Đề tài :
XUẤT KHẨU THỦY SẢN VÀO THỊ TRƯỜNG
NHẬT BẢN
I. TỔNG QUAN CHUNG 1
1. Giới thiệu tổng quan thủy sản của Việt Nam 1
1.1. Quy mô ngành : 1
1.2. Năng lực sản xuất 2
1.2.1. Về khai thác thủy hải sản 2
1.2.2. Về nuôi trồng thủy sản 3
1.2.3. Lựa chọn nguồn nguyên liệu 4
1.3. Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà Nước đối với ngành thủy sản Việt Nam 4
2. Phân tích thị trường Nhật Bản 5
2.1. Phân tích môi trường vĩ mô 5
2.1.1. Môi trường văn hóa: 5
2.1.2. Môi trường kinh tế: 6
2.1.3. Môi trường chính trị Pháp luật 6
2.2. Phân tích môi trường ngành 7
2.2.1. Khái quát ngành thủy sản Nhật Bản : 7
2.2.2 Thị trường xuất nhập khẩu thủy sản của Nhật Bản : 8
II. HIỆN TRẠNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM SANG NHẬT BẢN 11
2.1 Tiềm năng thị trường 11
2.2 Xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang Nhật 11
2.3 Những mặt hàng thủy sản chính của Việt Nam XK sang Nhật 12
III. CÔNG TY XNK THỦY SẢN MINH PHÚ 14
1. Giới thiệu chung về công ty 14
1.1.Lịch sử hình thành 14
1.2. Lĩnh vực Kinh doanh 14
1.4. Vị thế Công ty 14
1.5. Triển vọng Công ty 15
1.6. Rủi ro Kinh doanh chính 15
2.Chiến lược chung của công ty 15
3.Gợi ý giải pháp Marketing cho công ty Minh Phú : 16
3.1 Sản phẩm 16
3.2.Chính sách về nhãn hiệu sản phẩm: 18
3.3. Chiến lược giá thủy sản XK vào TT Nhật: 18
3.4.Chiến lược phân phối thủy sản vào TT Nhật: 19
I. TỔNG QUAN CHUNG
1. Giới thiệu tổng quan thủy sản của Việt Nam
1.1. Quy mô ngành :
Việt Nam có 3260km bờ biển từ Móng Cái đến Hà Tiên, trải qua 13 vĩ độ, từ 8º23’
Bắc đến 21º39’ Bắc. Diện tích vùng nội thủy và lãnh hải của Việt Nam rộng
226.000km² và vùng biển đặc quyền kinh tế trên 1 triệu km², rộng gấp ba lần diện tích
đất liền.
Ngoài ra, Việt Nam còn có trên 4000 hòn đảo lớn nhỏ, nhiều vịnh, kênh, sông
ngòi… và trên 400.000ha rừng ngập mặn, là những khu vực đầy tiềm năng cho việc
phát triển, nuôi trồng thủy sản và tạo nơi trú đậu cho tàu thuyền.
1
Biển Việt Nam có trên 2000 loài cá, trong đó khoảng 130 loài có giá trị kinh tế.
Theo những đánh giá mới nhất, trữ lượng cá trong toàn vùng biển là 4,2 triệu tấn. Trong
đó sản lượng cho phép khai thác là 1,7 triệu tấn/năm, bao gồm 850.000 tấn cá đáy,
700.000 tấn cá nổi nhỏ, 1200.000 tấn cá nổi đại dương…
Bên cạnh cá biển còn nhiều nguồn lợi tự nhiên như trên 1600 loài giáp xác, sản
lượng cho phép khai thác từ 50-60 nghìn tấn/ 1 năm, trong đó nhiều loài có giá trị cao
như tôm biển, tôm hùm, tôm mũ ni, cua, ghẹ, mực, bạch tuộc… Hằng năm có thể khai
thác 45-50 nghìn tấn rong biển có giá tị kinh tế và rất nhiều loại đặc sản quý như bào
ngư, đồi mồi, chim biển, vây cá…
1.2. Năng lực sản xuất
Xuất phát từ tiềm năng thiên nhiên to lớn nói trên, chúng ta càng thấy được vai trò
quan trọng của ngành thủy sản trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đặc
biệt trong những năm gần đây, với nhịp độ phát triển kinh tế nhanh chóng, sản lượng
khai thác và giá trị xuất khẩu thủy sản tăng mạnh, ngành thủy sản ngày càng được xác
định rõ là một ngành kinh tế mũi nhọn và là một trong những hướng ưu tiên trong sự
nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Trong nhiều năm qua, ngành thủy sản luôn giũ vai trò quan trọng trong việc góp
phần nâng cao tổng kim ngạch xuất khẩu trong nền kinh tế nông nghiệp nói riêng và
nền kinh tế nói chung. Theo thống kê từ Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt
Nam (VASEP), năm 2010 xuất khẩu thủy sản đạt 4,95 tỷ USD, chiếm 6,9% tổng kim
ngạch xuất khẩu của nước ta.
Trong vòng mười năm trở lại đây, trung bình mỗi năm xuất khẩu thủy sản đem về
một tỷ USD/ năm. Và cũng từ năm 2001, Việt Nam luôn đứng trong top 10 nước có sản
lượng xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới. Hiện nay, Việt Nam có trên 300 doanh
nghiệp chế biến thủy sản. Trong đó, hai mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là tôm và cá tra.
Năm 2010, sản lượng tôm xuất khẩu của cả nước ước tính đạt 240.000 tấn với giá
trị 2,08 tỷ USD. Đây cũng là lần đầu tiên tôm xuất khẩu vượt ngưỡng 2 tỷ USD. Sản
phẩm tôm của Việt Nam ngày càng được đánh giá cao trên thị trường quốc tế. Theo các
chuyên gia ngành thủy sản thì tôm sú vẫn là đối tượng chủ lực quyết định thành công
của ngành tôm Việt Nam. Với diện tích nuôi tôm sú cả nước đạt 613.718ha (năm 2010),
tổng sản lượng đạt xấp xỉ 333.000 tấn, giá trị xuất khẩu ước đạt 1,45 tỷ USD.
Bên cạnh đó, diện tích và sản lượng tôm chân trắng cũng liên tục tăng trưởng mạnh
với sản lượng xuất khẩu ước đạt khoảng 61.000 tấn và giá trị 410 triệu USD. Tôm chân
trắng ngày càng được ưa chuộng tại tại thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc.
Ngoài tôm, cá tra là mặt hàng xuất khẩu chủ lực thứ hai của thủy sản Việt Nam.
Tính đến hết quý I năm 2011, xuất khẩu cá tra của Việt Nam đạt 153.062 tấn với giá trị
376.430 triệu USD tăng 21,6% về giá trị và tăng 5,2% về khối lượng so với cùng kì
năm 2010.
1.2.1. Về khai thác thủy hải sản
a.Số lượng và công suất tàu thuyền:
Trong giai đoạn 1991-2005, số lượng tàu thuyền tăng từ 72.043 chiếc lên 90,888
chiếc, trong đó số lượng thuyền máy tăng nhanh ngược lại thuyền thủ công giảm dần.
Điều này làm tổng công suất tàu thuyền năm 2005 đã đạt tới 5,317,447CV lớn gấp 5 lần
so với năm 1991.Tốc độ tăng bình quân từ 1991 đến 2005 là 18%.
2
Công suất bình quân năm 1991 đạt 18CV/chiếc, đến năm 2005 công suất bình
quân đạt gần 52,6 CV tăng 2,7 lần so với năm 1991. Trong khi đó năng suất đánh bắt
lại có xu hướng giảm xuống, năm 1995 là 0,65 tấn/CV, đến năm 1999 là 0,49 tấn/CV
và năm 2005 còn 0,36 tấn/CV.Điều này cho thấy mặc dù đã trang bị thêm nhiều tàu
thuyền cho hoạt động khai thác nhưng hiệu quả của ngành này vẫn còn thấp hơn so với
mức đầu tư bỏ ra (Viện kinh tế và quy hoạch thủy sản - 2006).
b.Sản lượng đánh bắt:
Trong giai đoạn 1990-2005, sản lượng KTTS của Việt Nam đã tăng liên tục với
mức bình quân 6%/năm, đạt 1,426 triệu tấn vào năm 2005; trong đó sản lượng khai thác
gần bờ khoảng 720 ngàn tấn trong khi mức khai thác hợp lý ở vùng này chỉ khoảng trên
600 ngàn tấn, nghĩa là đã có dấu hiệu của việc khai thác quá mức trong vùng gần bờ.
Sản lượng khai thác xa bờ còn chiếm tỷ trọng thấp hơn tuy đã có tốc độ tăng khá trong
các năm 1997-2005 (năm 2005 tăng 1,46 lần so với năm 1997).
Trong số thủy sản khai thác được trên 60% sản lượng được sử dụng cho các nhu cầu
tiêu thụ nội địa, 18% cho XK và khoảng 20% cho các mục đích khác.
Trong năm 2005 ngư dân (đặc biệt là các tỉnh phía Nam) tiếp tục đóng mới tàu
đánh bắt xa bờ, nâng tổng số tàu cá gắn máy đến cuối năm 2005 lên 90.880 chiếc với
tổng công suất là 5.317.447 CV, so với năm 2000 tăng 23% về số lượng và tăng 64% về
công suất.
Cùng việc tăng nhanh tàu thuyền, sản lượng khai thác tiếp tục tăng.Bộ chỉ đạo
duy trì sản lượng khai thác ở mức ổn định, để phát triển bền vững nguồn lợi phải
chuyển đổi nghề, chuyển cơ cấu đối tượng khai thác, tạo sự tăng nhanh về giá trị.
Sản lượng khai thác hải sản năm 2005 đạt 1.809.700 tấn, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm
2004 và bằng 103,4% kế hoạch năm. So với năm 2000 tăng 27,47%. Sản lượng khai
thác 5 năm (2001-2005) ước đạt 8.247.400 tấn, tăng 36, 39% so với giai đoạn 1996-
2000.
Nhận xét :
- Với số lượng tàu thuyền máy tăng 6%, tổng công suất tăng 18%/năm, nhưng tốc độ
đánh bắt tăng có xu hướng chậm dần.
- Lao động đánh cá biển tăng bình quân 10%/năm nhưng tốc độ tăng cũng có xu hướng
chậm. Thiếu lao động có tay nghề giỏi, có khả năng làm việc trên các tàu khai thác xa
bờ.
- Sản lượng khai thác gần bờ đã vượt quá mức độ cho phép và làm cho nguồn lợi ven
bờ ngày càng cạn kiệt.
- Việc đánh bắt cũng như sản lượng đánh bắt phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thiên
nhiên cũng như thời tiết nên không đảm bảo được tính ổn định trong chất lượng cũng
như số lượng thủy sản .
1.2.2. Về nuôi trồng thủy sản
Việt Nam là nước có tiềm năng lớn về NTTS với diện tích mặt nước nội địa
khoảng 1 triệu ha, vùng triều khoảng 0,7 triệu ha và hệ thống đầm phá ven biển có thể
phát triển NTTS.Trong khi diện tích có khả năng NTTS của cả nước ước tính khoảng
gần 2 triệu ha thì mới chỉ sử dụng 902.900 ha (năm 2004).
Từ giữa thập kỷ 90 trở lại đây, NTTS của Việt Nam phát triển rất nhanh.Theo số
liệu thống kê, sản lượng thuỷ sản nuôi đã tăngj từ 172.900 tấn (1992) lên 1.150.000 tấn
3
(2004), đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 19%/năm, cao gấp 3 lần so với tốc độ tăng
trưởng 6,3 %/năm của sản lượng thuỷ sản khai thác.
Quá trình tăng trưởng sản lượng thuỷ sản diễn ra đồng thời với quá trình tăng trưởng
diện tích NTTS.Tuy nhiên, tốc độ tăng sản lượng nhanh hơn do năng suất nuôi trồng
tăng lên.Theo thống kê mới nhất của Vụ Nuôi trồng thuỷ sản, Bộ Thuỷ sản, nếu so sánh
năm 2000 với 2005 ta có thể thấy, diện tích NTTS tăng 66 %, nhưng sản lượng tăng
168 %.
1.2.3. Lựa chọn nguồn nguyên liệu
Qua thực trạng về việc đánh bắt thủy hải sản ở Việt Nam với các điều kiện để
phát triển ngành thủy sản VIệt Nam . Có thể thấy để có được nguồn cung cấp nguyên
liệu đầu vào ổn định và có chất lượng đáp ứng đúng nhu cầu của các thị trường nhập
khẩu trên thế giới chúng ta nên chọn cách đầu tư trong việc nuôi trồng thủy sản .
Chủ động trong con giống cũng như đảm báo sự ổn định lâu dài là lợi thế để đáp
ứng nhu cầu. Bên cạnh đó như đã nêu thì Việt Nam có những điều kiện thuận lợi để đầu
từ cũng như phát triển ngành nuôi trồng thủy sản .Không những có những ưu đãi từ
điều kiện thiên nhiên mà VIệt Nam còn có nguồn lao động xuất thân chủ yếu từ nông
nghiệp cũng như các vũng biển nên đã sẵn có các kỹ năng cơ bản trong việc nuôi thủy
sản .
Nên việc đánh bắt tự nhiên chỉ là chiến lược tạm thời , còn chiến lược lâu dài là
đầu tư phát triển ngành nuôi trồng thủy sản để cũng cấp sản phẩm cho việc xuất khẩu .
Để làm được điều đó cần phải phối hợp từ khâu nghiên cứu nhu cầu của thị trường kết
hợp với các vùng chuyên nuôi trồng. Cung cấp con giống cũng nhưng các điều kiện tốt
để có thể cho ra sản phẩm tốt nâng cao gia trị sản phẩm chế biết từ thủy sản.
1.3. Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà Nước đối với ngành thủy sản Việt
Nam
Thực hiện tiến trình đổi mới công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, nhiệm vụ vô
cùng quan trọng trong phát triển kinh tế là việc phát triển kinh tế đối ngoại. Nhiệm vụ
trọng tâm trong phát triển kinh tế đối ngoại là “Mở rộng thị trường, đổi mới cơ cấu và
nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu có khối lượng và giá trị lớn. Củng cố thị trường
quen thuộc, khôi phục quan hệ với thị trường truyền thống, tìm thị trường và bạn hàng
mới, lâu dài, giảm xuất nhập khẩu qua thị trường trung gian, thực hiện chính sách
khuyến khích xuất khẩu.”
Chính vì vậy, ngay từ Đại hội Đảng lần thứ VIII, thủ tướng Chính phủ đã ra quyết
định số 251/1998/QD-TTg ngày 2/12/1998, phê duyệt chương trình phát triển xuất khẩu
thủy sản đến năm 2005. Chương trình này được thực hiện với hai mục tiêu:
• Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa ngành thủy sản, kim ngạch xuất
khẩu thủy sản tăng nhanh, đưa kinh tế thủy sản thành ngành kinh tế mũi nhọn trong nền
kinh tế của đất nước…
• Gắn chế biến , xuất khẩu thủy sản với nuôi trồng, khai thác, bảo quản nguyên liệu và
tiêu thụ sản phẩm, tạo cơ sở vững chắc cho sản xuất và khai thác có hiệu quả tiềm năng
thủy sản, nâng cao chất lượng, giảm giá thành, phát triển hiệu quả và tích lũy để tái sản
xuất, mở rộng, nâng cao khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế, giữ vững và phát triển
thị trường tiêu thụ hàng thủy sản Việt Nam.
4
Tiếp đó, ngày 25/10/2006, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số
242/2006/QD-TTg, phê duyệt chương trình phát triển xuất khẩu thủy sản đến năm 2010
và định hướng đến năm 2020.
Theo đó, mục tiêu cụ thể được đặt ra đến năm 2010 là phấn đấu đạt tốc độ tăng
trưởng kim ngạch xuất khẩu thủy sản bình quân trên 9%/ năm, giá trị tăng trưởng kim
ngạch đạt 4-4,5 tỷ USD. Định hướng đến năm 2020, phát triển ngành thủy sản tiếp tục
là ngành đi đầu trong công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Phấn đấu
đến năm 2020, trình độ công nghệ chế biến thủy sản tương đương với các nước phát
triển, đưa thủy sản tiếp tục là ngành kinh tế mũi nhọn và là một trong những ngành
hàng hóa xuất khẩu chủ lực của cả nước.
Ngoài ra, đối với từng mặt hàng cụ thể, Đảng, Nhà nước, Hiệp hội chế biến và xuất
khẩu thủy sản Việt Nam không ngừng đưa ra cac giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu của thủy sản Việt Nam.
Như vậy có thể thấy, xuất khẩu thủy sản ngày càng chiếm giữ vai trò quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân và thu hút được nhiều sự quan tâm của các cấp lãnh đạo.
Xuất khẩu thủy sản, cũng như rất nhiều lĩnh vực xuất khẩu khác, gặp phải vô vàn khó
khăn khi phải thi đấu trên “sân khách”. Do đó, Chính phủ đã luôn tạo những điều kiện
thuận lợi nhất, từ việc hỗ trợ vốn, ban hành các văn bản chính sách hướng dẫn, tạo sự
gắn kết để các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản có điều kiện kinh doanh tốt nhất.
2. Phân tích thị trường Nhật Bản
2.1. Phân tích môi trường vĩ mô
2.1.1. Môi trường văn hóa:
Nhật Bản nối tiếng với những nét văn hóa lâu đời, là kết tinh thành quả lao động hàng
ngàn năm của những cư dân trên quần đảo Nhật Bản, là sự kết hợp sáng tạo những giá
trị văn hoá bản địa và các giá trị văn hoá nước ngoài, cũng do vậy, là nơi hội tụ của văn
hoá phương Đông và phương Tây.
Sự kết hợp độc đáp của văn hóa truyền thống Nhật Bản được đánh giá là do sự
giao lưu với nền văn hóa Trung Quốc và sự sáng tạo đặc biệt của người dân trên Nhật
Bản. Sự độc đáo của ấy của văn hóa Nhật đã được cả thế giới thừa nhận với sự xuất
hiện trên khắp thế giới các loại hình văn hóa Nhật như trà đạo, bon sai, gấp giấy.
Khoảng giữa thế kỷ XVI đã xuất hiện những người phương Tây đầu tiên đến
Nhật Bản đem theo sự ảnh hưởng của những tri thức khoa học phương Tây và Kitô
giáo, tạo tiền đề cho sự phát triển rực rỡ của nền kinh tế Nhật Bản sau này và cũng là cơ
sở để hình thành những nét văn hóa trong công việc và cuộc sống hiện đại rất phong
phú của người Nhật
Tuy là là một nền văn hoá phát triển mang tính hỗn dung, song việc tiếp thu các
thành quả văn hoá nước ngoài của Nhật Bản không phải là việc vay mượn, sao chép
cứng nhắc, mà luôn luôn là quá trình tiếp thu có cải biến. Tư tưởng, tín ngưỡng, lối
sống nước ngoài một khi được du nhập vào Nhật Bản đều buộc phải biến đổi để phù
hợp với hệ giá trị văn hoá bản địa và tồn tại như là cái có tính độc đáo Nhật Bản. Chính
nhờ vậy mà ngày nay Nhật Bản không chỉ là một cường quốc hàng đầu thế giới về kinh
tế mà còn là đất nước có nền văn hoá phát triển đa dạng và giàu bản sắc.
5
2.1.2. Môi trường kinh tế:
Nhật Bản nằm ở phía đông lục địa Châu Á, có diện tích: 377.835 km2, dân số
127.5 triệu người. Tỷ trọng các ngành kinh tế chính: Nông nghiệp: 2,1%; Công nghiệp:
26,8%; Giao thông vận tải: 6,3%; Xây dựng: 10,3%; Lưu thông: 12,5%; Các ngành
khác: 37,9%. GDP năm 2010 đạt hơn 5000 tỷ USD và là thị trường tiêu dùng lớn thứ 3
trên thế giới sau Mỹ và Trung Quốc, đồng thời là thị trường nhập khẩu lớn, nhất là đối
với các nước đang phát triển.
Nhật Bản được biết đến như một nước rất nghèo nàn về tài nguyên ngoại trừ gỗ
và hải sản, trong khi dân số thì quá đông, phần lớn nguyên nhiên liệu phải nhập khẩu,
kinh tế bị tàn phá kiệt quệ trong chi n tranh, nhưng với các chính sách phù hợp, kinh tế
Nhật Bản đã nhanh chóng phục hồi (19451954) phát triển cao độ (19551973)khiến cho
thế giới hết sức kinh ngạc. Từ 1974 đến nay tốc độ phát triển tuy chậm lại, song Nhật
Bản tiếp tục là một nước có nền kinh tế lớn đứng thứ ba trên thế giới (chỉ đứng sau Hoa
Kỳ và Trung Quốc)bị Trung Quốc đuổi kịp vào đầu năm 2011.Trước đây Nhật Bản
luôn giành vị trí thứ hai về kinh tế Cán cân thương mại dư thừa và dự trữ ngoại tệ
đứng hàng đầu thế giới, nên nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài rất nhiều, là nước cho vay,
viện trợ tái thiết và phát triển lớn nhất thế giới. Nhật Bản có nhiều tập đoàn tài chính,
ngân hàng đứng hàng đầu thế giới.
Trong những năm gần đây từ năm 2006 nay kinh tế Nhật Bản trải qua thời kì
tăng trưởng chậm và suy thoái nghiêm trọng ( 2007 – Quý I năm 2009) và có dấu hiệu
phục hồi và có dấu hiệu tăng trưởng trở lại tuy nhiên sau thảm họa kép song thần và
động đất năm 2011 dự báo kinh tế Nhật Bản sẽ phát còn tăng trưởng chậm hơn
2.1.3. Môi trường chính trị Pháp luật
Nền chính trị Nhật Bản được thành lập dựa trên nền tảng của một thể chế quân
chủ lập hiến và cộng hòa đại nghị (hay chính thể quân chủ đại nghị) theo đó thì người
giữ vai trò đứng đầu nhà nước và chính đảng đa số. Trong đó Hoàng gia Nhật do Nhật
hoàng đứng đầu và theo Hi n pháp Nh t thì “Hoàng đế Nhật là biểu tượng của quốc gia
và cho sự thống nhất của dân tộc”. Nhật hoàng sẽ tham gia vào các nghi lễ của quốc gia
nhưng không giữ bất kì quyền lực chính trị nào, thậm chí trong các tình huống khẩn cấp
của quốc gia. Trong những năm gần đây do sự suy giảm của nền kinh tế chính trường
Nhật Bản có nhiều biến động với nhiều chính sách đổi mới và cải tổ được đưa ra dẫn
đến nhiều thay đổi trong nền kinh tế Nhật mà tiêu biểu là sự thay đổi vị trí đảng cầm
quyền từ tay Dân chủ Tự do LDP sang đảng Dân chủ DPJ năm 2008 và đi kèm với nó
là sự bất ổn kéo dài trong giai đoạn 20082010 mà cao trào là việc nước Nhật trải qua 2
cuộc bầu cử thủ tướng lien tiếp trong cùng năm 2010
Đánh giá về luật pháp, hệ thống luật pháp Nhật Bản được đánh giá là một hẹ
thống
pháp luật hiện đại và toàn diện, riêng các chính sách luật pháp của Nhật Bản về kinh tế
đều dựa dựa trên các qui tắc của kinh tế thị trường và được cho là ít áp dụng các chính
sách bảo hộ hơn so với các thị trường khác. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn chất lượng về
hàng hóa của Nhật Bản đối với hàng Nhập khẩu hết sức nghiêm ngắt, thường xuyên cao
hơn mức chuẩn chung của thị trường quốc tế, đây cũng là một giào cản thương mại khá
lớn đối với các nước xuất khẩu hàng vào thị trường Nhật Bản
6
2.2. Phân tích môi trường ngành
2.2.1. Khái quát ngành thủy sản Nhật Bản :
Nhật Bản không chỉ là nước đứng đầu về “Nhập Khẩu” thủy sản trên Thế Giới
mà còn là một trong những nước đứng đầu trên thế giới về xuất khẩu thủy sản. Chính vì
vậy để xuất được vào Nhật Bản thì các đơn vị xuất khẩu cần cạnh tranh được với các
sản phẩm trong nước.
Là quốc gia khai thác thuỷ sản lâu đời nhất thế giới, có thói quen ăn thuỷ sản từ
thời khai quốc nên Nhật Bản coi thuỷ sản là nguồn thực phẩm chính của họ. Vì vậy,
nghề cá Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp, quản lý và tái thiết
nguồn lợi thuỷ sản, đảm bảo sự ổn định bền vững nguồn thực phẩm trong nước.
Từ thập kỷ 50 đến những năm đầu thập kỷ 80, Nhật Bản đã đẩy mạnh việc phát
triển nghề cá, đặc biệt là nghề khai thác cá biển. Nghề cá Nhật Bản hoạt động trên
phạm vi rộng lớn, bao gồm khai thác ven bờ, khai thác xa bờ và khai thác viễn dương.
Ngoài ra, nghề nuôi trồng thuỷ sản, nhất là nghề nuôi biển đã đạt nhiều thành tựu to
lớn, đóng góp đáng kể cho sự phát triển của ngành nuôi trồng thuỷ sản thế giới. Nhật
Bản còn dẫn đầu thế giới về công tác bảo vệ nguồn lợi biển và nhân giống thuỷ sản từ
năm 1951, nhằm nâng cao sản lượng và tái tạo nguồn lợi thuỷ sản. Các chính sách và hệ
thống pháp luật về nghề cá và thương mại thuỷ sản của Nhật Bản cũng được hình thành
và thay đổi cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước này.
Từ năm 1972 đến năm 1988, sản lượng thuỷ sản của Nhật Bản luôn dẫn đầu thế
giới và xuất khẩu thuỷ sản cũng tăng mạnh. Đây là thời kỳ hoàng kim của nghề cá Nhật
Bản. Sản lượng thuỷ sản đạt đỉnh cao nhất vào giữa thập kỷ 80 và đã từng đáp ứng
được trên 80% nhu cầu tiêu thụ thuỷ sản của nuớc này.
Từ năm 1989, sản lượng thuỷ sản có xu hướng giảm trong 5 năm liền, đến năm
1993 đạt 8,71 triệu tấn, tương đương với mức sản lượng 8,67 triệu tấn của năm 1967
(25 năm trước). Năm 1990, tổng sản lượng thuỷ sản đạt 11,18 triệu tấn, Nhật Bản lùi
xuống thành nước cung cấp thuỷ sản đứng thứ 2 thế giới, sau Trung Quốc (gần 18 triệu
tấn).
- Năng lực chế biến thuỷ sản :
Nhật Bản là nước có công nghệ chế biến thực phẩm phát triển hàng đầu thế giới.
Ngành chế biến thuỷ sản của Nhật Bản đã phát triển từ những năm 50. Nhưng trong hai
thập kỷ 80 và 90, Nhật Bản đã tiến hành chuyển giao công nghệ chế biến thuỷ sản ra
nước ngoài, nơi có sẵn nguyên liệu và lao động rẻ. Các cơ sở sản xuất chế biến thuỷ sản
trong nước dần dần bị co hẹp lại và chuyển hướng sang hoạt động liên doanh tại các
nước đang phát triển. Ngành chế biến thuỷ sản của Nhật Bản đã áp dụng chương trình
HACCP, nhưng gặp nhiều khó khăn do quy mô các nhà máy phần lớn là nhỏ. Hơn nữa
họ còn đương đầu với tình trạng các sản phẩm thuỷ sản đã chế biến bán chậm do sức
mua hạn chế của các hộ gia đình. Tiêu thụ các mặt hàng chế biến sẵn như bánh cá, chả
cá hấp, cá hồi muối và những sản phẩm muối khác đã giảm đáng kể, trong khi tiêu thụ
các mặt hàng sơ chế đông lạnh tươi tăng. Trong năm 2002, tiêu thụ hàng thuỷ sản xông
khói tăng. Các mặt hàng ướp muối giảm, chủ yếu giảm cá thu ướp muối.
Trong giai đoạn 1991 đến 2001, doanh số tiêu thụ và thu nhập hằng năm của
hoạt động chế biến thuỷ sản ở Nhật Bản tăng từ mức 18% (1991) lên 35% (2001).
Trong 3 năm gần đây tình trạng buôn bán thuỷ sản trong nước giảm và bất ổn định về
7
nguyên liệu có ảnh hướng lớn đến hoạt động kinh doanh chế biến thuỷ sản của các
doanh nghiệp ở Nhật Bản.
- Chủng loại sản phẩm : Trong năm 2003 Nhật Bản đã tăng sản lượng chế biến thuỷ sản
tự cung cho nhu cầu trong nước, chiếm 57% tổng tiêu thụ thuỷ sản, tăng 4% so với năm
trước.
2.2.2 Thị trường xuất nhập khẩu thủy sản của Nhật Bản :
a. Các đặc điểm tiêu dùng của thị trường Nhật Bản
- Thị hiếu tiêu dùng của người Nhật Bản rất đa dạng nhưng rất tinh tế, vừa mang đậm
nét văn hoá Á Đông có truyền thống lâu đời, vừa có tính đô thị hiện đại nên họ đặt ra
các tiêu chuẩn cao về hình thức sản phẩm kèm theo những quy định ngặt nghèo về chất
lượng về kích cỡ, cách đóng gói, hình thức bao bì. Khách hàng Nhật bản chú trọng đặc
biệt đến độ tươi của sản phẩm, đây là điều cần hết sức lưu ý
- Người tiêu dùng Nhật Bản quan tâm đến mức độ tiện ích của sản phẩm. Xuất phát từ
mức sống có thu nhập cao nên người Nhật thường đòi hỏi rất khắt khe về chất lượng
sản phẩm bao gồm cả vấn đề vệ sinh, hình thức và dịch vụ hậu mãi.
- Ở Nhật Bản, thường người phụ nữ thường đảm nhận công việc nội trợ nên họ rất hay
chú ý đến mẫu mã hàng hoá và sự thay đổi giá cả. Do vậy, muốn thâm nhập thị trường
Nhật Bản, các sản phẩm phải đa dạng về chủng loại, phong phú về mầu sắc và có chiến
lược giá cả thích hợp.
- Người Nhật quan tâm ngày càng nhiều đến vấn đề môi trường nguồn lợi, nguồn gốc
của sản phẩm.
- Các cửa hàng đang liên tục cải tiến cách đóng gói thực phẩm làm sao vừa đẹp, vừa
đơn giản, gói kích cỡ nhỏ vừa phù hợp với túi tiền người tiêu dùng cho bữa ăn hàng
ngày của gia đình ít người, vừa tiết kiệm được chỗ trưng bày.
- Hàng hoá chất lượng tốt và ổn định là điều người Nhật luôn mong đợi. Tuy vậy, người
Nhật cũng rất nhạy cảm với giá tiêu dùng hàng ngày.
- Khi xuất khẩu hàng vào thị trường Nhật Bản cần phải biết rõ và tuân thủ các quy định
khắt khe của thị trường về tiêu chuẩn chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm. Theo
quy định của Luật thương mại Nhật Bản, nhìn chung bất kỳ loại thực phẩm nào cũng
đều được phép nhập khẩu vào Nhật Bản, miễn là đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm,
không gây hại tới sức khoẻ con người.
- Các mặt hàng thực phẩm nhập khẩu vào Nhật Bản phải đáp ứng đủ các quy định và
thủ tục kiểm tra nghiêm ngặt mới được phép nhập khẩu. Các nhà xuất khẩu phải chứng
minh được các mặt hàng này không gây hại đến các loài động, thực vật trong nước của
Nhật Bản theo các quy định cụ thể của luật đối với từng mặt hàng. Một số mặt hàng
nằm trong diện quản lý nhập khẩu thì phải theo quy định của Luật ngoại hối và ngoại
thương yêu cầu côta nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu hoặc được sự đồng ý trước của bộ
trưởng phụ trách chuyên ngành.
- Đối với một số trường hợp, công văn đề nghị côta nhập khẩu và giấy phép nhập khẩu
được tiến hành đồng thời, nếu không được phân bổ côta thì mặt hàng đó sẽ không được
phép nhập khẩu vào Nhật Bản.
Kể từ ngày 3/2/2004, Nhật Bản quy định 8 mặt hàng thực phẩm hải sản và một số động
thực vật sống theo mã HS trong biểu thuế nhập khẩu của Nhật nằm trong diện hạn
8
ngạch nhập khẩu. Các mặt hàng này gồm: cá đánh bắt ở vùng biển Nhật Bản (cá trích,
cá tuyết, cá ngừ vây vàng, cá thu, cá xác đin, cá sòng, cá thu đao); một số loài nhuyễn
thể hai mảnh vỏ như sò, điệp, trai; mực ống, rong biển ăn được (kể cả các chế phẩm).
Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần lưu ý về các kênh phân phối thuỷ sản nhập khẩu
của Nhật Bản để đàm phán khéo léo, hợp lý với các đối tác nhập khẩu về giá cả hợp
đồng, đặc biệt đối với kênh phân phối tôm cua sống/tươi/ướp đá, nếu các nhà nhập khẩu
lựa chọn theo kênh phân phối không qua thị trường bán buôn mà đến thẳng các khu tiêu
thụ (siêu thị, nhà hàng…) theo các hợp đồng ký kết trực tiếp thì thời gian lưu thông
hàng nhanh hơn và ít bị rủi ro. Tôm đông lạnh thường theo kênh phân phối này, các nhà
nhập khẩu cũng không bị phí tổn vào dịch vụ giao dịch vận chuyển, thuê kho lạnh, bến
bãi thông qua kênh thị trường bán buôn. Hơn nữa người Nhật rất chú trọng chữ tín, nên
các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản vào Nhật Bản cần tuân thủ hợp đồng và thực hiện
giao hàng đúng thời hẹn. Cần mua bảo hiểm để tránh rủi ro khi hàng bị kiểm tra, nếu
không đủ tiêu chuẩn nhập khẩu, thì phải bị xử lý.
b. Xuất khẩu thủy sản :
Các thị trường xuất khẩu thủy sản chính của Nhật Bản :
- Trung Quốc
- Hàn Quốc
- Đài Loan
c. Các nước xuất khẩu thủy sản vào nhật bản :
Nhật là thị trường đứng đấu trong nhập khẩu thủy sản vì vậy đây cũng là thị trường có
sự cạnh tranh mạnh . Các nước dẫn đầu trogn việc xuất khẩu thủy sản vào Nhật :
- Trung Quốc
- Mỹ
- Nga
- Hàn Quốc
- Thái Lan
- Inđônêxia
- Đài Loan
( Nguồn : Infofish Trade New, No.14/2004, Fact sheet )
Nhật Bản nhập khẩu thuỷ sản từ 15 nước chính , trong đó Việt Nam là nước cung
cấp đứng thứ 9 với thị phần chiếm 4,65%
Với các mặt hàng nhập khẩu
- Tỷ trọng giá trị các mặt hàng thuỷ sản nhập khẩu
- Tôm
- Cá ngừ
- Cá hồi
- Cua
- Nhuyễn thể chân đầu
- Bột cá
- Thuỷ sản đóng hộp
Khái quát về các nước xuất khẩu chính vào Nhật :
- Trung Quốc : là nước chiếm tỷ trọng lớn nhất trong kim ngạch nhập khẩu thuỷ sản
của Nhật Bản. Thị phần của nước này ở Nhật Bản đã tăng từ 13,8% năm 1998, lên
15,4% năm 2000 và 16,35% năm 2001. Năm 2003, nhập khẩu thuỷ sản của Nhật Bản từ
9
nước này khoảng 635 nghìn tấn, trị giá 2,2 tỷ USD (chiếm 18,21% thị phần nhập khẩu
thuỷ sản của Nhật Bản).
- Mỹ :
Mỹ vừa là đối thủ cạnh tranh của Nhật Bản trên thị trường nhập khẩu thế giới
vừa là đối tác xuất khẩu cho thị trường Nhật Bản, chiếm 15,4% tổng giá trị nhập khẩu
của Nhật Bản. Về thuỷ sản, Mỹ là nước cung cấp thuỷ sản lớn thứ 2 trên thị trường
Nhật Bản. Nhập khẩu thuỷ sản của Nhật Bản từ Mỹ chiếm tỷ trọng 9,15% trong tổng
nhập khẩu thuỷ sản của Nhật Bản năm 2003. Năm 1998, tỷ trọng xuất khẩu sang Mỹ
chiếm 9,4% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Nhật Bản, tăng liên tục trong các
năm 2000 (9,72%) và năm 2001 (10,11%).
- Nga :
Nga Là nước cung cấp thuỷ sản lớn thứ 3 cho thị trường Nhật Bản sau Trung
Quốc và Mỹ. Xuất khẩu thuỷ sản của Nga sang Nhật Bản chiếm tỷ trọng 7,78% tổng
giá trị nhập khẩu thuỷ sản của Nhật Bản năm 2003. Tuy nhiên, thị phần xuất khẩu thuỷ
sản của Nga ở Nhật Bản giảm so với năm 1998 (mức tỷ trọng là 8,02%).
Nga là bạn hàng cung cấp cua lớn nhất của thị trường Nhật Bản, đặc biệt là cua huỳnh
đế. Nhập khẩu cua từ Nga vào Nhật Bản đã phục hồi từ đợt suy sụt nghiêm trọng vào
năm 2002 (57.339 tấn) do tăng cường kiểm soát của 2 chính phủ. Năm 2003, khối
lượng nhập khẩu đã tăng trở lại mức 74.362 tấn, gần bằng mức 74.786 tấn của năm
1999, nhưng vẫn thấp hơn mức 78 nghìn tấn của năm 2000, chiếm 70,1% tổng lượng
nhập khẩu và 63,8% tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này. Nhập khẩu cua huỳnh đế
từ Nga vào Nhật Bản trong mấy năm gần đây tuy có giảm so với những năm cuối thập
kỷ 90, nhưng cao hơn so với năm 1995.
- Hàn Quốc :
Hàn Quốc là nước cung cấp thuỷ sản lớn thứ 7 trên thị trường Nhật Bản. Năm
2004, Nhật Bản xuất sang Hàn Quốc hơn 104 nghìn tấn thủy sản, giá trị gần 180 triệu
USD, tăng 21,4% về giá trị so với năm 2003. Cũng trong năm đó, Nhật Bản đã nhập
khẩu hơn 155 nghìn tấn thuỷ sản từ nước này, giá trị 834,65 triệu USD, chiếm tỷ trọng
5,3% tổng kim ngạch nhập khẩu thuỷ sản của Nhật Bản, giảm so với mức tỷ trọng 7,2%
năm 1998 và giảm so với mức 6,77% năm 2001. Hàn Quốc là nước cung cấp cá ngừ
lớn thứ 2 cho thị trường Nhật Bản.
- Thái Lan :
Thái Lan là nước cung cấp thuỷ sản lớn thứ 4 trên thị trường Nhật, chiếm 7,15%
tổng giá trị nhập khẩu của Nhật Bản năm 2003 sau Trung Quốc, Mỹ và Nga.
- Inđônêxia :
Inđônêxia là nước cung cấp thuỷ sản lớn thứ 5 cho thị trường Nhật Bản (chiếm
thị phần 6,35% tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản năm 2003), nhưng lại là nhà
cung cấp tôm lớn nhất cho thị trường này với thị phần 22,8% trong tổng giá trị nhập
khẩu tôm vào Nhật Bản. Hằng năm, Nhật Bản đã nhập khẩu khoảng trên dưới 150
nghìn tấn thuỷ sản từ nước này, trong đó tôm đông lạnh chiếm khoảng 60% tổng khối
lượng xuất khẩu của Inđônêxia vào Nhật Bản. Ngoài ra, Nhật Bản cũng nhập nhiều
thuỷ sản khác của nước này như các mặt hàng cá tươi, ướp đá/đông lạnh, cá ngừ hộp,
các thuỷ sản đóng hộp khác, thuỷ sản khô/ muối, đùi ếch, …
- Đài Loan :
10
Năm 2003, giá trị nhập khẩu sản phẩm từ Đài Loan chiếm 3,7% thị phần tổng
giá trị nhập khẩu của Nhật Bản. Trong khi đó, thị phần của Đài Loan về các sản phẩm
thủy sản nhập khẩu vào Nhật Bản lại chiếm tới 6,33% đứng hàng thứ 6 trong số các
nước và vùng lãnh thổ xuất khẩu thuỷ sản vào Nhật Bản.
Đài Loan là nhà cung cấp cá ngừ lớn nhất cho thị trường Nhật Bản. Xu hướng nhập
khẩu cá ngừ từ nước này vào Nhật Bản tăng mạnh từ năm 1998 đến nay. Năm 2003,
tổng xuất khẩu thực phẩm thuỷ sản của Nhật Bản vào Đài Loan đạt 10,132 tấn, trị giá
897 triệu Đài tệ (26,06 triệu USD). Trong khi đó, nhập khẩu thực phẩm thuỷ sản của
Nhật Bản từ Đài Loan là 201.484 tấn, trị giá 28.809 triệu Đài tệ (836,98 triệu USD).
Nhập khẩu thuỷ sản từ Đài Loan vào Nhật Bản chủ yếu là các mặt hàng đông lạnh, sau
đó là mặt hàng tươi sống cũng đáng kể với 19.903 tấn năm 2003. Đối với mặt hàng cá
ngừ, hiện nay Đài Loan đang chiếm thị phần 27,7% về giá trị và 31,8% về khối lượng ở
Nhật Bản
II. HIỆN TRẠNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM SANG NHẬT BẢN
2.1 Tiềm năng thị trường
Từ năm 1970 đến nay, Nhật Bản luôn là nhà nhập khẩu thủy sản lớn nhất thế giới,
tiếp theo là Mỹ, Tây Ban Nha, Pháp, Italia và Trung Quốc. Nhật Bản tiếp tục là thị
trường quan trọng hàng đầu cho thủy sản Việt Nam trong năm 2010.
Trong những năm gần đây, giá trị nhập khẩu thủy sản của Nhật Bản thường nằm
trong khoảng 14 đến 15 tỷ USD mỗi năm.
Tuy nhiên, tổng nhập khẩu thủy sản các loại trong năm 2009 chỉ đạt 13,2 tỷ
USD, giảm khá mạnh với 8,1% so với 14,09 tỷ USD năm 2008, chủ yếu là giảm các
loại sản phẩm chính như tươi, ướp lạnh, đông lạnh và một số sản phẩm thứ yếu khác
như muối và khô.
Riêng sản phẩm tôm, cá chình chế biến sẵn tăng nhẹ 1,1%. Cũng trong năm đó,
nhập khẩu từ Chilê tăng, trong khi nhập khẩu từ Trung Quốc, Mỹ và Nga giảm mạnh.
Năm 2010, theo ước tính của FAO, nhập khẩu thủy sản của Nhật Bản đã tăng
lên 14 tỷ USD, cao hơn 6% so với năm 2009, do kinh tế đã phần nào phục hồi
sau suy thoái và xuất hiện những tín hiệu tiến triển ban đầu. Mặt hàng tiến triển rõ nhất
là tôm, nhất là tôm chế biến sẵn GTGT.
Các nước xuất khẩu thủy sản hàng đầu sang Nhật Bản trong năm 2009 (tính
theo giá trị) gồm: Trung Quốc (chiếm 17,1% thị phần), Mỹ (8,9%), Chilê (8,5%),
Thái Lan (8%) và Nga (7,4%).
Dự đoán nhập khẩu thủy sản của Nhật Bản năm 2011 sẽ bằng hoặc chỉ tăng
nhẹ so với năm 2010 do phục hồi kinh tế chưa rõ rệt, người dân vẫn cảnh giác
trước những biến động về kinh tế và chính trị trên thế giới, bên cạnh đó là xu
hướng các thế hệ người tiêu dùng trẻ chuyển sang sử dụng thực phẩm chế biến từ
thịt nhiều hơn (các loại thức ăn nhanh Âu, Mỹ).
2.2 Xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang Nhật
Từ những ngày đầu phát triển của ngành xuất khẩu thủy sản Việt Nam, Nhật
Bản luôn là thị trường truyền thống và bền vững và hàng năm luôn là một trong 3 nhà
nhập khẩu thủy sản lớn nhất.
11
Năm 2010, do có sự bùng nổ xuất khẩu tôm của Việt Nam sang Mỹ trong 6
tháng cuối năm, giá trị nhập khẩu của Nhật Bản đã lui xuống vị trí thứ 3, sau Mỹ và
EU.
Diễn biến nhập khẩu thủy sản Việt Nam của Nhật Bản trong mười năm gần đây
có thể chia làm hai giai đoạn với những biểu hiện khác nhau khá rõ.
Giai đoạn 2000-2006, nhập khẩu của Nhật Bản tăng trưởng khá đều đặn cả về
giá trị và khối lượng, trung bình khoảng 10%/năm. Ngược lại, trong giai đoạn 2007-
2010, tình trạng nhập khẩu thủy sản Việt Nam vào Nhật luôn có biến động. Năm
2007, giá trị nhập giảm 11,47% so với năm 2006, chủ yếu do Nhật tăng cường các
tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với thủy sản nhập khẩu.
Cũng trong giai đoạn này khá nhiều lô hàng thủy sản, nhất là tôm đông lạnh và
các loại hải sản Việt Nam bị nhiễm dư lượng chloramphenicol, nitrofuran…
Đã có thời gian thủy sản Việt Nam nhập vào Nhật bị đặt dưới chế độ kiểm tra
tăng cường. Năm 2009, nhập khẩu thủy sản Việt Nam vào Nhật một lần nữa sụt giảm
sâu hơn 8%, xuống mức thấp hơn cả năm 2007 về giá trị, song nguyên nhân chính của
sự cố này lại là ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính thế giới.
Bước sang năm 2010, nhu cầu nhập khẩu từ hầu hết các thị trường đã khởi sắc ngay
từ những tháng đầu năm. Tiêu thụ của người dân với những mặt hàng quen thuộc dần
trở lại, việc nhập khẩu thực phẩm nói chung và thủy sản nói riêng lại quay về với
nhịp độ bình thường.
Việt Nam là một trong những nhà cung cấp đóng góp đáng kể trong sự hồi
phục nhập khẩu của thị trường Nhật Bản. Năm 2010 Việt Nam đã xuất sang Nhật trên
135.000 tấn thủy sản, trị giá gần 897 triệu USD, tăng trên 19% cả về khối lượng
và giá trị. Và Nhật Bản cũng là thị trường nhập khẩu thủy sản rất quan trọng của Việt
Nam. Hiện Nhật Bản chiếm 17,8% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam.
2.3 Những mặt hàng thủy sản chính của Việt Nam XK sang Nhật
Tôm luôn là mặt hàng quan trọng, có giá trị lớn nhất trong các thủy sản Việt
Nam xuất khẩu sang Nhật, Nhật Bản cũng là nhà nhập khẩu tôm lớn nhất của Việt Nam
trong nhiều năm qua.
Năm 2010, Việt Nam xuất cho Nhật 62.614 tấn tôm, trị giá trên 581 triệu USD,
tăng 16% về giá trị. Đây là mức tăng trưởng đáng kể so với mức sụt giảm nhẹ trong
năm 2009. Nhật chiếm 27,6% tổng giá trị xuất khẩu tôm của Việt Nam trong năm.
12
Năm 2009 và 2010, Việt Nam đã vươn lên là nhà cung cấp tôm lớn nhất cho thị
trường Nhật Bản, tiếp đến là Inđônêxia, Thái Lan, Ấn Độ và Trung Quốc.
Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trên thị trường, giúp cho việc chào giá và
thương lượng giá bán cuối cùng của các nhà xuất khẩu tôm Việt Nam có trọng
lượng hơn. Đồng thời cũng phản ánh những tiến bộ rất lớn về trình độ chế biến và
tiếp thị của ngành tôm Việt Nam trong những năm vừa qua khi chiếm lĩnh một thị
trường khắt khe như Nhật Bản.
Tuy nhiên, việc xuất khẩu tôm của Việt Nam tăng trưởng mạnh trong năm
2010 là kết quả của việc một số nhà sản xuất tôm lớn trên thế giới như
Inđônêxia, Ấn Độ và Mêhicô …bị mất sản lượng do dịch bệnh và thời tiết bất
thường. Nhập khẩu tôm từ Việt Nam được đẩy mạnh để bù đắp thiếu hụt từ các nguồn
cung cấp trên. Thực tế, sức tiêu thụ tôm của thế giới chỉ tăng ở mức rất khiêm tốn.
Năm 2010, NK tôm của Mỹ chỉ tăng nhẹ 1,8% so với năm 2009.
Đối với Nhật, nhập khẩu tôm 11 tháng đầu năm 2010 chỉ tăng 4,3% về khối
lượng. Tuy nhiên, theo đánh giá của chính Hiệp hội Siêu thị Nhật Bản, tiêu thụ tôm
của Nhật vẫn còn có biểu hiện khả quan hơn rất nhiều so với các mặt hàng thủy
sản khác như sản phẩm tươi, sushi, surimi và thủy sản khô, muối.
Dự đoán, xuất khẩu tôm của Việt Nam sang Nhật sẽ tiếp tục tăng trưởng
trong năm 2011, do đến nay chưa có những thông tin tích cực về sản lượng thu hoạch
tôm của các nước sản xuất lớn.
Nhuyễn thể, trong đó đáng kể nhất là mực và bạch tuộc, là nhóm mặt hàng
nhập khẩu lớn thứ hai từ Việt Nam của Nhật Bản. Năm 2010, Việt Nam xuất 18.751
tấn nhuyễn thể, trị giá 113,7 triệu USD, tăng 5,8% về giá trị so với năm 2009, chiếm
23,3% tổng giá trị xuất khẩu nhuyễn thể của Việt Nam. Nhóm mặt hàng này rất được ưa
chuộng trên thị trường, tuy nhiên khối lượng xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào sản lượng
khai thác theo mùa vụ trong năm và quan trọng hơn là nguy cơ bị nhiễm kháng sinh
cao trong bảo quản. Đây là trở ngại lớn nhất đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hải
sản sang thị trường Nhật Bản.
Cá ngừ là mặt hàng thủy sản Việt Nam có mức tăng trưởng xuất khẩu sang Nhật
Bản cao nhất (29,5% về giá trị) trong năm 2010. Mặc dù giá trị đạt được còn
khiêm tốn với 22,1 triệu USD, nhưng Nhật Bản vẫn là nhà nhập khẩu cá ngừ lớn thứ
3 của Việt Nam. Thực tế, khả năng cung cấp cá ngừ của Việt Nam cho Nhật bản
có thể lớn hơn nhưng do một số nhà cung cấp trong khu vực như Thái Lan,
Malaixia, Philippin…được hưởng mức thuế ưu đãi tốt hơn nên cá ngừ Việt Nam khó
cạnh tranh nổi. Hơn nữa, bản thân giá mua của Nhật cũng thấp hơn các thị trường khác
như Mỹ và EU.
Bên cạnh ba mặt hàng kể trên, cá biển và các mặt hàng thủy sản khô khác của
Việt Nam cũng là nguồn cung cấp đáng kể cho thị trường Nhật với giá trị xuất
khẩu khoảng hơn 180 triệu USD trong năm 2010.
Có thể nói, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam bội thu trong năm 2010, trong
đó có sự đóng góp đáng kể từ những thắng lợi trên thị trường Nhật Bản. Các DN đã
có rất nhiều nỗ lực trong việc phát triển mặt hàng, đa dạng hoá sản phẩm và tăng
cường quản lý chất lượng nguyên liệu cũng như thành phẩm để đáp ứng yêu cầu khắt
khe của thị trường.
13
Tuy nhiên, thảm hoạ động đất và sóng thần nghiêm trọng vừa xảy ra đã phá
huỷ gần như hoàn toàn các tỉnh miền duyên hải phía Đông Bắc Nhật Bản. Không
chỉ là những trung tâm công nghiệp, khu vực này còn là trung tâm nghề cá, tập
trung nhiều cảng và nhà máy chế biến thủy sản, trong đó các nhà nhập khẩu thủy
sản lớn của Việt Nam như Nippon Suisan Kaisha, Nichirei, Maruha Nichiro,
Mặc dù đến nay, những thiệt hại còn chưa được đánh giá hết, nhưng rõ ràng toàn bộ
nền kinh tế này sẽ còn phải gánh chịu ảnh hưởng trong một thời gian dài nữa, đời
sống người dân sẽ còn khó khăn. Những ảnh hưởng ấy cũng sẽ tác động tiêu cực
dến tình hình sản xuất và tiêu thụ thủy sản trên thị trường Nhật Bản. Đây là yếu
tố mà các nhà xuất khẩu thủy sản Việt Nam cấn tính đến.
III. CÔNG TY XNK THỦY SẢN MINH PHÚ
1. Giới thiệu chung về công ty
1.1.Lịch sử hình thành.
Tiền thân là doanh nghiệp tư nhân Xí nghiệp cung ứng hàng xuất khẩu Minh Phú
thành lập ngày 14/12/1992 với số VĐL là 120 triệu đồng.
Ngày 01/07/1998, đổi tên thành Xí nghiệp Chế biến thủy sản Minh Phú đồng thời vốn
điều lệ tăng lên 5 tỷ đồng.
Ngày 10/8/2000 tăng VĐL lên 79,60 tỷ đồng.
Tháng 12/2002, chuyển đổi thành Công ty TNHH XNK Thủy sản Minh phú, và tăng
VĐL lên 90 tỷ đồng.
Ngày 21/10/2003, tăng vốn lên 180 tỷ đồng.
Ngày 31/ 5/2006, chuyển sang hình thức Công ty cổ phần với số VĐL là 600 tỷ đồng
và trở thành Công ty mẹ của các Công ty Minh Quý, Minh Phát, Công ty CP Thủy hải
sản Minh phú Kiên Giang,Cty Giống Thủy sản Minh Phú Ninh Thuận.
Ngày 27/12/2006 cổ phiếu của Công ty niêm yết trên sàn HASTC.
VĐL hiện tại của Công ty là 700 tỷ đồng.
1.2. Lĩnh vực Kinh doanh
Chế biến, xuất nhập khẩu hàng thủy sản.
Nhập khẩu nguyên vật liệu, phụ liệu về chế biến hàng xuất khẩu.
Nhập máy móc thiết bị phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu.
Kinh doanh các ngành nghề khác theo GCN ĐKKD của Công ty.
1.3. Cơ cấu tổ chức. />1.4. Vị thế Công ty.
- Là doanh nghiệp lớn nhất trong số 54 doanh nghiệp xuất khẩu tôm tại Việt nam, Công
ty đứng trong 171 doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn xuất khẩu sang thị trưởng EU và là công
ty duy nhất có ký quỹ để xuất hàng theo hình thức DDP vào Mỹ thông qua Công ty
Mseafood.
- Công ty đã xây dựng được mạng lưới khách hàng rộng lớn trên toàn thế giới như Mỹ,
Canada, EU, Úc
14
- Công ty là doanh nghiệp thủy sản đầu tiên trong nước được công nhận tiêu chuẩn
Global Gap (thực hành sản xuất nông nghiệp tốt theo tiêu chuẩn toàn cầu) về nuôi trồng
và chế biến tôm xuất khẩu.
1.5. Triển vọng Công ty
- Ngành thủy sản Việt nam là ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, có tốc độ tăng
trưởng cao và doanh số lớn. Hiện tổng sản phẩm thủy sản chiếm 21% trong cơ cấu
nông, lâm, ngư nghiệp và hơn 4% GDP trong nền kinh tế quốc dân.
- Việc đạt tiêu chuẩn Global Gap sẽ giúp công ty có cơ hội mở rộng thị trường tại nhiều
quốc gia khác, kể cả những thị trường khó tính, có yêu cầu khắt khe về an toàn vệ sinh
thực phẩm như Mỹ, Nhật Bản, châu Au.
1.6. Rủi ro Kinh doanh chính.
- Các doanh nghiệp xuất khẩu tôm gặp nhiều khó khăn từ các rào cản kỹ thuật về hàng
rào thuế quan do các nước nhập khẩu dựng lên như các chỉ tiêu kiểm tra dư lượng
kháng sinh và hóa chất, thuế phá giá.
- Công ty gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nguyên liệu do các công ty cùng ngành đều
nằm trên địa bàn tỉnh Cà mau như Camimex, Minh hải Jostoco, Phú cường,
Cadovimex
- Công ty đối mặt với sự cạnh tranh lớn từ các công ty trên địa bàn tỉnh cà mau và các
công ty có cùng cơ cấu mặt hàng và thị trường xuất khẩu. Ngoài ra công ty còn phải đối
mặt với sự cạnh tranh từ các nước như Thái lan,Ấn độ, Trung quốc.
KIM NGẠCH XUẤT KHẨU 4 THÁNG ĐẦU NĂM 2011
- KHỐI LƯỢNG XUẤT KHẨU : 6.836.036,64 KG
- GIÁ TRỊ XUẤT KHẨU : 81.366.388,41 USD
Tăng 56,81% về lượng và 73,35% về giá trị so với cùng kỳ năm 2010
Cho đến thời điểm này, MPC tiếp tục giữ vị trí là nhà XK lớn nhất về thủy sản nói
chung và mặt hàng tôm nói riêng của Việt Nam.
Kế hoạch kinh doanh năm 2011 của MPC đã được HĐQT thông qua với những mục
tiêu chính là:
- 7.524 tỷ đồng doanh thu thuần và 615,5 tỷ đồng LNST.
- Tổng sản lượng sản xuất năm 2011 là 36.000 tấn và dành toàn cho xuất khẩu.
- Tổng kim ngạch xuất khẩu : 360 triệu USD.
2.Chiến lược chung của công ty
Chiến lược đa dạng hóa
Công ty Minh Phú được thành lập từ năm 1992 dưới hình thức côn ty tư nhân,
mô hình công ty gia đình. Năm 2006 là năm đánh dấu bước ngoặt lớn của công ty.
tháng 7 năm 2006 Minh Phú đã chuyển đổi từ một mô hình công ty gia đình sang công
ty cổ phần và đã niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Năm 2006 cũng đã
đánh dấu sự khởi đầu mới trong việc khép kín sản xuất. Từ khâu sản xuất tôm giống,
sản xuất chế phẩm sinh học, nuôi tôm thương phẩm và chế biến xuất khẩu. Xây dựng
quy trình sản xuất khép kín, Minh Phú có thể tự tin về chất lượng của từng con tôm của
15
mình, cũng như tư tin có thể đáp ứng được các tiêu chuẩn ngày 1 khắt khe của Nhật bản
nói riêng và các bạn hàng nhập khẩu nói chung. Chúng ta có lẽ cũng đã quen nghe
những tin tức trên bản tin thời sự
Chiến lược Thương hiệu:
Hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của Việt Nam thường xuất khẩu
dưới nhãn hiệu của nhà nhập khẩu. Họ thường là những nhà nhập khẩu có uy tín tại thị
trường địa phương, và bạn hàng của họ cũng chỉ quan tâm đến chủng loại, chất lượng
thủy sản mà ít quan tâm đến nguồn gốc xuất xứ của thủy sản đó từ nước nào. Đây là
thực trang không chỉ ở mặt hàng thủy hải sản mà còn là thực trạng của nhiều mặt hàng
xuất khẩu khác.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, Công ty Minh Phú cũng đang từng bước xây dựng
thương hiệu cho riêng mình. Một thương hiệu, có giá trị đến đâu, suy cho cùng cũng là
do đánh giá từ phía người tiêu dùng, khách hàng. Trước mắt, đó là những nhà nhập
khẩu tôm trên thị trường thế giới, nhưng xa hơn, đó còn phải là những người tiêu dùng
cuối cùng, những người mà giữa rất nhiều khay tôm đông lạnh bày bán trong siêu thị,
họ sẽ lựa chọn không phải 1 khay tôm bất kỳ mà là khay tôm của Minh Phú. Để làm
được điều này, bước đầu tiên đó là đảm bảo chất lượng sản phẩm. Cùng với dây chuyền
sản xuất hiện đại và đội ngũ nhân công dồi dào, Minh Phú luôn đảm bảo những mặt
hàng tôm có giá trị gia tăng cao, đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật, được chế biến cầu kỳ,
hơn hẳn các nước trong khu vực. Đó là lý do vì sao Minh Phú trở thành một đơn vị
chuyên sản xuất, chế biến tôm xuất khẩu đi đầu cả nước và đứng hàng thứ 05 trên thế
giới.
3.Gợi ý giải pháp Marketing cho công ty Minh Phú :
Qua phân tích về hiện trạng nuôi trồng cũng như thực trạng xuất khẩu thủy sản
Việt Nam sang Nhật Bản. Các đặc điểm của thị trường Nhật Bản và đặc điểm của Công
ty Minh Phú nhóm có đề xuất một số giải pháp để giúp công ty trong việc xuất khẩu
thủy sản sang Nhật Bản sau :
3.1 Sản phẩm
Để đáp ứng cho thị trường Nhật bản, Công ty đã đưa ra những sản phẩm tôm vừa phù
hợp với nhu cầu của người Nhật, Vừa đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật khắt khe.
• Đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật:
=> Các chứng chỉ về mặt chất lượng
Như đã trình bày, quy trình sản xuất khép kín hiện tại được Minh Phú áp dụng là quy
trình sản xuất tiên tiến trên thế giới, đã được cấp chứng chỉ Global Gap của Intertek
cấp. Định hướng phát triển chất lượng của công ty trong những năm tiếp theo bao gồm:
Năm 2011, Công ty chỉ tập trung vào ngành nghề sản xuất chính của mình đó là
sản xuất tôm giống sạch bệnh, mở rộng nhanh diện tích nuôi tôm thương phẩm, sản
xuất chế phẩm sinh học phục vụ cho nuôi trồng thủy sản và sản xuất chế biến tôm xuất
khẩu.
Tiếp tục triển khai mở rộng diện tích nuôi tôm công nghiệp sạch bệnh và liên kết với
các lâm ngư trường ở Cà Mau nuôi tôm quảng canh cải tiến phấn đấu sẽ cung cấp phần
lớn tôm nguyên liệu sạch cho các nhà máy chế biến của Minh Phú.
16
Liên kết với các đơn vị sản xuất thức ăn cho tôm hàng đầu của Việt Nam và thế
giới, để đầu tư xây dựng nhà máy thức ăn cho tôm, cung cấp thức ăn cho các Công ty
nuôi tôm của Minh Phú tạo thành một quy trình sản xuất khép kín từ thức ăn, con giống
sạch bệnh, nuôi tôm, thương phẩm sạch đến sản xuất chế biến xuất khẩu. Phấn đấu đến
năm 2015 Minh Phú sẽ tự nuôi 5.000ha nuôi tôm công nghiệp và quảng canh cải tiến để
tự cung cấp được trên 70% nhu cầu tôm nguyên liệu của Tập đoàn.
Đầu tư mạnh vào khoa học công nghệ để nghiên cứu gia hóa và chọn dòng tôm
sú bố mẹ cũng như tôm thẻ chân trắng bố mẹ để tạo ra được những giống tôm sú, tôm
thẻ chân trắng có những đặc tính di truyền tốt như: lớn nhanh, chống được các dịch
bệnh đồng thời thích ứng được sự biến đổi của khí hậu và thời tiết.
Nghiên cứu và xây dựng được các mô hình nuôi tiên tiến đạt năng suất cao, giá
thành nuôi thấp đồng thời đảm bảo được tính an toàn sinh học bền vững để việc nuôi
tôm thương phẩm ngày càng bền vững và đạt hiệu quả kinh tế cao.
Liên kết với các đơn vị sản xuất bao bì thùng Caston; bọc PA/PE; khay nhựa,
khay xốp; sản xuất bột cũng như sản xuất nước sốt hàng đầu của Việt Nam và thế giới
để đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất bao bì, vật tư, vật liệu,… Hình thành một hệ
thống các nhà máy vệ tinh xung quanh nhà máy Minh Phú – Hậu Giang để cung cấp
cho các nhà máy chế biến của Tập đoàn Thủy sản Minh Phú.
• Đảm bảo về chất lượng tôm:
Không chỉ đảm bảo về các tiêu chuẩn kỹ thuật, con tôm Minh Phú sản xuất còn là
con tôm có giá trị gia tăng cao. Không chỉ là tôm được bóc tách vỏ và làm sach, Minh
Phú mang lại nhiều hơn thế chó các khách hàng. Đó là các sản phẩm tôm Tempura, tôm
sushi, v…v. Có thể chế biến nhiều công đoạn như vậy chủ yếu là tận dụng đội ngũ nhân
công giá rẻ lành nghề.
a. Chủng loại thủy sản:bao gồm tôm, mực, cá,cua, ghẹ, các loại nghêu sò, các loại
thủy sản chế biến khác.
Tôm: Để gia tăng chất lượng, giá trị sản phẩm, tôm nên được bảo quản dưới
dạng IQF: sản phẩm tôm nguyên con, tôm còn vỏ bỏ đầu, các loại tôm bốc vỏ, tôm tẩm
bột, Cần phát triển công nghệ để có thể XK tôm tươi sống.Ngoài ra, còn có các loại tôm
đông lạnh dưới dạng block.
Cá: Các loại cá tươi ướp đá như cá thu, các ngừ, các loại cá đông lạnh dạng IQF,
các loại cá lớn như cá ngừ, cá thu, cá chim, cá hồng. Các loại cá đông lạnh dạng block,
các loại cá khô, cá ướp muối, cá hun khói như cá cơm, cá chuồn, cá trích, cá lầm. Các
mặt hàng cá GTGT như cá tẩm bột, chả cá.
Các loại nhuyễn thể chân đầu và chân bụng:
• Các loại nhuyễn thể chân đầu:
- Mực ống nguyên con, cắt khoanh, mực nhồi.
- Mực nang: fillet, sushi, sashimi, khô nướng, tẩm gia vị.
- Bạch tuộc: nguyên con, cắt khúc.
• Các loại nhuyễn thể chân bụng: nghêu, sò, điệp
Cua, ghẹ:
- Nguyên con hoặc cắt đôi.
- Sản phẩm chế biến: há cảo, nem chua, nem tôm, chạo tôm, tôm bột, cá fillet lăn
bột, mặt hàng xúc xích cá, chả cua, các loại surimi, sashimi, các loại đồ hộp…
b.Chất lượng sản phẩm:
17
Chất lượng thủy sản Việt Nam cần phải được cải thiện hơn nữa để tăng tin tưởng ở
khách hàng và làm tăng lợi thế cạnh tranh. Để làm được điều này, ta cần chú ý đến các
vấn đề sau:
- Nguyên liệu sản phẩm từ đánh bắt và nuôi trồng: các biện pháp mang tính chất
pháp luật để bảo vệ môi trường đánh bắt và nuôi trồng, giáo dục và tuyên truyền cho
người sản xuất về chiến lược phát triển lâu dài. Nguyên liệu từ khâu mua phải có các
biện pháp để xác định rõ xuất xứ sản phẩm.
- Hoàn thiện các kỹ thuật về đánh bắt, sơ chế, bảo quản, vận chuyển để đảm bảo
chất lượng thủy hải sản. Xây dựng các cảng cá, trung tâm chế biến ở các vị trí hợp lý và
thuận tiện cho việc bảo quản chế biến và vận chuyển. Sử dụng các loại công nghệ mới
về cấp đông, bao gói, bảo quản để giữ chất lượng thủy sản tốt nhất.
3.2.Chính sách về nhãn hiệu sản phẩm:
Trong tình hình hiện nay, nhãn hiệu sản phẩm thủy sản XK vào TT Nhật chưa có
vị trí nổi bật, tuy nhiên về lâu dài để tạo được uy tín cho sản phẩm Minh Phú cần phải
nghĩ đến chiến lược để đặt thương hiệu cho sản phẩm.
Trong tình hình hiện nay, nhãn hiệu cho những sản phẩm thủy sản tại TT Nhật xuất xứ
từ Việt Nam đang thách thức rất lớn, đòi hỏi chất lượng cao và đặc biệt là những tác
động tâm lý đến người tiêu dùng, các chính sách và nhãn hiệu có thể là:
- Chính sách sản phẩm mang nhãn hiệu của nhà đóng gói Nhật Bản, sử dụng chính
sách này nhằm làm cho hàng hóa thủy sản XK dễ dàng xâm nhập hệ thống bán sỉ và
bán lẻ trên TT Nhật.
- Chính sách nhãn hiệu của những nhà phân phối Nhật, việc mang nhãn hiệu của
những nhà phân phối nổi tiếng của Nhật về bán buôn cũng như bán lẻ góp phần làm cho
những sản phẩm thủy sản có được uy tín và dễ dàng tiêu thụ.
- Chính sách mang nhãn hiệu của nhà sản xuất Việt Nam và những nhà phân phối
Nhật vừa giúp cho việc bán hàng được dễ dàng, cũng như bước đầu gây một sự chú ý
về các công ty sản xuất ra nó.
- Chính sách mang nhãn hiệu chỉ của nhà sản xuất Việt Nam đòi hỏi phải là những
sản phẩm có chất lượng cao, được quản lý tốt về nhiều mặt. Chẳng hạn như chính sách
về phân phối, giá cả, quảng cáo, đây là những sản phẩm nền tảng nhằm gây uy tín để từ
đó phát triển những sản phẩm mới mang nhãn hiệu Minh Phú bán trên TT Nhật.
Về các loại sản phẩm bán trực tiếp cho người tiêu dùng được đóng gói bởi các công
ty XNK Việt Nam cần chú ý việc dán nhãn theo quy định và phong tục tập quán của TT
Nhật. Đối với các sản phẩm dùng ngay, cần chú ý thiết kế bao bì thuận tiện khi sử dụng,
từ việc bảo quản đến mở bao, sơ chế , sử dụng và làm vệ sinh.
3.3. Chiến lược giá thủy sản XK vào TT Nhật:
Chiến lược giá của các công ty XNK thủy sản vào TT Nhật do các đặc điểm của nguồn
cung ứng nguyên liệu tại Việt Nam và các đặc điểm cạnh tranh tại TT Nhật, bị ảnh
hưởng bởi các yếu tố
- Sản lượng thu hoạch tại Việt Nam, có thể ảnh hưởng bởi thời tiết, mùa vụ và các
yếu tố khác như tình hình thu mua, các chính sách của nhà nước.
- Tình hình thu hoạch tại TT Nhật Bản cũng như tại các ngư trường trên thế giới.
- Dự trữ hàng của các doanh nghiệp Nhật.
18
Giá bán phải xác định dựa trên các căn cứ sau:
- Chi phí: Chi phí mua nguyên vật liệu sản phẩm, chi phí vận chuyển, sơ chế, bảo
quản, đóng gói, những chi phí trong thủ tục về XK, chi phí vận chuyển và chi phí đưa
hàng tới Nhật.
- Tình hình cạnh tranh: Căn cứ vào giá bán của các công ty XK trong và ngoài nước
của mặt hàng cùng loại.
- Căn cứ vào cảm nhận của khách hàng: phải nghiên cứu để nắm được cảm nhận của
khách hàng về sản phẩm của công ty trên nhiều mặt như chất lượng, mức độ đảm bảo
những thỏa thuận về thực hiện hợp đồng.
Do đặc điểm của các doanh nghiệp XKTS Việt Nam thường có quy mô vừa và nhỏ nên
việc định giá thường chú ý quá nhiều đến yếu tố chi phí. Vì vậy, các doanh nghiệp XK
cần lưu ý đến việc xây dựng những nguồn cung ứng nguyên liệu ổn định cho XK.
Chiến lược giá cũng cần chú ý nhằm kích thích việc mua của khách hàng, như giá bán
lưu ý số lượng mua ít hoặc nhiều, giá bán chú ý đến kỳ hạn thanh toán tiền, giá bán chú
ý đến hợp đồng dài hạn hoặc ngắn hạn.
Chiến lược giá biên tế trong thời gian qua chưa được sử dụng bởi vì các doanh nghiệp
thường có quy mô vừa và nhỏ cũng như chưa có sự liên kết để thâm nhập TT Nhật Bản.
Tuy nhiên, để giữ vững và phát triển TT này cũng cần phải có những kế hoạch để có
những thời điểm phải sử dụng những chính sách giá biên tế thích hợp.
3.4.Chiến lược phân phối thủy sản vào TT Nhật:
Thủy sản Việt Nam XK sang Nhật thường phải qua TT bán buôn, rồi sau đó mới tới
được những nhà bán lẻ, làm cho chi phí tăng dẫn đến việc giá bán lẻ tăng, làm giảm
mức độ cạnh tranh. Những nguyên nhân để dẫn đến tình trạng này là:
- Thủy sản Việt Nam chưa có được uy tín cao trên TT Nhật Bản.
- Có quá nhiều đầu mối XK vào TT Nhật Bản
- Thủy hải sản XK vào TT Nhật còn chiếm tỷ trọng cao ở dạng sơ chế và nguyên
liệu.
- Cạnh tranh hàng NK của những nhà phân phối, đóng gói, chế biến của Nhật với
những nhà XK nước ngoài, trong đó có những nhà XK Việt Nam.
Với các nhà XKTS Việt Nam có quy mô nhỏ, thì việc phải sử dụng các công ty dịch
vụ XK, các công ty ủy thác XK, những nhà môi giới XK, những hãng buôn XK là điều
không thể tránh khỏi.
Tuy nhiên, các công ty có khả năng về sản xuất, tài chính, các hoạt động marketing
cần tìm kiếm những khách hàng trung gian rút ngắn chiều dài của kênh phân phối, tiếp
cận gần hơn nữa với những khách hàng tiêu thụ sau cùng.
Để hàng hóa của Việt Nam XK vào Nhật có thể tăng với tỷ trọng được bán thẳng vào
hệ thống bán lẻ cần có các yếu tố sau:
- Hàng hóa phải có uy tín về chất lượng.
- Được đóng gói phù hợp trong việc bán lẻ.
- Những mặt hàng không bị cạnh tranh trực tiếp với những nhà đóng gói Nhật Bản.
- Có sự thay đổi trong hệ thống phân phối Nhật, đặc biệt là sự phát triển của những
chuỗi cửa hàng bán lẻ do các công ty bán lẻ sở hữu.
4.5.Chiến lược quảng cáo, khuyến mãi:
Mục tiêu cho hoạt động quảng cáo và khuyến mãi tại TT Nhật Bản:
19
Làm cho khách hàng Nhật Bản tin tưởng vào chất lượng hàng thủy sản công ty:
o Để làm được điều này cần cho khách hàng biết thủy sản được đánh bắt và nuôi
trồng từ những môi trường không bị ô nhiễm. Những phương tiện đánh bắt, bảo quản,
chế biến, đóng gói, vận chuyển đạt tiêu chuẩn chất lượng cao, thể hiện qua thiết bị kỹ
thuật, tổ chức hoạt động công ty, các quy định và kiểm tra của các cấp có thẩm quyền.
o Thủy sản Việt Nam đã được bán trên TT Nhật, Mỹ, Châu Âu và nhiều quốc gia
châu Á khác.
o Sản phẩm phải phù hợp với tập quán và thị hiếu của người Nhật.
o Kích thích khách hàng Nhật Bản mua thủy sản có nguồn gốc xuất xứ từ Việt
Nam, và đặc biệt là sản phẩm của công ty.
Để thực hiện mục tiêu trên, những công việc cần phải làm là:
- Quảng cáo: cần có những chương trình quảng cáo được xây dựng phù hợp với thị
hiếu và văn hóa Nhật.Các phương tiện quảng cáo là tivi, radio, báo, tạp chí, bảng
quảng cáo, internet…
- Hoạt động khuyến mãi: tham gia hội chợ triển lãm thủy sản tại Nhật, cũng như các
hội chợ triển lãm thủy sản tại Việt Nam.
- Chào hàng: tổ chức các hoạt động du lịch kinh doanh tại TT Nhật, kết hợp với việc
nghiên cứu TT và chào hàng với những nhà chế biến và phân phối tại TT Nhật.
- Hoạt động tuyên truyền: mời những đoàn khách du lịch của Nhật khi đến Việt
Nam tới tham quan những cơ sở sản xuất và chế biến thủy sản XK, tham quan
những điểm du lịch sông nước, biển, cũng như giới thiệu các món ăn chế biến từ
thủy hải sản.
Mở những cửa hàng giới thiệu bán sản phẩm, các nhà hàng bán thủy sản tại Nhật.
20