1
ỦY BAN NHÂN DÂN TP.HCM VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP MIỀN NAM
SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRUNG TÂM NCCGTBKT NÔNG NGHIỆP
BÁO CÁO NGHIỆM THU ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG KHẨU
PHẦN NUÔI DƯỠNG BÊ ĐỰC LAI
HOLSTEIN FRIESIAN (HF)
HƯỚNG SỮA LẤY THỊT
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ThS. Phạm Hồ Hải
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
THÁNG 12/ 2008
2
- Tên đề tài: Nghiên cứu xây dựng khẩu phần nuôi dưỡng bê đực lai Holstein
Friesian (HF) hướng sữa lấy thịt tại thành phố Hồ Chí Minh.
- Chủ nhiệm đề tài: ThS. Phạm Hồ Hải
- Cơ quan chủ trì: Trung tâm Chuyển giao Tiến bộ Kỹ thuật Nông nghiệp – Viện
Khoa học Nông nghiệp miền Nam (IAS).
- Cán bộ tham gia thực hiện đề tài: TS. Đoàn Đức Vũ; ThS. Lê Hà Châu; KS.
Nguyễn Thị Hồng Trinh; KS. Đặng Tịnh.
- Thời gian thực hiện đề tài: 12/2006 đến 11/2008
- Kinh phí được duyệt: 190.000.000 đồng
- Kinh phí đã cấp: 170.000.000 đồng
Giai đoạn 1: 120.000.000 đồng theo TB số : 182/TB-KHCN ngày 03/11/2006
Giai đoạn 2: 50.000.000 đồng theo TB số: 57/TB-SKHCN ngày 05/05/2008
- Mục tiêu:
Mục tiêu chung của đề tài là xác định khẩu phần nuôi dưỡng bê đực lai Hà Lan
theo hướng thịt phù hợp với điều kiện tự nhiên của TP. Hồ Chí Minh nói riêng, của
miền Nam nói chung; Từ đó hình thành và phát triển hướng chăn nuôi bò thịt đạt
hiệu quả kinh tế cao. Mục tiêu cụ thể của đề tài là:
Sản xuất và thử nghiệm chất thay sữa từ nguồn nguyên liệu địa phương, thay
thế sữa bò mẹ sử dụng cho bê đực sau khi sinh cho đến khi cai sữa.
Thử nghiệm khẩu phần nuôi dưỡng bê đực sau khi cai sữa đến khi giết thịt
trên cơ sở tận dụng nguồn thức ăn địa phương.
Chuyển giao kết quả nghiên cứu vào thực tiển sản xuất.
- Nội dung (theo RD):
Đề tài sẽ thực hiện theo 03 nội dung chính như sau:
v Nội dung 1: Sản xuất thử nghiệm chất thay sữa từ nguồn nguyên liệu địa
phương thay thế sữa bò mẹ nuôi bê đực lai Hà Lan sau khi sinh (1-3 ngày
tuổi) đến khi cai sữa (4 tháng tuổi).
§ Nghiên cứu tổ hợp 02 công thức chất thay sữa từ các nguyên liệu như :
công thức 1: bột đậu nành enzym, bột gạo, béo thực vật, vitamin, khoáng
và enzym gọi là SCMR (Soybean calf milk replacer); công thức 2: bột
đậu nành enzym, sữa ít béo, vitamin, khoáng và enzym gọi là CMR (Calf
3
Milk Replacer); tạo thành hỗn hợp bột có 20-24% chất béo; 22-24% chất
đạm, khoáng tổng số 10%, xơ thô 0,5-1%, ẩm độ 0,3-0,5%, lactose 40%.
§ Thí nghiệm 1: Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển khi sử dụng chất
thay sữa từ bột đậu nành (SCMR), sữa thay thế CMR và sữa bò mẹ gọi là
CM (Cow Milk) trên bê đực lai Hà Lan sau khi sinh.
v Nội dung 2: Thử nghiệm khẩu phần nuôi dưỡng bê sau khi cai sữa đến khi
giết thịt trên cơ sở sử dụng nguồn nguyên liệu tại địa phương.
• Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng của việc thay thế cỏ, cám trong khẩu phần bằng
các phụ phẩm nông nghiệp đã được chế biến như rơm ủ 4% urê, thân bắp
ủ chua, vỏ khoai mì khô/ủ chua, khoai mì lát đến khả năng sinh trưởng và
phát triển của bê giai đoạn 5-14 tháng tuổi.
• Thí nghiệm 3: Nuôi vổ béo bê lai hướng sữa lấy thịt theo kỹ thuật phối
hợp khẩu phần tổng hợp (giai đoạn 15-18 tháng tuổi).
v Nội dung 3: Đánh gía hiệu quả kinh tế và chuyển giao kết quả nghiên cứu
vào thực tiển sản xuất.
• Phân tích hiệu quả kinh tế sau khi kết thúc từng giai đoạn thí nghiệm và
hạch toán giá thành sản xuất 1 kg thịt bò hơi đến khi kết thúc thí nghiệm.
• Tổ chức hội thảo để chuyển giao kết quả nghiên cứu.
- Những nội dung đã thực hiện :
Công việc dự kiến Công việc đã thực hiện
Nghiên cứu công thức chất thay sữa Nghiên cứu và sản xuất được 2 công thức
chất thay sữa từ bột đậu nành (SCMR) và
sữa ít béo (CMR) với số lượng là 1.300 kg
cho cả 2 công thức (tương đương với
11.700 kg sữa thay thế)
Thí nghiệm 1: Đánh giá khả năng sinh
trưởng, phát triển khi sử dụng chất
thay sữa từ bột đậu nành (SCMR), sữa
thay thế CMR và sữa bò mẹ gọi là CM
(Cow Milk) trên bê đực lai Hà Lan sau
Hoàn thành thí nghiệm sử dụng sữa thay
thế cho bê từ 3 ngày tuổi đến cai sữa (4
tháng) với số lượng 30 bê đực lai Hà Lan
tại 02 hộ chăn nuôi bò sữa ở Hóc Môn và
24 bê lai Hà Lan (9 cái + 15 đực) tại Long
4
khi sinh Thành – Đồng Nai.
Thí nghiệm 2 : Ảnh hưởng của việc
thay thế cỏ, cám trong khẩu phần bằng
các phụ phẩm nông nghiệp đã được
chế biến như rơm ủ 4% urê, vỏ khoai
mì khô, khoai mì lát, hèm bia, xác mì
đến khả năng sinh trưởng và phát triển
của bê giai đoạn 5-14 tháng tuổi
Hoàn thành thí nghiệm cho 24 bê đực lai
Hà Lan tại Hóc Môn và 21 bê lai Hà Lan
(9 bê cái và 12 bê đực) tại Long Thành từ
07/2007 đến 05/2008 (bê từ 5 đến 14 tháng
tuổi)
Thí nghiệm 3: Nuôi vổ béo bê lai
hướng sữa lấy thịt theo kỹ thuật phối
hợp khẩu phần tổng hợp (giai đoạn 15-
18 tháng tuổi)
Hoàn thành thí nghiệm vỗ béo tại 02 địa
điểm: 31 bò đực lai Hà Lan, giống ≥ F3;
trọng lượng bình quân 220 kg tại 03 hộ
chăn nuôi ở Hóc Môn; 18 bò lai Hà Lan tại
Long Thành (9 bò đực và 9 bò cái) trên cơ
sở sử dụng khẩu phần có mức năng lượng
(ME) khác nhau từ 2.300 đến 2.500
kcal/kg DM khẩu phần; đạm thô (CP) từ
10-12%
Phân tích hiệu quả kinh tế và chuyển
giao kết quả nghiên cứu
Tổ chức 02 buổi hội thảo tại Hóc Môn và
chuyển giao kết quả nghiên cứu cho Trung
tâm Khuyến nông Thành phố Hồ Chí
Minh.
5
1.1. Giới thiệu.
Ngành chăn ni bò sữa tại các khu vực ở phía Nam nói chung và thành phố
Hồ Chí Minh (TPHCM) nói riêng đã và đang phát triển rất mạnh, bước đầu đã gặt
hái được một số kết quả khả quan. Tổng đàn bò sữa hiện nay ở TP.HCM khoảng
trên dưới 66.000 con (Nguồn Sở Nơng nghiệp TP.HCM), chiếm hơn 2/3 tổng đàn
bò sữa của cả nước. Bình qn có khoảng gần 24.000 bê sinh ra/năm; trong đó có
gần 12.000 bê đực hướng sữa được sinh ra; ước chừng dưới 10%/tổng số bê đực
này được nơng dân ni. Số còn lại hầu hết được bán cho các lò mổ, nhà hàng ngay
sau khi sinh hoặc 2-3 ngày tuổi với giá bán rất thấp khoảng 500.000-600.000
đồng/bê; Nếu số bê đực này được ni vỗ béo khoảng 2-3 tháng cuối để đạt trọng
lượng lúc hạ thịt từ 350-400 kg, thì hàng năm chúng ta sẽ có khoảng 4.200-4.800
tấn thịt bò hơi có phẩm chất thịt cao. Khi được vỗ béo với khẩu phần tốt tỷ lệ thịt
tinh trung bình có thể đạt 40%; như vậy chúng ta sẽ có khoảng 2.000 tấn thịt bò
khơng xương gần bẳng với khối lượng thịt trâu, bò mà chúng ta đã nhập trong năm
2007. Do phương thức chăn ni bê phổ biến ở nước ta hiện nay là sử dụng hồn
tồn sữa ngun để ni bê đã tiêu tốn một lượng sữa ngun lớn, do đó chỉ những
bê cái mới được nơng dân chọn ni nhằm mục đích sản xuất bê hậu bị.Trong khi
đó, chính do chi phí cao nên những bê đực mới sinh ra thường bị bán để giết thịt rất
sớm dẫn đến giảm hiệu quả kinh tế làm cho người chăn nuôi và người tiêu thụ đều
không có lợi. Đây cũng chính là rào cản cho sự phát triển chăn ni bò sữa ở nước
ta.
Do đó, nếu ta giải quyết được nguồn thức ăn tương đối rẻ, những bê này có
thể được ni đến khi đạt trọng lượng lớn hơn và sẽ sản xuất thịt có phẩm chất cao.
Vì thế, việc áp dụng phương thức ni bê bằng thức ăn thay thế sữa (Milk replacer)
với giá rẻ hơn sữa ngun, chi phí thấp hơn so với giá sữa ngun, lại dễ tiêu thích
hợp với hệ tiêu hóa bê sẽ là nguồn ngun liệu dồi dào là nhân tố góp phần làm
giảm chi phí sản xuất và tăng lợi nhuận cho người chăn ni bò sữa, thúc đẩy phong
trào chăn ni bê đực theo hướng thịt ở địa phương, và từ đó nuôi bò sẽ trở thành
một nghề của người nông dân Việt Nam.
6
Ở các nước chăn ni tiên tiến, vấn đề sử dụng sữa thay thế ni bê đực theo
hướng sản xuất thịt đáp ứng được đến 40% tổng sản lượng thịt sản xuất và hướng
này ngày càng phát triển vì năng suất và chất lượng thịt sản xuất theo hướng này
mang lại hiệu quả kinh tế khá cao. Ở nước ta việc sử dụng sữa thay thế ni bê vẫn
còn hạn chế là do: chăn ni thường khơng tập trung và mang tính nhỏ lẽ; giá sữa
thay thế ngoại nhập còn khá cao; quan trọng hơn hết là do trình độ và sự e ngại của
người chăn ni khi sử dụng những sản phẩm khơng có nguồn gốc tự nhiên; và cuối
cùng là làm sao giải quyết tốt những vấn đề có liên quan như: hiệu quả kinh tế,
chất lượng sữa thay thế, phương thức chăm sóc, nuôi dưỡng… Chính vì thế việc
thử nghiệm sử dụng sữa thay thế và xây dựng khẩu phần ăn trên cơ sở sử dụng
ngun liệu tại chổ cho bê sau cai sữa trong điều kiện Việt Nam có ý nghóa thiết
thực trong chăn nuôi bò hiện nay.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu.
1.2.1 Tình hình nghiên cứu ngồi nước
Ni bê đực hướng sữa để lấy thịt là một khâu quan trọng trong ngành chăn
ni nói chung và chăn ni bò sữa, bò thịt nói riêng ở các nước có nền chăn ni
tiên tiến. Qui trình ni bê đực hướng sữa đã được chuẩn hóa và tập trung chủ yếu
vào thức ăn thay sữa (Milk Replacer). Từ đó, nhiều cơng ty thức ăn gia súc nước
ngồi hiện nay đã sản xuất các thức ăn thay sữa cũng như các chế phẩm bổ sung cho
đàn bê đực hướng sữa ni lấy thịt. Hàm lượng dinh dưỡng thức ăn thay sữa cũng
đã được chuẩn hóa, theo đó:
- Protein thơ khoảng 20%
- Béo thơ khơng dưới 22%
- Xơ thơ khơng trên 0,5%
- Các loại vitamin A, D, E đảm bảo nhu cầu của bê
Ngun liệu để sản xuất thức ăn thay sữa khác nhau ở mỗi nước cũng như
mỗi cơng ty tùy thuộc vào nguồn ngun liệu. Tuy nhiên, các ngun liệu chính là
bột sữa ít béo, bột đậu nành, các loại chất béo, khống và vitamin.
Từ kết quả nghiên cứu đã được triển khai cũng như thực tiễn chăn ni ở các
nước có nền chăn ni tiên tiến như Úc, Mỹ, Anh , qui trình cơng nghiệp ni bê
7
đực hướng sữa để lấy thịt đã được áp dụng một cách rộng rãi và có thể tóm tắt như
sau (John M.Smith; H.P.Adams và M.Gamroth, 2000):
Chọn những bê sữa có trọng lượng sơ sinh lớn để chúng sinh trưởng nhanh,
nếu có thể, nên chọn những bê sữa có trọng lượng sơ sinh khoảng 40 kg, không bị
bệnh tật và được tiếp nhận sữa đầu. Bê sữa cho bú khoảng 2,3 lít sữa đầu ngay sau
khi sanh và cùng số lượng đó trong vòng 18 giờ tiếp theo. Ngay sau khi sinh, bê sữa
được cắt cuống rốn và sát trùng với cồn Iốt. Sử dụng sữa tươi hoặc thay thế một
phần sữa tươi bằng thức ăn thay sữa trong giai đoạn từ sơ sinh đến 90-100 ngày.
Tuần đầu tiên cho bê bú từ 2-3 lần/ngày, từ 7-10 ngày trở đi có thể cho bê bú sữa
1lần/ngày. Ngoài sữa, thức ăn rắn cũng rất quan trọng cho bê giai đoạn bú sữa để
phát triển dạ cỏ. Thức ăn hỗn hợp và thức ăn thô chất lượng tốt cho bê ăn tự do
trong giai đoạn này. Để kích thích sự phát triển dạ cỏ, thức ăn thô nên để dài, không
băm chặt ngắn. Thức ăn thô chứa hàm lượng protein cao (hơn 20%) không nên cho
bê ăn trong giai đoạn này. Trong trường hợp không giảm sữa, thức ăn hỗn hợp
không cần chứa hàm lượng protein cao nhưng nếu nuôi theo chế độ giảm sữa thì
việc bổ sung protein là hiệu quả. Không sử dụng các nguồn N phi protein cho bê
giai đoạn này. Từ giai đoạn sau cai sữa trở đi, bê sữa được nuôi theo chế độ như bò
thịt song phương thức nuôi (nuôi nhốt, nuôi chăn thả, nuôi bán chăn thả), khẩu phần
ăn (cỏ xanh, cỏ khô, cỏ ủ, phụ phế phẩm …), kỹ thuật vỗ béo (vỗ béo nhanh, vỗ béo
chậm …) tùy thuộc vào điều kiện của mỗi nước.
Mặc dù quy trình chăn nuôi bê đực sữa lấy thịt đã được xây dựng song nhiều
đề tài nghiên cứu ở các nước vẫn tiếp tục triển khai. Các nghiên cứu tập trung vào
các lĩnh vực như ứng dụng công nghệ sinh học như bổ sung các loại men vi sinh
vào khẩu phần cho bê, bổ sung các loại khoáng chất, nghiên cứu sâu về sự phát triển
dạ cỏ của bê với các chế độ nuôi dưỡng khác nhau.
K.E.Lesmeister và ctv, 2004 kết luận rằng bổ sung 2% men vi sinh
Saccharomyces cerevisiae làm tăng khả năng ăn vào của bê, khả năng tăng trọng và
sự phát triển của dạ cỏ. R.A.Ackerman và ctv, 2004 khi nghiên cứu hai chế độ cho
bú sữa khác nhau kể từ ngày thứ ba gồm (i) cho ăn 1 lần/ngày với việc pha chất thay
sữa/nước là ¼ và (ii) 2 lần/ngày với việc pha chất thay sữa/nước là 1/9. Kết quả
không thấy có sự ảnh hưởng của hai chế độ cho ăn sữa này đối với tăng trọng và
8
sức khỏe của bê. Gennard Matone và ctv, 2005 khi nghiên cứu việc bổ sung một số
chất khoáng đã kết luận rằng việc bổ sung 30-60 mg sắt/con/ngày và 6 mg
đồng/con/ngày đã có ảnh hưởng tốt đến sức khỏe của bê giai đoạn bú sữa. W.W.
Lengemann và N.N. Allen, 2005 đã nghiên cứu về sự phát triển của dạ cỏ ở bê con
với chế độ bú sữa hạn chế. Kết quả cho thấy rằng với việc bổ sung các thức ăn rắn,
các vi khuẩn yếm khí đã hình thành và phát triển từ tuần thứ 3, các a xít dạ cỏ tương
đương với mức của gia súc trưởng thành vào tuần thứ 6 song số lượng protozoa và
vi khuẩn đạt được mức bình thường muộn hơn một thời gian. B.J.Suarez và ctv,
2006 khi nghiên cứu ảnh hưởng của việc bổ sung thức ăn hỗn hợp với thành phần
carbohydrate khác nhau cho bê đực sữa nuôi lấy thịt thấy rằng với nguồn
carbohydrate khác nhau thì đặc điểm và sự phát triển dạ cỏ của bê là khác nhau.
Tương tự, các tác giả cũng kết luận rằng đặc điểm thức ăn thô và tỷ lệ thức ăn
thô/thức ăn tinh có ảnh hưởng đến các chỉ tiêu và sự phát triển dạ cỏ của bê đực sữa
nuôi lấy thịt. Bổ sung rơm làm giảm khả năng tiêu thụ vật chất khô trong khi đó
việc bổ sung thức ăn hỗn hợp và thức ăn thô chất lượng tốt đã tăng lượng vật chất
khô tiêu thụ. Việc bổ sung thức ăn thô không làm ảnh hưởng đến tăng trọng của bê
nhưng có ảnh hưởng tốt đến sự phát triển dạ cỏ, J.W.Hibbs và HR.Conrad, 2006 tập
trung nghiên cứu sử dụng hệ thống cao thức ăn thô (High Roughage System) để
nuôi bê đực sữa lấy thịt dựa trên sự phát triển sớm chức năng dạ cỏ. Các tác giả cho
rằng, nếu tập cho bê ăn thức ăn tinh và thức ăn thô sớm sẽ giúp bê phát triển chức
năng dạ cỏ và dựa trên cơ sở đó hoàn toàn có thể nuôi bê với một khẩu phần có
lượng thức ăn thô cao để giảm chi phí chăn nuôi. Tuy nhiên, trong các thí nghiệm
của tác giả, thức ăn thô chủ yếu được sản xuất và sử dụng cho bê dưới dạng ép viên.
Giai đoạn tiếp theo của qui trình nuôi giai đoạn sinh trưởng và vỗ béo cũng
không kém phần quan trọng. Tùy theo tình hình thực tế và nguồn nguyên liệu tại
chổ mà khẩu phần ăn cũng như tăng trọng đạt được của bò ở giai đoạn nuôi vỗ béo
và sinh trưởng sẽ khác nhau; có thể tóm tắt kết quả thực hiện qui trình này ở một số
nước như sau : Ở Israel bê đực Holstein thuần nuôi với khẩu phần có mức năng
lượng cao 2.600 kcal/kg vật chất khô, đạm thô từ 12-18% tùy theo giai đoạn vỗ béo
có mức tăng trọng bình quân đạt 1,4-1,6 kg/con/ngày; với trọng lượng khi hạ thịt
560 kg. Ở Hàn Quốc, Kie-Jun-Na (1992) đã nghiên cứu vỗ béo giống bò bản địa
9
của mình bằng những khẩu phần khác nhau. Kết quả cho thấy rằng, với khẩu phần
chủ yếu là rơm ủ urê và thức ăn tinh, giống bò này có thể tăng trọng 1,01kg/ngày so
với 0,89 kg/ngày khi bò ăn rơm không ủ và thức ăn tinh. Tác giả cũng cho thấy rằng
không có sự sai khác về tăng trọng gam/ngày khi nuôi vỗ béo bằng phương thức
cho ăn tự do (adlibitum) và cho ăn hạn chế (restricted) nhưng có sự sai khác về tỷ lệ
thịt xẻ giữa hai phương thức này (62,2% so với 60,3%) và tỷ lệ mỡ tương ứng giữa
2 nhóm là 20,3% so với 16%. Trung Quốc là nước rất thành công trong việc nuôi bò
thịt giống địa phương bằng nguồn thức ăn là phụ phẩm công nông nghiệp. Theo
Xiaqing Zou và ctv (1992) việc sử dụng dạng thức ăn viên được tạo ra từ bã mía, rỉ
mật đường và các loại thức ăn tinh để nuôi vỗ béo bò giống Minna có thể cho tăng
trọng đạt mức 896g – 1.090 g/ngày và tác giả cũng nhận định rằng bằng kỹ thuật
mới này có thể sản xuất thịt bò có chất lượng cao hơn từ giống bò bản địa. Ở Mỹ,
công nghệ vỗ béo bò thịt đã gần như hoàn chỉnh và theo đó vỗ béo bò gồm 4 bước
tăng thức ăn tinh từ 35, 55, 75 và 90%, trong đó mỗi bước khoảng 5-7 ngày với mục
đích bò thích nghi được với sự thay đổi khẩu phần vỗ béo. Với khẩu phần có 75%
thức ăn tinh mới chỉ được xem là khởi đầu vỗ béo khi nào đạt trên 80% là thực sự
vỗ béo. Tuổi đưa vao vỗ béo là khá sớm dao động từ 12 đến 15 tháng tuổi và vỗ béo
tích cực trong khoảng 3-4 tháng. Ở Úc công nghệ vỗ béo bò bao gồm 3 ngày đầu
với 100% thức ăn thô, ngày 4-6 với 80% thức ăn thô, ngày 7-9 với 60% thức ăn thô,
ngày 10-12 với 40% thức ăn thô, ngày 13-15 với 20% thức ăn thô và từ ngày 16 trở
đi vỗ béo với khẩu phần trên 80% tinh. Ở Úc, tuổi đưa bò vào vỗ béo có phần muộn
hơn so với Mỹ và một số nước Châu Âu do đặc điểm về con giống (khả năng tăng
trọng không bằng các giống bò thịt của Châu Âu) cũng như phương thức nuôi (chủ
yếu là chăn thả quảng canh trong giai đoạn sinh trưởng). Thông thường bò trên 18
tháng tuổi mới đưa vào vỗ béo và thời gian vỗ béo cũng lâu hơn (4-5 tháng). Ở Nhật
có hai hình thức vỗ béo là vỗ béo nhanh và vỗ béo chậm. Vỗ béo nhanh với thời
gian vỗ béo chỉ khoảng 2-3 tháng trong khi vỗ béo chậm kéo dài đến 4-5 tháng tuỳ
thuộc vào mục đích tạo sản phẩm. Nhìn chung, hoàn toàn có thể sử dụng nguồn
thức ăn sẵn có để nuôi dưỡng và vỗ béo bò thịt, tăng trọng của giai đoạn vỗ béo dao
động từ 500-1.200 gam/con/ngày (bình quân khoảng 800 gam/con/ngày) tùy thuộc
vào nhóm giống và khẩu phần thức ăn.
10
1.2.2 Tình hình nghiên cứu trong nước
Trung tâm Nghiên cứu KHKT và Khuyến nông TP Hồ Chí Minh đã xây
dựng 5 mô hình điểm nuôi bê đực (giống lai hướng sữa) tại 5 hộ ở xã Thới Tam
Thôn, huyện Hóc Môn cho kết quả rất tốt. Theo những hộ nuôi này, việc giữ bê đực
để nuôi lấy thịt hiệu quả hơn thay vì bán làm bê thui, lại dễ nuôi, tăng trọng nhanh
(từ 100kg/con lên 300 –360kg/con trong 12 – 18 tháng. Lợi nhuận thu được dao
động từ 7 - 8 triệu đồng/5 con, cá biệt có hộ lên đến 12 triệu đồng. Nguyễn Kim
Cương và ctv, 2000 sử dụng chế phẩm thay sữa nhập từ Úc nuôi bê đực lai hướng
sữa tại trại bò An Phước cũng đã cho kết quả cao, tăng trọng bình quân 420
gam/con/ngày sau 4 tháng nuôi; Hồ Quế Anh (2000), sử dụng chế phẩm thay sữa
nhập từ Úc nuôi bê đực lai hướng sữa tại trại bò An Phước cũng đã cho kết quả cao,
tăng trọng bình quân 420gam/con/ngày sau 4 tháng tuổi. Trần Ngọc Bích (1999) sử
dụng sữa thay thế ở mức 1/3 và 1/2 thay sữa nguyên cho thấy mức tăng trưởng
tương đương với sữa nguyên ở cả 2 giai đoạn uống sữa và sau cai sữa, hệ số chuyển
hóa thức ăn đều tương đương nhau và chi phí chăn nuôi đã giảm được 1,53% (cho
mức thay thế ở 1/3) và 2,9% cho mức thay thế ½.
Lê Đăng Đãnh và ctv, 2000 thử nghiệm vỗ béo bê đực lai Holstein bằng cỏ
voi, rơm khô, bã khoai mì ủ urê và bánh dầu bông vải đạt mức tăng trọnh bình quân
từ 1-1,2 kg/con/ngày; cá biệt một số cá thể đạt mức tăng trọng đến 1,4 kg/con/ngày.
Vũ Văn Nội và Nguyễn Viết Hải có nghiên cứu nuôi bê đực hướng sữa lấy thịt với
lượng sữa nguyên 200kg/con và thức ăn tinh hỗn hợp với 15-17% CP, thức ăn thô
xanh 14.856 kg/con, bê đạt trọng lượng 304,3 kg lúc 27 tháng tuổi. Tỷ lệ thịt xẻ đạt
51,74%, tỷ lệ thịt tinh là 40,4%. Hoàng Thị Ngân và Đinh Văn Cải, 2007 nghiên
cứu trên bê cái HF đã cho kết quả nuôi bê lai HF với mức 280kg sữa và thức ăn hỗn
hợp có 18% protein cho ăn tự do cai sữa ở 12 tuần tuổi là hiệu quả nhất. Khối lượng
cai sữa đạt 96,45 kg và mức tăng trọng 785g/con/ngày, tiêu tốn cho 1kg tăng trọng
là 27.590 đồng.
Nhìn chung, việc nghiên cứu nuôi bê đực sữa để lấy thịt ở trong nước chưa
được quan tâm nghiên cứu nên chưa xây dựng được một quy trình hoàn chỉnh để
nuôi đối tượng gia súc này sao cho hiệu quả nhất.
11
1.2.3 Cơ sở chọn lựa nguyên liệu chất thay sữa.
Như chúng ta biết, sữa là thức ăn tốt nhất và quan trọng nhất không thể thiếu
đối với bê đặc biệt là khi bê mới sinh ra, vì sữa là nguồn thức ăn chứa đầy đủ dưỡng
chất dưới dạng dễ tiêu hóa, là một hệ thống keo phức tạp, là một chất màu trắng ánh
vàng chứa hàng trăm chất khác như mỡ sữa, protein sữa, đường sữa, chất khoáng,
vitamin, men, kích thích tố… Sữa giữ vai trò quan trọng là do trong sữa có chứa đầy
đủ các loại acid amin thiết yếu, 18 loại acid béo, 12 loại sinh tố và nhiều nguyên tố
đa và vi lượng. Do đó để có sự phát triển hoàn thiện thì sữa cần phải có đầy đủ
dưỡng chất.
Thông thường tất cả động vật nhai lại khả năng kháng bệnh có được là do
chúng được uống sữa đầu. Khả năng kháng bệnh của chúng không phải có được
nhờ các kháng thể trong máu. Vì vậy, điều quan trọng là gia súc non phải được
uống sữa đầu ngay sau khi sinh càng sớm càng tốt. Do đó bê cần phải được bú sữa
đầu 5-7 ngày, vì trong sữa đầu có chứa nhiều kháng thể và là thức ăn dễ tiêu hóa
thỏa mãn các nhu cầu dinh dưỡng của bê.
Ngoài ra sữa đầu còn chứa hàm lượng MgSO
4
cao, hoạt động như là một
chất tẩy nhẹ, tẩy “cứt su” làm sạch đường tiêu hóa. Độ chua của sữa đầu cao (48-
50
o
T) ức chế sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh đường ruột. Đặc biệt sữa đầu chứa
Immunoglobulin cao (5,5-6,8%).
Trong sữa đầu có hàm lượng chất dinh dưỡng và kháng thể cao hơn gấp 4 lần
sữa thường, có hàm lượng chất béo và protein cao. Vitamin A trong sữa đầu nhiều
gấp 10 lần so với sữa thường. Bê mới sinh ra không có sinh tố A dự trữ nên sữa đầu
là thức ăn không thể thay thế được và lượng vitamin A cung cấp từ sữa đầu được dự
trữ trong cơ thể bê nhiều tuần sau khi sinh. Sữa đầu thường có độ chua cao hơn so
với sữa thường có tác dụng ức chế một số vi khuẩn có hại và protein trong sữa đầu
dễ tiêu hóa. Do vậy cần sử dụng tối đa sữa đầu để nuôi bê sơ sinh.
Chất lượng sữa đầu sẽ bị giảm nhanh trong những lần vắt sau đó, thành phần
và đặc điểm của sữa đầu và sữa thường được trình bày trong bảng 1.1
12
Bảng 1.1: So sánh thành phần, đặc điểm của sữa đầu và sữa thường
Sữa đầu
Thành phần
Vắt lần1 Vắt lần 2 Ngày thứ 2 Ngày thứ 3
Sữa
thường
Vật chất khô (%) 23,9 17,9 14,0 13,6 12,9
Chất béo (%) 6,7 5,4 4,1 4,3 4,0
Chất đạm (%) 14,0 8,4 4,6 4,1 3,1
Lactose (%) 27,0 3,9 4,5 4,7 5,0
Khoáng (%) - - - - 0,7
Vitamin A (g/100ml) 295,0 190,0 95,0 74,0 3,4
Kháng thể (%) 6,0 4,2 1,0 - -
Ghi chú: Trích từ Nuôi Bò sữa; Đinh Văn Cải và Ctv, 1995.
Lê Xuân Cương, Phạm Hồ Hải và ctv (2000) ghi nhận rằng chất lượng sữa bị
ảnh hưởng rất nhiều theo thời gian bảo quản; 2 giờ sau khi vắt sữa tổng số vi sinh
vật trong sữa đã tăng thêm gấp 2 lần và sẽ tăng thêm gấp 4 lần khi bảo quản ở nhiệt
độ thường sau 4 giờ tính từ khi vắt sữa. Sự gia tăng này sẽ kèm theo sự sinh sôi và
phát triển của một số vi sinh vật gây bệnh như E. Coli; Coliform và Shigella là
những vi khuẩn gây bệnh tiêu chảy trên người và gia súc non.
Nguyên liệu sử dụng tổ hợp sữa thay thế phải có giá trị dinh dưỡng tốt, đặc
điểm sinh học gần giống sữa nguyên và có thể sử dụng sớm cùng sữa nguyên. Bên
cạnh đó, một yêu cầu quan trọng nữa là nguyên liệu sử dụng phải ổn định, giá thành
hiệu quả và phải hòa tan tốt trong nước.
a. Yêu cầu chất thay thế sữa.
Chất thay thế sữa phải đáp ứng những yêu cầu sau:
- Là những thực liệu dễ tiêu hóa.
- Có độ ngon miệng cao giúp bê thích khi uống.
- Đảm bảo tốt về sức khỏe, giúp bê tăng trọng nhanh.
- Giảm nguy cơ tiêu chảy.
- Hòa tan tốt trong nước.
- Đạt hiệu quả kinh tế.
- An toàn sinh học.
b. Sử dụng Protein đậu nành trong sữa thay thế.
Tại Mỹ và các nước chăn nuôi công nghiệp khác đã sử dụng những sản phẩm
như: sữa gầy, sữa tách béo, casein, whey protein để sử dụng trong sản phẩm sữa
13
thay thế tuy nhiên với giá thành khá đắc vì thế họ đã nghiên cứu tìm ra sản phẩm
protein từ đậu nành dùng trong chất thay sữa mà có thể chấp nhận được. Hiện nay
protein đậu nành đã được sử dụng khá rộng trong chất thay sữa. Trong bột đậu nành
ly trích chứa 50% protein và các acid amin thiết yếu, nhất là
lysin và methionin.
Đậu nành là loại hạt họ đậu chủ lực được sử dụng trong thức ăn chăn nuôi, với giá
thành rẻ, an toàn, có thể làm cho thịt thơm ngon và được dùng với tỷ lệ cao trong
khẩu phần của gia súc. Tuy nhiên, vẫn còn những yếu tố hạn chế khi sử dụng
protein đậu nành trong sữa thay thế là do sự hiện diện của những yếu tố kháng dinh
dưỡng trong đậu nành như:
- Các chất ức chế trypsin trong đậu nành kết hợp với enzyme phân cắt protein
trypsin và chymotrypsin làm enzym bị vô hiệu hóa khiến khả năng tiêu hóa
protein bị giảm đi, kết quả protein không tiêu hóa sẽ lên men ở kết tràng gây
tiêu chảy
- Các kháng nguyên quan trọng nhất trong bột đậu nành là: glycinin và β-
conglycinin được xem là những protein mà không thể tiêu hóa được, có thể
là nguyên nhân gây ra những phản ứng dị ứng trên bê, làm giảm khả năng
tiêu hóa đặc biệt trên bê nhỏ hơn 3 tuần tuổi. Những bê nhỏ hơn 3 tuần tuổi
thì sự phân tiết enzyme tuyến tụy thấp hơn so với những con bê đã trưởng
thành do đó hoạt động phân giải protein tuyến tụy giảm thấp. Điều này đưa
đến hậu quả làm giảm khả năng tiêu hóa và hấp thu dưỡng chất, gây tiêu
chảy và giảm tốc độ tăng trưởng ở bê.
Trên cơ sở đó, chúng tôi đã lựa chọn sản phẩm chế biến từ đậu nành có tên
thương phẩm là Dabomb-P (công ty Suchiang Đài Loan sản xuất) là do :
- Là protein có nguồn gốc từ đậu nành, trong đó các chất kháng dinh dưỡng
được loại trừ ở mức tối thiểu nhờ một quy trình sản xuất đặc biệt.
- Có mùi vị thơm ngon kích thích bê uống tốt.
- Có khả năng tiêu hóa tốt và độ hòa tan cao.
- Trong Dabomb-P chứa trên 95% các acid amin được tiêu hóa nên là nguồn
đạm thực vật có chất lượng ổn định, không chứa các yếu tố bất lợi như:
histamin, gizzarosin, chất phi protein, sự nhiễm Samonella, độc tố từ vi sinh
vật.
14
- Ngoài ra trong Dabomb-P còn chứa 3,4% hàm lượng acid lactic, được sử
dụng như là chất acid hóa trong thức ăn vật nuôi, cải thiện được khả năng
tiêu hóa và hấp thu, đặc biệt rất tốt trên đường tiêu hóa của gia súc non, và
còn được dung như chất chống oxy hóa.
- Giá trị dinh dưỡng của Dabomb-P khá cao : ME 3.635 kcal/kg; Protein 53%;
Chất xơ 3,5%; Chất béo 0,8% và một số acid amin thiết yếu như Lysin
3,29%; Methionin 0,8%; Cystin 0,8%; Threonin 2,12%; Tryptophan 0,69%.
Những yếu tố kháng dinh dưỡng còn trong Dabomb-P ở tỉ lệ rất thấp
Antitrypsin 1mg/g protein.
- Khả năng kết dính của Dabomb-P tương tự như của bột, đây là chất kết dính
tự nhiên là nguồn cung cấp protein tốt nhất.
Quy trình sản xuất Dabomb-P
Bột đậu nành bỏ vỏ
Tiệt trùng (130-135
o
C, 5s)
Lên men lactobacillus
Làm khô chân không (60
o
C, 5hrs)
Nghiền
Dabomb-P
Su Chiang Co đã tiến hành thí nghiệm trên heo cai sữa sau 28 ngày, giống lai
3 máu Duroc * Yorkshire * Landrace, tiến hành tại trại chăn nuôi Joy Chan’s Farm,
Shilo, Đài Loan, 2003. Dùng 25% Dabomb thay cho 21,1% bánh dầu đậu nành (48)
dựa trên thành phần protein thô cho kết quả rất tốt.
Ngoài ra, một sản phẩm của công ty trên cũng được chúng tôi đưa vào sử
dụng trong sữa thay thế là Rubys protein, đây là chất thay thế plasma với những đặc
tính như sau (do công ty giới thiệu) :
15
v
Công dụng:
-
An toàn và vệ sinh: do có nguồn gốc thực vật nên không mang mầm bệnh
nguy hiểm như BSE, cúm gia cầm …Các yếu tố kháng dinh dưỡng được xử
lý triệt để đảm bảo nhung mao ruột phát triển.
-
Có độ tiêu hóa cao. Protein tiêu hóa cao 95%. Lactic acid chống oxy hóa tự
nhiên kháng vi sinh vật và hổ trợ tiêu hóa.
-
Kiểm soát E.coli ngăn ngừa tiêu chảy
-
Hỗ trợ tiêu hóa: Các enzyme trong Rubys protein có tác động đến chức năng
của pepsin và trypsin tốt hơn so với lysozyme có trong Plasma.
-
Hỗ trợ hấp thu các chất; Tính ngon miệng cao.
-
Tạo điều kiện cho quá trình chuyển đổi thức ăn từ tập ăn sang cai sữa dễ
dàng hơn, nhằm tránh tạo stress cho vật nuôi.
v
Thành phần dinh dưỡng của Rubys Protein
Protein 52,5% (min 5,1%)
Chất tro 6,8% (max 7,5%)
Chất xơ 3,5% (max 5,5%)
Chất béo 0,8% (max 1,5%)
Dẫn xuất Nitrogen tự do 27,2%
Độ tiêu hóa chất xơ trong dung dịch kiềm 4,0%
Độ tiêu hóa chất xơ trong dung dịch acid 6,2%
Ẩm độ 8,0%
Theo khuyến cáo của công ty, rubys protein được sử dụng trong sữa thay thế
ở mức <5% sẽ đạt hiệu quả tốt.
c. Sử dụng protein nguồn gốc động vật trong sữa thay thế.
Sản phẩm sữa ít béo của Hà Lan với tên thương mại là Super cowlac được sử
dụng trong sữa thay thế là do thành phần dinh dưỡng tốt và giá thành thấp. Sản
phẩm này được xem như là nguồn cung protein có nguồn gốc động vật với thành
phần dinh dưỡng như sau: vật chất khô (DM) 97%; đạm thô (CP) 40%;
carbonhydrate 35%; béo thô 2%; xơ thô 2%; khoáng tổng số 7% và một số acid
amin thiết yếu Lysin 2,2%; Methionin + Cystin 1,15%; Calcium 0,9% và Phosphor
0,85% (nguồn Su Chiang Co, 2007).
16
d. Tổ hợp công thức chất thay sữa.
• Công thức 1-CT1, dựa trên nền là nguồn đạm thực vật.
Dabomb đáp ứng được đầy đủ nhu cầu dinh dưỡng cho thú dạ dày đơn và là
nguồn thức ăn có hàm lượng protein thực vật rất dồi dào có thể thay thế cho protein
trong sữa vì thế chúng tôi sử dụng Dabomb như nguồn nguyên liệu chính trong
công thức 1 của chất thay sữa. Để đáp ứng được giá trị dinh dưỡng như sữa nguyên
vì thế ngoài nguyên liệu chính là Dabomb còn được kết hợp với khoáng, vitamin,
enzyme (Rubys Protein), bột gạo, béo thực vật gọi chung là SCMR (Soybean Calf
Milk Replacer).
• Công thức 2-CT2, dựa trên nền là nguồn đạm động vật.
Với giá thành tương đối, mà vẫn đáp ứng được đầy đủ giá trị dinh dưỡng như
sữa nguyên, vì thế chúng tôi chọn sản phẩm Milklac (sữa ít béo) để cho ra công
thức 2 kết hợp với vitamin, khoáng, enzym (Rubys Protein) gọi là CMR (Calf Milk
Replacer).
17
2.1. Nội dung 1: Sản xuất thử nghiệm chất thay sữa từ nguồn nguyên liệu
sẵn có thay thế sữa bò mẹ nuôi bê đực lai Hà Lan sau khi sinh (1-3 ngày
tuổi) đến khi cai sữa (4 tháng tuổi).
Nội dung này được thực hiện theo 2 bước sau:
2.1.1 Nghiên cứu tổ hợp công thức chất thay sữa:
Trên cơ sở những nguyên liệu ngoại nhập như: sữa bột không béo (Super
cowlac), bột đậu nành ly trích (Dabomb-P), bột gạo, khoáng, vitamin, enzym,
Ruby-protein và béo không no (Bergafat); Căn cứ vào kết quả nghiên cứu của
Robert B. Corbett (2000), sử dụng phần mềm Excel tính toán tổ hợp các nguyên
liệu trên tạo thành 02 công thức chất thay sữa khác nhau : Công thức 1 (CT1) gọi là
SCMR (Soybean Calf Milk Replacer) trên nền là bột đậu nành ly trích Dabomb P
(gọi tắt là bột đậu nành) và công thức 2 (CT2) gọi là CMR (Calf Milk Replacer)
trên nền sữa ít béo (Super cowlac) kết hợp với các nguyên liệu khác như bột béo,
bột gạo, lactose, men tiêu hóa và khoáng sao cho 1 kg hỗn hợp (của mỗi công thức)
có giá trị dinh dưỡng : 29,3-35,3% đạm thô, béo thô 22,9-27,7%, khoáng tổng số
4,3-5,3%, xơ thô 1,7-2,2%, ẩm độ 6,5-7,1%, lactose 32,6-35,4%.
Cứ 1 kg thành phẩm pha với 8 lít nước tạo thành 9 kg sữa có thành phần
dinh dưỡng như sau: vật chất khô 11-12%. Béo
2,6-3,0%, đạm 3,3-3,9% và đường
lactose 3,6-4,0% (tính trên 1 lít sữa thành phẩm). Giá thành dự kiến từ 20.000 -
23.000 đồng/kg bột, quy ra sữa nước là 2.190-2.530 đ/kg sữa thay thế. Rẻ hơn so
với sữa bò tươi hiện nay là 3
.970 - 4.310 đ/kg (thời điểm tháng 08/2008).
2.1.2 Thí nghiệm 1
: Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển khi sử dụng chất
thay sữa từ bột đậu nành (SCMR), sữa thay thế (CMR) và sữa bò mẹ (CM)
trên bê đực lai Hà Lan sau khi sinh.
- Gia súc: 48 bê đực lai Hà Lan và 9 bê cái lai Hà Lan; Giống ≥ F2; Trọng
lượng bình quân 30 kg được bú sữa đầu từ 3-5 ngày, không có dị tật và khoẻ
mạnh, được sử dụng cho thí nghiệm.
- Địa điểm : Thí nghiệm được tiến hành tại trại chăn nuôi bò là Xí nghiệp bò
sữa An Phước, Long Thành, Đồng Nai (XNBSAP); 02 trại chăn nuôi gia
đình hộ ông Nguyễn Văn Ngàn (Hộ A) và hộ Ông Nguyễn Thành Phương
(Hộ B) tại Hóc Môn TP.HCM (TCNGĐ), thời gian thí nghiệm kéo dài trong
18
04 tháng từ 21/03/2007 đến 21/08/2007 (Danh sách bê, trọng lượng sơ sinh
đính kèm phần phụ lục).
- Bố trí thí nghiệm: 57 bê đực và cái lai Hà Lan, giống F
2
, F
3
tại XNBSAP và
≥F
3
tại TCNGĐ; Trong đó, 30 bê của 2 hộ ở Hóc Môn và 27 bê của
XNBSAP, được phân làm 03 nhóm : nhóm 1 gọi là nhóm đối chứng (ĐC) sử
dụng sữa bò mẹ hay sữa nguyên (Cow milk-CM), nhóm 2 sử dụng sữa thay
thế CT1 (SCMR) và nhóm 3 sử dụng sữa thay thế CT2 (CMR). Các bê trong
mỗi nhóm sẽ tương đồng với nhau về trọng lượng, giống, phái tính. Thí
nghiệm được bố trí theo kiểu 2 yếu tố (khẩu phần, phái tính) ở Long Thành
và 1 yếu tố (khẩu phần) ở Hóc Môn.
Sơ đồ bố trí thí nghiệm như sau:
ĐC-CM CT1-SCMR CT2-CMR
Địa điểm
Đực Cái Đực Cái Đực Cái
XNBSAP (con) 6 3 6 3 6 3
Hộ A (con) 5 - 5 - 5 -
Hộ B (con) 5 - 5 - 5 -
Tổng cộng 16 3 16 3 16 3
- Chuồng trại: xây theo kiểu một mái, lợp tole điểm cao nhất của mái là 3,5m và
thấp nhất là 2,5m, nền bằng xi măng. Được phân làm 03 ô, mỗi ô có diện tích
3,4x2,7m
2
. Máng ăn được xây bên ngoài theo chiều dài của chuồng được ngăn
làm 3 có kích thước 0,8x3,4m
2
/lô; trong mỗi lô thí nghiệm đều có chậu chứa
nước cho bê uống tự do.
- Khẩu phần thí nghiệm được phân làm 2 giai đoạn
• Giai đoạn 1 (giai đoạn bú sữa từ sau khi bú sữa đầu đến 72 ngày tuổi):
Bê sau khi sinh được cho bú sữa đầu tối thiểu trong 3-5 ngày, từ ngày thứ 6 bê
được tập uống sữa bò mẹ trong xô (chậu); Đến ngày thứ 8 trở đi, tùy theo lô mà
mỗi cá thể bê sẽ được sử dụng sữa thay thế CT1-SCMR hoặc CT2-CMR hoặc sữa
bò mẹ ĐC-CM.
Phương pháp cho bê uống sữa thay thế
:
Khi bê được bắt về trong 3-5 ngày đầu bê được tập uống sữa trong xô, bình
quân khoảng 3-4 kg/con/ngày chia làm 2 lần, sáng 7 giờ và chiều vào lúc 16 giờ.
Đến ngày thứ 8; tùy theo lô thí nghiệm sẽ thay thế sữa bò mẹ (sữa nguyên) bằng
sữa thay thế cho bê ở lô sử dụng sữa thay thế SCMR và CMR như sau (áp dụng từ
19
ngày thứ 8):
• Ngày đầu tiên (ngày thứ 8) : 100% sữa bò mẹ
• Ngày thứ hai (ngày thứ 9): 30% sữa thay thế + 70% sữa bò mẹ.
• Ngày thứ 3 (ngày thứ 10): 50% sữa thay thế + 50% sữa bò mẹ.
• Ngày thứ 4 (ngày thứ 11) : 70% sữa thay thế + 30% sữa bò mẹ.
• Ngày thứ 5 (ngày thứ 12): 100% sữa thay thế.
Như vậy, chính thức từ ngày thứ 12 trở đi (bê được uống sữa bò mẹ trong 7
ngày ở tất cả các lô) bê ở 2 lô thí nghiệm (CT1 và CT2) sử dụng hoàn toàn sữa thay
thế thay cho sữa bò tươi. Sữa thay thế được pha bằng nước ấm khoảng 40-50ºC
theo tỷ lệ 1kg sữa + 8 lít nước tạo thành 9 lít sữa thay thế. Lượng sữa sử dụng cho
bê tối thiểu 4 kg/con/ngày, chia làm 02 lần/ngày (sáng 40%/tổng sữa tiêu thụ cả
ngày; chiều 60%/tổng sữa tiêu thụ cả ngày). Khi bê được 2-3 tuần tuổi (14-21 ngày
nuôi), tập cho bê ăn sớm (áp dụng cho cả 3 lô thí nghiệm) bằng những thức ăn có
chất lượng tốt như cỏ non (cỏ sả nhỏ ở Long Thành; Cỏ lùn ở Hóc Môn), cỏ được
phơi héo trước khi cho bê ăn nhằm tránh tình trạng chướng hơi; Cám hỗn hợp sử
dụng là loại cám viên số hiệu 1102, do công ty Cargill sản xuất có 17% đạm thô.
Khi bê được 72 ngày tuổi (10 tuần hay 2,5 tháng tuổi) sẽ cai sữa lúc này bê đã ăn
được trên 0,8kg thức ăn tinh hỗn hợp/ngày và cỏ khoảng 2-3 kg/con/ngày. Cỏ và
cám cho bê ăn tự do sau khi uống sữa ngày 2 lần (cám trước cỏ sau).
• Giai đoạn 2 (giai đoạn sau cai sữa từ 73-120 ngày):
Tùy theo điểm thí nghiệm mà thực liệu sử dụng sẽ khác nhau; ở Long Thành
thức ăn thô chủ yếu là cỏ sả lá nhỏ (Panicum maximum K280) và cám hỗn hợp
dạng bột do CP sản xuất có 16% đạm thô; Ở Hóc Môn ngoài cỏ tươi (cỏ lùn xanh)
và cám hỗn hợp (loại C40 do Proconco sản xuất có 15% đạm thô) còn bổ sung
thêm hèm bia và xác mì.
Trong giai đoạn này, cỏ được cung cấp cho bê ăn tự do ngày 2 lần; thức ăn
tinh hỗn hợp sử dụng là cám dạng bột loại C40 từ 1-1,5kg/con/ngày. Ngoài ra, hèm
bia và xác mì được trộn chung bổ sung thêm cho bê theo tỷ lệ 2 hèm bia/1 xác mì
ăn tự do ngày 2 lần sau khi cho ăn cỏ và cám.
- Chỉ tiêu theo dõi:
§ Lượng sữa và số lượng cỏ, cám , hèm, xác mì tiêu thụ thực tế theo cá thể.
20
§ Tăng trọng bê: theo dõi cá thể bằng cân đại gia súc, ½ tháng 1 lần trong
thời gian 4 tháng. Bao gồm 2 chỉ tiêu:
Tăng trọng tuyệt đối (gam/con/ngày) = (P
t
-P
o
)/t x 1000
Trong đó: P
t
Trọng lượng ở thời điềm t (Kg)
P
o
Trọng lượng ở thời điểm 0 (kg)
t Thời gian nuôi (ngày)
Tăng trọng tương đối (%) = (P
t
-P
o
) x 100/t
§ Số ngày tiêu chảy của bê trên tổng số ngày nuôi/lô thí nghiệm.
§ Ghi nhận các rối loạn tiêu hóa, bệnh tật khác xãy ra (nếu có).
§ Hiệu quả kinh tế thu được.
2.2. Nội dung 2: Thử nghiệm khẩu phần nuôi dưỡng bê sau khi cai sữa đến
khi giết thịt (từ 05-18 tháng tuổi) trên cơ sở sử dụng nguồn nguyên liệu
tại địa phương
Bao gồm 02 thí nghiệm:
2.2.1 Thí nghiệm 2:
Ảnh hưởng của việc thay thế cỏ, cám trong khẩu phần bằng
phụ phẩm nông nghiệp đã được chế biến như rơm ủ urê, hèm bia, xác mì
đến khả năng sinh trưởng và phát triển của bê giai đoạn 5-14 tháng tuổi.
- Phương thức nuôi nhốt và cho ăn thức ăn tại chuồng theo từng cá thể. Những
loại thức ăn chủ yếu bao gồm : thức ăn thô là cỏ trồng (cỏ sả nhỏ, cỏ lùn xanh),
rơm ủ urê 4%; thức ăn tinh là cám hỗn hợp, hèm bia, xác mỳ.
- Đối tượng bê đưa vào thí nghiệm gồm 45 bê chọn ra từ thí nghiệm 1, phân làm 3
nhóm. Mỗi nhóm có 15 bê, sao cho tương đối đồng đều về tuổi, giống, phái tính
và trọng lượng giữa các nhóm (Danh sách bê thí nghiệm đính kèm phụ lục).
- Thời gian thí nghiệm kéo dài trong 10 tháng bắt đầu từ 08/2007 đến 05/2008 tại
trại của Xí nghiệp bò sữa Long Thành-Đồng Nai; hộ anh Nguyễn Văn Ngàn (hộ
A) và hộ anh Trương Hoài Phương (hộ B) tại Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh.
- Khẩu phần thí nghiệm bao gồm 3 dạng khẩu phần : Khẩu phần 1 (T1) cỏ (ăn tự
do), cám hỗn hợp dạng bột C40 do Proconco sản xuất có 15% đạm thô; Khẩu
phần 2 (T2) cỏ, rơm ủ urê (thay thế 25% lượng chất khô của cỏ trong khẩu phần
1), thay thế cám hỗn hợp bằng hèm bia, xác mì; Khẩu phần 3 (T3) cỏ, rơm ủ urê
4% (thay thế 50% lượng chất khô của cỏ trong khẩu phần 1), và thức ăn tinh hỗn
21
hợp cũng được thay thế bằng hèm bia và xác mì. Giá trị dinh dưỡng khẩu phần
được tính toán sao cho phù hợp với từng cá thể bò thí nghiệm. Lượng vật chất
khô tổng số ăn được bình quân của mỗi bò từ 3-3,2%/trọng lượng bò (NRC,
2000). Tỷ lệ tinh/thô khẩu phần là 30/70 dựa theo kết quả nghiên cứu của các tác
giả Đinh Văn Cải và ctv (2000) ; Phạm Văn Quyến và ctv (2001) ; Nguyễn Văn
Vinh và ctv (2003). Thức ăn cung cấp theo từng lô theo đúng số lượng tính toán
2 lần/ngày (tinh và thô cho ăn riêng) thức ăn tinh cho ăn trước và thức ăn thô cho
ăn sau, theo dõi tăng trọng từng cá thể bằng cách cân trọng lượng 30 ngày/lần.
Chi tiết thành phần hóa học của các thực liệu sử dụng trong khẩu phần của các
thí nghiệm được trình bày qua bảng 2.1.
Bảng 2.1. Thành phần hóa học của các thực liệu sử dụng trong thí nghiệm
ME (kcal/kg)
Thực liệu n VCK (kg) CP (g/kg) CF (g/kg)
b c
Cỏ sả nhỏ
3
0,28±0,02 34,00±1,23 119,8±1,09 590,38
554
Cỏ lùn
3
0,16±0,02 18,00±1,89 56±2,02 328,73
-
Rơm ủ urê 4%
3
0,60±0,09 43,2±1,20 237,3±3,24 945,21
-
Hèm bia
3
0,22±0,01 69,70±1,34 32,6±2,02 605,20
563
Xác mì
3
0,18±0,02 3,60±1,25 20,0±0,98 497,70
498
Vỏ khoai mì
3
0,81±0,04 69,00±2,12 292±3,43 1724,51
-
Khoai mì lát
3
0,89±0,05 21,6±1,02 24,00±0,07 2582,55
2531
Mày bắp
3
0,89±0,07 82,9±1,12 26,6±2,01 2667,71
-
Cám HH 1102
a
0,86 170 55 3000
-
Cám HH C40
a
0,87 150 100 2500
-
Cám HH Vina
a
0.86 140 100 2400
-
Ghi chú:
a
Thành phần dinh dưỡng ghi trên bao bì;
b
năng lượng được tính toán theo công
thức của Wardeh, 1981; Thành phần dinh dưỡng thức ăn gia súc, Viện Chăn nuôi.
- Bố trí thí nghiệm theo kiểu phân lô đồng đều 1 yếu tố ở Hóc Môn (khẩu phần)
và 2 yếu tố ở Long Thành (khẩu phần và phái tính), mỗi lô có 15 con, tổng số có
3 lô (3 dạng khẩu phần) với 45 bê thí nghiệm bao gồm 21 bê tại XNBSAP; 24 bê
tại 02 TCNGĐ (mỗi trại 12 bê).
Sơ đồ bố trí thí nghiệm như sau:
T1 T2 T3
Địa điểm
Đực Cái Đực Cái Đực Cái
XNBSAP (con) 4 3 4 3 4 3
Hộ A (con) 4 - 4 - 4 -
Hộ B (con) 4 - 4 - 4 -
Tổng cộng 12 3 12 3 12 3
22
- Chỉ tiêu theo dõi:
v Lượng thức ăn tiêu thụ bình quân trên lô/ngày.
v Tăng trọng bê qua từng tháng thí nghiệm, cân bằng cân đại gia súc
tháng/lần.
v Các rối loạn tiêu hóa và bệnh tật xãy ra nếu có.
v Hiệu quả kinh tế thu được.
2.2.2 Thí nghiệm 3:
Ảnh hưởng của mức năng lượng khẩu phần đến khả năng
tăng trọng bê lai hướng sữa lấy thịt nuôi vỗ béo (giai đoạn 15-18 tháng
tuổi). Bao gồm 2 đợt thí nghiệm:
a. Đợt thí nghiệm 1
:
- Gia súc thí nghiệm: 12 bò đực lai Hà Lan, 12-13 tháng tuổi, giống F3, F4; trọng
lượng bình quân 220 kg mua từ các trại tại Hóc Môn, được chia thành 3 nhóm,
tương ứng với nhau theo từng cặp về trọng lượng, giống trong mỗi nhóm được
sử dụng cho thí nghiệm khẩu phần với các mức năng lượng khác nhau trong
thời gian là 3 tháng theo phương thức nuôi nhốt hoàn toàn (danh sách bò thí
nghiệm trong phụ lục đính kèm).
- Địa điểm và thời gian : Thí nghiệm triển khai tại hộ anh Nguyễn Văn Tèo, xã
Trung Chánh, Hóc Môn trong thời gian 03 tháng từ ngày 23/05/2007 đến
23/08/2007.
- Khẩu phần: thử nghiệm 3 dạng khẩu phần có các mức năng lượng khác nhau:
2,3 Mcal/kg DM (Khẩu phần 1 – KP 1); 2,4 Mcal/kg DM (khẩu phần 2 – KP 2)
và 2,5 Mcal/kg DM (khẩu phần 3 – KP 3) và đạm thô 10,8-12,4%/DM khẩu
phần cho mức tăng trọng từ 800-1.200 g/con/ngày (theo NRC, 2000); Tỷ lệ tinh
40-50%. Các thực liệu sử dụng trong thí nghiệm này bao gồm thức ăn thô: Cỏ
tự nhiên, rơm ủ urê 4%; thức ăn tinh: cám hỗn hợp, vỏ khoai mì, khoai mì lát,
mày bắp và bổ sung thêm 100g urê + 100g rỉ mật/con/ngày. Lượng vật chất khô
tổng số ăn được bình quân của mỗi bò từ 3-3,2 kg/100 kg trọng lượng hơi
(NRC, 2000). Ngăn chuồng thành từng ô thí nghiệm, mỗi cá thể bò được cho ăn
thức ăn theo đúng số lượng tính toán 2 lần/ngày (tinh và thô cho ăn riêng, tinh
trước thô sau)
- Bố trí thí nghiệm theo kiểu phân lô đồng đều, mỗi lô có 4 con , tổng số có 3 lô
23
(3 dạng khẩu phần) với 12 bò thí nghiệm.
Sơ đồ bố trí thí nghiệm như sau:
KP 1 KP 2 KP 3
Số bò thí nghiệm (con) 4 4 4
Sau khi kết thúc thí nghiệm, chọn 01 bò/lô mỗ khảo sát đánh giá chất lượng
quầy thịt.
b. Đợt thí nghiệm 2
.
- Gia súc thí nghiệm: 37 bò lai Hà Lan, 14-15 tháng tuổi, giống F3, F4; trọng
lượng bình quân 240 kg chọn ra từ thí nghiệm 2, được chia thành 3 nhóm,
tương ứng với nhau theo từng cặp về trọng lượng, giống, phái tính trong mỗi
nhóm sử dụng cho thí nghiệm khẩu phần với các mức năng lượng khác nhau
trong thời gian là 3 tháng theo phương thức nuôi nhốt hoàn toàn (danh sách bò
thí nghiệm trong phụ lục đính kèm).
- Địa điểm và thời gian : Thí nghiệm triển khai tại 3 địa điểm là XNBSAP (18 bò
bao gồm 9 bò đực và 9 bò cái lai hướng sữa); 2 hộ chăn nuôi là hộ anh Nguyễn
Văn Ngàn (hộ A) có và Trương Hoài Phương (hộ B), Hóc Môn bao gồm 19 bò
đực lai hướng sữa trong thời gian 03 tháng từ ngày 06/2008 đến 09/2008.
- Khẩu phần: thử nghiệm 3 dạng khẩu phần có các mức năng lượng khác nhau:
2,3 Mcal/kg DM (Khẩu phần 1 – KP 1); 2,4 Mcal/kg DM (khẩu phần 2 – KP 2)
và 2,5 Mcal/kg DM (khẩu phần 3 – KP 3) và đạm thô 10,8-12,4%/DM khẩu
phần cho mức tăng trọng từ 800-1.200 g/con/ngày (theo NRC, 2000); Tỷ lệ tinh
50-70%. Các thực liệu sử dụng trong thí nghiệm này bao gồm thức ăn thô: Cỏ
tự nhiên, rơm ủ urê 4%; thức ăn tinh: cám hỗn hợp, hèm bia, xác mì và bổ sung
thêm 100-200 g rỉ mật/con/ngày. Lượng vật chất khô tổng số ăn được bình quân
của mỗi bò từ 3-3,2 kg/100 kg trọng lượng hơi (NRC, 2000). Ngăn chuồng
thành từng lô thí nghiệm, mỗi lô được cho ăn thức ăn theo đúng số lượng tính
toán 2 lần/ngày (tinh và thô cho ăn riêng, tinh trước thô sau)
- Bố trí thí nghiệm theo kiểu phân lô đồng đều 1 yếu tố ở Hóc Môn (khẩu phần)
và 2 yếu tố ở Long Thành (khẩu phần và phái tính); lô 1, lô 3 mỗi lô có 12 con,
lô 2 có 13 con; tổng số có 3 lô với 37 bò thí nghiệm bao gồm 18 bò tại XNBSAP
(9 dực và 9 cái); 19 bò tại 02 TCNGĐ (trại A 11 con; trại B có 8 con).
24
Sơ đồ bố trí thí nghiệm như sau:
KP 1 KP 2 KP 3
Địa điểm
Đực Cái Đực Cái Đực Cái
XNBSAP (con) 3 3 3 3 3 3
Hộ A (con) 3 - 4 - 4 -
Hộ B (con) 3 - 3 - 2 -
Tổng cộng 9 3 10 3 9 3
Sau khi kết thúc thí nghiệm, chọn 02 bò/lô mỗ khảo sát đánh giá chất lượng
quầy thịt theo các chỉ tiêu:
Tỷ lệ thịt xẻ (%) = (Trọng lượng quầy thịt xẻ x Trọng lượng hơi) x100
Tỷ lệ thịt tinh (%)= (Trọng lượng thịt tinh x Trọng lượng quầy thịt xẻ) x 100
Trong đó :
- Trọng lượng hơi : cân trước khi giết, mỗ (kg)
- Trọng lượng quầy thịt xẻ (trọng lượng thịt xẻ, trọng lượng thịt sô) nguyên con
(kg) = Trọng lượng sống – (trọng lượng huyết + trọng lượng đầu + trọng lượng da
+ trọng lượng lòng trắng + trọng lượng lòng đỏ + trọng lượng 4 vó chân)
- Trọng lượng thịt tinh (hay thịt tuột - kg) là trọng lượng thịt nạc được lóc ra từ quầy
thịt xẻ (không tính mỡ và bạc nhạc)
(Theo Trần Đình Miên, 1975. Giáo trình chọn Giống và Nhân giống gia súc
– Nhà xuất bả Nông Thôn – Hà Nội, 1975. Trang 119-121).
- Chỉ tiêu theo dõi chung cho 2 đợt thí nghiệm:
v Lượng thức ăn tiêu thụ trên con/ngày, cân 1 tuần/lần/lô thí nghiệm.
v Tăng trọng bò qua từng tháng thí nghiệm (cân bằng cân đại gia súc
tháng/lần).
v Đánh giá cảm quan và chất lượng quầy thịt bao gồm các chỉ tiêu :
Màu sắc thịt : các mảnh thịt (thịt thăn) được lấy mẫu xếp trên cùng một
mảnh giấy trắng và so sánh màu sắc dưới ánh sáng trời.
Độ săn chắc của thịt được đánh giá bằng cách bóp mạnh vào mảnh thịt và so
sánh bằng cảm giác.
Độ rĩ dịch của thịt : để các mảnh thịt trên giấy thấm màu trắng (được cân
trọng lượng trước) trong thời gian khoảng 5 phút sau đó cân lại để xác định độ
rỉ dịch.
25
Chất lượng thịt : mẫu thăn thịt bò được lấy sau khi giết mỗ theo từng lô thí
nghiệm, mỗi mẫu 0,5 kg sau đó gửi ngay đến phòng thí nghiệm thuộc công ty
cổ phần giám định và khủ trùng, phân tích các chỉ tiêu : vật chất khô, đạm thô,
béo thô, khoáng tổng số và hàm lượng sắt (Fe); các mẫu thịt từ các lô .
(Theo Trần Đình Miên, 1975. Giáo trình chọn Giống và Nhân giống gia súc –
Nhà xuất bả Nông Thôn – Hà Nội, 1975. Trang 119-121).
v Hạch toán hiệu quả kinh tế thu được.
2.3. Nội dung 3: Đánh gía hiệu quả kinh tế và chuyển giao kết quả nghiên
cứu vào thực tiển sản xuất.
2.3.1. Phân tích hiệu quả kinh tế.
Thu thập các số liệu kinh tế, kỹ thuật của từng thí nghiệm, từng giai đoạn
nuôi theo phương pháp ghi nhận số lượng các thực liệu sử dụng (cân đo trực tiếp)
trong các thí nghiệm, cập nhật sự thay đổi giá đến thời điểm hiện tại và tính toán
hiệu quả.
Hiệu quả kinh tế được tính theo tỉ suất lợi nhuận là tỉ lệ phần trăm giữa lợi
nhuận thu được (sau khi trừ chi phí) chia cho tổng chi. Trong đó: Tổng chi bao gồm
: mua con giống + thức ăn + chi phí lao động + điện nuớc + thú y + khấu hao
chuồng trại. Tổng thu bao gồm: thu từ bán bê/bò và phân. Các chi phí cụ thể như
sau (giá được tính vào các thời điểm tháng 08/2008):
TT Chỉ tiêu ĐVT Giá mua/bán
1 Con giống
Bê sơ sinh Đồng/bê 700.000
Trọng lượng hơi Đồng/kg 28.000
2 Thức ăn
Cỏ xanh Đồng/kg 300
Rơm ủ 4% urê Đồng/kg 1.200
Hèm bia Đồng/kg 800
Xác mì Đồng/kg 600
Rĩ mật Đồng/kg 1.500
Urê Đồng/kg 5.500
Khoai mì lát Đồng/kg 3.000
Vỏ khoai mì khô Đồng/kg 1.000
Mày bắp Đồng/kg 3.000
Cám hỗn hợp cho bê Đồng/kg 5.000
Cám hỗn hợp cho bò Đồng/kg 4.500
Sữa bò tươi Đồng/kg 6.500
Sữa thay thế Đồng/kg 2.190-2.530