Lời mở đầu
Lạm phát là một trong những yếu tố quan trọng nhất đánh giá sức khỏe nền
kinh tế của mọi quốc gia (tỉ lệ tăng trưởng GDP, tỉ lệ lạm phát , tỉ lệ thất nghiệp,
cán cân thanh toán). Hiện nay, ở Việt Nam chỉ số lạm phát đã leo vọt lên tới mức
báo động là 2 con số, vượt qua ngưỡng lạm phát cho phép tối đa là 9% của mỗi
quốc gia và dự báo của các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước. Diễn biến phức
tạp của lạm phát đang tác động đến đời sống thường ngày của người dân, đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, cũng như gây khó khăn đối với
kinh tế vĩ mô. Đây cũng là một vấn đề trọng tâm mà Chính phủ đang tập trung theo
dõi, nghiên cứu để tiếp tục thực hiện các giải pháp điều hành. Vậy nguyên nhân của
tình trạng lạm phát này bắt nguồn từ đâu và liệu chúng ta phải làm gì để có thể làm
dịu bớt tình hình lạm phát hiện nay? Đó là một câu hỏi lớn mà tất cả các chuyên gia
kinh tế đều đang vào cuộc tìm câu trả lời. Với tầm quan trọng của vấn đề đó, chúng
tôi đưa ra bài tiểu luận với đề tài: “Phân tích nguyên nhân và giải pháp chống lạm
phát từ nay đến cuối năm 2011 ở Việt Nam”. Để làm rõ đề tài trên, chúng tôi chủ
yếu dựa trên những lí thuyết và những số liệu thực tế, để từ đó tổng hợp, phân tích,
đánh giá, so sánh, đưa ra những luận điểm chính xác nhất và những dự báo có cơ sở
cho tình hình lạm phát hiện nay ở Việt Nam. Bài tiểu luận sẽ được chia thành 3
chương: Chương 1: Khái quát chung về lạm phát
Chương 2: Thực trạng và nguyên nhân của lạm phát
Chương 3: Giải pháp chống lạm phát
Mặc dù đã cố gắng hoàn thiện bài tiểu luận trong phạm vi và khả năng cho
phép nhưng do hạn chế về kiến thức cũng như kinh nghiệm nên chắc chắn bài viết
sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong có được sự đóng góp ý
kiến của Quý thầy cô cũng như những người quan tâm. Xin chân thành cảm ơn!
1
Chương I: Khái quát chung về lạm phát
1. Khái niệm của lạm phát.
a) Quan niệm sai lầm: Lạm phát là sự tăng lên của giá cả tại một thời
điểm nhất định, hay cứ có tăng lên của giá cả tức là xảy ra tình trạng lạm
phát.
b) Quan niệm đúng đắn: Lạm phát là sự tăng lên một cách nhanh chóng
của giá cả và trong một thời gian dài.
i. Trong kinh tế học: lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá
chung của nền kinh tế
ii. Trong nền kinh tế: Lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm
sức mua của đồng tiền.
2. Phân loại lạm phát
Đây là cách phân loại lạm phát theo mức độ:
i. Thiểu phát: Mức lạm phát cực thấp, gần như không đáng kể.
ii. Lạm phát thấp: Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá từ 0.3
đến dưới 10 phần trăm một năm.
iii. Lạm phát cao( Lạm phát phi mã): Mức lạm phát tương ứng với tốc
độ tăng giá trong phạm vi hai hoặc ba chữ số một năm thường được
gọi là lạm phát phi mã, nhưng vẫn thấp hơn siêu lạm phát. Hiện nay
thì Việt Nam đang rơi vào tình trạng lạm phát cao này.
iv. Siêu lạm phát: Lạm phát "mất kiểm soát", một tình trạng giá cả tăng
nhanh chóng khi tiền tệ mất giá trị, tốc độ tăng giá ở mức 3 con số
3. Cách đo lường lạm phát ở nước ta hiện nay.
i. Trên thế giới( nhất là ở Mĩ và các nước phát triển) có rất nhiều cách
để đo lường và tính toán chỉ số lạm phát như chỉ số giá sinh hoạt, chỉ
số giá tiêu dùng, chỉ số giá sản xuất, chỉ số giá bán buôn, chỉ số giá
hàng hóa, chỉ số giá tiêu dùng cá nhân,…
ii. Ở Việt Nam: Chỉ số giá tiêu dùng được sử dụng một cách phổ biến
và rộng rãi, và là chỉ số quan trọng nhất đánh giá mức độ lạm phát
của nền kinh tế.
2
Cách tính toán: Chỉ số giá tiêu dùng (hay được viết tắt là CPI, từ các chữ
tiếng Anh Consumer Price Index) là chỉ số tính theo phần trăm để phản ánh mức
thay đổi tương đối của giá hàng tiêu dùng theo thời gian.
Để tính toán chỉ số giá tiêu dùng người ta tính số bình quân gia
quyền theo công thức Laspeyres của giá cả của kỳ báo cáo (kỳ t) so với kỳ cơ sở.
Để làm được điều đó phải tiến hành như sau:
1. Cố định giỏ hàng hóa: thông qua điều tra, người ta sẽ xác định
lượng hàng hoá, dịch vụ tiêu biểu mà một người tiêu dùng điển hình mua.
2. Xác định giá cả: thống kê giá cả của mỗi mặt hàng trong giỏ hàng
hoá tại mỗi thời điểm.
3. Tính chi phí (bằng tiền) để mua giỏ hàng hoá bằng cách dùng số
lượng nhân với giá cả của từng loại hàng hoá rồi cộng lại.
4. Lựa chọn thời kỳ gốc để làm cơ sở so sánh rồi tính chỉ số giá tiêu
dùng bằng công thức sau:
CPI
t
= 100 x
Chi phí để mua giỏ hàng hoá thời
kỳ t
Chi phí để mua giỏ hàng hoá kỳ cơ sở
Thời kỳ gốc sẽ được thay đổi trong vòng 5 đến 7 năm tùy ở từng nước.
Trên thực tế người ta có thể xác định quyền số trong tính toán chỉ số giá tiêu
dùng bằng cách điều tra để tính toán tỷ trọng chi tiêu của từng nhóm hàng hoá, dịch
vụ so với tổng giá trị chi tiêu. Sau đó quyền số này được dùng để tính chỉ số giá
tiêu dùng cho các thời kỳ sau. CPI thường được tính hàng tháng và hàng năm. CPI
còn được tính toán cho từng nhóm hàng hóa hoặc một số nhóm hàng hóa tùy theo
mục đích sử dụng.
3
Chương II: Thực trạng và nguyên nhân của lạm phát
1. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam
a) Diễn biến lạm phát ở Vịêt Nam từ năm 2004- 2010
Tốc độ tăng GDP và CPI được thể hiện qua biểu đồ trên. Qua đó ta thấy được
Việt Nam đã kiểm soát được lạm phát trong giai đoạn 2004-2007 và 2009-2010 với
chỉ số lạm phát chỉ dừng lại ở 1 con số. Tuy nhiên năm 2008 chỉ số lạm phát đã
tăng đột biến vào năm 2008 do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế
giới.
Qua việc xem xét lạm phát giai đoạn 2004-2010 ta sẽ có cái nhìn tổng quát hơn
về tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay ( 3 quý đầu năm 2011)
b)Tình hình lạm phát ở Việt Nam năm 2011
Chỉ số CPI 8 tháng năm 2011( so với tháng trước nó)
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8
CPI 2,17 2,09 2,17 3,32 2,21 1,09 1,17 0,93
4
Chỉ số giá tiêu dùng 8 tháng đầu năm có ít nhiều biến động. Từ đầu năm cho
đến tháng 4 năm 2011 chỉ số giá tiêu dùng có xu hướng tăng và đạt cao nhất 3.32%
vào tháng 4. Từ tháng 4 trở đi thì chỉ số giá tiêu dùng lại có xu hướng giảm. Sau 4
tháng chỉ số giá tiêu dùng đã giảm được 2.39%. Điều đó cho thấy phần nào chính
sách kiềm chế lạm phát của chính phủ đã phát huy tác dụng.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 8 năm 2011 so với
Tháng 12 năm
2010
Cùng kì năm
2010
So với tháng trước
đó
Chỉ số chung 115,68 123,02 100,93
Lương thực 110,53 127,87 100,43
Thực phẩm 128,08 138,63 101,55
Vàng 115,33 147,63 108,70
Đô la Mỹ 100,32 108,64 100,26
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 8/2011 tăng 0,93% so với tháng trước, mức tăng đã
giảm nhiều và đây là tháng có chỉ số giá tiêu dùng tăng dưới 1% sau 11 tháng.
Chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tháng này tăng 1,35% (Thực phẩm
5
tăng 1,55%), tuy cao hơn mức tăng chung nhưng đã giảm nhiều so với mức
2,12% của tháng trước (Thực phẩm tăng 3,20%). Nhóm giáo dục tăng 1,13%, cao
hơn mức 0,26% của tháng Bảy, chủ yếu do nhu cầu tiêu dùng tăng lên khi năm
học mới bắt đầu. Các nhóm hàng hoá và dịch vụ khác có mức tăng thấp hơn mức
tăng chung hoặc giảm gồm: Nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,89%; may mặc,
mũ nón, giày dép tăng 0,79%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,55%; thiết bị và đồ
dùng gia đình tăng 0,51%; văn hoá, giải trí và du lịch tăng 0,34%; thuốc và dịch
vụ y tế tăng 0,25%; giao thông tăng 0,21%; bưu chính viễn thông giảm 0,06%.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 8/2011 tăng 15,68% so với tháng 12/2010; tăng
23,02% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân tám tháng năm
nay tăng 17,64% so với bình quân cùng kỳ năm 2010.
Chỉ số giá vàng tháng 8/2011 tăng 8,7% so với tháng trước; tăng 15,33% so
với tháng 12/2011và tăng 47,63% so với cùng kỳ năm 2010. Chỉ số giá đô la Mỹ
tháng 8/2011 tăng 0,26% so với tháng trước; tăng 0,32% so với tháng 12/2011 và
tăng 8,64% so với cùng kỳ năm 2010.
Điều này có được là do rất nhiều nguyên nhân. Sau đây là một số nguyên
nhân tiêu biểu.
2. Nguyên nhân của lạm phát
a) Nguyên nhân khách quan
Tình hình kinh tế thế giới có tác động sâu sắc đến tình hình lạm phát nước ta.
Những tháng đầu năm 2011 có những diễn biến hết sức phức tạp và chịu tác động
sâu sắc của các biến động chính trị ở Bắc Phi, Trung Ðông, thảm họa động đất,
sóng thần ở Nhật Bản và khủng hoảng nợ công ở châu Âu.
Những biến động tiêu cực của kinh tế thế giới này những tháng đầu năm đã tác
động trực tiếp đến kinh tế nước ta. Việt Nam là một nước nhập siêu, sản xuất trong
nước chưa đủ cho đầu tư và tiêu dùng cuối cùng. Đầu tư và tiêu dùng vượt qua sản
xuất lên đến trên dưới 10% hàng năm nên nước ta phải nhập siêu, vay nợ và dựa
6
vào những khoản viện trợ từ nước ngoài để bù đắp. Khi tổng cầu vượt quá tổng
cung thì Việt Nam không chỉ ở vị thế nhập siêu, mà còn rất dễ rơi vào lạm phát cao.
Do vậy, những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu và nguồn đầu tư FDI,
ODA từ nước ngoài vào Việt Nam thì đều ảnh hưởng đến tình hình lạm phát ở
nước ta.
Thiên tai tại Nhật Bản đang khiến cho hệ thống sản xuất toàn cầu của một số
mặt hàng điện tử, công nghệ cao chịu ảnh hưởng nặng nề, do khu vực chịu ảnh
hưởng thiên tai ở Nhật Bản là nơi sản xuất chính ra thị trường thế giới. Nhu cầu
nhập khẩu tăng mạnh, trong khi nguồn cung xuất khẩu các chi tiết công nghệ của
Nhật Bản cho các ngành sản xuất hàng điện tử của châu Á giảm, làm cho giá của
chúng tăng (giá của các bộ mạch vi xử lý được sử dụng trong các thiết bị điện tử đã
tăng 8%). Hơn nữa, FDI và ODA của Nhật sẽ được đưa về Nhật để phục vụ công
cuộc tái thiết đất nước sẽ làm giảm một khoản đầu tư lớn vào Việt Nam.
Khủng hoảng nợ công vẫn tiếp tục phủ bóng đen lên khu vực châu Âu. Theo
báo cáo thường niên về tình hình tài chính công châu Âu của Ủy ban châu Âu công
bố hôm 13/9, nợ công của 17 nước khu vực đồng tiền chung sẽ tiếp tục tăng và có
thể lên tới 88,7% GDP vào năm 2012, bất chấp việc kinh tế tăng trưởng trở lại.
Ngoài khu vực châu Âu, Mỹ và Nhật Bản cũng đang đứng trước nguy cơ bị giảm
mức xếp hạng tín dụng khi nợ công lên tới mức kỷ lục. Nợ công của Mỹ đã hơn
90% GDP. Nợ công của Nhật Bản trước khi xảy ra động đất, sóng thần cũng đã ở
mức 200% GDP. Cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu sẽ làm chậm lại đà phục
hồi của nền kinh tế toàn cầu và đặc biệt là nền kinh tế Châu Âu. Nền kinh tế Việt
Nam đã hội nhập khá sâu vào kinh tế thế giới, khi nền kinh tế của các nước Châu
Âu (khu vực có quan hệ thương mại và dòng vốn đầu tư khá lớn vào Việt Nam)
lâm vào tình trạng khó khăn thì thu hút đầu tư FDI, viện trợ nước ngoài ODA cũng
chịu những tác động tiêu cực về lâu dài do nhiều nước phải thực hiện các biện pháp
thắt chặt chi tiêu, hạn chế đầu tư, tập trung cho việc phát triển nền kinh tế nội địa.
7
Khủng hoảng chính trị ở Bắc Phi, Trung Ðông làm cho giá xăng dầu liên tục
leo thang. Không những mà thế giá của sắt thép, nguyên vật liệu,của các yếu tố đầu
vào của quá trình sản xuất, hay giá của mặt hàng thiết yếu như lương thực thực
phẩm tăng. Những mặt hàng này không sản xuất được trong nước hoặc sản xuất
không đủ để phục vụ nhu cầu trong nước nên phải nhập khẩu chúng. Với cách thức
này, thì ta đã “nhập khẩu lạm phát” của thế giới và đồng thời chịu lạm phát do chi
phí đẩy tạo ra khi chịu cú sốc giá làm giá của các yếu tố đầu vào liên tục tăng, từ đó
làm lạm phát nước ta liên tục tăng.
Với những tác động của thế giới thì lạm phát tăng như một điều tất yếu nhưng
nó không phải là nguyên nhân chủ yếu vì như ta có thể thấy trong thời gian qua thì
chỉ số giá tiêu dùng CPI của Việt Nam luôn cao hơn bất thường so với các nước
trong khu vực hay các đối thủ cạnh tranh cũng như các nước có điều kiện tương tự.
Năm 2010, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt 6,78%; CPI tăng tới 11,75%.
Trong khi đó, những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng tương đương Việt Nam như
Indonesia (tăng 6%), Malaysia (tăng 6,8%), Thái Lan (tăng 7,6%) và Hàn Quốc
(ăng 6%)… thì tốc độ tăng CPI của họ chỉ tương ứng 6,3%; 2%; 2,8% và 3,3%.
Còn Trung Quốc, GDP tăng 10,1% nhưng CPI chỉ tăng 5,1%. Chỉ số này của
Singapore tương ứng 14% và 3,5%; Đài Loan là 9,8% và 1,5%… Vậy nên nguyên
nhân sâu xa là do nội tại xuất phát từ các chính sách điều hành quản lý của nhà
nước chứ không phải hoàn toàn do yếu tố bên ngoài tác động.
b) Nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân trước hết đó là do nhà nước chủ trương phát triển kinh tế ở mức
độ cao bằng mọi giá hơn là việc chú trọng lạm phát, đặc biệt bắt đầu từ nhiệm kỳ 5
năm vừa qua của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng. Chính phủ đặt ra những chỉ tiêu
phát triển không thực tế: 7%-7,5% mỗi năm trong 5 năm tới và 7%-8% trong 10
năm tới. Trong khi đó, kinh tế Việt Nam trải qua nạn lạm phát 9,19% vào năm
8
2010 cao hơn tất cả những nước láng giềng tức là mục tiêu cấp bách là phải kiềm
chế lạm phát thì nhà nước lại đề ra chính sách theo đuổi tăng trưởng bằng mọi cách.
Ta thấy để có thể đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao thì phải đánh đổi bằng
lạm phát cao vậy nên nhà nước không thể nhắm vào mức phát triển kinh tế cao
trong khi cần phải kiềm chế lạm phát.
Lạm phát có nguyên nhân từ những yếu tố tiền tệ đó là về mặt tỷ giá, tín dụng.
Về mặt tỷ giá, theo một nghiên cứu về lạm phát trong tình trạng đô la hóa ở Việt
Nam của Michaël Goujon năm 2006 đã cho thấy sự tác động của tỷ giá lên lạm
phát. Sự biến động của tý giá hối đoái có ảnh hưởng trực tiếp đến cung tiền. Sự mất
giá của đồng nội tệ sẽ gia tăng cung tiền do giá trị bằng nội tệ của các tài sản theo
ngoại tệ tăng cùng với sự phá giá đồng tiền. Nói cách khác, biến động tỷ giá ảnh
hưởng đến chênh lệch tiền tệ giữa cung và cầu tiền tệ và lạm phát. Hơn nữa,sự phá
giá đồng nội tệ có thể dẫn đến sự gia tăng giá của hàng sản xuất, tiêu dùng trong
nước (thông qua việc nhập khẩu các yếu tố đầu vào) và điều này ảnh hưởng đến
cầu và cung của hàng hóa sản xuất và tiêu dùng trong nước. Cung của hàng hóa này
có thể giảm trong khi cầu của chúng tăng sẽ tạo áp lực lên lạm phát. Thực tế, trong
15 tháng vừa qua (từ 30/5/2011), Việt Nam đã phá giá VNĐ tất cả 4 lần và trong
khoảng thời gian này trị giá của VNĐ đã giảm tổng cộng khoảng 20% so với đồng
US dollar (USD). Trong lần thứ tư xảy ra vào ngày 11/2/2011, VNĐ sụt giá 9.3%
so với USD. Hối suất chính thức của VNĐ tăng từ 18,932 lến đến 20,693 cho một
USD. NHNN quyết định phá giá VNĐ là để giảm bớt sự chênh lệch giữa hối suất
chính thức và hối suất chợ đen, đôi khi sự cách biệt lên đến 9% và làm giảm sự
khan hiếm ngoại tệ. Sự phá giá VNĐ làm tăng giá sản phẩm và nguyên liệu nhập
khẩu sẽ gia tăng tính theo VNĐ làm tăng lạm phát. Không những thế, chính phủ
còn theo đuổi chính sách ổn định tỷ giá đồng tiền trong bối cảnh lạm phát luôn tăng
cao làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Khi lạm phát cao mà
tỷ giá cứng nhắc sẽ làm cho hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam (kể cả tiêu
9
thụ trong nước và xuất khẩu) trở nên đắt đỏ hơn so với hàng nhập khẩu. Điều này
làm cho một lượng hàng hóa ít hơn sẽ được sản xuất ra trong nền kinh tế Việt Nam
và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam bị giảm sút, điều này lại càng
làm lạm phát tăng.
Về mặt tín dụng, theo thống kê từ cuối năm 2005 của Tiến sĩ Nguyễn Xuân
Thành, Phó giám đốc Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright và các đồng
nghiệp đã nghiên cứu và cho thấy việc lạm phát tăng cao thường có độ trễ khoảng 7
tháng so với các thời điểm bùng phát về tăng trưởng tín dụng và ngược lại, khi tín
dụng được thắt chặt thì lạm phát cũng giảm sau đó khoảng hơn nửa năm, như vậy
tốc độ gia tăng tín dụng trước năm 2011 có ảnh hưởng tới lạm phát năm 2011.
Trong 10 năm qua, tốc độ gia tăng tín dụng quá cao, trên 20% đôi khi lên đến
50.2% vào 2007 và 45.6% vào năm 2009. Theo Ngân Hàng Nhà Nước (NHNN),
mức tín dụng tăng 27% trong năm 2010, vượt quá mục tiêu 25%. Mức tín dụng chỉ
tiêu cho năm 2011 là 23%. Nay mới hạ xuống dưới 20%. Do đó, mặc dù tốc độ
tăng tín dụng giảm thì quy mô tăng tín dụng rất lớn- đây là nguyên nhân trực tiếp
dẫn đến lạm phát Việt Nam.
Mặc dù tốc độ tăng trưởng tín dụng quá cao nhưng chất lượng còn thấp, phần
lớn những tín dụng này lại được ưu tiên dành cho những doanh nghiệp nhà nước,
thường hoạt động kém hiệu quả, với những điều kiện thuận lợi. Đây cũng là một
trong những chính sách tài khoá không phù hợp đã góp phần làm cho lạm phát tăng
lên. Đó là tình trạng đầu tư công dàn trải và thiếu hiệu quả. Theo thống kê mỗi năm
Việt Nam đầu tư công khoảng 17-20% GDP, trong khi các nước trong khu vực chỉ
dưới 5% như Trung Quốc 3,5%, Indonesia 1,6%; nghiên cứu mới đây nhất của ông
Vũ Anh Tuấn - Viện Kinh tế Việt Nam cho thấy quy mô vốn đầu tư công trong 10
năm qua đã tăng tới 3,2 lần, trung bình mỗi năm tăng 13,9 % . Tuy nhiên hiệu quả
đầu tư công của Việt Nam hiện còn rất kém. Hệ số ICOR (đo lường số đơn vị đầu
tư tính theo % GDP để tạo ra một đơn vị tăng trưởng GDP) tại khu vực nhà nước là
10
7,8 – cao hơn mức trung bình chung của nền kinh tế là 5,2 và ICOR của Việt Nam
cao hơn gấp rưỡi thậm chí gấp đôi so với khu vực. Như một hệ quả tất yếu của một
nền kinh tế xây dựng trên một khu vực nhà nước lớn với các doanh nghiệp nhà
nước làm ăn thường là thua lỗ, hàng loạt các công ý nhà nước liên tục báo lỗ điển
hình như vụ việc của công ty quốc doanh xây cất tầu thủy Vinashin rơi vào tình
trạng phá sản với khoản nợ khổng lồ hàng trăm nghìn tỉ đồng, hay Công Ty Cho
Thuê Tài Chánh ALC II-công ty trực thuộc Ngân hàng ALC II đã thua lỗ hơn 3.000
tỉ đồng.
Thêm vào đó, tình trạng thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại diễn ra
trong thời gian dài. Trong hai năm 2009 và 2010 bội chi ngân sách tương đương
với 8.9% và 5.9% của tổng sản phẩm nội địa (gross domestic product – GDP) lần
lượt trong hai năm 2009 và 2010. Cán cân thương mại thiếu hụt thường xuyên
trong nhiều năm vừa qua. Mức thiếu hụt này tương đương với 8.9% và 10.2% của
GDP trong 2009 và 2010. Những con số này chứng tỏ rằng chi tiêu của nhà nước
cao hơn thu nhập và nhu cầu nhập khẩu cao hơn trị giá hàng xuất khẩu. Hai sự
thiếu hụt này tạo áp lực trên giá cả bằng cả hai tác động cầu kéo và chi phí đẩy, làm
lạm phát tăng lên.
Ngoài các yếu tố cơ bản trên gây ra lạm phát thì còn có yếu tố tâm lý. Người
dân giảm lòng tin vào đồng tiền, chưa tin tưởng vào khả năng kiềm chế lạm phát là
những nguyên nhân chính tạo ra “lạm phát tâm lý”. Một phân tích khoa học cho
thấy, nếu lãi suất ngân hàng tăng 1%, chỉ gây ra lạm phát khoảng 0,03%; nhưng lạm
phát tâm lý 1% thì có thể làm lạm phát tăng thêm 0,64%. Một ví dụ khá thú vị về lạm
phát tâm lý như sau khi giá điện tăng lên hồi đầu tháng 3 vừa qua, “một bát phở trước
đây giá 15.000 đồng, khi giá điện tăng thì cũng tăng giá lên 20.000-25.000 đồng trong
khi tỷ trọng điện trong chi phí để làm ra bát phở rất nhỏ” , điều này đã cho thấy “trên
thực tế, có sự tăng giá theo tâm lý, một yếu tố rất khó dự đoán và tính toán”. Nhìn lại
quá trình phát triển thời gian qua, lạm phát luôn là một trong những vấn đề gây nhức
nhối nhất, làm tổn thương nhất đối với nền kinh tế. Tâm lý người dân rất nhạy cảm với
11
lạm phát và thường có phản ứng đôi khi quá mức càng đẩy lạm phát lên cao. Trong
khi đó, các phản ứng của Chính phủ chống lại lạm phát thường chậm và thụ động,
chính sách điều hành không nhất quán, khiến người dân càng mất niềm tin vào hiệu
quả chính sách. Điều này thể hiện rất rõ nét qua những cơn sốt của thị trường vàng, đô
la, hay bất động sản khi người dân đổ xô đầu tư và găm giữ các loại tài sản khác thay
thế tiền đồng.
12
Chương III: Giải pháp chống lạm phát
1. Dự báo về lạm phát của Việt Nam trong thời gian tới:
Dự báo tình hình kinh tế Việt Nam sẽ dần được cải thiện trong các tháng
cuối năm. Tốc độ lạm phát dự kiến cao nhất trong quý 2 sau đó sẽ giảm dần xuống
khoảng 15% vào cuối năm, khi chính sách thắt chặt phát huy đầy đủ tác dụng.
Chính phủ Việt Nam đã có động thái tích cực nhằm phát huy tiềm năng nền kinh tế
trong dài hạn, đặc biệt là những nỗ lực và động thái để giúp duy trì mức ổn định
nhất định của nợ công cũng như tài khóa tốt hơn. Ngoài ra, chính phủ Việt Nam
trong thời gian gần đây cũng đã tập trung nhiều vào chính sách tiền tệ ví dụ như
bình ổn tỷ giá hối đoái và các biện pháp khác thực hiện để giảm phát. Điều này sẽ
giúp cho tình trạng lạm phát những tháng cuối năm có những chuyển biến tích cực.
Hiện tại tăng trưởng kinh tế thế giới đang có dấu hiệu chững lại. Trong các
dự báo mới đây, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) đều hạ
triển vọng tăng trưởng của hầu hết các nền kinh tế chủ chốt trên thế giới. Vì vậy,
sức ép về nhu cầu hàng hóa cũng sẽ không lớn trong những tháng tới.
Giá dầu thô hiện đang có dấu hiệu giảm dần, điều nay làm cho xăng dầu
(một trong những mặt hàng thiết yếu và là nguyên liệu cơ bản đầu vào của hầu hết
các ngành sản xuất) giảm giá theo. Sự sụt giảm này sẽ góp phần kiềm chế chỉ số giá
tiêu dùng những tháng cuối năm. Một sự sụt giảm của giá dầu hay thậm chí chỉ cần
ổn định, thì các chính sách đối phó với lạm phát của Việt Nam cũng sẽ trở nên “dễ
thở” hơn.
Tác động của cung tiền đối với lạm phát thường có độ trễ từ 4-6 tháng. Với
việc tăng trưởng cung tiền đã chậm lại, chúng ta có thể kỳ vọng lạm phát trong
những tháng sắp tới tiếp tục có chuyển biến tích cực.
13
Quan ngại lớn nhất hiện nay có lẽ nằm ở giá cả hàng hóa, vì giá lương thực
thế giới vẫn có thể tăng cao do hiện tượng mất mùa đang khá trầm trọng. Trong
nước, giá lương thực cũng gia tăng do bị khan hiếm mất mùa; và đặc biệt, hiện nay
các loại nông, thủy sản của Việt Nam bị thương lái Trung Quốc gom hàng và đẩy
giá lên rất cao.
Theo ước tính, CPI những tháng cuối năm sẽ tăng trong khoảng 0.4-0.7% mỗi
tháng. Với những con số này thì lạm phát cả năm 2011 sẽ dao động quanh mức từ
16-18%.
2. Giải pháp kiềm chế lạm phát trong thời gian tới:
Nhằm thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát năm 2011 ở mức 17%, ổn định
kinh tế vĩ mô, Bộ Tài chính ban hành chủ trương từ nay tới cuối năm tập trung vào
một số giải pháp sau:
a) Cần thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt
Thắt chặt tiền tệ: Các biện pháp dành cho chính sách thắt chặt tiền tệ hiện
nay cần phải được áp dụng một cách linh hoạt. Chúng ta cần hạn chế lượng tiền
trong lưu thông bằng cách: tăng lãi suất cho vay vốn và lãi suất tái chiết khấu và
hạn chế mức tăng tín dụng; quy định dự trữ bắt buộc hợp lí để vừa bảo đảm an toàn
hệ thống đồng thời nâng cao được khả năng thanh khoản trong hoạt động ngân
hàng; thêm nữa là việc phát hành tín phiếu và phân hạn mức mua cho các Ngân
hàng Thương mại để rút bỏ bớt tiền khỏi lưu thông
Nhiệm vụ trọng tâm của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong những tháng
cuối năm nay là tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chặt chẽ, thận trọng
phối hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiềm chế lạm
phát; điều hành và kiểm soát để bảo đảm tăng dư nợ tín dụng ở mức 15-17%, tổng
phương tiện thanh toán khoảng 12%, kiểm soát tốt cho vay nợ bất động sản.
14
Điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ, nhất
là các loại lãi suất và lượng tiền cung ứng để bảo đảm kiềm chế lạm phát. Trước
mắt giữ nguyên các mức lãi suất điều hành, xem xét điều chỉnh giảm mức lãi suất
với biên độ phù hợp trong trường hợp lạm phát giảm; tiếp tục giữ trần lãi suất huy
động 14% năm để tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng hạ lãi suất cho vay, bỏ
trần lãi suất khi điều kiện cho phép
Điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị
trường. Tăng cường quản lý ngoại hối, bảo đảm thanh khoản ngoại tệ, bình ổn tỷ
giá, đáp ứng yêu cầu ổn định, phát triển sản xuất kinh doanh và tăng dự trữ ngoại
hối.
b) Thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội
chi ngân sách Nhà nước
Chính sách tài khóa: Cần phải thực hiện từng bước kế hoạch giảm thâm hụt
để tiến tới cân bằng ngân sách, vì đây cũng là một chỉ tiêu kinh tế vĩ mô quan
trọng. Thắt chặt chi tiêu của chính phủ; kiểm soát chặt chẽ đầu tư công và đầu tư
của các doanh nghiệp nhà nước; giảm mạnh chi phí hành chính trong các cơ quan
nhà nước nhằm giảm bớt sức ép về cầu nhất là các loại cầu không tạo ra hiệu quả.
Với các dự án, cần loại bỏ những dự án đầu tư kém hiệu quả, thắt chặt những khoản
chi chưa thực sự cần thiết nhưng tạo mọi điều kiện cho đầu tư tư nhân và đầu tư
nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng.
Tiếp tục thực hiện tiết kiệm chi và cắt giảm đầu tư công, trong đó ưu tiên
nguồn vốn cho những công trình cấp bách thiết yếu về an sinh xã hội, phòng chống
thiên tai, an ninh quốc phòng, đảm bảo vốn cho sản xuất nông nghiệp và các công
trình điện.
15
Các bộ, cơ quan, địa phương chủ động sắp xếp lại các nhiệm vụ chi để tiết
kiệm thêm 10% chi thường xuyên của 9 tháng còn lại trong dự toán năm 2011, cắt
giảm các khoản chi chưa thật cần thiết, ra soát và cắt bỏ các hạng mục đầu tư kém
hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước.
Không ứng trước vốn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ năm 2012
cho các dự án, trừ các dự án phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai cấp bách.
Không kéo dài thời gian thực hiện các khoản vốn đầu tư từ ngân sách nhà
nước, trái phiếu Chính phủ kế hoạch năm 2011, thu hồi về ngân sách Trung ương
các khoản này để bổ sung vốn cho các công trình, dự án hoàn thành trong năm
2011.
Mặc dù chính sách cắt giảm chi tiêu công là hoàn toàn đúng đắn, song hiệu
lực của những biện pháp cụ thể đến đâu thì còn chưa chắc chắn. Mặc dù, năm 2008,
Chính phủ kiên quyết cắt giảm, giãn hoãn dự án chậm tiến độ, thiếu hiệu quả, dừng
dự án khởi công mới. Kết quả là năm 2008 là năm chi ngân sách nhà nước vượt dự
toán 13,5% (tương đương 54.000 tỉ đồng), chi đầu tư phát triển vượt dự toán 20%
(gần 120.000 tỉ đồng). Điều đó chứng tỏ giữa đề xuất, kiến nghị cắt giảm đến khi
thực hiện chưa tốt, chưa hiệu quả. Vì vậy, để tránh lặp lại như 2008, cần phải có
những hành động cụ thể và quyết liệt hơn. Không thể chỉ trông chờ vào đề xuất từ
dưới lên mà cần phải có sự chỉ đạo, điều phối mạnh từ Chính phủ, phải cương
quyết cắt giảm từ trên xuống.
Để thu hẹp thâm hụt ngân sách thì song song với việc giảm chi tiêu, Chính
phủ cũng cần chỉ đạo phấn đấu tăng thu ngân sách nhà nước 7-8% so với dự toán
ngân sách năm 2011 đã được Quốc hội thông qua. Tăng cường kiểm tra , giám sát
trong quản lý thu thuế, chống thất thu thuế; tập trung xử lý các khoản nợ đọng thuế;
triển khai các biện pháp cưỡng chế nợ thuế để thu hồi nợ đọng và hạn chế phát sinh
số nợ thuế mới.
16
Thực hiện rà soát nợ Chính phủ, nợ quốc gia, hạn chế nợ dự phòng, không
mở rộng đối tượng phạm vi bảo lãnh của Chính phủ. Bảo đảm dư nợ Chính phủ,
dư nợ công, dư nợ nước ngoài trong giới hạn an toàn và an toàn tài chính quốc gia.
c) Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, kiên quyết cắt
giảm nhập siêu.
Thực hiện quy định về điều tiết cân đối cung-cầu đối với từng mặt hàng thiết
yếu, bảo đảm kết hợp hợp lý, gắn sản xuất trong nước với điều hành xuất, nhập
khẩu; tiếp tục chỉ đạo, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong sản xuất,
kinh doanh để đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ; chỉ đạo điều hành
xuất khẩu gạo bảo đảm hiệu quả, ổn định giá lương thực trong nước, phối hợp với
Bộ Tài chính trong việc điều hành dự trữ quốc gia để bảo đảm an ninh lương thực;
thường xuyên theo dõi sát diễn biến thị trường trong nước và quốc tế để kịp thời có
biện pháp điều tiết, bình ổn thị trường, nhất là các mặt hàng thiết yếu. Chủ động có
biện pháp chống đầu cơ, nâng giá.
Đẩy mạnh xuất khẩu là một trong những biện pháp trước nhất để giảm nhập
siêu. Xây dựng kế hoạch điều hành xuất, nhập khẩu, phấn đấu bảo đảm nhập siêu
không quá 16% tổng kim ngạch xuất khẩu.Cùng với các mặt hàng truyền thống,
doanh nghiệp trong nước cần đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng có tiềm năng như
nông sản thực phẩm, khoáng sản; tập trung xuất khẩu các mặt hàng chủ lực, có thể
mang lại nguồn thu lớn như dệt may, giày da, đồ gỗ, điện-điện tử, nông-thủy sản,
nhất là các sản phẩm công nghệ cao. Bên cạnh đó, phát triển ngành công nghiệp hỗ
trợ để sản xuất các loại máy móc, thiết bị, nguyên phụ liệu để hạn chế nhập khẩu.
Xem xét, miễn, giảm thuế, gia hạn thời gian nộp thuế nguyên liệu đầu vào
nhập khẩu phục vụ sản xuất xuất khẩu đối với những ngành hàng trong nước còn
thiếu nguyên liệu như dệt may, da giầy, thuỷ sản, hạt điều, gỗ, dược phẩm…; tiếp
tục thực hiện tạm hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng hóa thực xuất
khẩu trong năm 2011.
17
d) Cân đối cung cầu trong nền kinh tế
Tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, bảo
đảm cân đối cung cầu về hàng hóa, trước hết là các mặt hàng thiết yếu phục vụ
sản xuất và đời sống, không để xảy ra thiếu hàng sốt giá. Sắp xếp lại mạng lưới
lưu thông hợp lí, tránh chi phí lưu thông tăng cao.
Rà soát, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và có giải pháp hỗ trợ phù
hợp về tiếp cận vốn, lãi suất, thuế cho sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy
sản xuất phát triển để tăng cung cho thị trường, giảm chi phí tạo ra cơ hội giảm
sức đẩy giá tăng.
e) Quản lí chặt chẽ hoạt động chi tiêu thu đổi ngoại tệ trên thị trường
Sử dụng công cụ tỉ giá: Nên điều chỉnh tăng nhẹ VND so với USD. Điều này cũng
phù hợp với việc đồng đô la Mỹ liên tục bị giảm giá so với các đồng tiền khác.
Tăng nhẹ giá trị VND tuy có ảnh hưởng đến xuất khẩu nhưng không quá lớn. Tăng
giá VND sẽ làm giá hàng nhập khẩu giảm, tăng nguồn cung, có tác dụng giảm mức
tăng giá trên thị trường nội địa, nhất là trong điều kiện nhập khẩu hiện chiếm tỉ lệ
cao trong GDP của nước ta. Tăng giá VND cũng góp phần kìm giữ giá luơng thực
hiện đang tăng tăng cao và có khả năng còn tiếp tục tăng trước nhu cầu của thị
trường thế giới.
Tích cực thu hút ngoại tệ trong dân bằng cách khuyến khích gửi tiết kiệm
ngoại tệ với lãi suất hấp dẫn, thực hiện tỷ giá hối đoái linh hoạt giữa tiền Việt với
một số ngoại tệ mạnh chi phối hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam như: USD,
EURO, Yên, Nhân dân tệ,…
f) Thường xuyên tổ chức kiểm tra, kiểm soát thị trường, ngăn chặn các
hành vi gian lận thương mại, đầu cơ tích trữ thao túng thị trường giá cả.
18
Tiếp tục thực hiện các biện pháp quản lí thị trường vàng, thị trường ngoại
hối
Kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng; trong quý II năm 2011 trình
Chính phủ ban hành Nghị định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo hướng
tập trung đầu mối nhập khẩu vàng, tiến tới xóa bỏ việc kinh doanh vàng miếng trên
thị trường tự do; ngăn chặn hiệu quả các hoạt động buôn lậu vàng qua biên giới.
g) Tăng cường các biện pháp hộ trợ ổn định đời sống và sản xuất của nhân
dân, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội.
h) Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về chủ trương biện
pháp bình ổn giá, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an
sinh xã hội, tạo ra sự đồng thuận trong xã hội, giảm thiểu các yếu tố tâm
lý, kỳ vọng tăng giá trên thị trường.
Nghị quyết 11 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội là những chủ trương hoàn
toàn đúng. Bên cạnh sự điều hành khôn khéo và kiên quyết, Chính phủ cần phải nỗ
lực trong việc tạo niềm tin cho dân chúng qua hệ thống thông tin tuyên truyền. Mỗi
người dân có thể bằng hành động cụ thể của mình góp phần đồng hành cùng Chính
phủ kiềm chế lạm phát.
Công tác thông tin định hướng chính sách cần phải đi trước một bước, xem
trọng hơn nữa việc chủ động kiến tạo lòng tin của dư luận. Một khi tâm lý xã hội
được củng cố, tạo ra sự đồng thuận cao thì sẽ ngăn chặn được hiện tượng lạm
phát… tâm lý và cũng nên xem đây là trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và các
cơ quan quản lý Nhà nước.
19
Mục lục
20