TRUNG TÂM HẠT NHÂN TP. HỒ CHÍ MINH
____________________________________
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ
KHẢO SÁT XÓI MÒN LƯU VỰC SÔNG SÀI GÒN
BẰNG KỸ THUẬT HẠT NHÂN ĐỂ XÁC ĐỊNH NGUỒN
MANGAN VÀ SẮT TRONG NƯỚC SÔNG
Ng−êi thùc hiÖn: NguyÔn Kiªn ChÝnh, Huúnh Long,
Lª Danh ChuÈn, TrÇn BÝch Liªn.
C¬ quan: Trung t©m h¹t nh©n Tp. HCM
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 7/2008
Mục lục
1 Đặt vấn đề 1
2 Nội dung và phương pháp nghiên cứu 3
2.1 Nội dng nghiên cứu 3
2.2 Phạm vi nghiên cứu 3
2.3 Đối tượng nghiên cứu 3
2.4 Phương pháp nghiên cứu 4
3 Tổng quan một số nghiên cứu có lien quan 6
4 Kết quả thực hiện 10
4.1 Điều tra sơ bộ khu vực nghiên cứu 10
4.2 Xác định khu vực quan tâm; Điều tra thực địa; Xác định các điểm
lấy mẫu
13
4.3 Lấy m
ẫu các loại và phân tích 15
4.4 Xử lý số liệu, tính toán và nhận xét 18
4.4.1 Hàm lượng Mn, Fe trong đất bề mặt 18
4.4.2 Hàm lượng Mn, Fe trong nước sông 19
4.4.3 Hàm lượng Cs-137 trong đất bề mặt 21
4.4.4 Đánh giá xói mòn đất bề mặt khu vực quan tâm 22
4.4.5 Ước lượng phần đóng góp của Mn, Fe trong đất bị xói
mòn vào hàm lượng các kim loại này trong nước sông Sài
Gòn
25
5 Kết luận và kiến nghị 29
5.1 Kết luận 29
5.2 Kiến nghị 30
Tài liệu tham khảo 31
Phụ lục 32
1
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tp. Hồ Chí Minh là một trong các trung tâm kinh tế-xã hội lớn nhất nước ta. Với
hơn 7 triệu dân và tốc độ phát triển trung bình khoảng 9-10% hàng năm, nhu cầu về
nước cho sinh họat và sản xuất của Thành phố là rất lớn và ngày càng tăng. Hiện
nay lượng nước cấp cho Thành phố đạt khoảng 1.500.000 m
3
/ngày, trong đó lượng
nước cần thiết lấy từ các nguồn nước bề mặt chiếm tới trên 60% (1.000.000
m
3
/ngày). Dự kiến tới năm 2010, lượng nước cần thiết sẽ là 2.400.000 m
3
/ngày và
đến 2020 sẽ là 3.500.000 m
3
/ngày.
Để có thể tăng lượng nước cấp trong khi việc khai thác nước ngầm gần như đã
đạt tới giới hạn cho phép, cần thiết phải phát triển các nhà máy nước khai thác các
nguồn nước bề mặt. Ngoài nhà máy nước Thủ Đức (lấy nước thô từ sông Đồng
Nai), nhà máy nước Tân Hiệp (lấy nước thô từ sông Sài Gòn) một số nhà máy nước
khác đã có kế hoạch xây dựng.
Tuy nhiên, việc cung cấp nước từ các ngu
ồn nước bề mặt cũng đang gặp phải
khó khăn do chất lượng nước thô đang ngày càng xấu đi. Ngoài nguyên nhân chính
do các chất thải sinh hoạt, chất thải sản xuất chưa xử lý hoặc kém xử lý thải thẳng ra
các sông Đồng Nai, sông Sài Gòn còn có thể có các nguyên nhân tự nhiên làm ảnh
hưởng tới chất lượng các nguồn nước mặt. Một trong những nguyên nhân tự nhiên
đó là vấn đề đất bề mặt trong các l
ưu vực sông bị xói mòn, hòa tan các hợp chất
trong đất và làm biến đổi chất lượng nước sông.
Tại nhà máy nước Tân Hiệp (xã Tân Hiệp, huyện Hóc Môn) đã và đang phải đối
mặt với vấn đề chất lượng nước thô lấy từ sông Sài Gòn diễn biến xấu và không ổn
định. Theo kết quả phân tích chất lượng nước thô tại nhà máy, ngoài việc nước sông
đã bị ô nhiễm bởi các hợp chất nitơ (NH
3
, NH
4
+
), coliform, độ đục… thì hàm lượng
Mangan (Mn) trong một số thời điểm trong năm vượt quá giới hạn cho phép đối với
nước sinh hoạt theo Tiêu chuẩn Việt Nam.
Để có thể đề xuất các biện pháp cần thiết nhằm giảm thiểu mức độ ô nhiễm,
ngăn chặn nguy cơ ô nhiễm trầm trọng hơn, một đề tài nghiên cứu đã được triển
khai nhằm xác định các nguyên nhân gây ô nhiễm nước sông Sài Gòn v
ới sự tham
2
gia, phối hợp thực hiện của nhiều cơ sở khoa học trên địa bàn Thành phố và các tỉnh
lân cận.
Về vấn đề hàm lượng Mn trong nước sông Sài Gòn tại khu vực họng bơm (trạm
bơm Hòa Phú) của nhà máy nước Tân Hiệp, một nhánh đề tài đã được triển khai
nhằm đánh giá khả năng làm tăng hàm lượng của kim loại này trong nước sông do
nguyên nhân của sự xói mòn đất trong lưu vực sông. Mục tiêu c
ủa nhánh đề tài này
là dùng kỹ thuật hạt nhân xác định nguồn các kim loại Mangan, Sắt trong nước
sông.
Để đạt được mục tiêu, kỹ thuật đồng vị phóng xạ Cs-137 đã được sử dụng để
đánh giá xói mòn đất bề mặt trong khu vực lưu vực sông cần quan tâm. Từ lượng
đất bị xói mòn, hàm lượng Mn, Fe trong lớp đất bề mặt có thể tính toán được phần
đóng góp của Mn, Fe trong đất bị xói mòn vào sông vào hàm lượng củ
a các kim
loại này trong nước sông. Trên cơ sở đó có khả năng đánh giá được nguồn đóng góp
chủ yếu các kim loại này trong nước sông Sài Gòn (tại khu vực trạm bơm Hòa Phú
của nhà máy nước Tân Hiệp).
3
2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Nội dung nghiên cứu
2.1.1. Khảo sát sơ bộ lưu vực trên bản đồ. Tìm hiểu phân bố các loại đất có trên
lưu vực. Nghiên cứu số liệu của Mn, Fe trong nước sông Sài Gòn từ hồ
Dầu Tiếng về hạ lưu.
2.1.2. Lấy mẫu phù sa lơ lửng trên sông Sài Gòn, đo hàm lượng Mn, Fe và hàm
lượng Cs-137 của phù sa.
2.1.3. Xác định khu vực c
ần quan tâm. Khảo sát các khu vực cần quan tâm, tìm
vị trí mẫu tham chiếu, vị trí lấy mẫu, xây dựng bản đồ lấy mẫu.
2.1.4. Lấy mẫu, chuẩn bị mẫu, đo hàm lượng Mn, Fe và hoạt độ Cs-137 theo
chiều sâu cột mẫu và tổng hoạt độ Cs-137 từng mẫu.
2.1.5. Xác lập bản đồ, biểu đồ hoạt độ.
2.1.6. Tính tốc độ xói mòn, khối lượng, hướng xói mòn.
2.1.7.
Đánh giá về nguyên nhân (nguồn gốc) gây nhiễm Mn, Fe trong nước
sông Sài Gòn.
2.1.8. Đề xuất các giải pháp giảm thiểu.
2.1.9. Viết báo cáo tổng hợp nội dung nghiên cứu.
2.2. Phạm vi nghiên cứu:
Vùng nghiên cứu, trong giai đoạn bắt đầu, là một phần lưu vực sông Sài Gòn,
giới hạn từ sau hồ thủy lợi Dầu Tiếng về tới khu vực cầu Phú Cường nhằm đảm bảo
đánh giá
được hầu hết các tác động của hiện tượng xói mòn đất trong phần lưu vực
làm ảnh hưởng tới chất lượng nước thô của nhà máy nước Tân Hiệp.
Các chỉ tiêu nghiên cứu gồm hàm lượng Mn, Fe và Cs-137 trong các mẫu đất lấy
trong khu vực quan tâm; hàm lượng Mn, Fe trong các mẫu nước sông Sài Gòn, sông
Thị Tính.
2.3. Đối tượng nghiên cứu:
+ Lớp đất bề mặt, tới độ sâu 30cm, trong khu vực nghiên cứu.
+ Nước sông trong khu vực nghiên c
ứu.
4
+ Ngoài ra, cũng khảo sát thêm về hàm lượng Mn, Fe và hàm lượng Cs-137 trong
phù sa lấy tại vị trí ngay họng lấy nước trên sông Sài Gòn của nhà máy nước Tân
Hiệp.
2.4. Phương pháp nghiên cứu:
2.4.1. Lấy mẫu nghiên cứu và phân tích theo tiêu chuẩn. Cụ thể:
+ Các mẫu đất được lấy theo tiêu chuẩn để phân tích Cs-137; vị trí các điểm lấy
mẫu được chọn sao cho khả năng đất tại vị trí đó, nếu có bị xói mòn do mưa, s
ẽ
nhiều khả năng tới được sông Sài Gòn. Đồng thời, tại các vị trí này, lớp đất mặt (tới
độ sâu khoảng 10cm) cũng được lấy để phân tích hàm lượng Mn và Fe tổng số.
+ Các mẫu nước sông được lấy tại các vị trí sao cho có thể đánh giá được hàm
lượng Mn, Fe trong nước sông Sài Gòn, đồng thời cũng đánh giá được ảnh hưởng
(về hàm lượng Mn và Fe) của các nhánh sông, rạch lớn chảy vào sông Sài Gòn.
+ Vị trí các
điểm lấy mẫu nghiên cứu (đất, nước) được định vị tọa độ bằng thiết bị
định vị vệ tinh và thể hiện trên bản đồ đã được số hóa.
2.4.2. Phân tích mẫu:
+ Phân tích hàm lượng Mn, Fe tổng số trong các mẫu đất, nước bằng phương pháp
quang phổ hấp thụ nguyên tử trong phòng thí nghiệm theo các tiêu chuẩn của Việt
Nam.
+ Phân tích hàm lượng Cs-137 trong mẫu đất và phù sa bằng phương pháp đ
o hoạt
độ gamma phông thấp dùng phổ kế bán dẫn siêu tinh khiết (Ge-Li) trong phòng thí
nghiệm theo tiêu chuẩn quốc tế.
+ Các số liệu phân tích đều được xử lý thống kê.
2.4.3. Thể hiện các điểm lấy mẫu nghiên cứu cũng như kết quả phân tích trong
khu vực nghiên cứu trên bản đồ số hóa và các loại đồ thị.
2.4.4. Đánh giá mức độ xói mòn đất bề mặt bằng kỹ thuật Cs-137:
Cs-137 là mộ
t đồng vị phóng xạ nhân tạo, hình thành từ sự phân hạch hạt nhân,
chủ yếu được tạo ra và phát tán vào trong khí quyển từ các vụ nổ nguyên tử và các
vụ thử hạt nhân hoặc các sự cố hạt nhân. Sau đó đồng vị này sẽ rơi lắng xuống theo
mưa và nhanh chóng bị hấp thụ và cố định vào các hạt đất mịn, đặc biệt là sét và
5
chất mùn. Sự thay đổi của các lớp đất bề mặt là nguyên nhân chủ yếu làm thay đổi
mật độ tồn lưu (hay hàm lượng) của Cs-137 trong đất. Như vậy, đánh giá sự thay
đổi về mật độ tồn lưu của Cs-137 trong đất bề mặt ta sẽ biết được sự phân bố lại của
đất bề mặt. Dựa trên sự sai khác giữa mật độ tồn lưu Cs-137 trong mẫ
u đất tại vị trí
nghiên cứu với mật độ tồn lưu tham chiếu (hàm lượng Cs-137 trong đất bề mặt hầu
như không bị xói mòn, tích tụ do gió, mưa và các hoạt động sản xuất) sẽ biết được
tại vị trí đó đất bề mặt bị xói mòn hoặc tích tụ hay không, đồng thời định lượng
được sự xói mòn hay bồi tích tại vị trí đó. Tương tự, đối vớ
i một vùng hoặc khu vực
nào đó, việc đánh giá lượng xói mòn, tích tụ sẽ thực hiện được dựa trên việc xác
định mật độ tồn lưu Cs-137 của một số lượng thích hợp các mẫu đất lấy trong vùng
hoặc khu vực đó và xác định giá trị mật độ tồn lưu tham chiếu.
Để xác định mật độ tồn lưu Cs-137 tham chiếu tốt nhất là tìm được vị trí thích
hợ
p (đất bề mặt tại vị trí đó chưa bị phân bố lại hoặc không đáng kể) và tiến hành
lấy các mẫu theo chiều sâu; phân tích hàm lượng Cs-137 của các mẫu đất đó và tính
toán giá trị Cs-137 tham chiếu. Trong trường hợp không thể tìm đuợc vị trí tham
chiếu thì có thể tính toán giá trị này dựa trên các công thức thực nghiệm thu được
trong các nghiên cứu trên phạm vi rộng hơn thích hợp nhất đối với vùng, khu vực
nghiên cứ
u. Trong nghiên cứu này, do không thể tìm được vị trí tham chiếu nên giá
trị này sẽ được tính toán theo mô hình phân bố mật độ tồn lưu Cs-137 trên toàn lãnh
thổ Việt Nam do PGs. Ts. Phạm Duy Hiển và các cộng sự công bố năm 2002.
6
3. TỔNG QUAN MỘT SỐ NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
Nghiên cứu xói mòn đã được tiến hành từ lâu ở Việt nam. Ở miền Đông Nam
bộ, vào đầu những năm 30 của thế kỷ trước, một số nghiên cứu về đất và xói mòn
đất tại Đồng Nai đã các chuyên gia người Pháp tiến hành với mục đích là để lập các
đồn điền cao su. Đáng chú ý nhất là công trình nghiên cứu và lập bản đồ đấ
t của
Moorman (1958, 1959, 1961); Thái Công Tụng và Moorman (1958); Moorman và
Golden (1960); Thái Công Tụng (1972). Đến những năm sau giải phóng, tại khu
vực này, hàng loạt bản đồ tỷ lệ 1/250.000 đã được xây dựng bởi Phan Liêu và ctv.
(1989); Phạm Quang Khánh (1995).
Những năm gần đây việc nghiên cứu về xói mòn đất trong lưu vực sông Đồng
Nai đã và đang được các nhà khoa học rất quan tâm. Các nhà khoa học Nông nghiệp
thuộc Viện Khoa học nông nghiệp miền Nam đã thực hiện nhiề
u nghiên cứu tại khu
vực này như nghiên cứu về ảnh hưởng của xói mòn đến độ phì nhiêu của đất canh
tác ở tỉnh Đồng Nai (Đỗ Trung Bình, Công Doãn Sắt và Nguyễn Văn Nải, 2002);
những quan trắc về môi trường đất một số tỉnh miền Đông Nam bộ (Nguyễn Bích
Thu, từ năm 2006 đến nay)… Các nhà khoa học thủy lợi cũng đã tiến hành một số
nghiên cứu về xói mòn, bồi lắ
ng tại một số địa phương trong lưu vực này như
nghiên cứu đánh giá hiện trạng xói mòn lưu vực hồ Trị An (Lương Văn Thanh, Thái
Lê Nguyên, 2004); nghiên cứu ước lượng xói mòn tại nông trường Mã Đà (Nguyễn
Kim Lợi, 2006)… Trong các nghiên cứu này việc đánh giá lượng xói mòn được
thực hiện theo phương pháp đo đạc xói mòn và lập mô hình xói mòn đất. Trong
phương pháp đo đạc xói mòn, một hệ thống các hào, rãnh và bể hứng đất đượ
c thiết
lập theo hướng vuông góc với hướng dòng chảy tràn bề mặt (run-off). Lượng đất
hứng được được theo dõi theo thời gian và phân tích thêm một số chỉ tiêu hóa học
đất để tính toán lượng xói mòn trên khu vực nghiên cứu. Với mỗi loại địa hình đặc
trưng, cần thiết phải thiết lập một số bãi thí nghiệm tương ứng để hứng và đánh giá
lượng xói mòn. Đây là phương pháp thường được các nhà khoa học nông nghi
ệp sử
dụng.
Cơ sở của phương pháp lập mô hình là phương trình mất đất phổ dụng USLE
(Universal Soil Loss Equation) thành lập bởi Science and Education Administration
7
(Mỹ) năm 1954 và được bổ sung và phát triển thêm bởi Wischmeier và Smith
những năm 1960, 1965, 1972 và 1978. Phương trình USLE như sau:
A = R . K . C . P . L . S
Trong đó A là lượng mất đất trung bình trên một đơn vị diện tích trong một năm; R
là hệ số xói mòn do mưa (còn được gọi là nhân tố mưa); K là hệ số xói mòn của đất
(nhân tố đất), phụ thuộc vào thành phần cơ giới của đất; C là hệ số cây trồng hay
thảm thực vật; P là hệ s
ố sử dụng đất (biện pháp sử dụng đất, hình thức canh tác); L,
S là các hệ số chiều dài sườn và độ dốc (nhân tố địa hình). Để tính toán được lượng
mất đất trung bình A cần phải đánh giá hết các nhân tố trong phương trình USLE.
Với sự trợ giúp của công nghệ GIS dựa trên các số liệu quan trắc, đo đạc các nhân
tố trong phương trình USLE sẽ được mô hình hóa theo các bản đồ nhân tố và tính
toán được các hệ s
ố trong phương trình USLE.
Như vậy, trong mọi trường hợp đều cần có đo đạc trực tiếp bằng các bãi thí
nghiệm, quan trắc xói mòn đất.
Ứng dụng các nhân phóng xạ rơi lắng từ khí quyển, đặc biệt là Cs-137, là một
phương tiện có giá trị và hiệu quả trong việc khảo sát tốc độ xói mòn và phân bố lại
đất bề mặt. Ưu điểm của cách tiếp cận này là nó cung cấp được thông tin lâu dài
trong quá khứ (từ khoảng 40 năm) về tốc độ xói mòn và mô hình phân bố lại đất bề
mặt trong khu vực mà không cần phải quan trắc thường xuyên trong suốt 40 năm
đó. Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) đã có 25 nhóm nghiên cứu trên
toàn thế giới về kỹ thuật Cs-137 này. Cơ quan Nông lương Quốc tế (FAO) cũng có
nhiều nghiên cứu về kỹ thuật này. Ở nước ta cũng đã triển khai kỹ
thuật này trong
nghiên cứu sa bồi hồ chứa và cửa biển (Viện Hạt nhân) và xói mòn đất (Bộ Lâm
nghiệp).
Nguyên lý của kỹ thuật như sau: Cs-137 là một nhân phóng xạ nhân tạo, phát tia
γ năng lượng 0.622MeV, chu kỳ bán rã 30.12 năm, hình thành từ phân hạch hạt
nhân, chủ yếu là từ nổ bom nguyên tử (1945), các vụ thử hạt nhân (1950-1963) và
gần nhất là từ tai nạn hạt nhân nghiêm trọng Chernobyl (Ukraine, 1986). Được phát
tán ra, nhân phóng xạ Cs-137 đi lên tầng khí quyển và phân bố
không đều giữa bắc
bán cầu và nam bán cầu, trong đó bắc bán cầu có nồng độ Cs-137 cao hơn do các vụ
thử hạt nhân tiến hành ở bắc bán cầu nhiều hơn, rồi sau đó rơi dần theo mưa. Đã có
8
các nghiên cứu và công bố số liệu về phân bố rơi lắng toàn cầu của Cs-137 (Garcia
Agudo, 1998; Walling and He, 2000), tuy tai nạn Chernobyl có đóng góp Cs-137
nhưng phân bố rơi lắng toàn cầu này chủ yếu không thay đổi nhiều (IAEA, 1991).
Sở dĩ Cs-137 là một chất đánh dấu quan trọng trong nghiên cứu xói mòn đất là nhờ
tính chất nhanh chóng bị hấp thụ và cố định vào các hạt đất mịn, đặc biệt là sét và
các chất mùn (Tamura, 1964; Bachhuber et al., 1982). Như vậy thông qua nghiên
cứu mô hình phân bố l
ại của Cs-137 cho thấy được sự phân bố lại của đất bề mặt
(Ritchie and Mc Henry, 1990; Walling and Quine, 1993; Zapata, 2002). So sánh sự
sự sai lệch về tổng hoạt độ Cs-137 trên đơn vị diện tích (hàm lượng, hay mật độ tồn
lưu) của một điểm lấy mẫu với tham chiếu của khu vực ta suy ra được sự xói mòn
hay tích tụ tại đó. Do không có số liệu quan trắc lâu dài và chi tiết về rơi lắ
ng của
Cs-137 trong khu vực, nên ta phải chọn một vị trí gần như không có xói mòn hay
tích tụ do gió, nước, canh tác, chăn nuôi, san lấp, khai thác đất (thường là đồng cỏ
hoang) làm mẫu tham chiếu. Nơi nào có mật độ tồn lưu Cs-137 cao hơn mẫu tham
chiếu khu vực có nghĩa là nơi đó có tích tụ thêm đất, phù sa từ nơi khác, tương tự
như vậy, nơi nào có mật độ tồn lưu thấp hơn mẫu tham chiếu khu vự
c là nơi đó bị
xói mòn. Độ sai lệch của mật độ tồn lưu Cs-137 và hướng thay đổi giá trị cho ta
thấy được mô hình phân bố lại đất bề mặt hay là quá trình xói mòn và tích tụ.
Giữa sai lệch về mật độ tồn lưu Cs-137 (so với mật độ tồn lưu tham chiếu khu
vực) và khối lượng xói mòn đất có quan hệ với nhau và đó là cơ sở để có thể tính
toán lượng xói mòn (hay tích tụ).
Đã có nhiều tác giả nghiên cứu và thiết lập được
mối quan hệ này thành một số các mô hình như Mô hình tỷ lệ PM (Proportional
Model); các Mô hình cân bằng khối đơn giản hóa SMBM (Simplified Mass Balance
Model), SMBM1, SMBM2 (Ritchie and Mc Henry, 1990; Walling and Quine,
1993; Walling and He, 1999).
Ở nước ta, kỹ thuật này được đưa vào ứng dụng trong nghiên cứu xói mòn, bồi
lắng từ năm 1993 thông qua hai đề án hợp tác nghiên cứu do IAEA/FAO đề xướng
và tài trợ qui tụ các nhà khoa học từ các quốc gia khác nhau gồm 26 hợp đồng
nghiên cứu về kỹ
thuật Cs-137 nhằm đưa ra một bản hướng dẫn chi tiết thống nhất
về đánh giá xói mòn đất và sa bồi trong sản xuất nông nghiệp và bảo vệ môi trường.
Chúng ta được hưởng lợi không nhỏ từ các đề án trên, cụ thể là đã có những ứng
9
dụng trong nghiên cứu bồi lắng (hồ chứa, cửa sông, cảng biển) và xói mòn đất tại
một số địa phương, khu vực như Hải Phòng, Tây Nguyên, Lâm Đồng, Đồng Nai…
Đặc biệt là thiết bị đo gamma phông thấp hiện cũng đã được trang bị tại các cơ sở
nghiên cứu hạt nhân trong nước.
Trong những nghiên cứu thuộc lĩnh vực này tại Việt Nam, nghiên cứu về phân
bố mật
độ tồn lưu Cs-137 trên toàn lãnh thổ Việt Nam (P. D. Hien et al., 2002) là rất
quan trọng. Với 292 mẫu đất không bị xáo trộn, mô hình phân bố rơi lắng Cs-137
trên lãnh thổ Việt Nam dưới đây đã được thiết lập:
Ln(D) = (3.64 ± 0.11) + (0.094 ± 0.004)L + (0.54 ± 0.04)AR (1)
với: L là vĩ độ (
o
N) và AR là lượng mưa trung bình hàng năm (m)
và được dùng để đánh giá mật độ tồn lưu tham chiếu trong các nghiên cứu xói mòn/
tích tụ đất.
10
4. KẾT QUẢ THỰC HIỆN
4.1. Điều tra sơ bộ khu vực nghiên cứu:
Với mục tiêu nghiên cứu như trên, khu vực cần khảo sát trong giai đoạn đầu của
nghiên cứu này được giới hạn ở phần lưu vực của sông Sài Gòn tính từ sau hồ thủy
lợi Dầu Tiếng tới cầu Phú Cường, cách trạm bơm Hòa Phú (họng lấy nước) của nhà
máy nước Tân Hiệp khoảng 7km về phía hạ lưu. Diện tích phần lưu vực này là
khoảng 1800 km
2
(tổng diện tích lưu vực là 4950 km
2
).
Trong phần lưu vực này, sông Sài Gòn chảy qua địa phận của ba tỉnh, thành là
Bình Dương, Tây Ninh và Tp. Hồ Chí Minh. Tính từ hồ thủy lợi Dầu Tiếng tới khu
vực nhà máy nước Tân Hiệp, đoạn sông có chiều dài khoảng 60km với nhiều kênh
rạch chảy vào. Trong số các dòng mặt chảy vào sông Sài Gòn, lớn nhất là sông Thị
Tính (đổ vào sông Sài Gòn tại khu vực cầu Ông Cộ, Bình Dương), các nhánh khác
đều nhỏ và ngắn và tập trung trong khu vực trũng hai bờ sông Sài Gòn; Hồ
Cần
Nôm cũng là một nguồn nước mặt đáng kể chảy vào sông Sài Gòn tại khu vực
huyện Dầu Tiếng (Bình Dương). Các sông, rạch này có thể là những “phương tiện”
chính thu gom, vận chuyển đất bị xói mòn do mưa và các hoạt động khác vào sông
Sài Gòn. Các dòng chảy mặt lớn trong khu vực chịu chế độ bán nhật triều. Lưu
lượng nước trên sông Sài Gòn, đo tại Phú Cường, là 48,9 m
3
/s vào mùa khô và đạt
tới 180,1 m
3
/s trong mùa mưa với lưu lượng trung bình năm là 103,6 m
3
/s (Nguồn:
Báo cáo tổng hợp qui hoạch tài nguyên nước sông Đồng Nai, Cục quản lý tài
nguyên nước, Viện Qui hoạch thủy lợi miền Nam, Ts. Tô Văn Trường, 1/2008).
Cần chú ý tới sông Thị Tính vì đây là một dòng chảy mặt tương đối lớn (so với
sông Sài Gòn) và tháo nước từ những khu vực có độ dốc tương đối lớn ở khu vực
bắc tây bắc của tỉnh Bình Dương. Hồ Cần Nôm là nơi tích tụ
nước mưa cùng với
đất bị xói mòn và đóng vai trò như một nơi lắng đọng đất bị xói mòn trước khi chảy
vào sông Sài Gòn.
Về khí tượng thủy văn: khu vực nghiên cứu nằm trong khu vực nhiệt đới với hai
mùa mưa (từ tháng 5 tới tháng 10), khô (từ tháng 11 tới tháng 4) rõ rệt; Nhiệt độ
trung bình khoảng 30-32 độ C. Lượng mưa trung bình trên phần lưu vực này (được
11
đánh giá bằng số liệu của các trạm khí tượng Tân Sơn Hòa (Tp.HCM) và trạm Tây
Ninh (tỉnh Tây Ninh), vào khoảng 2000 mm/năm.
Về mặt địa hình (Hình 1, phần Phụ lục), vùng lưu vực sông nghiên cứu có địa
hình cao bên phía tỉnh Bình Dương, Tây Ninh thấp dần về phía Tp.HCM theo các
hướng bắc-nam và đông bắc-tây nam. với độ cao thay đổi từ khoảng 50-60 mét tới
khoảng 1,0 mét so với mực nước biển. Trong dải rộng khoảng 20-24 km dọc theo
sông, độ cao thay đổ
i từ 20-30 mét xuống khoảng 1-5 mét (bờ sông Sài Gòn, Thị
Tính và các kênh rạch); cao ở phần lưu vực thuộc tỉnh Bình Dương và tỉnh Tây
Ninh, thấp xuống ở phần lưu vực sông thuộc địa bàn Tp. HCM.
Về thổ nhưỡng, trong lưu vực sông Sài Gòn nói chung và phần lưu vực nghiên
cứu nói riêng, gồm 5 loại đất chính (Nguồn: Tài nguyên đất vùng Đông Nam bộ,
Phạm Quang Khánh, NXB Nông nghiệp, 1995; Những thông tin cơ bản về các loại
đất chính Việ
t Nam, Viện Thổ nhưỡng Nông hóa, Bộ Nông nghiệp và PTNT, NXB
Thế giới, 2001). Đó là: Đất phèn; Đất phù sa; Đất đỏ vàng và Đất dốc tụ. Cụ thể:
- Đất phèn. Đất phèn phân bố thành khối chạy dài từ Tp.HCM dọc sông Vàm
Cỏ Đông lên tận Gò Dầu, Tây Ninh. Càng lên phía Gò Dầu, đất phèn thuộc
loại nhóm phụ đất phèn hoạt động càng phổ biến. Đó là loại đất phèn đã bị
ôxi hóa, có sự thoáng khí diễn ra trong đất bởi s
ự tiêu thủy, thành phần pyrit
(Fe
2
S) đã bị ôxi hóa từng phần hoặc toàn phần tạo thành jarosite
(KFe
3
(SO
4
)
2
(OH)
6
). Đất có thành phần cơ giới trung bình đến nặng với thành
phần cơ giới sét là chính cùng với sự tích lũy muối phá vỡ các keo đất làm
cho đất rất dẻo khi ướt và nứt nẻ lớn và cứng khi khô. Loại đất này có hàm
lượng Fe và Al cao.
- Đất phù sa. Loại đất này phân bố thành những dải hẹp dọc theo các triền
sông, kênh, rạch. Hình thành trên các trầm tích aluvi tuổi Holocene muộn,
đất phù sa có thành phần cơ giới từ trung bình đến nặng, thành ph
ần cấp hạt
sét là chủ yếu, rồi đến cấp hạt cát, limon. Tỷ lệ cấp hạt giữa các tầng bất
đồng nhất do quá trình bồi đắp khác nhau của trầm tích phù sa. Trên loại đất
này thường canh tác lúa, cây hoa màu và cây ăn trái.
- Đất xám, còn gọi là đất xám bạc màu do đất có màu xám trắng (ít mùn và
nghèo Fe). Đây là nhóm đất có diện tích lớn nhất trong khu vực nghiên cứu.
12
Chúng phân bố thành các khối lớn ở các khu vực Bến Cát, Tân Uyên (Bình
Dương); Hóc Môn, Củ Chi, Bình Chánh (Tp.HCM); Trảng Bàng, Gò Dầu
(Tây Ninh). Trong khu vực này, đất xám thuộc hai nhóm là nhóm đất xám
trên phù sa cổ và nhóm đất xám gley trên phù sa cổ. Loại đất xám trên phù sa
cổ phân bố chủ yếu trên khu vực có độ cao từ 15 đến 20 mét với điều kiên
địa hình bằng thoải hoặc bậc thang (Bến Cát, Tân Uyên, Gò Dầu…) trong
khi loại đất xám gley trên nền phù sa cổ phân bố ở khu vực địa hình với độ
cao th
ấp hơn (<15 mét) như Trảng Bàng, Củ Chi, một phần Hóc Môn. Thành
phần cơ giới của các nhóm đất này đều nhẹ, từ thịt nhẹ, cát pha đến cát. Do
phân bố ở địa hình cao, thành phần cơ giới nhẹ nên loại đất này rất dễ bị rửa
trôi, xói mòn. Trên loại đất này thường trồng các loại cây lưu niên như cao
su, cây ăn trái, một số loại hoa màu (ngô, sắn, đậu, đỗ) và một số loại cây họ
keo để giữ đất, giảm xói mòn.
- Đất đỏ vàng. Đây là nhóm đất có diện tích lớn nhất ở khu vực Đông Nam bộ
nhưng trong KVNC loại đất này không nhiều, phân bố chủ yếu ở các vùng
cao của Bình Dương và Bình Phước (Bình Long, Đồng Phú, Phước Long, Bù
Đăng). Tùy thuộc vào các sản phẩm phong hóa của các loại đá mẹ và mẫu
chất khác nhau mà trên đó hình thành 5 loại đất đỏ vàng khác nhau là đất nâu
đỏ trên đá bazan; đất nâu vàng trên đá bazan;
đất nâu vàng trên phù sa cổ; đất
vàng đỏ trên đá granite; và đất vàng đỏ trên đá phiến sét.
Ở khu vực miền
Đông Nam bộ, phổ biến là loại đất nâu đỏ trên đá bazan với thành phần cơ
giới nặng nhưng tơi xốp do kết cấu tốt và đất nâu vàng trên phù sa cổ. Trên
KVNC loại đất nâu vàng trên phù sa cổ phổ biến hơn (so với loại đất nâu đỏ
trên đá bazan) và phân bố trên địa hình cao từ 25-30 mét, dạng đồi lượn sóng
với thành phần cơ giới nhẹ, dễ tiêu thoát nước. Trên loạ
i đất này, thường
trồng các loại cây công nghiệp như cao su, cà phê … và một số loại cây ăn
trái.
- Đất dốc tụ. Đất dốc tụ phân bố rải rác hầu hết khắp vùng, tại các chân sườn
thoải hoặc khe dốc, trong các hợp thủy xen kẽ với nhóm đất đỏ vàng, đất
xám. Có hai loại: đất dốc tụ có thành phần cơ giới nặng, hình thành chủ yếu
ở những vùng đất bazan; và đất d
ốc tụ cát hình thành trong những vùng đất
13
có thành phần cơ giới nhẹ như đất cát, đất xám. Diện tích đất dốc tụ trong
khu vực nghiên cứu không nhiều, thích hợp cho các loại cây hoa màu và cây
lương thực.
Chất lượng nước sông Sài Gòn, trong đó có hàm lượng các kim loại như Fe tổng
số, Mn (là đối tượng quan tâm của nghiên cứu này) đã và đang được Chi cục Bảo vệ
môi trường Tp. HCM quan trắc. Số liệu phân tích có thể tham khảo từ Chi cục.
Tại Nhà máy nước Tân Hi
ệp nước thô từ sông Sài Gòn sau khi xử lý sẽ được
hòa mạng vào hệ thống cấp nước của thành phố. Tại đây, hàm lượng Mn và Fe tổng
số trong nước thô được đo đạc theo thời gian. Tại một số thời điểm trong năm, hàm
lượng các kim loại này còn được đo đạc hàng giờ. Số liệu quan trắc cũng đang được
lưu giữ tại bộ phân chức năng c
ủa nhà máy. Theo các thông tin được công bố,
không rộng rãi, hàm lượng Mn trong nước sông Sài Gòn tại khu vực họng lấy nước
của nhà máy thay đổi theo thời gian và thường cao vào thời gian bắt đầu mùa mưa
và giảm xuống sau đó.
4.2. Xác định khu vực cần quan tâm; Khảo sát thực địa; và Lựa chọn các
điểm lấy mẫu:
Để đánh giá khả năng gây ô nhiễm nước sông Sài Gòn bởi Mn tại khu vực họng
lấy nướ
c của nhà máy nước Tân Hiệp do sự xói mòn đất, khu vực cần quan tâm là
phần lưu vực dọc hai bờ sông Sài Gòn từ sau hồ Dầu Tiếng tới cầu Phú Cường với
chiều dài khoảng 60km và chiều rộng trong khoảng từ 10-12km tính từ mỗi bờ
sông. Khu vực quan tâm, gọi là khu vực nghiên cứu, bao trọn phần sông Sài Gòn,
khoảng 30km sông Thị Tính và phần lớn các rạch ngang, là các dòng chảy bề mặt
có thể vận chuyển Mn, Fe trong đất b
ị xói mòn tới khu vực trạm bơm Hòa Phú (nhà
máy nước Tân Hiệp). Diện tích khu vực nghiên cúu là khoảng 900km
2
. Trong khu
vực này sẽ bố trí các điểm lấy mẫu đất để đánh giá mức độ xói mòn, bồi tích.
Trong khu vực này, địa hình có đặc điểm chủ yếu là bằng thoải hoặc lượn sóng,
cao ở các khu vực thuộc huyện Thanh Tuyền, Bến Cát (Bình Dương); Trảng Bàng
(Tây Ninh), Củ Chi (Tp.HCM), với độ cao khoảng từ 10 đến 30 mét và thoải dần về
phía Tp.HCM và các sông Sài Gòn và sông Thị Tính.
14
Trong khu vực cần quan tâm thấy hiện diện 3 loại đất là đất xám, đất nâu vàng
trên phù sa cổ và đất phù sa. Do đặc điểm địa hình còn có thể có loại đất bồi tích.
Về cây trồng, khu vực này canh tác các loại cây công nghiệp (cao su, điều) như tại
huyện Dầu Tiếng, Thanh Tuyền; cây ăn trái (mít, mãng cầu ), cây lương thực (lúa,
ngô, khoai mì…) như tại huyện Trảng Bàng (Tây Ninh), các triền phù sa dọc sông
Sài Gòn, sông Thị Tính. Ngoài ra, do qui hoạch phát triển đô thị, mộ
t số vùng trước
đây trồng lúa thì nay bỏ hoang như các khu vực ven thị xã Thủ Dầu Một, một số
khu vực thuộc các huyện Hóc Môn, Củ Chi. Theo cách đánh giá của Viện Khoa
học-Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam, do đây là vùng chủ động được các nguồn
nước tưới (nước ngầm, nước mặt), thổ nhưỡng thích hợp nên có thể trồng lúa, hoa
màu (đến 3 vụ/năm), cây công nghiệp và cây ăn trái và độ che phủ th
ực vật có thể
đạt tới 70%. Tại các khu vực trồng cây công nghiệp và cây ăn trái, mặt đất ít được
che phủ bởi cỏ nên khả năng bị xói mòn có thể cao.
Dọc sông Sài Gòn, đoạn từ ngã tư Sở Sao lên Dầu Tiếng có nhiều nhà máy, xí
nghiệp được xây dựng. Dọc sông Thị Tính cũng có nhiều nhà máy, xí nghiệp xây
dựng gần sông. Đáng lưu ý là dọc sông Thị Tính có một số cơ sở luyện sắ
t, thép.
Việc khảo sát thực địa còn cho thấy, trong khu vực cần quan tâm, đất bề mặt đều
bị xáo trộn do các hoạt động xây dựng hay canh tác do vậy rất khó tìm được vị trí
mà tại đó đất không bị xáo trộn, xói mòn để làm vị trí tham chiếu xác định mật độ
Cs-137 rơi lắng (giá trị tham chiếu) cho việc tính toán lượng xói mòn/ bồi tích.
Trong nghiên cứu này, một mặt chúng tôi vẫn lấy một số mẫu đất theo độ
sâu để lập
profile hàm lượng Cs-137 nhằm khẳng định có thể dùng kỹ thuật Cs-137 trong các
nghiên cứu xói mòn đất ở khu vực này hay không và xác định độ sâu lấy mẫu cần
thiết. Và để xác định giá trị Cs-137 tham chiếu tại từng vị trí lấy mẫu chúng tôi sử
dụng mô hình phân bố mật độ tồn lưu Cs-137 trên lãnh thổ Việt Nam thu được
trong các nghiên cứu trước đây.
Trên cơ sở điều tra thực địa khu v
ực cần quan tâm; Căn cứ trên mục tiêu nghiên
cứu giai đoạn đầu; Thời gian và Kinh phí của phần nghiên cứu này, khoảng 20 điểm
lấy mẫu đất để đánh giá xói mòn đã được chọn theo các tiêu chí:
- Các điểm lấy mẫu đất được bố trí theo mạng lưới với kích thước ô lưới
khoảng 5km. Hai tuyến lấy mẫu chính là 2 tuyến dọc theo hai bờ sông Sài
15
Gòn từ sau hồ Dầu Tiếng về tới Phú Cường (cách họng lấy nước của nhà
máy nước Tân Hiệp, về phía thương lưu, khoảng 7km). Còn có các tuyến
phụ với khoảng cách so với hai tuyến chính từ 5-7km.
- Vị trí lấy mẫu phải nằm trong khu vực mà ở đó đất bề mặt không bị các biến
động, xáo trộn lớn do các hoạt động xây dựng (đào, đắp…), trồng trọt, canh
tác.
- Gần các sông, kênh rạch nhằm đảm bảo khả năng đất bị xói mòn đến được
các dòng chảy này là cao nhất. Các dòng mặt này đều chảy ra các sông Sài
Gòn, Thị Tính.
Để đánh giá sơ bộ sự thay đổi hàm lượng của Fe và Mn trong nước sông Sài
Gòn và đánh giá đóng góp (có thể có) từ sông Thị Tính vào hàm lương Fe, Mn tại
khu vực họng lấy nước của nhà máy nước Tân Hiệp, phần nghiên cứu này cũng lập
kế hoạch lấ
y một số mẫu nước tại sông Sài Gòn, sông Thị Tính từ thượng lưu xuống
hạ lưu. Tuy nhiên, đây chỉ là các khảo sát sơ bộ, mẫu đơn mà thôi và chỉ phục vụ
cho phần nghiên cứu này. Nghiên cứu dự tính lấy khoảng 10 mẫu nước trên cả sông
Sài Gòn và sông Thị Tính. Các mẫu nước lấy trên sông Sài Gòn sẽ được lấy trên
dòng từ sau hồ Dầu Tiếng tới cầu Phú Cường (khu vực thị xã Thủ D
ầu Một). Trên
sông Thị Tính các mẫu nước được lấy từ thị trấn Bến Cát tới khu vực cầu Ông Cộ
(ngay trước khi sông Thị Tính đổ vào sông Sài Gòn). Vị trí các điểm lấy các mẫu
nước sông cũng được trình bày trong bản đồ mạng lưới lấy mẫu. Các mẫu nước lấy
trên sông Sài Gòn có ký hiệu là SG; các mẫu nước sông Thị Tính có ký hiệu là TT.
4.3. Lấy các loại mẫu và phân tích:
4.3.1. Lấy mẫ
u đất đánh giá xói mòn, bồi tích:
Tại từng vị trí đã chọn, mẫu đất dùng để đánh giá xói mòn/bồi tích được lấy
bằng dụng cụ lấy mẫu đất với phần lấy mẫu là ống inox có đường kính trong là
48mm. Thời gian lấy các mẫu đất là từ cuối tháng 4 tới giữa tháng 5/2008.
Ống lấy mẫu được đóng vuông góc với mặt đất xuống độ sâu cần thiết (30cm)
để l
ấy nguyên cột đất trong ống. Số cột đất cần lấy phụ thuộc vào lượng mẫu cần
thiết để phân tích Cs-137. Trong phần nghiên cứu này chúng tôi lấy từ 2 đến 3 ống
mẫu để đạt khối lượng đất tối thiểu khoảng 1,0 kg. Đất mẫu sau đó được loại bỏ các
16
rễ cây, sấy khô, cân và ghi lại trọng lượng để tính toán tỷ trọng. Tổng cộng, 22 mẫu
đất đã được lấy cho phần công việc này. Các mẫu được ký hiệu từ SM1 đến SM22.
Vị trí các điểm lấy mẫu đất được thể hiện trên Hình 2.
Tiếp theo, để phân tích hàm lượng Cs-137, đất mẫu cần phải được loại bỏ đá lẫn
trong đất (do đá không chứa Cs-137), nghiền nhỏ tớ
i cỡ hạt theo yêu cầu, sấy và cân
lại rồi đưa vào đo hoạt độ trên thiết bị phân tích tại phòng thí nghiệm phổ gamma
phông thấp của Viện nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt.
4.3.2. Lấy mẫu phù sa sông Sài Gòn:
Chúng tôi dự định lấy một mẫu phù sa trong nước sông Sài Gòn bằng cách lắng
đọng để phân tích hàm lượng Cs-137, Mn và Fe. Tuy nhiên, do mật độ phù sa
không cao và thời gian cần thiết quá dài nên thay vì lấy mẫu phù sa chúng tôi lấy
phần huyền phù l
ơ lửng gần sát đáy sông bằng bơm, sau đó lắng đọng, sấy khô, xử
lý và phân tích các chỉ tiêu nêu trên. Hai mẫu loại này đã được lấy: một mẫu ở ngay
tại vị trí họng lấy nước của nhà máy nước Tân Hiệp; mẫu kia lấy tại vị trí cầu Phú
Cường để so sánh. Đồng thời mẫu bùn lắng thải ra khu vực chứa thải của nhà máy
Tân Hiệp trong quá trình xử lý nước thô cũng đượ
c lấy và phân tích hàm lượng Mn
và Fe. Vị trí các điểm lấy mẫu huyền phù sát đáy sông được vẽ trên Hình 2.
4.3.3. Lấy mẫu đất theo độ sâu:
Để thiết lập profile hàm lượng Cs-137, tại vị trí đã chọn lấy các mẫu đất trên
diện tích 1,0 m
2
với bề dày mỗi lớp khoảng 2,0 cm để đủ lượng mẫu cần thiết cho
phân tích (khoảng 1,0kg). Đất mẫu cũng được xử lý tương tự các mẫu phân tích Cs-
137 như đã trình bày ở trên và cũng được phân tích trong cùng phòng thí nghiệm.
Tổng cộng đã lấy 14 mẫu đất từ bề mặt tới độ sâu 30 cm. Các mẫu profile này được
lấy tại vị trí lấy mẫu SM7.
4.3.4. Lấy mẫu đấ
t phân tích hàm lượng Mn, Fe tổng số:
Do Mn, Fe trong đất bị xói mòn ra sông chủ yếu là Mn, Fe trong lớp đất trên bề
mặt nên ngay tại các vị trí đã lấy mẫu đất để đo Cs-137 trên, các mẫu đất lấy tới độ
sâu khoảng 10cm được lấy để phân tích hàm lượng Mn và Fe trong đất. Hàm lượng
các kim loại này sẽ được dùng để tính toán hàm lượng Mn, Fe có trong nước sông
Sài Gòn do hiện tượng xói mòn với giả thiết rằng đất bị xói mòn sẽ tới sông Sài
17
Gòn và toàn bộ lượng Mn, Fe trong đất sẽ bị hòa tan trong nước sông. Từ đó có thể
đánh giá phần đóng góp gây ô nhiễm nước sông bởi Mn, Fe do đất bị xói mòn trong
lưu vực.
Hình 2: Vị trí các điểm lấy mẫu đất, mẫu nước và huyền phù
18
4.3.5. Lấy các mẫu nước sông:
Nước sông được lấy mẫu trong khoảng thời gian từ cuối tháng 4/2008 tới
7/5/2008, là khoảng thời gian bắt đầu có những trận mưa đầu mùa.
Các mẫu nước sông đều lấy trên dòng theo phương pháp trộn lẫn. Hoặc dùng
thuyền ra giữa dòng, hoặc lấy cách bờ ít nhất 4,0 mét, dùng bơm nhúng chìm đưa
xuống gần sát đáy sông và bơm. Trong quá trình lấy mẫu, bơm được kéo dần từ
đáy
lên tới mặt sông. Nước được hứng vào trong xô nhựa, khuấy đều rồi được chứa
trong chai nhựa PE loại 500ml, axít hóa ngay bằng axít nitric đậm đặc, đóng kín và
đưa về phòng thí nghiệm để phân tích hàm lượng Mn và Fe tổng số.
Tổng cộng đã lấy 10 mẫu nước sông trong đó có 8 mẫu lấy trên sông Sài Gòn,
ký hiệu từ SG1 đến SG8; và 2 mẫu trên sông Thị Tính ký hiệu là TT1 và TT2. Vị trí
lấy các mẫu nước sông như trên Hình 2.
Các mẫu đất và nướ
c đều được phân tích hàm lượng Mn, Fe tổng số bằng
phương pháp quang phổ hấp thụ nguyên tử tại phòng thí nghiệm phân tích hóa của
Trung tâm Chất lượng nước và Môi trường, Viện Qui hoạch thủy lợi miền Nam.
4.4. Xử lý, tính toán các số liệu thu được và nhận xét:
4.4.1. Hàm lượng Mn và Fe tổng số trong đất bề mặt ở khu vực quan tâm:
Kết quả phân tích hàm lượng các kim loại Mn và Fe trong lớp đất mặt trên khu
vực nghiên cứu, trong huyền phù sát đáy sông và trong bùn lắng tại bể chứa thải của
NM nước Tân Hiệp (25 mẫu) được tổng hợp trong Bảng 1 (phần Phụ lục).
Các kết quả phân tích này cho thấy:
- Trong đất bề mặt (22 mẫu), hàm lượng Mn và Fe thay đổi tùy từng v
ị trí lấy
mẫu (Hình 3, phần Phụ lục). Hàm lượng Mn thay đổi trong khoảng từ 4,5 tới
43,0 mg/kg với giá trị trung bình là 18,0 mg/kg. Hàm lượng Fe tổng số thay
đổi trong khoảng từ 3,0 tới 74,0 g/kg với giá trị trung bình là 15,5 g/kg. Đồ
thị quan hệ hàm lượng Mn và hàm lượng Fe tổng số trong đất bề mặt (Hình
4) cho thấy không có mối liên hệ nào giữa hàm lượng hai chất này.
19
0
10
20
30
40
50
0 1020304050607080
Fe tổng số (g/kg)
Mn (mg/kg)
Hình 4: Quan hệ giữa hàm lượng Mn và Fe tổng số trong đất bề mặt
- Hàm lượng Mn trong huyền phù lơ lửng sát đáy sông tại vị trí họng lấy nước
(110,0 mg/kg), tại cầu Phú Cường (84,0 mg/kg) và trong bùn lắng thải ra
trong quá trình xử lý nước thô của nhà máy Tân Hiệp (380,0 mg/kg) là rất
cao so với hàm lượng chất này trong đất bề mặt trên khu vực cần quan tâm.
Điều này cho thấy, lượng Mn trong đất bề mặt có thể có đóng góp vào hàm
l
ượng chất này trong huyền phù lơ lửng sát đáy sông nhưng vẫn còn có một
nguồn khác có vai trò lớn hơn đóng góp Mn trong loại vật chất này. Hàm
lượng Mn rất cao trong bùn lắng thải của nhà máy nước là do tích tụ của Mn
được xử lý loại ra khỏi nước thô và phù sa trong nước thô .
4.4.2. Hàm lượng Mn và Fe trong nước sông Sài Gòn và sông Thị Tính:
Kết quả phân tích 10 mẫu nước lấy tại sông Sài Gòn (8 mẫu) và sông Thị Tính
(2 mẫu) được liệt kê trong Bảng 2 và Hình 5 (phần Phụ
lục). Các kết quả cho thấy:
- Dọc theo sông Sài Gòn, nhìn chung, hàm lượng Mn có xu hướng tăng dần từ
thượng lưu xuống hạ lưu (Hình 6). Hàm lượng kim loại này thấp nhất (0,07
mg/l) trong nước sông lấy ở ngay sau hồ Dầu Tiếng (SG1) và cao nhất trong
nước sông lấy ở vị trí họng lấy nước của NM nước Tân Hiệp (SG7) và tại
cầu Phú Cường (SG8) với hàm lượng Mn là 0,23 mg/l. Tuy nhiên, tại thời
điểm lấy m
ẫu, cuối tháng 4 và tuần đầu tháng 5, hàm lượng Mn trong nước
20
sông chưa nơi nào vượt tiêu chuẩn cho phép đối với nước cấp sinh hoạt
(0,5mg/l) theo Tiêu chuẩn TCVN 5502-2003, Việt Nam.
- Hàm lượng Mn trong nước sông Thị Tính (0,35 và 0,31mg/l) đều cao hơn
hẳn so với hàm lượng Mn trong sông Sài Gòn.
- Đoạn sông Sài Gòn sau chỗ sông Thị Tính đổ vào có hàm lượng Mn cao hơn
so với đoạn sông từ hồ Dầu Tiếng về tới ngã ba sông Sài Gòn-Thị Tính. Điều
này cho thấy sông Thị Tính tải một lượng đáng kể Mn vào sông Sài Gòn và
làm t
ăng hàm lượng kim loại này trong nước sông Sài Gòn.
- Nồng độ Fe trong nước các sông đều đã vượt tiêu chuẩn TCVN 5502-2003.
- Sự thay đổi hàm lượng Fe trên sông Sài Gòn không có qui luật. Hàm lượng
Fe cao nhất quan sát thấy tại điểm lấy mẫu SG4 và giảm dần theo cả phía lên
thượng lưu và xuống hạ lưu (Hình 7). Tại vị trí này cần khảo sát thêm xem
có thể có nguồn giàu Fe vào sông hay không. Các mẫu SG7 và SG8 có hàm
lượng Fe thấp so với hàm lượng trung bình, không biến đổi như đố
i với Mn
(tăng cao khi tiếp nhận nước từ sông Thị Tính). Điều này cũng cần phải khảo
sát kỹ thêm (mẫu, thời điểm lấy).
- Hàm lượng Fe trung bình trong nước sông Thị Tính cao hơn hẳn so với hàm
lượng trung bình của kim loại này trong nước sông Sài Gòn.
0.00
0.05
0.10
0.15
0.20
0.25
SG1 SG2 SG3 SG4 SG5 SG6 SG7 SG8
Mẫu
Mn (mg/l)
Hình 6: Hàm lượng Mn trong nước sông SG (từ thượng lưu về hạ lưu)
21
0.0
1.0
2.0
3.0
SG1 SG2 SG3 SG4 SG5 SG6 SG7 SG8
Mẫu
Fe (m g/l)
Hình 7: Hàm lượng Fe trong nước sông Sài Gòn (từ thượng lưu về hạ lưu)
4.4.3. Hàm lượng Cs-137 trong đất bề mặt:
Kết quả phân tích hàm lượng Cs-137 trong các mẫu đất lấy theo độ sâu tại vị trí
SM7 (15 mẫu) được liệt kê trong Bảng 3 ở phần Phụ lục. Sự thay đổi hàm lượng
Cs-137 theo độ sâu được thể hiện trên Hình 8.
0
0.5
1
1.5
2
2.5
0 5 10 15 20 25 30 35
Độ sâu (cm)
Hoạt độ (Bq/kg)
Hình 8: Hàm lượng Cs-137 theo chiều sâu tại vị trí SM7
22
Đồ thị trên cho thấy hàm lượng Cs-137 đạt cực đại trong lớp đất ở độ sâu từ 5-
9cm, sau đó giảm dần. Từ độ sâu 19,0cm trở xuống đất không có Cs-137. Điều đó
cho thấy rằng:
- Tại khu vực quan tâm của nghiên cứu này vẫn phát hiện thấy sự hiện diện
của Cs-137 trong các lớp đất bề mặt.
- Vị trí đỉnh Cs-137 năm 1963 là ở độ sâu từ 5-10cm d
ưới bề mặt mặt đất. Như
vậy có thể áp dụng được kỹ thuật Cs-137 để nghiên cứu xói mòn, tích tụ đất
tại khu vực quan tâm.
- Đồng thời, độ sâu lấy mẫu phải đạt tối thiểu là 0,2 mét.
4.4.4. Đánh giá xói mòn đất bề mặt trong khu vực quan tâm:
Kết quả phân tích tổng hàm lượng Cs-137 của 22 mẫu đất bề mặt được liệt kê
trong Bảng 4, phần Phụ lụ
c. Bản đồ biểu diễn hoạt độ Cs-137 tại từng điểm lấy mẫu
được thành lập ở Hình 9 (phần Phụ lục). Hai mươi hai mẫu này đại diện cho phần
lưu vực có diện tích 900km
2
(60km x 15km), do vậy, mỗi điểm lấy mẫu được coi là
đại diện cho phần diện tích gần 41km
2
.
Để đánh giá lượng xói mòn cần phải xác định mật độ tồn lưu Cs-137 trong đất
bề mặt (tổng hoạt độ Cs-137 trên một đơn vị diện tích, Bq/m
2
); tính toán giá trị
tham chiếu về mật độ tồn lưu tại từng điểm lấy mẫu; xác định sai lệch của mật độ
tồn lưu so với giá trị tham chiếu tại từng điểm, đánh giá chiều hướng phân bố lại đất
bề mặt đang diễn ra quanh điểm lấy mẫu (xói mòn hay tích tụ); tính tốc độ xói mòn
hay tích tụ. Từ đó ước l
ượng tốc độ xói mòn trung bình trong khu vực khảo sát.
a) Xác định mật độ tồn lưu (MĐTL) Cs-137 tại từng vị trí lấy mẫu:
Từ kết quả phân tích tổng hoạt độ (hàm lượng) Cs-137 của mẫu (Bq/kg) và cách
lấy mẫu đo tổng hoạt độ (như đã trình bày ở trên), mật độ tồn lưu tại vị trí lấy mẫu
DD
p
được tính theo công thức:
DD
p
(Bq/m
2
) = (A * m) / S (2)
trong đó: A là tổng hoạt độ (Bq/kg); m là khối lượng mẫu đo tổng hoạt độ (kg); S là
diện tích lấy mẫu (m
2
).
Kết quả tính mật độ tồn lưu tại các điểm lấy mẫu được liệt kê trong Bảng 4.
23
b) Tính toán giá trị MĐTL tham chiếu cho từng vị trí lấy mẫu:
Như đã trình bày ở phần trước, do không thể tìm được vị trí lấy mẫu tham chiếu nên
chúng tôi phải tính toán giá trị MĐTL tham chiếu cho từng điểm lấy mẫu theo công
thức (1) có hiệu chỉnh phân rã phóng xạ trong khoảng thời gian từ thời điểm thiết
lập công thức (1), năm 2000, và thời điểm lấy mẫu củ
a nghiên cứu này, năm 2008.
Công thức tính MĐTL tham chiếu là:
D = Exp [3,64 + (0,094 * B) + (0,54 * AR)] x Exp [-(λ/T
1/2
) x (2008 - 2000)] (3)
Trong đó: - B là vĩ độ điểm lấy mẫu (
o
N),
- AR là lượng mưa trung bình năm (m),
- λ là hằng số phân rã phóng xạ, và
- T
1/2
là chu kỳ bán hủy của Cs-137.
Để xác định lượng mưa trung bình năm, chúng tôi sử dụng số liệu đo mưa tại
các trạm khí tượng thủy văn có trên hoặc gần khu vực nghiên cứu. Có thể coi cả khu
vực cần quan tâm trong nghiên cứu này có chung một lượng mưa trung bình năm và
giá trị này được tính trung bình từ các số liệu quan trắc của các trạm khí tượng thủy
văn đó. Nhưng để chính xác hơn, chúng tôi ước l
ượng lượng mưa trung bình năm
cho từng điểm lấy mẫu. Để làm việc này chúng tôi sử dụng số liệu quan trắc lượng
mưa trong 10 năm của ba trạm khí tượng thủy văn: Tân Sơn Hòa (Tp.HCM), Tây
Ninh (tỉnh Tây Ninh) và Phước Long (Bình Phước) gần khu vực lấy mẫu đất nhất.
Lượng mưa trung bình năm tại từng điểm lấy mẫu được ước lượng dựa trên các
đường contour ngoạ
i suy từ lượng mưa trung bình năm của 3 trạm này theo nguyên
tắc, điểm lấy mẫu gần trạm khí tượng nào thì lấy lượng mưa ngoại suy từ trạm đó.
Lương mưa ước lượng tại từng điểm lấy mẫu được liệt kê trong Bảng 4.
Sau khi có được lượng mưa trung bình năm sẽ tính được MĐTL tham chiếu tại
từng điểm lấy mẫu. K
ết quả tính toán được liệt kê trong Bảng 4.
c) Tính toán độ sai lệch MĐTL tại từng điểm lấy mẫu so với giá trị tham chiếu:
Từ các kết quả tính trong các bước trên đây, tiến hành tính toán độ sai lệch của
MĐTL so với MĐTL tham chiếu tại từng điểm lấy mẫu. Công thức tính độ sai lệch
này là:
X = [(DD
p
– D)/D] * 100 (4)