Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

skkn giảng dạy truyện ngắn từ việc khai thác tình huống truyện ở môn ngữ văn 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (980.66 KB, 30 trang )

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TRƯỜNG THPT NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GIẢNG DẠY TRUYỆN NGẮN TỪ VIỆC KHAI THÁC
TÌNH HUỐNG TRUYỆN Ở MÔN NGỮ VĂN 11
Người thực hiện: NGUYỄN THỊ LAN
Lĩnh vực nghiên cứu:
Quản lý giáo dục: *
Phương pháp dạy học bộ môn: *
Phương pháp giáo dục: *
Lĩnh vực khác: *
Có đính kèm:
* Mô hình * Phần mềm * Phim ảnh * Hiện vật khác

Năm học: 2013 - 2014
1
SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên : NGUYỄN THỊ LAN
2. Ngày, tháng, năm sinh: 14/04/1983
3. Nam, nữ: Nữ
4. Địa chỉ: B19K99 - Tam Phước - Thành phố Biên Hoà - Đồng Nai.
5. Điện thoại: 0976506618
6. Fax: Email:
7. Chức vụ: giáo viên.
8. Nhiệm vụ giảng dạy: giảng dạy môn văn lớp 12A7, 12A8, 11A1,11A2, Chủ nhiệm lớp 12A8.
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao nhất): CỬ NHÂN KHOA HỌC
- Năm nhận bằng: 2005.
- Chuyên ngành đào tạo: Ngữ văn.


III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Ngữ văn.
- Số năm kinh nghiệm: 07
- Các sáng kiến trong 5 năm gần đây: “Một số kinh nghiệm dạy tốt phần văn học nước
ngoài ngữ văn 10”
2
MỤC LỤC
Trang
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 1
1. Cơ sở lý luận 1
1. 1.Về khái niệm tình huống truyện 1
1.2. Về phân loại tình huống 2
1.3. Vai trò của tình huống 2
1.4. Cách tiếp cận tình huống… 3
2. Cơ sở thực tiễn 3
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP .4
1. Khai thác tình huống qua một số tác phẩm 5
1.1. Tình huống trong truyện ngắn Chữ người tử tù 5
1.1.1. Xác định tình huống…… 5
1.1.2. Phân tích tình huống 5
1.1.3. Rút ra ý nghĩa tư tưởng 6
1.2. Tình huống trong truyện ngắn Hai đứa trẻ 6
1.2.1. Xác định tình huống 6
1.2.2. Phân tích diễn biến tình huống 7
1.2.3. Rút ra ý nghĩa tư tưởng của tình huống truyện 8
1.3. Tình huống trong truyện ngắn Vi hành 8
1.3.1. Xác định tình huống 8
1.3.2. Phân tích diễn biến tình huống 8
1.3.3 Rút ra ý nghĩa tư tưởng của tình huống truyện 8

1.4. Tình huống trong truyện ngắn Tinh thần thể dục 9
1.4.1.Xác định tình huống 9
1.4.2. Phân tích diễn biến tình huống 9
1.4.3. Rút ra ý nghĩa tư tưởng của tình huống truyện 9
2. ÁP DỤNG THỰC NGHIỆM TRONG VĂN BẢN CỤ THỂ QUA TRUYỆN
NGẮN “CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ” (NGUYỄN TUÂN) 9
2.1. Giáo án chưa áp dụng giải pháp của đề tài 10-15
2.2. Giáo án áp dụng giải pháp của đề tài 15-21
IV. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI 22
3
V. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG 23
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO 23
VII. PHỤ LỤC………………………………………………………………… 24
4
GIẢNG DẠY TRUYỆN NGẮN TỪ KHAI THÁC TÌNH HUỐNG TRUYỆN
Ở MÔN NGỮ VĂN LỚP 11
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nếu như cấu tứ, mạch cảm xúc là điểm tựa để người đọc khám phá và tìm
hiểu một bài thơ thì tình huống truyện chính là yếu tố tạo những bất ngờ và làm
nên nét độc đáo cho câu chuyện. Phần nhiều những truyện ngắn được trích giảng
trong chương trình Trung học phổ thông (THPT) là những tác phẩm có cốt truyện
độc đáo, sâu sắc. Thông qua cốt truyện các tác giả muốn chuyển tải tới người đọc
những vấn đề về triết lí nhân sinh trong cuộc sống. Khi phân tích những truyện
ngắn này để phục vụ cho việc dạy và học của thầy và trò, giáo viên và học sinh còn
gặp nhiều khó khăn. Bởi có nhiều cách để khai thác, tìm hiểu truyện ngắn như: có
thể đi từ bố cục, cốt truyện; khai thác các tình tiết quan trọng hoặc phân tích, tìm
hiểu nhân vật
Theo tôi, ngoài việc tiếp cận tác phẩm truyện ngắn qua phân tích nhân vật,
cốt truyện, kết cấu, ngôn ngữ , chúng ta còn có thể tiếp cận từ tình huống của
truyện để làm nổi bật được giá trị của tác phẩm. “Vấn đề cơ bản của truyện ngắn

là tình huống của nó” (Nguyễn Viết Chữ, Phương pháp dạy học tác phẩm văn
chương theo loại thể, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội, 2006). Vì vậy, tôi đã chọn đề
tài: “Giảng dạy truyện ngắn từ khai thác tình huống truyện ở môn ngữ văn lớp
11” qua một số tác phẩm: Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân), Vi hành (Nguyễn Ái
Quốc), Tinh thần thể dục (Nguyễn Công Hoan), Hai đứa trẻ (Thạch Lam)
Qua đề tài này, tôi mong muốn sẽ góp những kinh nghiệm nhỏ của mình
trong việc giảng dạy truyện ngắn Ngữ văn 11, để giúp học sinh tiếp cận, nắm vững
nội dung, phân tích, tạo hứng thú trong quá trình lĩnh hội tri thức. Đồng thời, đảm
bảo được trọng tâm nội dung bài học với lượng thời gian nhất định. Đó là lí do tôi
chọn đề tài này.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lý luận
1. 1. Về khái niệm tình huống truyện
Tình huống “là cái tình thế xảy ra truyện” là “một khoảng khắc mà trong
đó dự sống hiện ra rất đậm đặc”, là cái “khoảng khắc chứa đựng cả một đời
người” (Nguyễn Minh Châu).
Theo Hêghen, nhà triết học, mỹ học lỗi lạc người Đức (1770- 1831) trong
tác phẩm nổi tiếng Mỹ học đã dành nhiều trang viết về tình huống: “Nói chung
tình huống là một trạng thái có tính chất riêng biệt và trở thành được quy định. Ở
trong thuộc tính này của nó, tình huống góp phần biểu lộ nội dung là cái phần có
được một sự tồn tại bên ngoài bằng sự biểu hiện nghệ thuật”.
Nhà văn Nguyễn Kiên đã hơn một lần nói về bản chất và vai trò của tình
huống: “Theo quan niệm của tôi, mỗi truyện ngắn chỉ tập trung vào một tình thế
nảy sinh trong cuộc sống. Nếu truyện ngắn có đến hơn một tình thế thì truyện ngắn
5
đó lập tức bị phá vỡ”. (Nhiều tác giả, Nghệ thuật viết truyện ngắn và ký, Nxb
Thanh niên, Hà Nội, 2000, tr. 44).
Từ một số ý kiến trên, có thể khái quát về tình huống truyện như sau: Tình
huống truyện còn được hiểu là mối quan hệ đặc biệt giữa nhân vật này với nhân vật
khác; giữa hoàn cảnh và môi trường sống, qua đó nhân vật bộc lộ rõ tâm trạng, tính

cách hay thân phận góp phần thể hiện sâu sắc tư tưởng của tác phẩm.
1.2. Về phân loại tình huống
Tình huống tâm trạng: Đó là sự kiện đặc biệt của đời sống mà ở đó nhân vật
rơi vào một tình thế làm nảy sinh một biến động nào đó trong thế giới tình cảm.
Tình huống này, thường dẫn tới một kiểu nhân vật là: Con người tình cảm. Nghĩa
là kiểu nhân vật được hiện lên chủ yếu bằng thế giới nội cảm của nó, nhà văn tạo
dựng nên hình tượng nhân vật chủ yếu bằng một hệ thống chất liệu là cảm giác,
cảm xúc với các phức hợp khác nhau của chúng. Còn các khía cạnh khác (như
ngoại hình, hành động, lí tính…) ít được quan tâm. Ví dụ như truyện ngắn: Hai
đứa trẻ của Thạch Lam.
Tình huống hành động: Là loại sự kiện đặc biệt mà trong đó nhân vật bị đẩy
tới một tình thế (thường là éo le) chỉ có thể giải quyết bằng hành động. Tình huống
này thường hướng tới một kiểu nhân vật: Nhân vật hành động. Nghĩa là nhân vật
chủ yếu được hiện lên bằng hệ thống hành vi, hành động của nó, các bình diện
khác ít được quan tâm. Do đó, nó quyết định đến diện mạo của toàn truyện: truyện
ngắn giàu kịch tính. Thậm chí mỗi thiên truyện, ở dạng rõ nét nhất, có thể coi như
một màn kịch, một vở kịch ngắn trong y phục văn xuôi (Truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan là một trường hợp tiêu biểu). Ví dụ: Chữ người tử tù của Nguyễn
Tuân, Tinh thần thể dục của Nguyễn Công Hoan.
Tình huống nhận thức: Đó là sự kiện đặc biệt của đời sống mà tại đó nhân
vật được đẩy tới một tình thế bất thường: đối mặt với một bài học nhận thức, bật
lên một vấn đề (về nhân sinh, về nghệ thuật) cần phải vỡ lẽ, giác ngộ. Kiểu nhân
vật của dạng tình huống này đương nhiên là: Nhân vật tư tưởng. Nghĩa là kiểu
nhân vật được khai thác chủ yếu ở đời sống nhận thức lí tính của nó. Chất liệu cơ
bản để dệt nên nhân vật là hệ thống những quan sát, phân tích, suy lí, đúc kết,
chiêm nghiệm, toan tính v.v… Mà trường hợp đậm đặc nhất là mỗi nhân vật
giống như một tư tưởng được nhân vật hoá. Diện mạo của loại truyện ngắn này
cũng đương nhiên là nghiêng về triết luận (nhiều truyện ngắn của Nam Cao, và
của Nguyễn Khải ở giai đoạn sau này có lẽ nghiêng về kiểu ấy). Cần lưu ý, ở
những trường hợp cực đoan, nó có thể là truyện ngắn luận đề. Ví dụ : Đôi

mắt của Nam Cao.
1.3. Vai trò của tình huống
Nếu đặt vào tình huống, tâm lí, tính cách nhân vật tự bộc lộ rõ nét, đồng
thời chủ đề tác phẩm cũng thể hiện sâu sắc. Ngoài ra, tình huống truyện còn có
tác động tới kịch tính của tác phẩm, tạo nên sức hấp dẫn cho thiên truyện. Do
đó, “tạo tình huống là phần lao động quan trọng nhất của qui trình sáng tạo
một truyện ngắn. Người viết có được một tình huống đặc sắc là đã có một tiền
6
đề khá chắc chắn cho thành công của cả truyện ngắn. Còn người đọc, nắm
được tình huống thì xem như đã có một chìa khoá tin cậy để mở vào thế giới bí
ẩn của tác phẩm” (TS. Chu Văn Sơn).
1.4. Cách tiếp cận tình huống
Khi phân tích tình huống cần theo các bước:
- Xác định tình huống.
- Phân tích diễn biến tình huống.
+ Diện mạo của tình huống (bình diện không gian).
+ Diễn biến của tình huống (bình diện thời gian).
+ Mối liên kết của tình huống với các khâu khác của tác phẩm (chi phối đến
tổ chức hình thức của văn bản nghệ thuật truyện ngắn).
- Rút ra ý nghĩa tư tưởng của tình huống truyện.
+ Về quan niệm: Toát lên quan niệm gì về nhân sinh, thẩm mĩ?
+ Về cảm xúc: Chứa đựng cảm xúc chủ đạo gì?
2. Cơ sở thực tiễn
Chúng ta thấy rằng việc tiếp cận truyện ngắn có nhiều phương pháp. Tuy
nhiên, trong quá trình dạy và học môn Ngữ văn ở trường THPT chưa đạt được
yêu cầu chất lượng và hiệu quả như mong muốn. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến
tình trạng đó, cả chủ quan lẫn khách quan, có thể nêu ra đây những nguyên nhân
cơ bản:
2.1. Về phía giáo viên
Theo tôi, có rất nhiều nguyên nhân vì có nhiều cách tiếp cận tác phẩm. Cách

dạy trước đây phần lớn nặng về lý thuyết thiếu thực hành đã gây nhàm chán và
lãng phí thời gian mà lại không phát huy sự tìm tòi khám phá những điều mới mẻ
của học sinh; Chính vì thế, dẫn đến việc dạy - học chay tràn lan, nặng về thuyết
giảng một chiều, để trò ghi chép rồi học thuộc ý của thầy. Cách học theo lối thụ
động đó không gây được sự hào hứng tìm tòi, khám phá những điều mới mẻ trong
mỗi giờ học. Vì thế, những kiến thức thu nhận được trở nên hời hợt, vay mượn,
không thấm sâu vào trí tuệ, tâm hồn các em.
Bên cạnh đó, tài liệu tham khảo phần truyện ngắn dành cho giáo viên trên thị
trường hiện nay quá nhiều, giáo viên gặp không ít khó khăn trong việc lựa chọn
sách tham khảo.
2.2. Về phía học sinh
Hiện nay, học sinh trước khi lên lớp chưa đọc tác phẩm trước ở nhà. Đây là
một trở ngại khá lớn khi các em hiểu, về một tác phẩm và phải thừa nhận một thực
tế là đa số học sinh hiện nay, không thích học môn Ngữ văn, không có hứng thú
trong việc tiếp thu kiến thức văn chương.
7
Riêng đối với Trường tôi, một trường có chất lượng đầu vào nhìn chung thấp
so với mặt bằng chung của các trường công khác trong địa bàn. Hơn nữa, học sinh
lại có thói quen thụ động, quen nghe, quen chép, ghi nhớ và tái hiện một cách máy
móc những gì giáo viên truyền đạt. Điều này đã thủ tiêu óc sáng tạo, suy nghĩ của
người học, biến học sinh thành những người quen suy nghĩ và diễn đạt bằng những
ý vay mượn, bằng những lời có sẵn của người khác. Do đó, học sinh trở thành
những con người lệ thuộc vào sách vở, học sinh không hào hứng và không quen
bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm của cá nhân trước tập thể, cho nên khi nói và viết
học sinh gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì vậy, học sinh bị hạn chế rất nhiều trong
việc tiếp thu và cảm thụ tác phẩm truyện ngắn .
Theo kết quả điều tra của bản thân tôi vào đầu năm học bằng phiếu lấy ý kiến:
Câu 1. Trước khi học tác phẩm truyện em có hay đọc tác phẩm trước
khi lên lớp:


Không
Những nguyên nhân khác:……………………………………………
Câu 2. Khi học tác phẩm truyện ngắn này em cảm thấy:
Thích
Không thích
Nguyên nhân khác: ……………………………………………………
Kết quả khảo sát cho thấy, trong tổng số 76 phiếu điều tra học sinh khối 11,
trong đó có đến hơn 2/3 ý kiến không thích học tác phẩm truyện vì:
- Khi học những tác phẩm này, hầu như học sinh phải đọc truyện ở nhà,
nắm được cốt truyện nên phải mất nhiều thời gian. Có nhiều học sinh chưa đầu
tư, chưa có thái độ học tập đúng đắn; chưa có thói quen chuẩn bị bài trước khi
đến lớp.
- Khả năng tiếp thu và cảm nhận những tác phẩm truyện ngắn chưa cao.
- Kỹ năng phân tích và cảm thụ những giá trị đặc sắc về nội dung các tác
phẩm truyện ngắn còn hời hợt, chưa sâu sắc.
Xuất phát từ thực trang học tập môn Ngữ văn. Đặc biệt ở việc giảng dạy các
tác phẩm truyện ngắn hiện nay, từ thực tế giảng dạy của bản thân mình, tôi mong
rằng đề tài này sẽ được sự đón nhận của đồng đồng nghiệp.
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP
Khi giảng dạy một tác phẩm truyện ngắn, sau phần Giới thiệu chung (giới
thiệu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của tác giả; giới thiệu về hoàn cảnh ra đời
tác phẩm), trong phần Đọc – hiểu văn bản, tôi thường hướng dẫn học tìm hiểu về
tình huống truyện. Xuất phát từ tình huống truyện, tôi khai thác tác phẩm về các
khía cạnh: nhân vật, kết cấu, nghệ thuật trần thuật,… Từ đó, tôi hướng dẫn học
sinh rút ra được chủ đề tác phẩm.
8
1. Khai thác tình huống truyện qua một số tác phẩm
1.1. Tình huống trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”
1.1.1. Xác định tình huống
Trong Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã xây dựng được một tình huống

truyện độc đáo. Hai nhân vật Huấn Cao và quản ngục, trên bình diện xã hội,
hoàn toàn đối lập với nhau. Một người tên “địa nghịch”, cầm đầu cuộc nổi loạn
nay bị bắt giam, đang chờ ngày ra pháp trường để chịu tội: còn một người là
quản ngục, kẻ đại diện cho cái trật tự xã hội đương thời. Nhưng cả hai nhân đều
là những con người nghệ sĩ, trên bình diện nghệ thuật, họ là tri âm, tri kỉ với
nhau. Nguyễn Tuân đã đặt những nhân vật của mình vào chốn ngục tù tối tăm,
độc đáo: mối quan hệ đặc biệt éo le, đầy trớ trêu giữa những tâm hồn tri âm, tri
kỉ. Tác giả đã đặt những nhân vật này trong một tình thế đối địch: tử tù và quản
ngục. Chính tình huống độc đáo này đã làm nổi bật vẻ đẹp của hình tượng Huấn
Cao, làm sáng tỏ tấm lòng biệt nhỡn liên tài của viên quản ngục, đồng thời cũng
thể hiện sâu sắc chủ đề của tác phẩm.
1.1.2. Phân tích tình huống
Không gian và thời gian diễn ra cuộc gặp gỡ. Không gian là nhà tù việc cho
chữ vốn là một việc thanh cao, một sáng tạo nghệ thuật lại diễn ta trong một căn
buồng tối tăm, chật hẹp, ẩm ướt, hôi hám của nhà tù (tường đầy mạng nhện, đất
bừa bãi phân chuật, phân gián). Cái đẹp lại được sáng tạo giữa chốn hôi hám, nhơ
bẩn : Thiên lương cao cả lại tỏa sáng ở chính cái nơi mà bóng tối và cái ác đang
ngự trị. Thời gian là những ngày cuối cùng trước khi ra pháp trường của Huấn
Cao. Không gian và thời gian như thế đã góp phần tạo nên kịch tính cho tình
huống.
Sự éo le trong thân phận hai nhân vật. Trước hết, xét ở bình diện xã hội, họ
là hai kẻ đối địch: Huấn Cao là "giặc" của triều đình - Quản ngục lại là quan của
triều đình. Nói một cách khác: Một người dám cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại
triều đình mục nát - Một người lại là viên quan đại diện cho bộ máy cai trị của
chính triều đình mục nát ấy.
Xét ở bình diện nghệ thuật, họ lại là tri kỉ, trên cả hai chiều của quan hệ.
Chiều đã hiện hình: Huấn Cao có tài hoa và khí phách còn Quản ngục lại ngưỡng
mộ khí phách và tài hoa. Chiều tiềm năng: Huấn Cao chỉ cúi đầu trước Thiên
lương cao khiết của con người, trong khi đó Quản ngục lại là "một tấm lòng trong
thiên hạ". Người nào cũng có những phẩm chất cao quí mà người kia khát khao

ngưỡng mộ. Sự éo le càng tăng gấp bội. Bởi vì, về hành động, Quản ngục bị đẩy
đến trước một lựa chọn nghiệt ngã đầy tính xung đột. Ông ta chỉ được chọn một
trong hai cách hành động, mà không thể dung hoà cả hai:
Cuộc đối mặt ngang trái. Nhìn phía này, đó là cuộc giáp mặt giữa hai loại tù
nhân. Huấn Cao là tử tù, theo nghĩa đen. Còn Quản ngục là kẻ bị tù chung thân,
không hoàn toàn theo nghĩa bóng. Trước đến giờ, bề ngoài Quản Ngục vẫn là một
viên quan của cái triều đình thối nát, nhưng bên trong lại tôn thờ những giá trị cao
quí tương phản với triều đình ấy (thuộc về những người chống đối triều đình). Con
9
người chức phận trói buộc cầm tù con người khát vọng. Quản Ngục vẫn sống theo
lối "xanh vỏ đỏ lòng". Không phải ngẫu nhiên Nguyễn Tuân đã chọn một so sánh
rất đẹp để viết về Quản Ngục: "Giữa cái chốn người ta sống bằng lừa lọc phản trắc,
thì tấm lòng biết giá người của viên quan cai tù là một thanh âm trong trẻo lạc vào
giữa một bản nhạc mà nhạc luật đã trở nên hỗn loạn xô bồ". Ông ta bị cầm tù chính
trong môi trường sống của mình. Nếu không gặp Huấn Cao chẳng phải ông ta cứ
bị cầm tù thế đến chung thân sao ? Nói cách khác, người này bị cầm tù về nhân
thân nhưng luôn tự do về nhân cách, còn người kia tự do về nhân thân nhưng lại bị
cầm tù về nhân cách. Nhìn phía kia, đó là cuộc đối chứng giữa hai thứ nhà tù.
Huấn Cao bị cầm tù trong cái nhà tù hữu hình. Còn Quản ngục bị cầm tù trong cái
nhà tù vô hình. Điều này cũng dẫn đến một kết cục không kém phần oái oăm, thoát
khỏi cái nhà tù hữu hình đã khó, nhưng thoát khỏi cái nhà tù vô hình còn khó hơn;
Quản Ngục không cứu được Huấn Cao và cũng không tự cứu được mình, còn
Huấn Cao chẳng những không cần giải cứu, mà trước khi ra pháp trường lại còn
cứu được Quản Ngục.
1.1.3. Rút ra ý nghĩa tư tưởng
Tình huống ấy chứa đựng một quan niệm sâu sắc: Cái đẹp là bất diệt. Dù
thực tại có hắc ám đến đâu cũng không tiêu diệt được cái đẹp. Nó mãi mãi là một lí
tưởng nhân văn cao cả của cõi người này.
Tình huống như thế cũng chứa đựng một niềm tin mãnh liệt, rằng: Cái đẹp
sẽ thanh lọc cuộc đời này. "Cái đẹp sẽ cứu vớt nhân loại", đó là tư tưởng của

Đôtxtôiepxki, người có ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng của người nghệ sĩ lãng mạn
Nguyễn Tuân.
1.2. Tình huống trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”
1.2.1. Xác định tình huống
Hai đứa trẻ là một truyện ngắn trữ tình. Nội dung truyện chủ yếu diễn ra
trong nội tâm thầm kín của nhân vật (Liên). Tình huống của truyện Hai đứa trẻ là
một tình huống trữ tình: Nhân vật truyện đối diện với chính mình trước cảnh tượng
quẩn quanh, buồn chán của một phố huyện nghèo chìm trong bóng tối. Tình huống
ấy khơi trong lòng Liên nỗi buồn chán khiến chị em cô chỉ khao khát chờ đợi
chuyến tàu đêm đi qua để trong giây lát được thoát ra khỏi cảnh phố huyện, thả
hồn theo một thế giới khác do con tàu mang theo. Truyện được kể với một giọng
thầm thì, nhỏ nhẹ mà đầy xót thương cho những kiếp người nhỏ bé sống leo lét
trong bóng tối và sự buồn chán của một phố huyện nghèo.
1.2.2. Phân tích diễn biến tình huống
Cái tình thế nảy ra truyện là hai đứa trẻ trên một phố huyện nghèo. Cái phố
huyện này có nguyên mẫu từ phố huyện Cẩm Giàng, nơi Thạch Lam từng sống
một tuổi thơ buồn và không ít lận đận. Đó là một miền quê xơ xác, tiêu điều, quẩn
quanh, mòn mỏi. Phố huyện dần vào màn đêm hoang vu thăm thẳm như chìm
nghỉm vào hư vô; đồ vật có một cái chõng, thì ọp ẹp sắp gẫy; có một manh chiếu;
có một cây đàn, thì cũ kĩ; có những ngọn đèn dầu, thì đều tù mù leo lét Trên cái
nền phông cảnh ấy, hiện ra những kiếp người tàn: Bác Xẩm, bà cụ Thi điên… về
10
khuya, ở chốn phố huyện kia chỉ còn có bóng tối và sự tịch mịch hoàn toàn ngự trị.
Tất cả cái thế giới kia được mô tả một cách tự nhiên kín đáo và sinh động, chúng
cộng hưởng với nhau góp phần tạo ra cái bầu không khí ảm đạm tàn héo vây phủ
lên toàn bộ câu chuyện.
Hai đứa trẻ này có nguyên mẫu ngoài đời là chính chị em Thạch Lam trong
những năm thiếu thời khi gia đình còn ở phố huyện Cẩm Giàng. Phải cái đận sa
sút, hai chị em đã phải nghỉ học để trông coi một cửa hàng tạp hoá, phụ giúp vào
việc sinh nhai của gia đình. Vì lẽ ấy mà diễn biến của tình huống cũng hiện thành

và hiện trong diễn biến của tâm trạng hai đứa trẻ.
Nhưng sự kiện chủ chốt qui tụ toàn bộ thiên truyện này lại là cuộc đợi tàu
của Liên và An. Nói cách khác, tình huống bao trùm toàn bộ tác phẩm lại là cuộc
đợi tàu của hai đứa trẻ trên phố huyện nghèo. Đây là cuộc đợi tàu lạ lùng. Lạ vì
chúng đợi tàu chẳng phải vì một mục đích nào thiết thực. Chừng như chưa được
nhìn đoàn tàu thì chúng chưa được sống trọn vẹn một ngày vì:
- Đoàn tàu là hoạt động sống cuối cùng của phố huyện. Tàu đến có làm
khuấy động bầu không khí hoang vắng của phố huyện lên một chút. Phố huyện có
bừng tỉnh giây lát trong một không khí ồn ào. Còn sau khi đoàn tàu đi khỏi, cả phố
huyện sẽ thu mình trong bóng tối như một miền đất chết, như chưa từng có phố
huyện trên đời. Chúng cố đợi là để được hoà vào nhịp sống sôi động hiếm hoi đó.
Nghĩa là từ sâu trong hồn hai đứa trẻ có một sự chối bỏ, không chịu thoả hiệp với
cuộc sống tẻ ngắt ở chốn này. Nghĩa là chúng thèm sống biết bao! Nếu còn một
đoàn tàu khác, hẳn chúng cũng sẽ cố đợi chờ thôi.
- Đoàn tàu là niềm vui duy nhất trong ngày. Sớm bị cuộc sống cướp mất tuổi
thơ, ném vào cuộc mưu sinh cùng với người lớn, nhưng chị em Liên vẫn cứ là “Hai
đứa trẻ”, cái tên của tác phẩm nói với ta điều đó. Nghĩa là trong chúng vẫn còn
nguyên những nhu cầu của trẻ con : nhu cầu vui. Trẻ con sống làm sao thiếu được
những trò vui, trò chơi, đồ chơi. Nhưng ở phố huyện này biết tìm đâu ra. Những
thứ ấy cũng thành đồ xa xỉ như phở của bác Siêu rồi. Chúng phải tự túc để bù vào
thiếu hụt ấy. Thế là đoàn tàu trở thành niềm vui duy nhất của chúng. Với bé An, có
thể nói, đoàn tàu đã thành một thứ đồ chơi. Chừng nào chưa được chơi cái trò nhìn
đoàn tàu, chừng ấy chưa thể ngủ yên, chưa sống trọn vẹn một ngày. Đoàn tàu của
thiên hạ trở thành đồ chơi hờ trong chốc lát của An. Chị em Liên muốn đến gần để
được nhúng mình vào không khí đông vui, vào vùng sáng rực lấp lánh của đoàn
tàu. Ngẫm ra thì đó chỉ là vui nhờ, vui ghé, vui lây thôi. Tội nghiệp!
- Đoàn tàu là sứ giả của một cuộc sống khác. Vị sứ giả vừa mời gọi vừa lạnh
lùng. Thạch Lam viết : “Con tàu đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế
giới khác hẳn…”. Nó hoàn toàn tương phản với phố huyện. Vụt qua trời đêm của
phố huyện như một vệt sao băng, đoàn tàu cho chúng biết: đâu đó bên ngoài phố

huyện này vẫn có một thế giới khác, ở đó cuộc sống tươi vui hơn, sôi động hơn,
đáng sống hơn. Trong chúng lại nhen lên những mơ tưởng. Chúng chưa kịp vui thì,
cũng đúng như một vệt sao băng, đoàn tàu đã mất hút vào bóng tối, mang theo luôn
vào bóng tối những mơ tưởng của Liên. Chạy đến từ Hà nội, chạy đến từ một tuổi
thơ đã mất, đoàn tàu đã là một tia hồi quang cho chúng được nhìn lại tuổi thơ tươi
11
vui trong chốc lát. An ủi thì ít, xót xa thì nhiều. Nhưng, cuộc sống phố huyện khác
nào như cái ao tù vô hình đang muốn nhấn chìm cuộc sống của chị em Liên. Đoàn
tàu với chúng cũng tựa hồ một cái phao tinh thần. Cố gắng chờ đợi là một nỗ lực
của chị em Liên. Tiếc rằng, đoàn tàu cũng chỉ như một ảo ảnh thôi. Vả chăng, đoàn
tàu hôm nay đã vừa kém đông lại vừa kém sáng đi nhiều rồi. Buồn lại thêm buồn!
Hai đứa trẻ con ngồi đợi đoàn tàu, trong mắt người đời có lẽ chỉ là một việc
bâng quơ không đâu, thậm chí vô nghĩa. Thế mà Thạch Lam lại đã thấy trong đó
một ý nghĩa không đùa, thấy nó chứa đựng một khát khao không chỉ của hai đứa
trẻ, không chỉ của phố huyện ấy, mà là của cả cái thế giới này: khao khát đổi đời.
Thông điệp nhà văn muốn nói qua đó là: hãy cứu lấy những đứa trẻ, cứu lấy tương
lai! cần phải thay đổi cái thế giới tăm tôi này đi! Hãy mang đến một cuộc sống
khác xứng đáng với con người hơn, một cuộc sống mà con người có quyền sống
trong hi vọng, chứ không phải đang tàn đi trong vô vọng thế kia. Đó là thông điệp
của một tấm lòng được chuyển tải bằng một tài năng.
1.2.3. Rút ra ý nghĩa tư tưởng của tình huống truyện
Truyện ngắn Hai đứa trẻ thể hiện niềm cảm thương chân thành của Thạch
Lam đối với những kiếp sống nghèo khổ chìm khuất trong mỏi mòn, tăm tối, quẩn
quanh nơi phố huyện trước cách mạng và sự trân trọng với những mong ước bé
nhỏ, bình dị mà tha thiết của họ.
1.3. Tình huống trong truyện ngắn “Vi hành”
1.3.1. Xác định tình huống
Vi hành là một truyện ngắn có giá trị châm biếm sắc sảo. Một tình huống
nhầm lẫn (tưởng người khách An Nam cùng trên một chuyến tàu điện ngầm là Khải
Định như một kẻ có bộ dạng kì quái, lố lăng, hài hước và một tư cách tầm thường,

đốn mạt…Nghệ thuật trần thuật rất độc đáo, luôn chuyển cảnh, chuyển giọng một
cách linh hoạt bằng hình thức viết thư. Cách xây dựng nhân vật cũng đặc sắc: Nhân
vật chính không hề có mặt mà lại hiện lên rất cụ thể và đầy vẻ hài hước.
1.3.2. Phân tích diễn biến tình huống
Vi hành là một truyện ngắn độc đáo của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
Nét độc đáo hấp dẫn trước tiên của Vi hành là tác giả đã sáng tạo ra một tình
huống truyện rất độc đáo và lí thú. Đó là tình huống nhầm lẫn: đôi trai gái trên tàu
điện ngầm nhầm tác giả với Khải Định. Sự nhầm lẫn đó tuy có dụng ý nhưng
không phải là vô lí. Vì đối với người Pháp thật khó phân biệt được những bộ mặt
khác nhau của người da vàng. Đối với họ vẫn cái mũi tẹt ấy, vẫn đôi mắt xếch ấy,
vẫn cái mặt bủng như vỏ chanh ấy có khác gì đâu. Sự nhầm lẫn ấy khiến cho tác
giả có thể nghe lỏm được cuộc trò chuyện thầm kín và tinh quái của đôi trai gái
Pháp về Khải Định. Vậy là Khải Định không xuất hiện trong tác phẩm mà chân
dung hắn lại được hiện ra hết sức sinh động và cụ thể. Dưới đôi mắt của những
người pháp thì Khải Định như một anh mũi tẹt, mặt bủng đội chụp đèn lên cái đầu
quấn khăn, đeo lên người rất nhiều lụa và hạt cườm…Họ nhìn Khải Định.
1.3.3. Rút ra ý nghĩa tư tưởng của tình huống truyện
12
“Vi hành” là truyện ngắn tiêu biểu cho bút pháp văn xuôi hiện đại Nguyễn
Ái Quốc, thể hiện tài châm biếm sâu sắc cảu tác giả về hoàng đế An Nam và triều
đình nhà Nguyễn, về thái độ của người dân và chính phủ “bảo hộ” đối với Việt
Nam và vị hoàng đế này.
1.4. Tình huống trong truyện ngắn “Tinh thần thể dục”
1.4.1. Xác định tình huống
Tinh thần thể dục là một truyện ngắn trào phúng. Tình huống truyện được
xây dựng trên một mâu thuẫn trào phúng: Đi xem đá bóng là chuyện giải trí lành
mạnh và rất vui, vậy mà lại tạo ra tai hoạ khủng khiếp cho người nghèo khiến họ
phải sợ hãi, tìm cách lẫn trốn, hoặc chạy chọt hối lộ để không phải đi…Đặc nhất
của truyện về nghệ thuật là ở cách trần thuật: phát hiện ra mâu thuẫn trào phúng rồi
phóng đại nói lên để gây cười bằng cách dựng lên những hoạt cảnh với những chi

tiết sinh động và thủ pháp giễu nhại hóm hỉnh.
1.4.2. Phân tích diễn biến tình huống
Có thể thấy tình huống chủ trương thể dục thể thao bịp bợm của chính quyền
thực dân qua phiến trát đòi đủ một trăm người, đúng 12h trưa đến xem, không
được khiếm diện, phiến trát lại còn chỉ rõ phải ăn mặc tử tế, đi đứng nghiêm chỉnh,
và phải vỗ tay luôn luôn; đã thế cuối phiến trát còn đe doạ các thầy không được coi
thường, nếu không tuân lệnh sẽ bị cữu. Hương Lí đi chiếu theo sổ đinh tìm lượt
cho đủ trăm người, nào bọn lính tuần đi lôi cổ những thằng định chuồn dám không
đi xem đá bóng, nào anh Mịch, bác Phô gái, bà cụ phó Bính, thằng Cò, van xin
hoặc thẽ thọt, nhỏ to hoặc dấm dúi, xin xỏ hoặc trốn chui trốn lủi…
Truyện diễn ra theo thời gian tuyến tính: ban đầu Hương Lí nhận phiến trát
của quan tri huyện X.X; sau đó là cuộc tróc nã người với 3 nhân vật đại diện; cuối
cùng là cảnh tượng diễn ra ở sân đình làng Ngũ Vọng vào tờ mờ hôm 29.
Như vậy, dù câu truyện rất ngắn diễn ra trong một không gian hẹp với thời
gian ít ỏi song nhà văn đã dựng lên các tình huống mâu thuẫn sắc nét, thể hiện
thành công chủ đề của truyện. Bởi vậy, truyện vừa giàu giá trị hiện thực vừa có
tính chiến đấu và vừa thấm thía cảm hứng nhân đạo.
1.4.3. Rút ra ý nghĩa tư tưởng của tình huống truyện
“Tinh thần thể dục” ta đã thấy rõ mâu thuẫn giữa mục đích bề ngoài có vẻ
rất vui, rất thoải mái của việc tổ chức đi xem đá bóng với thực chất của nó là cả
một tai hoạ ghê gớm đối với đời sống đầu tắt mặt tối của người dân cày khiến cho
kẻ thực thi quyền pháp phải dùng đến cả những biện pháp cưỡng bức quyết liệt và
hùng hổ nhất.
3. GIÁO ÁN MINH HỌA CỤ THỂ QUA TRUYỆN NGẮN “CHỮ NGƯỜI
TỬ TÙ” (NGUYỄN TUÂN)
3.1. Giáo án chưa áp dụng giải pháp của đề tài
Tiết 41+42: Đọc văn CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ.
(Nguyễn Tuân)
13
A. Mục đích yêu cầu

- Giới thiệu tác giả có phong cách nghệ thuật độc đáo: Tài hoa, uyên bác,
trí tuệ.
- Cảm nhận được vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao. Đồng thời hiểu và phân
tích được nghệ thuật của thiên truyện qua cách xây dựng nhân vật.
- Rèn luyện ý thức biết yêu quí cái đẹp và văn hoá cổ truyền dân tộc - một
vẻ đẹp còn vang bóng .
B. Phương tiện thực hiện
- SGK, SGV Ngữ văn 11.
- Tài liệu tham khảo.
- Thiết kế bài học.
C. Cách thức tiến hành
Phương pháp đọc hiểu, đọc diễn cảm, phân tích, bình giảng, kết hợp nêu
vấn đề, so sánh qua hình thức trao đổi, thảo luận nhóm.
D. Tiến trình giờ học
1. Ổn định tổ chức.
2. Kiểm tra bài cũ: kiểm tra sự chuẩn bị ở nhà của học sinh.
3. Bài mới.
Hoạt động của GV và HS Nội dung cần đạt
* Hoạt động 1.
Gv cho HS đọc tiểu dẫn SGK và cho
biết phần tiểu dẫn SGK trình bày
những nội dung chính nào?
Hs đọc và trả lời
Nhiều bút danh:
+ Thanh Hà (Thanh hoá- Hà Nội)
nơi khởi nghiệp sự nghiệp văn
chương của ông.

Em hãy nêu những tác phẩm chính ?
Hs trả lời

Gv: Em hãy co biết vài nét chính về
truyện ngắn « chữ người tử tù" ?
I. Tiểu dẫn.
1. Tác giả.
- Nguyễn Tuân: 1910 - 1987 - Người Hà
nội. Sinh ra trong một gia đình nhà nho.
- Nhà văn tài hoa, phong cách nghệ
thuật độc đáo: Luôn tiếp cận cuộc sống từ
góc độ tài hoa uyên bác ở phương diện
văn hoá, nghệ thuật.
- Ngòi bút phóng túng và có ý thức sâu
sắc về cái tôi cá nhân.
- Sở trường là tuỳ bút.
2. Những tác phẩm chính (SGK)

3. Giới thiệu truyện ngắn: Chữ người
tử tù.
- Lúc đầu có tên là: Dòng chữ cuối cùng,
14
Gv cho học sinh tóm tắt đoạn trích
* Hoạt động 2. Đọc hiểu văn bản
TT1: GV giới thiệu thú chơi chữ.
Chữ Hán (Chữ nho): Chữ tượng hình,
viết bằng bút lông, mực tàu. Viết theo
khối vuông, tròn, nét thanh, nét đậm,
nét cứng, nét mềm khác nhau.
Nghệ thuật chơi chữ nho, viết chữ
nho là thú chơi của các nhà nho mà
người xưa gọi là Thư pháp.
Thú chơi đài các, thanh tao, lịch sự

của những người có văn hoá và khiếu
thẩm mĩ, thường diễn ra ở thư phòng
sang trọng.
Em thường nhìn thấy các kiểu viết chữ
nho ở đâu? Có hình dáng như thế
nào?
TT2: Tìm hiểu về Thầy thơ lại
Thầy Thơ lại là người như thế nào?
Lấy dẫn chứng minh hoạ?
in 1938 trên tạp chí Tao đàn, sau đó đổi
tên thành: Chữ người tử tù và được in
trong tập truyện :Vang bóng một thời.
- Tác phẩm tiêu biểu : Vang bóng một thời.
+ Được in lần đầu 1940 gồm 11 truyện
ngắn viết về một thời đã xa nay chỉ còn
vang bóng.
+ Nhân vật chính: Phần lớn là nho sĩ
cuối mùa - những con người tài hoa, bất
đắc chí, dùng cái tôi tài hoa ngông
nghênh và sự thiên lương để đối lập với
xã hội phàm tục.
- Tóm tắt : HS tóm tắt theo cảnh, nội dung
truyện.
II. Đọc hiểu văn bản
1. Giới thiệu thú chơi chữ

- Có 4 kiểu viết:
+ Chân: Chân phương
+ Thảo: Viết thoáng
+ Triện: theo hình vuông.

+ Lệ: Uốn lượn, hoa mĩ
2. Thầy thơ lại.
- Kẻ giúp việc giấy tờ cho ngục quan.
- Là người biết yêu mến khí phách, biết
trọng người tài, nhiệt tình tận tâm với chủ.
- Từ thái độ, cử chỉ, đến hành động y trở
thành kẻ tâm phúc của ngục quan
15
- Trao đổi thảo luận nhóm:5 phút.
Đại diện nhóm trình bày giấy trong.
Gv chuẩn xác kiến thức.
Nhóm 1:
Viên Quản Ngục ở trong cảnh ngộ ntn?
Nhóm 2.
Phân tích diễn biến tâm trạng của Viên
quản ngục trong đêm trước khi Huấn
Cao bị giải đến?
Quản Ngục nghĩ ngợi “băn khoăn ngỗi
bóp thái dương” day dứt vì chọn
nhầm nghề và mơ ước một sở nguyện
đẹp đẽ “có được chữ ông Huấn cao
treo là một báu vật trên đời” Tự nhủ
sẽ biệt đãi ông Huấn nhưng lại sợ tên
thơ lại cáo giác
Nhóm 3.
Khi gặp Huấn Cao, Viên Quản Ngục
có những hành động, tâm trạng ntn?
+ Lòng kiêng nể, mắt hiền lành, khép
nép.
+ biệt đãi Huấn Caovà các bạn tù của

ông.
+ Xin lĩnh ý: nhẫn nhục, cam chịu.
+ Tái nhợt người đi khi biết ngày mai
Huấn Cao bị giải vào kinh.
+ Khao khát xin chữ
- Khi được cho chữ: khúm núm, cảm
động
“”Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”
TT3: tìm hiểu nhân vật Huấn Cao
- Nhân vật phụ nhưng thần tình, góp
phần làm rõ chủ đề tác phẩm.
b. Nhân vật Quản ngục.
* Cảnh ngộ: cai tù, chứng kiến bao điều
“tàn nhẫn, lừa lọc giữa một đống cặn
bã”.
-> Dễ dẩy con người vào chốn bùn nhơ.
* Diễn biến tâm trạng:
- Trước khi Huấn Cao bị giải đến.
- Gặp Huấn Cao:
-> Tiềm ẩn phẩm chất đáng quý: coi
trọng, yêu thích cái đẹp, cái cao cả, tài
năng.
3. Nhân vật Huấn Cao.
16
- Trao đổi, thảo luận nhóm: 5 phút.
Đại diện nhóm trình bày.
GV chuẩn xác kiến thức.
Nhóm 1.
Tại sao Huấn Cao bị bắt? Vẻ đẹp
của hình tượng Huấn cao được thể

hiện ở những phương diện nào?
Chữ Huấn Cao không chỉ đẹp vuông
mà còn nói lên hoài bão tung hoành
của một đời người.
Coi thường cái chết, Mặc dù đang chờ
ngày ra chặt đầu, vẫn nguyên vẹn tư
thế ung dung, đàng hoàng, không biết
cúi đầu trước quyền lực và đồng tiền.
Ta nhất sinh không vì tiền bạc hay
quyền thế mà ép mình viết câu đối
đời ta mới viết cho ba người bạn
thân
Huấn Cao gợi người đọc nghĩ đến
Cao Bá Quát - một danh sĩ đời
Nguyễn- cầm đầu cuộc khởi nghĩa Mĩ
Lương chống triều đình Tự Đức bị thất
bại: Nhất sinh đê thủ bái hoa ma
TT4: tìm hiểu cảnh cho chữ
Cảnh cho chữ diễn ra vào lúc nào? ở
đâu?
Hs trả lời
- Kẻ cầm đầu cuộc đại nghịch chống
triều đình bị bắt giam với án tử hình đang
chờ ngày ra pháp trường.
- Phẩm chất:
+ Tài hoa, nghệ sĩ: Có tài viết chữ rất
nhanh và rất đẹp Có được chữ Huấn
Cao mà treo là có một vật báu trên
đời Thế ra y văn võ đều có tài cả.
+ Nhân cách trong sáng, trọng nghĩa

khinh lợi, có tài có tâm, coi khinh tiền bạc
và quyền thế.
+ Khí phách hiên ngang

-> Nhân vật được giới thiệu gián tiếp.
Mới Văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình mà
Quản ngục đã tâm phục Huấn Cao - đó
là cách miêu tả lấy xa nói gần, lấy bóng
lộ hình.
- Hiểu tấm lòng và sở thích cao quí của
thầy Quản, ông vô cùng xúc động và ân
hận: Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một
tấm lòng trong thiên hạ.
- Hình tượng Huấn Cao trọn vẹn và
hoàn hảo bởi một cảm hứng lãng mạn,
một bút pháp lý tưởng hoá của Nguyễn
Tuân. Một cốt cách: Nhất sinh đệ thủ bái
hoa mai.
4. Cảnh Huấn Cao cho chữ
- Lúc nửa đêm, trong nhà tù, vài canh
giờ cuối cùng trước lúc ra pháp trường.
- Trong không gian chật hẹp, ẩm ướt, tối
17
Gv cho hs thảo luận hs thảo luận,
trình bày ý kiến.
Gv chốt lại
Tại sao nói đây là một cảnh tượng xưa
nay chưa từng có?
- Đó là một cảnh tượng xưa nay chưa
từng có:

+ Bởi việc cho chữ diễn ra trong nhà
ngục bẩn thỉu, tối tăm, chật hẹp.
+ Bởi người nghệ sỹ sáng tạo trong
lúc cổ mang gông, chân vướng
xiềng
+ Bởi người tử tù lại ở trong tư thế
bề trên, uy nghi, lồng lộng. Còn kẻ
quyền uy lại khúm núm run run, kính
cẩn, vái lạy.
-> Tác giả dựng lên thật đẹp nhóm
tượng đài thiên lương với bút pháp tài
năng bậc thầy về ngôn ngữ.
* Hoạt động 3.
HS đọc ghi nhớ SGK.
GV chốt nội dung chính.
tăm, bẩn thỉu, khói bốc nghi ngút, dưới
ánh sáng của ngọn đuốc tẩm dầu là hình
ảnh 3 cái đầu chụm lại.
- Một người tù cổ mang gông chân vướng
xiềng đang tô đậm những nét chữ trên
vuông lụa trắng tinh, cạnh viên quản ngục
khúm núm, thầy thơ lại run run.

- Trong chốn ngục tù ấy cái đẹp, cái
thiện, cái cao cả đã chiến thắng và toả
sáng. Đây là việc làm của kẻ chi âm dành
cho người tri kỷ, của một tấm lòng đền
đáp một tấm lòng. Cái tâm đang điều
khiểm cái tài, cái tâm cái tài đang hoà vào
nhau để sáng tạo cái đẹp.

-> Ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Tuân
vừa hiện thực vừa lãng mạn đã dựng lên
sự đối lập giữa bóng tối và ánh sáng,
giữa cái thiện và cái ác, giữa cái cao cả
và thấp hèn.
III. Tổng kết
- Nội dung.
+ Khắc họa thành công hình tượng
Huấn cao, con người tài hoa, cái tâm
18
Nhận xét về nghệ thuật sử dụng ngôn
ngữ (đặc biệt là sử dụng từ Hán Việt)
của Nguyễn Tuân trong truyện ngắn?
trong sáng, khí phách hiên ngang.
+ Bộc lộ quan niệm về cái đẹp, tấm lòng
yêu nước thầm kín.
- Nghệ thuật.
+ Kể chuyện, kết cấu tình tiết, lời thoại
độc thoại, khắc hoạ nhân vật điển hình
độc đáo.
+ Sử dụng hàng loạt từ Hán Việt rất đắt,
tạo màu sắc lịch sử cổ kính, bi tráng.
Khẳng định Nguyễn Tuân là bậc thầy về
ngôn ngữ, uyên bác về lịch sử, xã hội.

4. Hướng dẫn về nhà.
- Đọc lại tác phẩm. Nắm nội dung bài học.
- Yêu thích nhân vật nào nhất? Tại sao?
- Soạn bài theo phân phối chương trình.
- Bài tập: Thành công của Nguyên Tuân là không chỉ xây dựng được

hình tượng Huấn Cao độc đáo mà cả Quản ngục cũng thật đẹp. Ý kiến của em
như thế nào?
3.2. Giáo án đã thực hiện giải pháp của đề tài
Tiết 42,43: Đọc văn CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ
Nguyễn Tuân
A. MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT
- Thấy được vẻ đẹp độc đáo của nhân vật Huấn Cao và quan niệm thẩm mĩ
của nhà văn.
- Hiểu được những nét đặc sắc nghệ thuật chủ yếu của truyện.
B. TRỌNG TÂM KIẾN THỨC, KĨ NĂNG
1. Kiến thức
- Đặc điểm chính của hình tượng nhân vật Huấn Cao: cốt cách của một nghệ
sĩ tài hoa, khí phách của một trang anh hùng nghĩa liệt, vẻ đẹp trong sáng, thiên
lương của một con người trọng nghĩa khinh tài.
- Quan niệm về cái đẹp và tấm lòng yêu nước kín đáo của Nguyễn Tuân.
- Những đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm: xây dựng tình huống truyện độc
đáo, tạo không khí cổ xưa, bút pháp lãng mạn và nghệ thuật tương phản, ngôn ngữ
nhiều góc cạnh và giàu tính tạo hình.
2. Kĩ năng
19
- Đọc - hiểu một truyện ngắn hiện đại.
- Phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự.
C. NỘI DUNG LÊN LỚP
1. Ổn định, kiểm tra
- Ổn định lớp
- Kiểm tra bài cũ : Phân tích ngắn gọn tâm trạng đợi tàu của chị em Liên?
Vì sao nói “Hai đứa trẻ” như một bài văn xuôi bằng thơ, giản dị, trong sáng và
tinh tế?
2. Bài mới:
Hoạt động của thầy & trò Nội dung cần đạt

* Hoạt động 1:
- Tạo tâm thế: giới thiệu bài hay
- Tìm hiểu tiểu dẫn
TT1 : Tìm hiểu vài nét về tác giả
Gv: yêu cầu học sinh đọc mục tiểu dẫn
sách giáo khoa, phần tiểu dẫn giới thiệu
nội dung gì?
Hs: nhìn Sgk trả lời
Nguyễn Tuân (1910 - 1987);
- Quê: Làng Mọc - Thanh Xuân - Hà Nội.
- Xuất thân trong 1 gia đình nho học, rất
tài hoa, uyên bác.
- Quan điểm nghệ thuật: “Nghệ thuật vị
nghệ thuật nhưng nặng nợ với con người
và cuộc đời”).
Gv: cảm nhận của em về nhà văn Nguyễn
Tuân?
Hs: suy nghĩ trả lời
TT2 : Tìm hiểu vài nét về tác phẩm
Gv: tác phẩm được trích từ đâu? Em hãy
nêu hiểu biết của mình về tập truyện
“Vang bóng một thời? Nội dung phản ánh
về vấn đề gì?
Hs: suy nghĩ trả lời
Gv: hãy tóm tắt lại tác phẩm “Chữ người
I. Tiểu dẫn
1. Tác giả (Sgk)

Là một nhà văn viết tuỳ bút xuất
sắc nhất trong làng văn học Việt

Nam.
2. Tác phẩm
a. Xuất xứ
Trích trong tập: “Vang bóng một
thời” (1940) là “một văn phẩm đạt
gần tới sự toàn thiện, toàn mĩ” (Vũ
Ngọc Phan), gồm 11 truyện ngắn.
b. Tóm tắt (Hs tóm tắt)
20
tử tù” của Nguyễn Tuân? Tác phẩm có bố
cục như thế nào?
(- Đ1: Từ đầu sẽ liệu”: Nỗi lòng xốn
xang trăn trở của viên quản ngục.
- Đ2: Sớm hôm sau thiên hạ. Tâm trạng
và thái độ của hai người.
- Đ3: cảnh cho chữ).
* Hoạt động 2: Đọc - hiểu văn bản
Gv hướng dẫn cách đọc, gọi học sinh đọc,
nhận xét về cách đọc?
TT1 : Tìm hiểu tình huống truyện
Gv cho học sinh thảo luận
HS trao đổi thảo luận trả lời câu hỏi sau
đó cử người trình bày trước lớp.
GV chốt lại
Nhóm 1
Anh/chị hiểu thế nào là tình huống?
Nhận xét về tình huống trong truyện ngắn
“Chữ người tử tù” ?
(Tình huống là cái tình thế xảy ra truyện;
khoảnh khắc sự sống hiện ra đậm đặc, có

khi chứa đựng cả một đời người, thể hiện
mâu thuẫn hoặc quan hệ giữa nhân vật này
với nhân vật khác hoặc mâu thuẫn trong
lòng một nhân vật, quan hệ giữa nhân vật
và xã hội, môi trường góp phần thể hiện
sâu sắc tư tưởng tác phẩm).
Nhóm 2
Trong mối quan hệ xã hội họ là người như
thế nào ?
Trong “Chữ người tử tù” Nguyễn tuân đã
xây dựng được một tình huống truyện độc
đáo: Hai nhân vật Huấn Cao và Quản
ngục, trên bình diện xã hội hoàn toàn đối
lập với nhau.
Nhóm 3
c. Bố cục
II. Đọc - hiểu văn bản
1. Tình huống truyện

Câu chuyện chủ yếu xoay quanh
các mối quan hệ sau:
- Mối quan hệ xã hội:
+ Huấn Cao > < Viên quản ngục
(Tên tử tù) ( tên coi tù)
=> Hai trận tuyến đối nghịch nhau.
- Mối quan hệ với cái đẹp.
21
Ở mối quan hệ xã hội họ ở hai trận tuyến
đối nghịch thế trong mối quan hệ với cái
đẹp thì sao ?

Cả hai nhân vật này đều là những con
người có tâm hồn nghệ sĩ, trên bình diện
nghệ thuật họ là tri âm, tri kỉ với nhau.
Tác giả đã đặt những nhân vật này trong
một tình thế đối địch: tử tù và quản ngục,
tạo nên cuộc gặp gỡ kì lạ trong chốn ngục
tù tối tăm, nhơ bẩn.
-> Mối quan hệ đặc biệt éo le, đầy trớ
trêu giữa những tâm hồn tri âm, tri kỉ
=> Tình huống độc đáo này làm nổi bật vẻ
đẹp của hình tượng Huấn Cao, làm sáng tỏ
tấm lòng biệt nhỡn liên tài của viên quản
ngục đồng thời cũng thể hiện sâu sắc tư
tưởng chủ đề của tác phẩm.
TT3: Tìm hiểu hình tượng nhân vật
Huấn Cao
GV cho học sinh thảo luận
HS chia 3 nhóm :
+ Nhóm 1 : tìm hiểu về vẻ đẹp tài hoa,
nghệ sĩ? nêu nhận xét?
HS trao đổi thảo luận trả lời bằng bảng
phụ sau đó cử người trình bày trước lớp
GV chốt lại.
+ Huấn Cao: người viết chữ đẹp.
+ Viên quản ngục: người thích chữ
đẹp.
-> Họ là những người tri âm tri kỉ.
3. Hình tượng Huấn Cao
a. Vẻ đẹp tài hoa của Huấn Cao
- Huấn Cao được giới thiệu thông

qua tiếng đồn “Cái người … nhanh
và đẹp”.
- Qua sở nguyện của viên quản
ngục: “Có được chữ ông Huấn Cao
mà treo là có một vật báu ở trên
đời”.
-> Huấn Cao là một người nghệ sĩ
tài hoa, một người văn võ song
toàn.
- Qua sở nguyện của viên quản
ngục “Có được chữ ông Huấn Cao
mà treo là có một vật báu ở trên
đời”.
-> Huấn Cao là một người nghệ sĩ tài
hoa, một người văn võ song toàn.
22
Ông Đồ viết thư pháp
+ Nhóm 2 : tìm hiểu về khí phách hiên
ngang, bất khuất? nêu nhận xét ?
HS trao đổi thảo luận trả lời bằng bảng
phụ sau đó cử người trình bày trước lớp
GV chốt lại.
Huấn Cao đứng về phía nhân dân chí lớn
không thành trở thành giặc: “Một tên tử
tù…”
(Gv liên hệ : Huấn Cao có khí phách hiên
ngang. Chính nét tài hoa, hiên ngang bất
khuất của hình tượng Huấn Cao đã gợi
cho ta liên tưởng tới Cao Bá Quát. Hoặc
Từ Hải:

“Chọc trời khuấy nước mặc dầu
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”).
b. Vẻ đẹp khí phách, hiên ngang
bất khuất
- Hình ảnh Huấn Cao xuất hiện:
+ Cổ: đeo gông
+ Tay: xiềng xích
-> Đường hoàng, đĨnh đạc đi vào
nhà lao.
- Đứng trước ngục với hành động
“Dỗ cái gông”, vẫn điềm tĩnh lạnh
lùng “Huấn Cao… đánh thuỳnh
một cái”.
- Trong tù chờ ngày ra pháp trường
vẫn thản nhiên rượu, thịt…
- Ông khinh bỉ ra mặt bọn quản
ngục “Ngươi hỏi ta…”.
=> Khinh bạc đối với những kẻ đại
diện cho quyền lực thống trị.
23
Cảnh Huấn Cao bị bắt
+ Nhóm 3: tìm hiểu về nhân cách trong
sáng, cao cả? nêu nhận xét.
HS trao đổi thảo luận trả lời bằng bảng
phụ sau đó cử người trình bày trước lớp
GV chốt lại.
+ Là người khách tài tử chỉ cho chữ khi là
tri âm.
+ Xem thường lợi danh không màng đến
vinh hoa phú quý.

+ Luôn khinh bạc những điều xấu xa tàn
ác, lọc lừa biết trân trọng cái thiến lương.
+ Khi nghe tâm sự và nguyện vọng xin
chữ của viên quản ngục Huấn Cao nể
trọng một con người “Biệt nhỡn…” ông
đã hối hận “Ta… hạ:.
Giaó dục kĩ năng sống: biểu đạt sáng
tạo: trình bày cảm nhận của cá nhân về
vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao trong
tác phẩm.
TT4 : Tìm hiểu cảnh cho chữ
Gv: tại sao nói cảnh cho chữ là một cảnh
tượng xưa nay chưa từng có?
Hs: suy nghĩ trả lời?
(Việc cho chữ là một việc thanh cao, một
sáng tạo nghệ thuật lại diễn ra trong một
căn buồng tối tăm, chật hẹp, ẩm ướt, hôi
hám của nhà tù (tường đầy mạng nhện, đất
bừa bãi phân chuột, phân gián).
Người nghệ sĩ tài hoa say mê tô từng nét
chữ không phải là người được tự do mà là
một kẻ tử tù trong cảnh cổ đeo gông, chân
vướng xiềng, và chỉ sớm tinh mơ ngày
mai đã bị giải vào kinh chịu án tử hình.
Hình ảnh uy nghi của Huấn Cao đối lập
với hình ảnh xo ro của thầy thơ lại « run
run bưng chậu mực » và hình ảnh viên
c. Vẻ đẹp của cái tâm trong sáng
Qua hình tượng nhân vật Huấn
Cao Nguyễn Tuân muốn khẳng

định cái đẹp là bất diệt, cái tài và
cái tâm, cái đẹp và cái thiện không
thể tách rời, thể hiện sự chân trọng
những giá trị tinh thần của dân tộc.
4. Cảnh cho chữ
- Thời gian: đêm khuya.
- Không gian rộng: trại giam tỉnh
Sơn
- Con người:
+ Người cho chữ: vai đeo gông …
+ Người nhận chữ: khúm núm bê
chậu mực…
24
quản ngục « khúm núm cất những đồng
tiền kẽm đánh dấu ô chữ.
-> Trật tự kỉ cương trong nhà tù bị đảo
ngược hoàn toàn : Tù nhân trở thành
người ban cái đẹp, răn dạy ngục quan, còn
ngục quan thì khúm núm, vái lạy tù nhân.
TT5 : Tìm hiểu nghệ thuật
Gv: Nghệ thuật độc đáo của truyện là gì?
Hs: suy nghĩ trả lời?
* Hoạt động 3 : Tổng kết
- Gv yêu cầu học sinh đọc ghi nhớ SGK.
- Gv nêu ý nghĩa văn bản
* Hoạt động 4: Luyện tập
Gv hướng dẫn học sinh làm luyện tập.


=> Họ đã xoá bỏ khoảng cách, sát

cánh bên nhau và họ trở thành tri
ân, tri kỷ.
5. Nghệ thuật
- Tạo tình huống truyện độc đáo,
đặc sắc.
- Sử dụng thành công thủ pháp nghệ
thuật đối lập, tương phản.
- Xây dựng thành công nhân vật
Huấn Cao, con người hội tụ nhiều
vẻ đẹp.
III. Tổng kết
- Ghi nhớ (SGK)
- Ý nghĩa văn bản
Chữ người tử tù ngợi ca Huấn
Cao – một con người tài hoa, có cái
tâm trong sáng, khí phách hiên
ngang và thể hiện quan niệm của
nhà văn về cái đẹp, khẳng định sức
mạnh và sự bất tử của cái đẹp đồng
thời bộc lộ lòng yêu nước thầm kín.
IV. Luyện tập: Thực hiện theo
Sgk/115
25
Cảnh cho chữ

×