Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

sự tương đồng và khác biệt giữa triết học hy lạp cổ đại và triết học ấn độ cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.22 KB, 32 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài:
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC
ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
HVTH : NGUYỄN THU TRANG
STT : 142
NHÓM : NHÓM 8
LỚP : CAO HỌC ĐÊM 1 - K20
GV : TS. BÙI VĂN MƯA
HCM, Tháng 5/2011
Tiểu Luận Triết Học GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ ẤN ĐỘ
CỔ ĐẠI
1
1.1 Triết học Hy Lạp cổ đại
2
1.1.1 Điều kiện lịch sử ra đời, phát triển
2
1.1.2. Sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại
2
1.1.3 Những đặc điểm cơ bản
2
1.1.4 Các tư tưởng, trường phái triết học
3


1.1.4.1 Chủ nghĩa duy vật
3
1.1.4.2 Chủ nghĩa duy tâm
4
1.1.4.3 Triết học nhị nguyên của Arixtốt
5
Nguyễn Thu Trang – Nhóm 8 – K20- Đêm 1 Page 2
Tiểu Luận Triết Học GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
1.2 Triết học Ấn Độ cổ đại
5
1.2.1 Điều kiện ra đời
5
1.2.1.1 Điều kiện kinh tế - xã hội:
5
1.2.1.2 Điều kiện về khoa học và văn hóa
6
1.2.2 Sự hình thành và phát triển của tư tưởng triết học Ấn Độ cổ
6
1.2.3. Đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại
6
1.2.4 Các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại
7
1.2.4.1 Tư tưởng triết học trong Upanisát
7
1.2.4.2 Trường phái triết học chính thống: Trường phái Vêđanta
Samkhya, Yoga, Mimansa, Nyaya, Vaisêsika
7
1.2.4.3 Hệ thống triết học không chính thống
7
Nguyễn Thu Trang – Nhóm 8 – K20- Đêm 1 Page 3

Tiểu Luận Triết Học GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
CHƯƠNG 2 : SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT CỦA TRIẾT
HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ ẤN ĐỘ CỒ ĐẠI
9
2.1 Sự tương đồng giữa triết học Hy lạp cổ đại và Ấn độ cổ đại
9
2.1.1 Tư tưởng triết học Hy Lạp và Ấn Độ cổ đại chịu ảnh
hưởng của sự tác động từ điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã hội.
9
2.1.2 Tương đồng trong xem xét nguồn gốc thế giới tự nhiên, sự
ra đời của vạn vật
9
2.1.3 Tương đồng trong nhận thức ,thế giới quan duy vật và vô
thần có tính biện chứng sâu sắc.
11
2.1.4 Hy Lạp và Ấn độ cổ đại có cả hai trường phái duy vật và
duy tâm
11
2.1.5 Tương đồng trong mối quan tâm về con người và đều tìm
cách đem lại cho con người cuộc sống hạnh phúc
12
2.2 Sự khác biệt giữa triết học Hy lạp cổ đại và Ấn độ cổ đại
13
2.2.1 Triết học Hy Lạp cổ đại quan tâm sâu sắc đến khoa học tự
nhiên, trong khi Triết học Ấn Độ cổ đại lại mang đậm dấu ấn tôn
Nguyễn Thu Trang – Nhóm 8 – K20- Đêm 1 Page 4
Tiểu Luận Triết Học GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
giáo
13
2.2.2 Sự phân chia trường phái triết học

14
2.2.3 Sự khác biệt về nhận thức nghiên cứu.
16
2.2.4 Sự khác biệt về đối tượng nghiên cứu
18
2.2.5 Sự khác biệt về phương pháp nhận thức của hai nền triết học.
20
2.2.6 Khác biệt trong sự kế thừa, ra đời và phát triển của các trường
phái mới.
20
KẾT LUẬN
23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
24
Nguyễn Thu Trang – Nhóm 8 – K20- Đêm 1 Page 5
Tiểu Luận Triết Học GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Khi nhắc đến khởi nguyên tiềm tàng của nền triết học nhân loại chúng ta
không thể không nói đến hai nền triết học lớn của thế giới, đó chính là triết học Hy
Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại. Có thể nói Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại là những cái
nôi của triết học thế giới, là khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao hưởng, bản hợp
xướng của triết học, làm nền tảng cho toàn bộ hệ thống triết học thế giới sau này.
Nét nổi bật của triết học Hy Lạp cổ đại là đã đặt ra hầu hết các vấn đề cơ bản của
triết học mà sau này các học thuyết triết học khác từng bước giải quyết theo nội
dung của thời đại mình Trong khi đó, triết học Ấn Độ cổ đại đã đặt ra và giải
quyết những vấn đề của tư duy triết học. Việc tìm hiểu sự tương đồng và khác nhau
của triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại giúp chúng ta có khái niệm gần như
hoàn chỉnh về triết học phương Tây và triết học phương Đông, những ảnh hưởng
của nó đến thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, từ đó chúng ta biết cách vận

dụng những tinh hoa của hai nền triết học này, nâng cao khả năng tư duy, nhận thức
thế giới, con người và xã hội.
2. Mục đích nghiên cứu::
Bài viết không chỉ nêu lên hoàn cảnh ra đời, đặc điểm, những tư tưởng cùng
những trường phái của hai nền triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại, mà mục
đích chính của bài viết là làm rõ nét được những tương đồng và khác biệt giữa hai
nền triết học cổ đại này.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Bài viết hình thành trên cơ sở phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp
phân tích tổng hợp và so sánh các nguồn tư liệu tham khảo với nhau để có được kết
quả chính xác nhất, tránh cách nhìn phiến diện.
Nguyễn Thu Trang – Nhóm 8 – K20- Đêm 1 Page 6
Tiểu Luận Triết Học GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ
ĐẠI VÀ ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
1.1. Triết học Hy Lạp cổ đại
1.1.1 Điều kiện lịch sử ra đời, phát triển
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu dài và
sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch
sử - chế độ chiếm hữu nô lệ. Chế độ chiếm hữu nô lệ đã tạo ra cơ sở cho sự phân
hóa lao động và đề cao lao động trí óc, coi thường lao động chân tay. Điều này thúc
đẩy sự hình thành tầng lớp trí thức biết xây dựng và sử dụng hiệu quả tư duy lý luận
để nghiên cứu triết học và khoa học. Như vậy, có thể thấy rằng sự ra đời của triết
học Hy Lạp cổ đại là một tất yếu - đó là kết quả nội sinh của cả một dân tộc, một
thời đại
1.1.2. Sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại trải qua 3 giai đọan: Giai đoạn hình thành, giai đọan cực
thịnh và giai đọan suy tàn. Trong đó sự đấu tranh giữa hai khuynh hướng nhất
nguyên duy vật và nhất nguyên duy tâm của giai đọan cực thịnh đã để lại dấu ấn sâu
đậm nhất trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại.

1.1.3 Những đặc điểm cơ bản
- Thứ nhất: thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp
chủ nô thống trị.
- Thứ hai: Có sự phân chia và sự đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái
duy vật - duy tâm, vô thần - hữu thần và gắn liền với cuộc đấu tranh chính trị - tư
tưởng
- Thứ ba: đã xây dựng nên phép biện chứng chất phác.Các nhà triết học Hy Lạp
cổ là “những nhà biện chứng bẩm sinh”. Họ nghiên cứu và sử dụng phép biện chứng
để bảo vệ quan điểm triết học của mình, để tìm ra chân lý
Nguyễn Thu Trang – Nhóm 8 – K20- Đêm 1 Page 7
Tiểu Luận Triết Học GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
- Thứ tư: gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về
các lĩnh vực khác nhau, nhằm xây dựng một bức tranh về thế giới như một hình ảnh
chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện lại xảy ra trong nó.
- Thứ năm: coi trọng vấn đề về con người. Dù còn có nhiều bất đồng, song nhìn
chung, các triết gia đều khẳng định con người là tinh hoa cao quý nhất của tạo hóa.
1.1.4 Các tư tưởng, trường phái triết học
1.1.4.1 Chủ nghĩa duy vật
a. Trường phái Milet
Đóng góp chính quan trọng nhất của trường phái Milet này là đã được đặt
nền móng cho sự hình thành các khái niệm đó như khái niệm triết học để các triết
gia sau này tiếp tục bổ sung và làm phong phú thêm những khái niệm đó như khái
niệm chất, không gian, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập
b. Trường phái Héraclite
Héraclite là nhà triết học đã nêu lên các phán đoán thiên tài về quy luật thống
nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập mà sau này Marx đã đề cập và đi sâu. Phép
biện chứng duy vật chất phác là đóng góp của triết học Héraclite vào tư tưởng của
nhân loại.
c. Trường phái đa nguyên Empédocle - Anaxago
Để giải thích tính đa dạng của vạn vật trong thế giới theo tinh thần duy vật,

Empédocle và Anaxago cố vượt qua quan niệm đơn nguyên sự phát minh của các
trường phái Milet, trường phái Héraclite, xây dựng quan niệm đa nguyên về bản
chất của thế giới vật chất đa dạng. Tuy nhiên quan điểm của họ cũng còn mang tính
sơ khai, còn hạn chế.
d. Trường phái nguyên tử luận Leucippe - Démocrite
Nguyễn Thu Trang – Nhóm 8 – K20- Đêm 1 Page 8
Tiểu Luận Triết Học GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
Là một hệ thống quan điểm duy vật đầy đủ, nhất quán, trường phái nguyên tử
làm cho chủ nghĩa duy vật đạt được đỉnh cao. Nó xung đột mạnh với chủ nghĩa duy
tâm của Xocrat Platong sau này.
Quan điểm về nhận thức- đạo đức:
+ Quy nạp là phương pháp nhận thức đúng đắn
+ Hiểu biết là cơ sở của hành vi đạo đức. Sống có đạo đức là sống đúng mực,
ôn hoà, không hại mình, không hại người.
Quan điểm về chính trị - xã hội :
+ Xã hội tốt nhất được cai trị bởi nhà nước dân chủ chủ nô
+ Quản lý nhà nước là một nghệ thuật mang lại hạnh phúc, vinh quang, tự do
và dân chủ cho con người.
1.1.4.2 Chủ nghĩa duy tâm:
a. Trường phái Pytago:
Do ảnh hưởng của toán học ông cho rằng “con số” là bản nguyên của thế
giới, là bản chất của vạn vật. Chính trường phái Pytago đã đặc nền móng ban đầu
cho trào lưu duy tâm thời cổ đại của triết học Hy Lạp.
b. Trường phái Êle :
Do Xenophan thành lập trên tinh thần duy vật, nhưng sau đó được Pacmenit
phát triển theo hướng duy lý ngả về duy tâm
c. Trường phái duy tâm khách quan của Xocrat – Platong :
Do Xocrat đặt nền móng và Platong, học trò của ông hoàn thiện
Nguyễn Thu Trang – Nhóm 8 – K20- Đêm 1 Page 9
Tiểu Luận Triết Học GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA

+ Xocrat : Xuất phát từ đạo đức học duy lý, ông cho rằng, hiểu biết là cơ sở
của điều thiện, ngu dốt là cội nguồn của cái ác; chỉ có cái thiện mới là cơ sở của đạo
đức, tiêu chuẩn của đức hạnh.
+ Platong : xây dựng chủ nghĩa duy tâm khách quan với nội dung chính là
“thuyết ý niệm”, với giá trị bên trong là phép biện chứng của khái niệm và nhiều tư
tưởng sâu sắc khác về đạo đức, chính trị, xã hội.Quan điểm chính trị - xã hội của
Platong đầy mâu thuẫn và bảo thủ. Ông vừa đòi hỏi xóa bỏ tư hữu, lại vừa đòi bảo
vệ chế độ đẳng cấp và sự bất bình đẳng trong xã hội; vừa kêu gọi xây dựng nhà
nước cộng hòa lý tưởng, lại vừa bảo vệ địa vị và lợi ích của chủ nô quý tộc.
1.1.4.3 Triết học nhị nguyên của Arixtốt
Arixtốt là người tổng kết Triết học Hy Lạp cổ đại, người đặt nền móng vững
chắc cho chủ nghĩa duy lý, góp phần thúc đẩy lý trí Hy Lạp nẩy nở, khoa học, văn
minh phương Tây phát triển.
Quan niệm về sinh thể, con người, linh hồn & nhận thức:
+ Sinh thể (cả con người) đều có thể xác & linh hồn
+ Con người là sinh thể có lý trí, luôn khát vọng nhận thức, bản chất con
người sinh ra là để nhận thức.
+ Nhận thức là hoạt động bản tính của linh hồn, nhưng khi con người mới
sinh ra, linh hồn như một tấm bảng trắng.
Quan điểm về đạo đức, chính trị - xã hội:
Nguyễn Thu Trang – Nhóm 8 – K20- Đêm 1 Page 10
Tiểu Luận Triết Học GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
+ Xã hội tốt nhất phải dựa trên chế độ cộng hoà quý tộc, do chủ nô trung lưu
lãnh đạo.
+ Công bằng trong trao đổi sản phẩm là nền tảng của công bằng xã hội &
bình đẳng giữa các cá nhân…
+ Lý trí, lẽ phải là cơ sở của điều thiện, là nền tảng của phẩm hạnh
1.2 Triết học Ấn Độ cổ đại
1.2. 1 Điều kiện ra đời
1.2.1.1 Điều kiện kinh tế - xã hội:

Xã hội Ấn Độ cổ đại là xã hội mang tính chất công xã nông thôn, toàn bộ
ruộng đất thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, sự phân chia đẳng cấp hết sức khắc
nghiệt. Xã hội có 4 đẳng cấp lớn: Tăng lữ (Bà la môn), Đẳng cấp quý tộc, Đẳng cấp
bình dân tự do, Đẳng cấp nô lệ. Xã hội Ấn Độ có nhiều tôn giáo: Đạo Ấn (Thờ bò)
(HinDu), Đạo Hồi (không ăn thịt heo), Đạo Thiên chúa, Đạo Cơ Đốc
1.2.1.2 Điều kiện về khoa học và văn hóa:
- Về tri thức khoa học, người Ấn Độ đã có những tri thức rất sớm và phong
phú về nhiều lĩnh vực như: thiên văn, lịch pháp, toàn học, y học, nông nghiệp, kiến
trúc…
- Nền văn hóa Ấn Độ mang đậm nét tín ngưỡng, tôn giáo, tâm linh có pha trộn
sự thần bí.
1.2.2 Sự hình thành và phát triển của tư tưởng triết học Ấn Độ cổ
Triết học thời kỳ Véđa (khoảng thế kỷ XV đến VIII TCN): thời kỳ này tập trung
phản ánh ước vọng của người dân thường như mong mưa thuận gió hòa, mong có
thức ăn, có gia súc ; đồng thời phản ánh một tín ngưỡng ma thuật và đa thần giáo,
Nguyễn Thu Trang – Nhóm 8 – K20- Đêm 1 Page 11
Tiểu Luận Triết Học GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
chưa có những khái quát triết học. Tuy nhiên qua các tập Véđa đã thể hiện sự phát
triển của tư duy trừu tượng trong đó người ta đã thừa nhận một nguyên lý vũ trụ với
sức mạnh vô hạn, biểu hiện ra trong thiên nhiên, trong tinh thần và các nghi lễ.
Triết học thời kỳ cổ điển hay thời kỳ Bàlamôn – Phật giáo (khoảng thế kỷ VI
TCN đến thế kỷ VI): được hình thành và phát triển trong truyền thống Vêđa nhưng
các trường phái triết học Ấn Độ lại xung đột lẫn nhau .
1.2.3. Đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại
Thứ nhất, triết học ấn độ cổ đại phát triển rất phong phú nhưng không mang
tính cách mạng; các nhà triết học thường kế tục mà không gạt bỏ hệ thống triết học
có trước, không đặt cho mình nhiệm vụ phải sáng tạo ra một hệ thống triết học mới.
Điều đó phản ánh sự trì trệ của xã hội ấn độ cổ đại.
Thứ hai, triết học ấn độ cổ đại gắn bó chặt chẽ với tôn giáo, trên cơ sở tín
ngưỡng tôn giáo hình thành nên các hệ thống triết học - tôn giáo.

Thứ ba, các hệ thống triết học - tôn giáo ở ấn độ cổ đại đều quan tâm tới vấn đề
nhân sinh quan, đặc biệt là vấn đề luân hồi, nghiệp báo.
1.2.4 Các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại
1.2.4.1. Tư tưởng triết học trong Upanisát
Sự xuất hiện của Upanishad đánh dấu bước chuyển tiếp từ thế giới quan thần
thoại tôn giáo sang tư duy triết học. Tư tưởng đó được thể hiện trong các vấn đề
chủ yếu sau: Brátman (đại ngã), Átman (tiểu ngã), Giải thoát và thực trạng giải
thoát.
Nguyễn Thu Trang – Nhóm 8 – K20- Đêm 1 Page 12
Tiểu Luận Triết Học GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
1.2.4.2 Trường phái triết học chính thống: Trường phái Vêđanta.
Samkhya, Yoga, Mimansa, Nyaya, Vaisêsika
- Nguyên nhân dẫn đến sự luân hồi của mỗi cá nhân là vì linh hồn cá biệt nơi
mỗi người thường bị những ham muốn dục vọng che lấp, nên linh hồn rơi vào vòng
ám muội của thế giới vật chất, thường biến, hữu hình, hữu hạn, không giữ được bản
lai thanh tịnh của mình.
- Theo trường phái này, không thể giải thoát bằng cách lễ bái, tích lũy khổ hạnh
hay tin tưởng vào sự cứu rỗi của đấng tối cao. Đối với họ, phương pháp đưa đến sự
giải thoát là phải chế dục theo pháp Yoga, diệt trừ nghiệp lực và phải thấu triệt sáu
nguyên lý tạo thành vũ trụ. Nếu thực hiện được như thế thì linh hồn cá biệt mới đạt
đến sự giải thoát hoàn toàn
1.2.4.3 Hệ thống triết học không chính thống
- Triết phái Jaina (Kỳ na giáo): Trường phái này mang đượm màu sắc tôn
giáo, ra đời vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên.
- Triết phái Lokayata (hay còn gọi là Carvaka): Triết học Lokayata mang tính
duy vật chủ nghĩa và vô thần tương đối triệt để, nhưng chỉ tồn tại trong một thời
gian tương đối ngắn Nó được trình bày trong chính kinh Veda, trong các sử thi và
cả trong kinh sách của Phật giáo. Thuyết ấy tuyên bố rằng chỉ có thể biết là hiện hữu
những gì ta tri giác được. Không có thế giới bên kia: chết là hết. Niềm tin vào những
cái như thế bị xem là tưởng tượng kỳ quái. Không có bằng chứng hợp lý luận cho

tính khả thi của cái không thể thấy; không thể dùng sự suy ra như một nguồn có giá
trị của tri thức mới vì không thể chứng minh nó một cách vô điều kiện.
- Triết phái Budđhsam (Phật giáo): Là một trường phái triết học tôn giáo lớn
của Ấn Độ cố đại. Những tư tưởng cơ bản của triết học Phật giáo Ấn độ cổ đại được
thể hiện: thế giới quan (phản ánh trong ba pham trù : vô ngã, vô thường, duyên khởi
Nguyễn Thu Trang – Nhóm 8 – K20- Đêm 1 Page 13
Tiểu Luận Triết Học GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
) & nhân sinh quan tập trung vào tứ diệu ( 4 chân lý tuyệt diệu): khổ đế, nhân đế,
diệt đế, đạo đế.
Nguyễn Thu Trang – Nhóm 8 – K20- Đêm 1 Page 14
Tiểu Luận Triết Học GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
CHƯƠNG 2 : SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
CỦA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ ẤN ĐỘ CỒ
ĐẠI
2.1 Sự tương đồng giữa triết học Hy lạp cổ đại và Ấn độ cổ đại
2.1.1 Tư tưởng triết học Hy Lạp và Ấn Độ cổ đại chịu ảnh hưởng của sự tác
động từ điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã hội.
Triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại cùng ra đời dựa trên những thành tựu
rực rỡ của các lĩnh vực văn hóa và khoa học tự nhiên nhằm xây dựng một bức tranh
về thế giới như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất. Tuy Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại có
điều kiện tự nhiên và lịch sử không giống nhau nhưng tất cả điều ảnh hưởng sâu sắc
đến tư tưởng và sự phát triển của Triết học của mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ.
 Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã biết gắn bó chặt chẽ triết học với khoa học tự
nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau để hướng tới việc xây
dựng thế giới quan tổng thể, biến triết học thành "khoa học của các khoa học".
 Tại Ấn Độ cổ đại, không có một tôn giáo thuần nhất, cũng chẳng có một nền
triết học độc nhất; đúng hơn, với nhiều cách thức am hiểu và liên hệ với thế
giới, triết học Ấn Ðộ cũng như Ấn giáo, là một kho tàng chứa đựng các ý
tưởng được bảo lưu một cách rộng rãi.
Bên cạnh đó, cả hai nền triết học này cùng ra đời trong bối cảnh xã hội có sự

phân chia giai cấp rất khắc nghiệt, đặc biệt là sự đàn áp tàn khốc đối với tầng lớp nô
lệ.
 Đúng như Ăngghen nhận xét: “Không có chế độ nô lệ thì không có quốc gia
Hy Lạp, không có nghệ thuật và khoa học Hy Lạp, không có chế độ nô lệ thì
Nguyễn Thu Trang – Nhóm 8 – K20- Đêm 1 Page 15
Tiểu Luận Triết Học GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
không có đế quốc La Mã mà không có cái cơ sở là nền văn minh Hy Lạp và
đế quốc La Mã thì không có Châu Âu hiện đại được”.
 Trong khi Ấn độ cũng trải qua rất nhiều thời kỳ bị xâm lăng bởi nhiều quốc
gia và các dân tộc, tạo nên sự da dạng của các loại hình tôn giáo, với những
lý thuyết trái ngược nhau và các vị thánh, khất sĩ, ẩn sĩ, hiền giả và người vô
tín ngưỡng.
2.1.2 Tương đồng trong xem xét nguồn gốc thế giới tự nhiên, sự ra đời của
vạn vật.
Cả hai nền triết học đều nghiên cứu về con người, đạo đức nhân sinh quan, đã
đặt vai trò của con người lên hàng đầu. Tuy nhiên, triết học vẫn chưa tách rời được
yếu tố thần linh ra khỏi ý thức của con người
Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, mỗi nền triết học đều có những
trường phái chịu ảnh hưởng của thần thánh, tôn giáo, đặc biệt là triết học Ấn Độ cổ
đại, họ tôn sùng thần linh, là đại diện cho thế giới quan vạn vật. Quan điểm là linh
hồn con người tồn tại và trải qua luân hồi. Thế giới tự nhiên là do thần thánh sáng
tạo, sắp xếp, có nguồn gốc thần bí.
 Hy Lạp :
• Trường phái duy tâm của Pytago ủng hộ quan điểm duy tâm – tôn giáo
của phương đông, coi linh hồn tồn tại bất tử, độc lập với thể xác và
chịu luân hồi.
• Trường phái Xôcrát-Platông cho rằng hiện tượng tự nhiên do thần
thánh sáng tạo và an bài. Linh hồn vũ trụ là thần linh, tồn tại dưới
dạng các tinh tú, và chỉ được nhận thức bằng linh hồn vũ trụ của con
người. Con người bao gồm thể xác khả tử và linh hồn bất tử.

 Ấn Độ:
• Trường phái Upanisat với khái niệm đại ngã, tiểu ngã dựa trên ý niệm
thần thánh hóa cặn nguyên vạn vật, xem đại ngã là linh hồn vũ trụ,
Nguyễn Thu Trang – Nhóm 8 – K20- Đêm 1 Page 16
Tiểu Luận Triết Học GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
sinh ra vạn vật. Tiểu ngã là linh hồn con người, biểu hiện cụ thể của
đại ngã, chịu luân hồi báo ứng.
• Trường phái Vêđanta tiếp tục thừa nhận sự tồn tại của đại ngã và tiểu
ngã, khuyến khích giải thoát tiểu ngã khỏi vây hãm thể xác, quay về
với đại ngã.
Ngoài những trường phái tin tưởng tuyệt đối vào thần thánh thì lại cũng có
những trường phái cho rằng thế giới tạo thành từ vật chất, không tồn tại thần thánh,
cụ thể
 Hy Lạp:
• Trường phái duy vật cho rằng khởi nguyên vũ trụ hình thành bởi các
yếu tố vật chất. Talet cho rằng nước là khởi nguyên của sự vật.
Heraclit cho rằng lửa tạo ra van vật. Êm pê đốc nhận định vạn vật tạo
bởi đất nước, không khí, kết hợp với lực tình yêu và hận thù.
• Thuyết nguyên tử luận của Lơxíp – Đêmôcrit nhận định vũ trụ được
cấu thành từ nguyên tử và chân không. Nguyên tử tụ lại hình thành sự
vật, tan rã thì sự vật mất. Không có thần thánh sáng tạo ra sự vật.
 Ấn Độ:
• Trường phái Nyaga với thuyết nguyên tử luận, cho rằng thế giới vật
chất được cấu thành từ các nguyên tử kết hợp lại.
• Trường phái Vaisêsika cũng ủng hộ thuyết nguyên tử luận.
• Phái Lokayata xem sự vật kết thành bởi đất, nước, gió, lửa
2.1.3 Tương đồng trong nhận thức, thế giới quan duy vật và vô thần có tính
biện chứng sâu sắc.
 Hy Lạp:
• Đêmôcrit đề cao nhận thức lí tính, xuất phát từ nhận thức cảm tính, để

tìm ra nhận thức lí tính
• Đêmôcrit cũng tiến hành xây dựng những phương pháp nhận thức
logich học như quy nạp, so sánh, giả thuyết, định nghĩa.
 Ấn Độ:
Nguyễn Thu Trang – Nhóm 8 – K20- Đêm 1 Page 17
Tiểu Luận Triết Học GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
• Nhận thức luận của Nyaga theo đối tượng nhận thức tồn tại khách
quan cần phải tìm tòi thông qua bốn phương thức là cảm giác, kết
luận, tương tự và bằng chứng.
• Phái Nyaga và Vaisêsika đều xây dựng những phương thức logic học.
2.1.4. Hy Lạp và Ấn độ cổ đại có cả hai trường phái duy vật và duy tâm :
Sự tương đồng rõ rệt nhất trong hai trường phái triết học Ấn Độ cổ đại và Hy
Lạp cổ đại là mỗi nền triết học, tuy ở hai địa điểm, mốc thời gian khác nhau nhưng
cũng tồn tại sự tương đồng trong nhận thức, lý luận hình thành nên trường phái theo
quan điểm duy tâm và duy vật, điển hình như:
 Hy Lạp:
• Duy vật : Talet,Anaximen,Hecraclit,Democrit,…
• Duy tâm : Pitago,Pacmenic,Xocrat ,Platong,…
 Ấn Độ:
• Duy vật : Gaimini,Gotama,Kanada,
• Duy tâm : Upanisad(bratman,atman)
2.1.5. Tương đồng trong mối quan tâm về con người và đều tìm cách đem lại
cho con người cuộc sống hạnh phúc:
Trải qua nhiều thời kỳ phát triển, tất cả đều nghiên cứu về vai trò của con người
và tự nhiên, đây chính là nền tảng, tiền đề cho sự phát triển của 2 nền triết học này
trong các giai đoạn sau.
 Hy Lạp: tìm hiểu, lí giải quan hệ linh hồn – thể xác, đời sống đạo đức,
chính trị, xã hội của con người.
 Ấn Độ: giải quyết các vấn đề thuộc lĩnh vực nhân sinh (bản chất, ý nghĩa
cuộc sống, nguồn gốc nỗi khổ)

2.1.6. Hai nền triết học đều chưa hệ thống hóa và giải thích được nguồn gốc, tính
chất vai trò của phạm trù đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Nguyễn Thu Trang – Nhóm 8 – K20- Đêm 1 Page 18
Tiểu Luận Triết Học GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
2.1.7. Cả hai nền triết học đều đề cao lao động trí óc đã thúc đẩy hình thành tầng
lớp tri thức, họ đã sử dụng tư duy lý luận để nghiên cứu thế giới và xây dựng nền
triết học và khoa học đồ sộ và sâu sắc.
2.1.8. Trong quá trình nhận thức, suy tư triết lý, đôi khi đã đạt tới ý tưởng siêu
thực; vượt qua tầm suy nghĩ, nhận thức giác quan đạt tới những phán đoán siêu hình
về sự tồn tại.

2.2 Sự khác biệt giữa triết học Hy lạp cổ đại và Ấn độ cổ đại
2.2.1 Sự khác biệt về phương tiện nhận thức
Sự khác biệt nổi bât nhất giữa hai nền triết học là triết học Ấn độ cổ đại ít khi tồn
tại dưới dạng thuần tuý mà thường đan xen với các hình thái ý thức xã hội khác. Cái
nọ lấy cái kia làm chỗ dựa và điều kiện để tồn tại và phát triển cho nên ít có những
triết gia với những tác phẩm triết học độc lập. Và có những thời kỳ người ta đã lầm
tưởng triết học là khoa học của khoa học như triết học Ấn độ đan xen tôn giáo với
nghệ thuật, còn triết học Hy Lạp ngay từ thời kỳ đầu triết học đã là một khoa học
độc lập với các môn khoa học khác mà các khoa học lại thường ẩn dấu đằng sau
triết học.
+ Triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp
mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau nhằm xây dựng bức tranh về thế giới như
một hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong nó.
Nguyễn Thu Trang – Nhóm 8 – K20- Đêm 1 Page 19
Tiểu Luận Triết Học GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
Quá trình lịch sử lâu dài với không ít những thăng trầm của vùng đất Hy Lạp cổ
đại gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội và tư tưởng triết học của nó trong đó sự
phân chia xã hội thành giai cấp, sự phân công lao động xã hội thành lao động trí óc
và lao động chân tay đã dẫn tới sự hình thành một đội ngũ các nhà trí thức chuyên

nghiên cứu về khoa học, triết học. Sự xuất hiện của những trí thức khoa học và triết
học trong thời kỳ này đã tạo nên một bước ngoặt lớn về nhận thức của con người,
phá vỡ ý thức hệ thần thoại và tôn giáo nguyên thuỷ. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn
của nền sản xuất, những tri thức về khoa học tự nhiên phát triển mạnh, bên cạnh đó,
khoa học thời bấy giờ chưa phân ngành nên các nhà triết học đồng thời cũng là các
nhà Toán học, nhà Vật lý học như Talét, Pytago, Ácximét, Ơclít
+ Tôn giáo Ấn Độ cổ đại có xu hướng “hướng nội”, đi sâu tìm hiểu đời sống tâm
linh, tinh thần để phát hiện ra sức mạnh của linh hồn cá nhân con người, coi linh
hồn vũ trụ là thực tại tinh thần tối cao, là bản chất, là nguồn sống vĩnh hằng. Vì vậy,
triết học Ấn Độ cổ đại mang nặng tính chất duy tâm, chủ quan, thần bí.
Nét nổi bật của văn hóa Ấn Độ cổ đại là mang dấu ấn sâu đậm về tín ngưỡng tôn
giáo, triết học và tôn giáo rất khó phân biệt, nó đan xen và hòa quyện vào nhau. Tư
tưởng triết học ẩn giấu sau các lễ nghi huyền bí, chân lý thể hiện qua các bộ kinh
Vêđa, Upanisát.
Người Ấn Độ đã sáng tạo ra thế giới các vị thần có tính chất tự nhiên để giải
thích các hiện tượng phong phú và phức tạp trong thực tại, nằm ngoài sự hiểu biết và
lý giải của con người, đồng thời các vị thần cũng là nơi để gửi gắm những ước mong
của người dân vào một thế lực siêu nhiên. Các vị thần đầu tiên trong kinh Vêđa đều
tượng trưng cho các lực lượng, sự vật tự nhiên mà người Ấn Độ thờ phụng như: trời,
đất, mặt trời, mặt trăng, vòm trời, tinh tú, lửa, ánh sáng, gió, mưa, rạng đông và cả
sinh thực khí. Sau đó, để giải thích các hiện tượng trong lĩnh vực đạo đức, lý luận xã
hội, người Ấn Độ đã xây dựng thêm các vị thần ác, thần thiện, pháp thần, thần công
Nguyễn Thu Trang – Nhóm 8 – K20- Đêm 1 Page 20
Tiểu Luận Triết Học GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
lý. Tuy Jaina giáo và Phật giáo thuộc hệ thống không chính thống nhưng cũng đều
thể hiện quan điểm điểm duy tâm, thần bí.
2.2.2 Sự phân chia trường phái triết học
Triết học Hy Lạp cổ đại có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu,
trường phái duy vật – duy tâm, vô thần – hữu thần, trong khi đó triết học Ấn Độ có
sự đan xen giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa phép biện chứng và

phép siêu hình.
Triết học phương Tây thì sự phân chia các trường phái rõ nét hơn và các hình
thức tồn tại lịch sử rất rõ ràng như duy vật chất phác thô sơ đến duy vật siêu hình rồi
đến duy vật biện chứng, còn ở phương Đông thì đan xen các trường phái, yếu tố duy
vật, duy tâm biện chứng, siêu hình không rõ nét. Sự phân chia chỉ xét về đại thể, còn
đi sâu vào những nội dung cụ thể thường là có mặt duy tâm có mặt duy vật, sơ kỳ là
duy vật, hậu kỳ là nhị nguyên hay duy tâm, thể hiện rõ thế giới quan thiếu nhất
quán, thiếu triệt để của triết học vì phân kỳ lịch sử trong các xã hội phương Đông
cũng không mạch lạc như phương Tây.
Triết học Hy Lạp cổ đại đã giải quyết các vấn đề cơ bản của triết học và chia ra
thành các trường phái khác nhau: trường phái nhất nguyên (duy vật, duy tâm) và
trường phái nhị nguyên, thậm chí còn chia ra những nhà vô thần và hữu thần, gắn
liền với cuộc đấu tranh chính trị tư tưởng, trong đó điển hình là cuộc đấu tranh giữa
trào lưu triết học duy vật của Đêmôcrit và trào lưu triết học duy tâm của Platông.
Học thuyết Đêmôcrit ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống tinh thần, còn học thuyết
Platông để lại dấu ấn sâu đậm đến đời sống tinh thần. Có thể nói triết học Hy Lạp cổ
đại rất nhất quán, kiên định một quan điểm, một lập trường.
 Chủ nghĩa duy vật nổi bật với các trường phái:
+ Trường phái Milê: là trường phái duy vật đơn nguyên
Nguyễn Thu Trang – Nhóm 8 – K20- Đêm 1 Page 21
Tiểu Luận Triết Học GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
+ Trường phái Lơxip – Đêmôcrit: cũng là trường phái duy vật đơn
nguyên. Đêmôcrit đã hoàn thiện chủ nghĩa duy vật, đưa nó lên đỉnh cao
đủ sức mạnh chống lại trào lưu duy tâm.
 Chủ nghĩa duy tâm: Xuất phát từ Pytago và dừng lại phát triển đỉnh cao
với trường phái của Xôcrat – Platông, đặc biệt là quan điểm Platông đã
hoàn thiện chủ nghĩa duy tâm .
 Chủ nghĩa nhị nguyên: nổi bật là triết học của Arixtốt. Ông đứng trên cả
2 trường phái duy vật và duy tâm để thấy được cái hay cái dở của từng
trường phái.

Do chịu ảnh hưởng bởi tinh thần Vêđa mà triết học Ấn Độ cổ đại không thể phân
chia rõ ràng thành chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, phép biện chứng và
phép siêu hình mà chủ yếu được chia thành hệ thống chính thống và hệ thống không
chính thống. Trong các trường phái triết học cụ thể luôn có sự đan xen giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa phép biện chứng và phép siêu hình.
 Những nhà tư tưởng của phái Samkhya sơ kỳ bộc lộ những tư tưởng có tính
duy vật chứa ít nhiều biện chứng về bản nguyên hiện hữu. Thế giới vật chất
là thể thống nhất của ba yếu tố: Sativa (nhẹ nhàng, thuần khiết), razas (tích
cực, năng động), tamas (nặng, ỳ). Khi sự cân bằng bị phá vỡ thì sự sinh thành
vạn vật của vũ trụ khởi đầu.
 Ngược lại, các nhà tư tưởng của phái Samkhya hậu kỳ lại có khuynh hướng
nhị nguyên luận khi thừa nhận sự tồn tại song song của hai yếu tố đầu tiên là
vật chất (Prakriti) và tinh thần (Purusa). Còn các nhà triết học Mimansa dựa
vào tư tưởng triết học - tôn giáo của Vêđa, nhưng coi Vêđa như các tập công
thức hay thần chú về nghi lễ. Mimansa sơ kỳ không thừa nhận sự tồn tại của
thần. Phái Mimansa không phản đối việc coi thần linh như cái tên hay âm
thanh cần thiết cho các câu thần chú của nghi lễ. Về nguồn gốc thế giới, phái
Mimansa có quan điểm duy vật cho rằng thế giới được sinh ra từ các nguyên
tử.
Nguyễn Thu Trang – Nhóm 8 – K20- Đêm 1 Page 22
Tiểu Luận Triết Học GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
2.2.3. Sự khác biệt về nhận thức nghiên cứu.
Triết học Hy Lạp cổ đại đi từ thế giới quan, vũ trụ quan, bản thể luận…từ đó xây
dựng nhân sinh quan con người, ngược lại Triết học Ấn Độ cổ đại lấy nhân sinh
quan làm gốc, đặc biệt là vấn đề luân hồi, nghiệp báo, sau đó mới là vũ trụ quan,
bản thể luận.
Sự khác biệt rõ ràng trong nhận thức thế giới quan và cách lý giải, cũng như
cách giải thoát khỏi bể khổ, sự bế tắc của các trường phái triết học. Ở triết học Hy
Lạp cổ đại do xuất phát và gắn bó với khoa học tự nhiên, nhìn nhận bản chất vũ trụ
theo quan điểm khoa học (tuy còn nhiều mặt hạn chế), để từ đó đưa ra các nhận định

về nhân sinh quan con người, linh hồn… trong khi triết học Ấn Độ cổ đại đi từ sự bế
tắc trong cuộc sống, gửi gắm vào các thế lực tâm linh, thần linh để đi đến nhận thức
về vũ trụ, trời đất, giải thích sự vận động của vũ trụ quan.
Các nhà triết học Hy Lạp đầu tiên có khuynh hướng lấy một thực thể bản nguyên
tượng trưng làm nguồn gốc của tất cả mọi vật. Chẳng hạn đối với Talet đó là nước,
đối với Anaximăngđrơ đó là cái vô hạn bất định, đối với Anaxago đó là tinh thần.
Pytago tìm cái chìa khoá phổ quát của hiện thực trong các con số, Pacmênic cho
rằng bản chất của thực thể nằm trong tồn tại; Lơxip và Đêmôcrit phỏng đoán mọi sự
vật đều được tạo thành từ những nguyên tử. Hêraclit đưa ra quan niệm mọi sự vật
của thế giới luôn thay đổi, sự kết hợp của các yếu tố vật chất là vô hạn.
Từ thế giới quan, các nhà triết học Hy Lạp cổ đại mới đi đến vấn đề nhân sinh
quan, đạo đức, xã hội. Mỗi con người là thước đo sự vật cho mình, không phải chỉ
sự vật được nhận thức, mà cả sự vật thuộc thiện, ác trong xã hội. Con người, thước
đo sự vật, không phải là cá nhân riêng biệt mà là phổ quát. Cấu trúc xã hội và cấu
trúc linh hồn (hay tự ngã) của con người phản ảnh lẫn nhau và phụ thuộc lẫn nhau.
Bản chất của con người là lý trí và được tìm thấy trong một xã hội được xếp đặt theo
trật tự duy lý. Xôcrat và Platông chỉ rõ xã hội là sự phóng rọi của bản chất con
Nguyễn Thu Trang – Nhóm 8 – K20- Đêm 1 Page 23
Tiểu Luận Triết Học GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
người trên tấm vải thô lớn, hay là sự phản ánh được khuếch đại của bản chất con
người. Con người chỉ thực sự sống trong xã hội, không thể sống ngoài xã hội
Triết học Ấn Độ cổ đại đã đặt ra nhiều vấn đề thuộc về lĩnh vực nhân sinh (bản
chất, ý nghĩa đời sống, nguồn gốc nổi khổ của con người) nhằm tìm kiếm phương
tiện, con đường, cách thức giải thoát chúng sinh ra khỏi điều kiện tự nhiên và kinh
tế - xã hội khắc nghiệt mà không thấy mối quan hệ giữa con người trong lao động
sản xuất.
Trường phái Upanishad bàn tới vấn đề "luân hồi", "nghiệp báo". Những cảm
giác, ham muốn dục vọng và hành động của con người nhằm thỏa mãn những ham
muốn đó trong đời sống trần tục đã gây ra những hậu quả, gieo đau khổ ở kiếp này
và cả kiếp sau, gọi là "nghiệp báo" (Karma).

Từ sự lý giải về căn nguyên nỗi khổ của con người, Thích Ca Mâu Ni đã đưa ra
thuyết "Tứ diệu đế" và " Thập nhị nhân duyên" để giải thoát chúng sinh ra khỏi mọi
nỗi khổ và kiếp nghiệp báo, luân hồi. Thuyết “tứ diệu đế” là cốt lõi của quan niệm
nhân sinh quan của Phật giáo, gồm:
+ Khổ đế : Có trăm ngàn nỗi khổ, nhưng có 8 nỗi khổ trầm luân, bất tận mà bất
cứ ai cũng phải gánh chịu là: Sinh, lão, bệnh, tử, thụ biệt ly, Oán tăng hội , sở cầu
bất đắc, ngũ thụ uẩn.
+ Nhân đế (hay Tập đế) : Giải thích những nguyên nhân gây nên đau khổ cho
chúng sinh.
+ Diệt đế: Là lần theo Thập nhị nhân duyên, tìm ra cội nguồn của nỗi khổ, tiêu
diệt nó và đưa chúng sinh thoát khỏi nghiệp chướng, luân hồi, đạt tới cảnh trí Niết
bàn.
+ Đạo đế : Chỉ ra con đường diệt khổ đạt tới giải thoát. Đó là con đường "tu
đạo", hoàn thiện đạo đức cá nhân gồm 8 nguyên tắc ( bát chính đạo)
Nguyễn Thu Trang – Nhóm 8 – K20- Đêm 1 Page 24
Tiểu Luận Triết Học GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
Từ đó cho thấy xu hướng cơ bản trong triết học Ấn Độ cổ đại là quan tâm giải quyết
các vấn đề nhân sinh dưới gốc độ tâm linh tôn giáo với xu hướng “hướng nội”.
2.2.4. Sự khác biệt về đối tượng nghiên cứu
Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại tách chủ thể với khách thể để nhận xét khách
quan, còn triết học Ấn Độ cổ đại nhấn mạnh sự thống nhất trong mối quan hệ giữa
con người và vũ trụ theo nguyên tắc “thiên nhân hợp nhất”.
Từ thế giới quan triết học “thiên nhân hợp nhất” là cơ sở quyết định nhiều đặc
điểm khác của triết học Ân Độ cổ đại như: lấy con người làm đối tượng nghiên cứu
chủ yếu – tính chất hướng nội; hay như nghiên cứu thế giới cũng là để làm rõ con
người và vấn đề bản thể luận trong triết học Ấn Độ cổ đại bị mờ nhạt. Nhưng ngược
lại triết học Hy Lạp cổ đại lại đặt trọng tâm nghiên cứu vào thế giới – tính chất
hướng ngoại; còn vấn đề con người chỉ được nghiên cứu để giải thích thế giới mà
thôi, nhấn mạnh tách con người ra khỏi vũ trụ, coi con người là chủ thể, chúa tể để
nghiên cứu chinh phục vũ trụ – thế giới khách quan. Cho nên triết học Hy Lạp cổ

đại đậm nét về bản thể luận của vũ trụ.
Các nhà triết học Hy Lạp đã nhấn mạnh tách con người ra khỏi vũ trụ, coi con
người là chủ thể để nghiên cứu, chinh phục vũ trụ - thế giới khách quan.
Ở Phương Tây họ lại ít quan tâm đến mặt xã hội của con người, đề cao cái tự
nhiên – mặt sinh vật trong con người, chú ý giải phóng con người về mặt nhận thức,
không chú ý đến nguyên nhân kinh tế – xã hội, cái gốc để giải phóng con người.
Con người có thể tự mình suy tư và tự mình giải thích vũ trụ bằng lý trí của mình.
Con người cá thể, riêng biệt và tự do không có chỗ đứng, không có ý thức phản tỉnh
về cái tôi riêng biệt và độc đáo của mình. Họ chỉ biết cúi đầu thuần phục vẻ linh
thiêng, vĩnh cửu của vũ trụ. Tuy nhiên, dù sống trong trào lưu tư tưởng đó, con
Nguyễn Thu Trang – Nhóm 8 – K20- Đêm 1 Page 25

×