dễ tiếp nhận quan điểm của mình. Tranh luận là cuộc nói chuyện, buổi thảo
luận nhằm thuyết phục đối phương đồng ý với quan điểm của mình, chứ không phải
để bôi nhọ, mạt sát đối phương.
6. 10 kiểu người biết nói chuyện
Ngôn ngữ là công cụ của tư duy, cho nên ngôn ngữ là căn cứ quan trọng để nhận
biết người khác. Tư tưởng, tình cảm của con người được biểu đạt thông qua ngôn ngữ.
Tính cách của một người biểu lộ qua lời nói. Những người biết nói chuyện là những
người nhiệt tình, có thể nhìn sự việc theo góc độ mới. Người biết nói chuyện là người
thành công trong cuộc sống và sự nghiệp, bởi tiếng nói của họ mang lại niềm vui, sức

sống, tình cảm cho người xung quanh. Có 10 kiểu người biết nói chuyện. Tục ngữ có
câu: "Người biết nói chuyện, chỉ một câu nói có thể khiến mọi người vui vẻ, người
không biết nói chuyện, một câu nói có thể làm mọi người lo sợ.
6.1. Người suy nghĩ độc đáo thì lời nói kỳ diệu
Kiểu người này thông minh nhanh trí, nói năng dí dỏm. Bất kể ở đâu, họ đều mang
đến tiếng cười cho mọi người, mang đến niềm vui cho người nghe.
6.2. Người tính kỹ lo xa
Kiểu người này tình cảm tinh tế, giữ được bình tĩnh trong mọi hoàn cảnh, năng lực
ứng biến giỏi. Một ưu điểm nổi bật khiến mọi người hâm mộ là họ không bao giờ làm
những việc không chắc chắn. Làm việc gì trước tiên họ cũng tính đến sự an toàn
(không được thất bại) sau đó mới tiến tới thành công. Những người này còn gọi là
kiểu người "chuyển từ phòng thủ sang tấn công".
6.3. Người biết lắng nghe
Người biết lắng nghe người khác nói là người suy nghĩ toàn diện, khiêm tốn, tôn trọng
mọi người. Tuy họ không nổi bật trong tập thể song lại được mọi người quý mến tôn
kính. Do biết lắng nghe nên họ được mọi người tín nhiệm.
6.4. Người tùy cơ ứng biến
Đầu óc của kiểu người này phản ứng nhanh nhạy, chỉ trong một vài giây đã hiểu tình
hình và đưa ra cách giải quyết. Họ phát hiện nhanh thời cơ và tận dụng cơ hội kịp
thời, nên thường thành công nhanh chóng.
6.5. Người giỏi phản biện
Kiểu người này không chỉ biết nói mà còn biết nghe. Họ thường nêu câu hỏi để bác bỏ
lý lẽ của đối tượng. Đây là mẫu người trí tuệ, nói hay, nói giỏi, lý luận chặt chẽ.
6.6. Người giỏi thuyết phục
Đây là kiểu người giỏi ngoại giao, hiểu rõ tư tưởng tình cảm của đối phương. Vì vậy
họ có tài dẫn dắt câu chuyện theo hướng tích cực. Điển hình kiểu người này là Gia Cát
Lượng.
6.7. Người nói năng dí dỏm
Kiểu người này đến đâu thường khiến không khí ở nơi đó tràn đầy sự vui vẻ. Tư duy
của họ không theo lý lẽ thông thường nhưng lại đầy ý nghĩa. Họ là những người thông

minh sắc sảo, tâm hồn tươi vui khoáng đạt. Chính họ làm cho cuộc sống của mọi
người trở nên thi vị, vui tươi.
6.8. Người nói hài hước gây cười
Kiểu người này thường gây cười bằng những lời giải thích khác thường, mang tính hài
hước vui vẻ. Họ ghép hai sự vật, hiện tượng không hề liên quan tạo thành một hình
ảnh không hợp lý, không hài hòa nhưng rất hứng thú. Nghệ thuật tạo ra tiếng cười
nhiều lúc vô cùng cao siêu, gây ấn tượng mạnh bởi tính triết lý của sự việc.
6.9. Người nói ví von bóng gió
Kiểu người này trình bày vấn đề theo một khía cạnh xa xôi. Người nghe phải liên
tưởng, so sánh những hàm nghĩa sâu xa của lời nói. Đây là người rất hiểu nhân tình
thế thái, giỏi dùng câu nói có ẩn ý để thức tỉnh con người. Tuy không đặt ra các câu
hỏi để kích thích sự suy nghĩ của con người nhưng những lời ví von, so sánh tạo ra
một hình ảnh sinh động, cụ thể, mới lạ mang lại hiệu quả nhận thức sâu sắc.
6.10. Người nói dai nói dài
Kiểu người này là những người tính cách ngoan cường, không đạt mục đích không
chịu thôi. Họ không sợ mất công mất sức, dùng cách nói đi nói lại một vấn đề khiến
người nghe phải đồng ý chấp nhận ý kiến của họ.
7. Chín kiểu người nói không đúng
Trong đời sống có rất nhiều hiện tượng giả. Có nhiều sự vật hiện tượng như đúng
mà lại sai, như thật mà lại giả. Lời nói của con người cũng vậy, mới nghe hình như rất
hay, rất hợp lý, song thực tế lại là những ý kiến có hại. Làm người lãnh đạo phải
thông qua so sánh, phân tích mới phân biệt lời nói nào là đúng và hợp lý, khả thi, lời
nói nào là sai, vô lý.
7.1. Người nói cho xong chuyện
Những người này do nhút nhát, sợ trách nhiệm, chỉ cầu bình an vô sự, vì vậy muốn
nói cho xong chuyện. Lời nói của họ không có tác dụng, phần lớn là có hại, bởi vì nó
làm lạc hướng sự suy nghĩ của người khác, dẫn tới hỏng việc. Tốt nhất ta nên lánh xa
kiểu người này.
7.2. Người bới lông tìm vết
Kiểu người nào cố ý bới móc khiếm khuyết, chuyện bé xé ra to, không có vấn đề gì

cũng bới ra vấn đề làm rối tung rối mù. Họ tự cho mình thông minh tột đỉnh, có lúc tỏ
ra ngạo mạn. Họ luôn có suy nghĩ gây khó dễ cho người khác để thỏa mãn tâm lý
ghen ghét. Họ không dựa vào nguyên tắc, bản chất của vấn đề để phân tích kết luận,
mà suy luận từ những điều vụn vặt. Họ bắt bẻ từng lỗi nhỏ, phân tích từng câu từng
chữ. Những người này bụng dạ hẹp hòi, quan điểm lệch lạc, chỉ thấy cây không thấy
rừng, chỉ thấy xấu không thấy tốt, nhìn đâu cũng thấy sai. Đầu óc thiếu thực tế, tính
cách xấu xa, ý nghĩ sai lầm, ý đồ của họ không những gây khó chịu cho người khác
mà còn gây thù chuốc oán suốt đời. Vì vậy ta phải đề phòng cảnh giác đối với loại
người này.
7.3. Người nói ngon nói ngọt (lời nói hoa mỹ)
Mọi người thường cho rằng: "Lời phù phiếm không thực, thiếu nhân đức". Ngạn ngữ
nước Anh cũng nói: "Lời nói thành thực thường không hoa mỹ gọt giũa. Lời nói hoa
mỹ gọt giũa thường không thành thực”.
Lời nói hoa mỹ nghe có vẻ hay và êm tai. Nếu tin vào những lời hoa mỹ, hậu quả sẽ
không thể lường được. Người thích dùng lời nói hoa mỹ thường xuất phát từ lợi ích
của mình để xu nịnh đối phương, làm cho đối phương lú lẫn, nhằm đạt được mục đích
cá nhân. Lời nói đường mật thường có cạm bẫy, chỉ khi bị hại, người nghe mới biết
mình bị lừa.
7.4. Người né tránh sự thật
Những người không nói sự thật tuy tránh cho họ gặp phải rắc rối nhưng vô tình đã làm
thiệt hại lợi ích của người khác. Chúng ta khó biết họ đang nghĩ gì, định làm gì. Họ
không xuất phát từ lợi ích của mọi người nên cố ý tránh không nói đến bản chất sự
vật, khiến người nghe lầm lẫn, công việc không tiến triển, thậm chí đổ bể.
7.5. Người thích nói lời trống rỗng
Kiểu người này nói những lý luận tưởng như cao siêu nhưng vô bổ. Họ là những
người nói khoác. Lời nói của họ không thể thực hiện được. Những người này nói rất
hay nhưng không thiết thực, không nói đến vấn đề cụ thể, quan trọng, cấp thiết. Người
Trung Quốc có câu thành ngữ "bàn việc binh trên giấy". Triệu Quát thời trẻ học binh
pháp rất nhanh, bàn binh pháp đâu ra đấy. Sau này Triệu Quát thay Liêm Pha cầm
quân, chỉ biết chỉ huy chiến trận theo sách, thiếu kinh nghiệm tác chiến và năng lực xử

trí linh hoạt. Trong trận Tường Bình, hơn 40 vạn quân Triệu do Triệu Quát chỉ huy đã
bị quân Tần bắt làm tù binh và chôn sống.
7.6. Người nói như vẹt
Kiểu người này thường bắt chước lời nói của người khác, không sáng tạo khi vận
dụng, nói đi nói lại một câu. Mặc dù có tài bắt chước, song không hiểu tình hình thực
tế dẫn đến việc áp dụng y nguyên kinh nghiệm, lý luận của người khác. Kiểu người
này đầu óc đơn giản, máy móc, cố chấp, vì vậy thường làm hỏng mọi việc.
7.7. Người hay kêu ca phàn nàn
Kiểu người này suốt ngày cằn nhằn, mặt mày nhăn nhó, gây khó chịu cho mọi người.
Thường khi gặp khó khăn, họ dùng cách nói càu nhàu để giải tỏa tâm lý bực bội, bức
xúc. Nếu biết kiềm chế thì lời nói của họ có thể được chấp nhận. Nhưng cách nói của
họ gây bực bội cho người nghe nên bị tác dụng ngược lại. Họ thiếu năng lực thích ứng
xã hội. Họ chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân. Trong gia đình, người vợ hay càu nhàu
thường gây khó chịu cho người chồng.
7.8. Người nói tràng giang đại hải
Những người này tuy nói thao thao bất tuyệt, nhưng toàn chuyện vu vơ. Họ không
nắm chắc vấn đề, nói lan man, lạc đề. Bất kể người nghe có tiếp thu hay không, họ cứ
nói tràng giang đại hải. Gặp người như vậy, biện pháp tốt nhất là chuyển chủ đề hoặc
tìm cách nhắc nhở để họ nói vào vấn đề chính.
7.9. Người nói bẻm mép
Kiểu người này nói thao thao bất tuyệt, tuy nói hay nhưng không thực. Họ giống như
cây ra hoa rất đẹp song không kết quả. Tuy giọng lưỡi sắc sảo, nói năng lưu loát,
nhưng người nghe đánh giá lời nói chẳng có nội dung sâu sắc gì.
7. Chín kiểu người nói không đúng
Vượng An Thạch đời Bắc Tống, khi thực hiện cải cách thể chế, đã sử dụng một số
người mới làm quan. Thiệu Ung viết thư cho Vương An Thạch nói: "Ngài nay đang
cầm quyền, đối với cải cách của ngài, một số người đều có ý kiến riêng. Một số người
có đạo đức, tuy lời nói của họ khó nghe, thường khiến cho ngài bực tức căm ghét,
nhưng sau này ngài sẽ được họ giúp đỡ. Ngược lại, có một số kẻ nịnh bợ, lời nói của
họ hiện nay nghe rất êm tai, khiến ngài vui vẻ. Nhưng một khi ngài thất thế, họ nhất

định sẽ bán rẻ ngài. Ngài nên cảnh giác đối với những kẻ xiểm nịnh".
Sau này đúng như lời Thiệu Ung đã nói, Lữ Huệ Khanh - kẻ được Vương An
Thạch cất nhắc đã phản bội lại Vương An Thạch.
Những kẻ vâng vâng dạ dạ, bợ đỡ nịnh nọt cấp trên chủ yếu là để dựa dẫm, lên
chức, mưu cầu danh lợi cá nhân. Người lãnh đạo cần phân biệt người trung kẻ nịnh.
Người lãnh đạo phải lánh xa những kẻ trước mặt nịnh nọt, không dám có chính kiến,
luôn vâng vâng dạ dạ, nói xấu người hiền, lòng dạ nham hiểm, hẹp hòi. Những kẻ này
không nghĩ đến lợi ích của tập thể, chỉ bàn đến chuyện vơ vét, thu vén cá nhân, kéo bè
kéo cánh, tham ô hối lộ, trắng nói thành đen. Phần lớn bọn này ăn chơi bừa bãi, lối
sống xa hoa, đục khoét công quỹ. Chúng luôn tìm cách chiều chuộng để lừa dối cấp
trên. Những kẻ hành vi đê tiện, lời nói nịnh bợ, thái độ khúm núm là những kẻ không
đáng tin cậy. Chúng sẵn sàng bán rẻ cấp trên. Bạn không thể thay đổi được những kẻ
này. Bạn chỉ có thể đề bạt những người trung thực, thẳng thắn, có thực tài thì mới đẩy
lùi tính tham lam nịnh bợ của họ.
III. Đánh giá đạo đức tư cách
1. Cá tính của con người
Cá tính của con người là đặc điểm tính cách mang đậm nét cá nhân. Là người lãnh
đạo, bạn phải biết cá tính của từng nhân viên để phân công công việc. Cá tính là tính
nết nổi bật, chủ yếu của một con người. Xét từ góc độ tâm lý, cá tính còn sinh động,
cụ thể, phức tạp hơn tính cách.
Con người nếu không có cá tính thì không thể tồn tại. Nếu cá tính con người bị đè nén
thì tâm hồn sẽ khô héo, nhân cách sẽ bị tổn thương. Con người không có cá tính sẽ
mất năng lực sáng tạo và vươn lên. Vì vậy, con người cần có cá tính để khẳng định
mình, phát triển cái tôi trí tuệ.
Cá tính của con người rất đa dạng và phong phú. Có người thâm trầm, có người hoạt
bát, có người bộc trực thẳng thắn. Người thâm trầm có nét đẹp của sự nghiêm trang.
Người hoạt bát có nét đẹp của sự nhiệt tình. Người thẳng thắn có nét đẹp của sự cao
thượng, trong sáng. Một người có thể có nhiều cá tính, cá tính càng nhiều thì tâm hồn
càng phong phú.
Sau đây là mấy loại cá tính cơ bản:

1.1. Chân thành - thiện chí
Loại người này nhiệt tình, sôi nổi, luôn có thiện chí đối với mọi người. Nhờ cá tính
này, họ có thể bù đắp một số khuyết điểm của cá tính khác.
1.2. Hữu nghị - tôn trọng
Loại người này có thể giao thiệp rộng, có quan hệ tốt đẹp với mọi người. Tình cảm
hữu nghị là mối quan hệ giúp đỡ lẫn nhau. Đây là thái độ tôn trọng lẫn nhau giữa
những người bạn tốt.
1.3. Lý trí - thông minh
Loại người này làm việc có suy tính, đi nhiều biết rộng, kinh nghiệm phong phú.
Trong quá trình xử lý công việc, họ không chê trách, coi thường người khác. Thái độ
ứng xử bình tĩnh, khách quan.
1.4. Lịch sự - tế nhị
Loại người này có phong thái ung dung tự nhiên, luôn giữ được quan hệ tốt đẹp với
mọi người. Tính lịch sự tế nhị của họ được hình thành trong môi trường giáo dục và
cuộc sống thuận lợi, vì vậy mọi người rất hâm mộ và tôn trọng người lịch sự nhã
nhặn. Đặc điểm nổi bật nhất của họ là cách xử sự có văn hóa, đầy tình người.
1.5. Khiêm tốn - thận trọng
Những người khiêm tốn luôn được mọi người quý mến. Sự khiêm tốn của họ bắt
nguồn từ nhận thức khách quan về tài trí và năng lực của con người. Họ hiểu rằng mỗi
người đều có mặt mạnh mặt yếu. Nếu họ đạt được thành tựu nào đó thì chủ yếu do
hoàn cảnh và điều kiện ưu việt tạo ra.
1.6. Quan tâm giúp đỡ
Quan tâm đến lợi ích của người khác là một đặc điểm tính cách của người có văn hóa.
Quan tâm giúp đỡ người khác là trách nhiệm nghĩa vụ của mỗi con người sống trong
cộng đồng. Trong gia đình, cá tính này là chất keo gắn bó mọi thành viên với nhau. Ý
nghĩa của cuộc đời con người là giúp đỡ người khác. Cổ nhân đã nói, giúp người
chính là giúp mình.
1.7. Kiên nhẫn - trách nhiệm
Những người có cá tính nổi bật này có thể hoàn thành được những nhiệm vụ khó khăn
gian khổ. Không có tinh thần kiên nhẫn, chúng ta không làm được điều gì.

1.8. Lạnh lùng - cô độc
Loại người này thường có biểu hiện đối xử lạnh nhạt, thờ ơ với mọi người. Chính sự
lạnh lùng ấy làm họ không có bạn thực sự. Cá tính này là biểu hiện của tâm hồn khô
cứng, giá lạnh, không còn tin vào con người.
1.9. Nghi kỵ - ghen ghét
Những kẻ hay nghi kỵ ghen ghét người khác thường là những kẻ nhận thức lệch lạc,
tâm hồn méo mó. Họ sợ người khác hơn mình, chiếm mất địa vị quyền lợi của họ. Về
thể chất, họ có một khiếm khuyết lớn nào đó, vì vậy luôn cảm thấy thiệt thòi, thấp
kém so với người khác.
1.10. Giả dối - nịnh bợ
Loại người này lựa chọn cách sống tồi tệ để giành quyền lợi cá nhân. Đây là cách
sống bỉ ổi nhất, hèn hạ nhất của con người. Cá tính giả dối - nịnh bợ thường xuất phát
từ sự độc ác, giả nhân giả nghĩa.
1.11. Thô lỗ - cục cằn
Loại người này có sự lệch lạc về nhận thức. Họ tưởng rằng thô lỗ cục cằn là biểu hiện
của sức mạnh. Họ cũng là người không được giáo dục toàn diện, thiếu tu dưỡng và ít
học.
1.12. Tự cao - nhỏ nhen
Loại người này luôn tự đánh giá quá cao về mình, coi thường người khác, không
muốn người khác bằng mình. Tính tự cao tự đại cũng bắt nguồn từ nhận thức phiến
diện, cố chấp.
1.13. Tự do - vô kỷ luật
Những người này không chịu phấn đấu, lười suy nghĩ, ham chơi biếng làm. Họ có tư
tưởng ỷ lại vào người khác, thích hưởng thụ những thứ họ không xứng đáng được
hưởng.
1.14. Bi quan bạc nhược
Loại người này bị tổn thương về tâm lý tình cảm, vì vậy luôn nhìn nhận sự việc theo
hướng tiêu cực. Về sức khỏe có thể bình thường, song thiếu ý chí, nghị lực vươn lên
trong cuộc sống.
2. Tính cách con người

Tính cách là đặc điểm tâm lý biểu hiện bằng thái độ hành vi đối với con người và
sự vật như dũng cảm, kiên cường, yếu đuối, hèn nhát, tế nhị, thô lỗ. Tính cách liên
quan đến gen di truyền. Tính cách một khi đã hình thành rất khó thay đổi. Thông qua
giáo dục, tính cách tốt được phát huy, tính cách xấu được hạn chế.
Thông qua lời nói, hành động, thái độ, tính cách của người nào đó sẽ được bộc lộ.
Người tính tình nóng nảy thường nói năng bộp chộp, hành động vội vàng, tâm trạng
căng thẳng. Người tính tình cởi mở, lời nói thường sôi nổi, thái độ nhiệt tình, hành
động nhanh nhẹn. Người tính tình bình tĩnh thường nói năng chậm rãi, hành động xác
đáng, thái độ đúng mực. Người tính tình tự cao tự đại thường nói quá sự thật, tự cho
mình là đúng, hành vi ngạo mạn, thái độ dương dương tự đắc. Những người khiêm tốn
thận trọng thường biểu hiện lễ phép, giữ chữ tín, hòa nhã, thân thiết với mọi người.
2.1. Tính cách hướng nội
Người có tính cách hướng nội có thế giới nội tâm phong phú, thích mơ mộng, tình
cảm sâu sắc, tâm lý nhạy cảm, ngại tiếp xúc với bên ngoài. Họ thường thu mình trong
"tổ kén" ít tiếp xúc với mọi người. Khi cần giao tiếp, họ thẹn thùng đỏ mặt, hồi hộp.
Phần lớn họ là người nhút nhát, sợ người khác chê bai. Họ thiếu tự tin, không muốn lộ
diện trước đông người.
Người có tính cách hướng ngoại giống như ngọn lửa, luôn luôn nhiệt tình sôi nổi,
thích biểu hiện mình. Họ là những người giỏi ăn nói, có lúc do quá nhiệt tình mà lời
nói, hành vi thiếu thận trọng, dễ làm mất lòng người khác, nhưng do không phải cố
tình nên dễ được thông cảm tha thứ. Họ hầu như không thể ngồi một chỗ suy tính mà
thích hoạt động. Họ bận rộn, đi khắp nơi, làm nhiều việc. Những người này có tác
dụng động viên, lôi kéo mọi người làm những việc có ích. Họ ham tìm hiểu thế giới
bên ngoài với hy vọng làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp. Ưu điểm nổi bật của họ
là tính năng động, vui vẻ, lạc quan, tự tin. Họ là những người sáng tạo, góp phần cống
hiến sức lực cho hạnh phúc loài người. Nhân vật đại diện cho tính cách hướng ngoại
điển hình là Tôn Ngộ Không trong "Tây Du ký".
2.3. Tính cách tổng hợp (vừa hướng nội vừa hướng ngoại)
Trong thực tế, không có ai là người có tính cách hoàn toàn hướng nội hoặc hoàn toàn
hướng ngoại. Người bình thường đều có cả hai tính cách này, song mức độ khác nhau.

Có người ở lĩnh vực này thì mang tính cách hướng nội, ở lĩnh vực khác lại mang tính
cách hướng ngoại. Ngay cả những người vốn mang tính cách hướng nội nhưng khi
hoàn cảnh thay đổi lại trở thành người mang tính cách hướng ngoại. Xưa nay mọi
người đều cho rằng, người mang tính cách hướng ngoại ưu việt hơn người mang tính
cách hướng nội nhưng thực ra mỗi tính cách này đều có ưu nhược điểm riêng.
Tổng thống Mỹ thứ 37 Richard Nixon viết trong cuốn "Những nhân vật vĩ đại": "Tất
cả những nhân vật vĩ đại mà tôi biết, họ đều có tình cảm phong phú. Hay nói cách
khác, họ là nhân vật rất có tình người. Có một số người như Churchill công khai biểu
lộ tình cảm của mình, có một số người như Nikita Khruschov không hề e ngại lợi
dụng tình cảm. Do Gaulle, Mac Arthur, Cát Điền đều là người biết khống chế tình

×