Lời tựa…
Thời gian và không gian trong báo chí là thời gian và không gian của
hiện thực xã hội được phản ánh. Lịch sử báo chí, vì thế chính là tấm gương
của lịch sử. Bởi chưng, báo chí là thư kí trung thành của thời đại, phản ánh
mối quan hệ giữa báo chí và các ngành khoa học khác trong đời sống xã
hội.
Lịch sử báo chí Việt Nam, từ khi tờ báo Tiếng Việt đầu tiên của nước
ta xuất bản – tờ “Gia Định báo”, kể cũng đã gần một thế kỉ rưỡi trôi qua.
Đó là thời gian đủ dài để báo chí Việt Nam nếm trải những thăng trầm,
được mất, vinh quang và khổ đau, hào quang và bóng tối…
Ở cái mảnh đất nghìn năm đào sâu chôn chặt hai chữ “Thánh hiền”
của Khổng Mạnh này, báo chí thực sự là một vũ khí mới mẻ và đầy mê hoặc.
Sau súng đại bác và lưỡi lê, báo chí chính là tín hiệu đầu tiên cho thấy sự
“khai quật” một xứ thuộc địa giàu có của Pháp quốc đã bắt đầu. Mạnh mẽ
hơn thuốc súng và những đội quân viễn chinh, báo chí thâm nhập vào xứ An
Nam với mưu đồ tiến hành một cuộc xâm lăng khác về văn hóa, đạp đổ địa
vị thống trị độc tôn của Nho học nhiều thế kỉ qua. Nhưng người Việt vốn
linh hoạt. Cái người cho là vũ khí để chế ngự ta, ta lại lấy làm thế mạnh của
mình. Sĩ phu yêu nước cấp tiến và những người trí thức tân thời hồi ấy hẳn
đã áp dụng bài học kinh nghiệm của 1000 năm Bắc thuộc Trung Hoa để làm
phá sản mưu đồ áp chế người Nam bằng báo chí. Từ chỗ căm ghét báo chí,
coi đó là sự xúc phạm đến những đứa con danh chính của “cửa Khổng sân
Trình”, họ bắt đầu tập viết báo và làm báo, dùng báo như dùng binh, coi
như cách giữ lấy phòng tuyến tư tưởng của dân tộc không bị ngoại bang
đồng hóa. Những tờ báo đầu tiên của nước Nam cứ nối nhau ra đời. Tuy có
lúc thịnh, lúc suy, lúc vinh, lúc nhục, có tờ ấn bản vài năm, có tờ chỉ vài số
1
nhưng tất cả đã làm nên một diện mạo không thể nhầm lẫn của một thời
người nước ta bắt đầu bước lên vũ đài “Đệ tứ quyền”, của “cái thuở ban
đầu lưu luyến ấy”…
Nội trong vài mươi năm đầu thế kỉ 20, hàng chục cây bút đã khai
hương, phát lộc khiến cho cục diện báo chí nước ta hồi trước 1945 thực
không khác gì thời “Bách gia chư tử” (trăm nhà đua tiếng) hồi Xuân Thu –
Chiến Quốc ở bên Tàu. Những cái tên, vài mươi, thậm chí vài trăm năm sau,
hẳn là vẫn còn phải nhắc: Trương Vĩnh Kí, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh,
Đào Nguyên Phổ, Hoàng Tích Chu, Tản Đà, Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch
Lam, Hoàng Đạo, Thế Lữ, Tú Mỡ, Tản Đà, Phạm Duy Tốn, Dương Bá Trạc,
Phan Kế Bính, Ngô Tất Tố, Phùng Tất Đắc, Vũ Bằng, Tam Lang… Đại thể
là như vậy. Những năm cuối thế kỉ 19 và ba mươi năm đầu thế kỉ 20 chứng
kiến sự bột khởi của báo chí nước Nam ta. Đó là thời kì một người cầm bút
thực sự phải được đánh giá ở lãnh địa báo chí. Nhà văn viết báo, sĩ phu yêu
nước cũng viết báo, ở những thành phủ lớn như: Hà Nội, Gia Định… tòa
soạn mọc lên không khác gì chồi non sau cơn đại hạn hứng được mưa rào.
Cũng phải nói thêm rằng, ở thời điểm này, việc lập ra một tòa soạn báo là
khá dễ dàng. Vài người ham thích nghiệp cầm bút quy tụ nhau lại, thuê lấy
một căn gác, một tầng lầu, hoặc khá hơn là hẳn một căn nhà lấy làm trụ sở,
xin thêm vài thứ giấy tờ hành chính cho phép xuất bản của Pháp nữa, thế là
thành tòa soạn. Dần dà chim khôn tìm đất tốt, người khôn tìm chốn lạc
nghiệp, tòa soạn đông dần và cứ thế khuếch trương thanh thế. Chỉ cần
không “đá Pháp”, “chửi Pháp”, không chống lại chính phủ Bảo hộ, thì tờ
báo được sống khỏe, có khi còn được nâng đỡ. Tờ nào nhăm nhe ý định
“phản nghịch”, hoặc bêu xấu quá thể, hoặc thẳng thắn quá chừng tức là tự
chọn cho mình con đường đình bản. Rồi dù có may mắn sống lại cũng lay
lắt, quặt quẹo và sớm yểu mệnh. Đó là cái lẽ tất nhiên của nghiệp báo xứ
2
Nam hồi thuộc Pháp. Báo chí tự do ra đời, nhà nước làm báo, tư nhân cũng
làm báo nhưng e là ít tờ nào có được một phân, một lạng tự do trong ngòi
bút!
Đó là lạm bàn về chuyện cũ! Giờ này, cổ nhân, cố sự một thời đều đã
khuất bóng dĩ vãng. Chính hợp với lúc những kẻ hậu sinh có được độ lùi của
thời gian mà coi xét điểm mạnh, thế yếu, cái hay, điều dở của quá khứ, cũng
là rút lấy đạo lí cho ngày nay. Báo chí Tiếng Việt ta, từ khi có cụ Trương
Vĩnh Kí ở Gia Định khai sáng ra, đã trải qua nhiều thăng trầm lịch sử. Bàn
về cả một nền báo chí ấy với lớp dày trầm tích lịch sử là điều không thể
trong một tiểu luận nhỏ. Trí lực thực là có hạn, thời gian cũng không được
thảnh thơi, nên chỉ xin bàn về một giai đoạn ngắn, một không gian hẹp
trong cả tổng thể lịch sử báo chí đồ sộ. Tiểu luận này viết ra không ngoài
mục đích nghiên cứu những nét sơ yếu nhất về những tờ báo tiếng Việt của
thành Hà Nội những thập kỉ đầu thế kỉ 20 đến trước 1945. Đây là thời kì
nguyên thủy của báo chí Việt Nam nói chung và báo chí Hà Nội nói riêng
nhưng mang một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Mang trong mình những đặc
thù của thời đại “một đi không trở lại”, báo chí thời kì này là những hương
vị đầu tiên của một nền văn hóa quốc ngữ mới đơm hương, kết sắc. Thực là
không thể làm người ta lẫn lộn. Sức hấp dẫn mê hoặc ấy đã thôi thúc người
viết tiến hành “công trình bé” này, cũng là góp một tiếng nói ngưỡng vọng
về những hồi quang của một thời đã qua.
Một nhà văn đã nói: “Chìa khóa nhỏ có thể mở được chiếc hòm lớn”.
Nay ngẫm ra thì việc người viết đang làm cũng giống như chuyện ấy vậy!
Lê Minh Phương (Hà Nội, 8/12/2009)
3
Chương 1: Những tờ báo đầu tiên của thành Hà Nội
Ngày 14/5/1865, có lẽ khi cho xuất bản tờ “Gia Định báo”, Trương
Vĩnh Kí cũng không ngờ rằng từ đây ông đã chính thức được chép vào cuốn
biên niên sử báo chí với tư cách là ông tổ khai sinh nền báo chí quốc ngữ
Việt nam. Phải sau khoảng thời gian ấy non nửa thế kỉ, Hà Nội mới có được
tờ báo đầu tiên bằng chữ quốc ngữ. Kể ra, hành trình của chữ quốc ngữ từ
Nam ra Bắc còn chậm chạp và vất vả hơn nhiều những bước chân của đoàn
quân viễn chinh nước Đại Pháp. Tuy không phải là nơi khai sinh ra báo chí
quốc ngữ nhưng với vị trí là quốc đô của nước Việt Nam phong kiến trong
hàng ngàn năm, Hà Nội đã nhanh chóng phát triển thành một trung tâm báo
chí lớn và quan trọng sánh ngang với Gia Định – Sài Gòn trong Nam.
Buổi đầu, báo chí ở Hà Nội (cũng như báo chí thời kì đầu ở miền
Nam) viết bằng tiếng Pháp và cho người Pháp đọc. Khi công cuộc bình định
đã dần ổn định hơn, Pháp cho phép những người bản địa xuất bản tờ báo của
mình bằng tiếng Hán, song ngữ Hán – Việt, rồi hoàn toàn bằng chữ quốc
ngữ. Tờ báo chữ Hán đầu tiên là “Đại Nam đồng văn nhật báo” (chủ nhiệm
là Schneider) ra mắt năm 1893 có tính chất công báo. Năm 1905 lại có tờ
“Đại Việt quan báo” in song ngữ Hán – Việt (do Babut làm chủ nhiệm), là
cơ quan ngôn luận của nhà nước bảo hộ Bắc Kì. Những bước đệm đáng kể
đó dường như đã kích thích nghiệp làm báo ở Hà Nội có dịp khởi phát. Chỉ
sau đây ít năm nữa thôi, diện mạo báo chí ở Hà Nội sẽ thực sự thay da đổi
thịt, văn nhân, anh kiệt bốn phương sẽ lại có dịp trảy về đất cựu đô để thi thố
tài năng giữa một thời “trăm nhà đua tiếng”.
4
1. Tờ báo đầu tiên của Bắc Kì – “Đăng cổ tùng báo”
Ngày 8/3/1907, “Đăng cổ tùng báo” ra số đầu tiên đánh dấu việc lần
đầu tiên xứ Bắc Kì và Hà Nội xuất bản một tờ báo có in chữ quốc ngữ. Sự ra
đời của “Đăng cổ tùng báo” là sự tiếp nối
của báo “Đại Nam đồng văn nhật báo” từ
những năm cuối thế kỉ 19. Tuy vậy điểm
khác biệt của “Đăng cổ tùng báo” là có
thêm phần chữ quốc ngữ (thay vì chỉ toàn
chữ Hán như ở tờ tiền thân) và gắn chặt
với sự ra đời, phát triển của phong trào
“Đông kinh nghĩa thục” – một phong trào
cổ súy duy tân của những nhà nho học
đầu thế kỉ 20.
Trong lịch sử báo chí quốc ngữ
Việt Nam, “Đăng Cổ tùng báo” được coi là tờ báo đầu tiên ở xứ Bắc Kì.
Người sáng lập ra tờ báo là Schneider (cũng là chủ nhiệm của tờ “Đại nam
đồng văn nhật báo” cũ), chủ nhiệm là Nguyễn Văn Vĩnh. Từ “đăng cổ”
trong tên báo dịch ra nghĩa Nôm có nghĩa là “đánh trống”, ý muốn chỉ sự cổ
vũ cho những tư tưởng duy tân. Báo này với sự tham gia của Nguyễn Văn
Vĩnh, Đào Nguyên Phổ, đã bỏ tính chất công báo và chuyển sang làm báo
chí nghị luận: có các tin tức, chuyên luận, phóng sự, tiểu phẩm và thơ ca
bằng chữ quốc ngữ. Nội dung báo hô hào mở mang công thương, bỏ chế độ
khoa cử, bỏ hủ tục, phản ánh những biến chuyển kinh tế, xã hội nước ta và
lợi ích của tư sản bản xứ. Chính vì những cách tân quá mạnh mẽ và tư tưởng
5
ngầm ủng hộ “Đông kinh nghĩa thục”, đi ngược lại lợi ích của nhà cầm
quyền nên chỉ sau 8 tháng hoạt động, tờ báo đã bị đóng cửa. Tuy tồn tại
trong một thời gian không lâu, nhưng “Đăng cổ tùng báo” chính là đột phá
khẩu đầu tiên của báo chí quốc ngữ Việt Nam, đánh dấu bước tiến dài về
nghiệp vụ.
Dưới đây là một bài viết của báo số ra ngày 26/9/1907, mô tả về
quang cảnh Tết Trung thu của trẻ con ở Hà Nội:
Trung thu
Bài này là của học trò tràng Đông - kinh - nghĩa - thục, năm nay
mới có 14 tuổi, tập làm văn quốc - ngữ theo lối Pháp. Bài làm cốt để cho
trẻ con đọc với nhau. Bản báo xin phép các quý khách đăng vào để
những ông nào vẫn nói rằng chỉ Pháp - văn mới làm được sách cho trẻ
đọc, xem xem giá thử cứ tập làm mãi lối này, rồi nước Nam mình có văn
được không:
Giăng sáng quắc. Phố xá ngộn những người. Đây: dình tùng sèng;
đó: dình tùng sèng; đầu phố một đám rước, quối phố một đám rước.
Nào rồng, nào sư - tử; nào cá, nào thiềm - thử, kéo đàn kéo lũ, như đi
tắm sáng giăng tròn.
Chỗ nọ lập trống quân; chỗ kia chăng trống quít. Hàng Đường,
hàng Ngang, nhà nào nhà nấy đua nhau bày cỗ. Khéo gớm! khéo ghê!
kìa đu đủ gọt ra hoa sói hoa nhài, nọ đùi gà bày thành Tiều - phu, Lã -
vọng. Đèn chạy quân, đèn sẻ - rãnh: Trương - phi cưỡi ngựa đi vạch
thẳng; vua Thuấn cày voi chạy chữ công. Cái chạy hỏa - lò, cái chạy cát;
cái ghép lá nứa, cái vặn bằng tay. Hơi lửa mới biết dùng quay tán giấy.
6
Bánh dẻo, bánh nướng, đủ các lối bột đường; trái dừa trái bưởi,
thiếu chi loài hoa quả?
Giai giai, gái gái, mặt mũi hởn hơ; trán cỗ nhà lại đi ghé cỗ người.
Nhà ta khéo, nhà nó vụng; nhà ta nhiều bánh, nhà nó ít sôi.
Ngoài đường thì hai bên hè lốc nhốc những trẻ hồ khoan. Anh này
thỏ cốc lếu, chị kia cá tí - hon. Lũ lũ lượt lượt, bắt cái hồ khoan! Hết: mẹ
bán than, đến: mẹ bán củi. Bắt cái hồ khoan!
Vui! cha chả là vui! giai vui, gái vui, nhớn vui, bé vui; trẻ vui chưa
lo nghĩ, già vui nhớ thiếu niên.
Duy chỉ có thằng Cõn là không vui
Chớ thằng Cõn là con nhà ai? nó bao nhiêu tuổi?
Thằng Cõn là con mụ ăn mày, năm nay nó mới lên sáu tuổi.
Nhà nó ở đâu? Nay ở tam quan nọ! mai ở cửa đình kia. Đất làm
giường, manh chiếu rách làm chăn, áo không có, quần không có, chỉ có
mụn tã để tối quàng vai cho đỡ lạnh. Cơm không có, bánh không có,
họa chăng thỉnh - thoảng ai cho miếng cháy khô nhá đỡ đói lòng. Ngày
ngày con rắt mẹ lòa đi kêu từng cửa, mười cửa họa may được một đồng
tiền. Mọi khi còn dễ, nhà nào còn thừa xương xẩu còn nhớ đem cho.
Mấy hôm nay, đâu đâu cũng bận. Nhà dọn bàn độc, nhà bầy đồ chơi. Và
tiếng trống tiếng cười, lấp mất tiếng kêu thằng ốm đói. Tay cầm gậy rắt
mẹ, miệng lậy van ông bà, mắt thỉnh thoảng ghé qua lũ đồng niên,
đương lôi voi rắt ngựa. Nước mắt ứa hai hàng, miệng nuốt nước rãi.
7
Các anh em ơi, lúc ta bày đình bày chùa, có ai nghĩ đến phận
thằng Cõn không?
(Nguyễn Văn Xuân)
*Lời bàn: Qua bài báo này, có thể thấy, vào thời kì đầu, “Đăng cổ
tùng báo” nói riêng và cả nền báo quốc văn nước Nam ta còn chịu ảnh
hưởng khá rõ của lối văn biền ngẫu của Tàu. Một câu cứ phải phân làm đôi
vế, đôi ý, đối chọi chan chát với nhau. Đã “chỗ nọ” thì phải có “chỗ kia”, đã
có “giai” thì ắt là có “gái”… Tuy lối hành văn nhiều chỗ còn khá máy móc
và ngây thơ nhưng câu chữ thì đã sát với bạch thoại (tả thực) hơn và đã bớt
đi được rất nhiều ước lệ, điển cố (những thứ vẫn được các nhà nho xưa tôn
sùng khi viết văn, làm thơ). Đặc biệt những chi tiết giàu hình ảnh là một thế
mạnh mà những bài báo thời này khai thác được từ chữ quốc ngữ. Đó là nền
tảng rất vững chắc để sau này báo chí thuần quốc ngữ có cơ hội khuếch
trương thanh thế và khẳng định địa vị.
2. “Đông Dương tạp chí” – tuần báo quốc ngữ đầu tiên của Hà thành
Sau khi tờ “Đăng cổ tùng báo” đóng cửa, báo chí quốc ngữ miền Bắc
trải qua một thời dài lận đận. Hầu như không có một tờ báo đúng nghĩa nào
ra đời thêm. “Đại Việt quan báo” (sau đổi tên thành “Đại Việt tân báo” rồi
“Đại Việt công báo”) là tờ báo tồn tại duy nhất ở thời điểm đó, nhưng đáng
tiếc là tính cách của nó không vượt qua nổi giới hạn của một tờ công báo,
8
hầu như không có ý nghĩa nhiều với sự phát triển báo chí thời kì này. Tính
chung trong thời điểm sau khi “Đăng cổ tùng báo” bị đình bản đến năm
1913, cả nước chỉ có đúng hai tờ báo có tính nghị luận ở Sài Gòn là “Nông
cổ mín đàm” của ông Lương Khắc Ninh và “Lục tỉnh tân văn” do
Schneider sáng lập.
Sang đến năm 1913, người Pháp nhận ra yêu cầu phải có một tờ báo
thực sự tuyên truyền cho mục đích chính trị của họ ở xứ Bắc nên cho thành
lập tờ “Đông Dương tạp chí” tại Hà Nội (Schneider sáng lập, chủ bút
Nguyễn Văn Vĩnh). Đây là tờ báo xuất bản hàng tuần vào thứ 5. Số đầu tiên
ra ngày 15/5/1913. Lúc mới ra đời, tờ báo được coi như một phụ bản của
“Lục tỉnh tân văn” trong Nam song thực tế đã phát triển ngoài dự định, trở
thành tờ báo thuần quốc ngữ đầu tiên của Bắc Kì và ảnh hưởng vượt xa hơn
cả tờ báo chính của nó. “Đông Dương tạp chí” trở thành nơi quy tụ được
những ngôi sao sáng giá nhất trong làng văn, làng báo Bắc Kì bấy giờ như:
Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Tản Đà, Phan Kế Bính, Trần Trọng Kim,
Phạm Duy Tốn, Nguyễn Văn Tố… Cả bốn văn nhân bậc nhất được thiên hạ
thời bấy giờ :Vĩnh, Quỳnh, Tố, Tốn đều hội đủ ở đây, đủ biết “Đông Dương
tạp chí” có được tiềm lực mạnh cỡ nào.
Thời gian đầu, “Đông Dương tạp chí” phục vụ mục đích chính trị
chủ yếu là tuyên truyền chính sách cai trị của Pháp, khuyến khích Pháp –
Việt đề huề, cùng hợp tác, không bạo động chống Pháp. Trong 2 năm đầu
tiên, tờ báo chủ yếu đăng những tin tức, bài bình luận chính trị xuyên tạc sự
thật, có lợi cho người Pháp. Về sau, tờ báo có khuynh hướng dần trung lập,
chỉ tập trung vào học thuật, văn chương, lịch sử, dịch thuật… Lần đầu tiên
vào năm 1913, người Việt Nam được tiếp cận với những tác phẩm xuất sắc
của Pháp như thơ ngụ ngôn của Lafontaine, hài kịch của Molière và tiểu
9
thuyết của Balzac qua bản dịch của Tân Nam Tử Nguyễn Văn Vĩnh. Bản
dịch bài thơ ngụ ngôn “Con kiến và con ve sầu” (Lafontaine) của Nguyễn
Văn Vĩnh đăng trên báo năm 1913 về sau đã được đông đảo bạn đọc nhiều
thế hệ yêu thích và nằm lòng. Sách giáo khoa Văn học của Việt Nam sau này
cũng dẫn bản dịch ấy để dạy trong chương trình.
Năm 1916, chính phủ bảo hộ cho đình bản tờ “Đông Dương tạp chí”
vì nhận thấy những ảnh hưởng lớn lao của nó đến dân chúng thuộc địa đã đi
quá xa so với mục đích của một tờ phụ bản. Sau khi giải thể, “Đông Dương
tạp chí” đổi tên thành “Học báo” chỉ chuyên nghiên cứu về sư phạm.
Trong 4 năm tồn tại của mình,
“Đông Dương tạp chí” quả thực đã
truyền một hơi thở mới mẻ cho nền báo
chí quốc văn Bắc Kì. Đó là tờ báo hoàn
toàn bằng chữ quốc ngữ đầu tiên, cũng là
tờ báo hiếm hoi hội được đủ mặt anh tài
trong làng báo xứ Bắc bấy giờ. Đây là lời
nhận xét của nhà văn Vũ Ngọc Phan về
“Đông Dương tạp chí” trong cuốn sách
“Nhà văn hiện đại” tập 1:
“Người Tây có thể lấy trong đó,
những tinh hoa của nền cổ học Trung Hoa mà nước ta đã chịu ảnh
hưởng lâu đời; người Hán học cũng có thể lấy trong đó những tư tưởng
mà người Việt ta cần phải biết rõ mà thâu thái. Những bài bình luận,
những bài tham khảo về Đông phương và về Tây phương đăng liên tiếp
trong “Đông Dương tạp chí”, ngày nay giở đến, người ta vẫn còn thấy là
10
những bài có thể dựng thành một bộ sách biên tập rất vững vàng và có
thể giúp ích cho nền văn học Việt Nam hiện đại và tương lai”.
Dưới đây là bản dịch bài thơ “Con kiến và con ve sầu” của Nguyễn
Văn Vĩnh:
Ve sầu kêu ve ve
Suốt mùa hè
Đến kì gió Bấc thổi
Nguồn cơn thật bối rối
Một miếng cũng chẳng còn
Ruồi bọ không một con
Vác miệng chịu khúm núm
Sang chị Kiến hàng xóm
Xin cùng chị cho vay
Dăm ba hạt qua ngày
11
“Từ nay sang tháng hạ
Em lại xin đem trả
Trước thu thề Đất Trời!
Xin đủ cả vốn lời”
Tính kiến ghét vay cậy
Thói ấy chẳng hề chi
“Nắng ráo chú làm gì?
Kiến hỏi Ve như vậy”
“Luôn đêm ngày
Tôi hát, thiệt gì bác”
Kiến rằng:
“Xưa chú hát! Nay thử múa coi đây”
*Lời bàn: Bài thơ dịch gần như chuyển thể được toàn bộ cái hồn
của câu chuyện mà vẫn gần gũi với người Việt Nam ta. Những từ ngữ đã
quá quen thuộc với sinh hoạt của người Việt: “ve ve”, “gió Bấc thổi”, “bối
rối”, “Vác miệng”, “khúm núm”, “hàng xóm”, “dăm ba hạt”, “thề Đất Trời”,
12
“tôi”, “bác”… Bài thơ ngụ ngôn của Lafontaine đậm đặc trí tuệ dân gian
Pháp, qua bản dịch Nguyễn Văn Vĩnh, lại đậm đà bản sắc nước Nam. Thực
là đáng để người ta yêu mến vậy!
3. “Trung Bắc tân văn” – nhật báo đầu tiên của Hà Nội
Năm 1915, Schneider lập ra tờ
“Trung Bắc tân văn”. Nguyễn Văn
Vĩnh được vời làm chủ bút tờ báo này.
Khi đó, tờ “Đông Dương tạp chí” chỉ
chuyên đi sâu vào những bài đại luận,
văn chương, sư phạm, còn những bài tạp
luận và thời sự nóng hổi thì được
chuyển hết sang cho “Trung Bắc tân
văn”. Ban đầu báo ra mỗi tuần một lần,
sau tăng dần lên 3 kì một tuần. Đến năm
1919, sau khi “Đông Dương tạp chí”
đổi tên thành “Học báo”, (mà trên thực
tế là chấm dứt hoạt động) Nguyễn Văn Vĩnh đã mua lại tờ “Trung Bắc tân
văn” và nhà in cho xuất bản hàng ngày. Đó chính là tờ nhật báo đầu tiên của
xứ Bắc Kì và thành Hà Nội. Nội dung báo khá đa dạng, gồm nhiều mục với
nhiều lĩnh vực như: Ngôn luận tự do, Văn học, Câu chuyện lịch sử, Tin
trong nước và thế giới, Bình luận, Thời sự… Báo còn có phụ trương vào
Chủ nhật. Tờ báo tồn tại khá lâu, tận đến 16/9/1945 mới đình bản.
13
Tòa báo là nơi làm việc của khá nhiều kí giả tài danh đất Bắc bấy giờ.
Thư kí tòa soạn có Vũ Bằng, trợ bút thường có Doãn Kế Thiện, Nguyễn Đỗ
Mục, Hoàng Tăng Bí, Dương Bá Trạc, Dương Mầu Ngọc, Lê Văn Trương,
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu… Trong cuốn sách “Bốn mươi năm nói láo”,
Vũ Bằng có tả một số chi tiết như thế này về những kí giả của tòa soạn
“Trung Bắc tân văn”: “Và tôi bắt đầu sống trong một thế giới mới, vì tất cả
các cụ chủ bút, trợ bút (trừ Dương Mầu Ngọc) đều mặc quần áo Việt, khăn
đóng áo dài, đi giày Đức Mậu, răng đen, có cụ còn búi tóc củ hành to bằng
cái nấm rơm. Nổi bật nhất và tiên tiến nhất là ông Nguyễn Văn Vĩnh, lúc nào
cũng đội cái “casque Calonial” (mũ cát trắng) ở trên đầu không chịu bỏ ra,
kể cả những khi viết bài, tiếp khách. Tôi chưa từng thấy ai nói to, cười to
như thế. Bất cứ chuyện làm ăn hay đùa rỡn, ông cứ nói bô bô lên, gặp ai
cũng cười, nói một câu chuyện hay bắt tay. Tôi làm Trung Bắc được chừng
hơn một tháng, ông không biết tôi là ai hết. Ông chào tôi rồi niềm nở, bắt tay
và hỏi tôi trong khóa họp tuần trước, nghị viện có gì mới lạ không. Thì ra
ông tưởng tôi là nghị sĩ đến thăm nhà báo!”.
Trong khoảng 30 năm tồn tại, “Trung Bắc tân văn” luôn được đánh
giá là tờ nhật báo lớn nhất, hấp dẫn nhất xứ Bắc Kì. Cũng có lẽ vì danh tiếng
của Nguyễn Văn Vĩnh quá lớn nên tờ báo cũng có được sức sống dẻo dai
đến vậy, nhất là qua mấy cuộc biến thiên lịch sử: Nhật nhảy vào Đông
Dương, Nhật hất cẳng Pháp rồi Việt Minh đánh đổ Nhật. Sau khi “Đông
Dương tạp chí” giải thể, trong một thời gian dài, “Trung Bắc tân văn” đã
trở thành đất dụng võ của không ít kí giả tài danh đất Bắc Hà bấy giờ.
14
4. “Nam Phong tạp chí” – bách khoa thư của làng báo Bắc Kì
Chỉ một năm sau khi “Đông
Dương tạp chí” buộc phải thay tên đổi
họ thành “Học báo” và gần như chấm
dứt hoạt động mảng báo chí nghị luận,
có một tạp chí khác không kém danh
tiếng đã ra đời – tạp chí “Nam Phong”.
Ngày 13/7/1917, chánh mật thám
Đông Dương Louis Marty đứng tên
sáng lập và xuất bản số đầu “Nam
Phong tạp chí” (chữ “Nam Phong” dịch
ra tiếng Nôm có nghĩa là “Ngọn gió
Nam”) do Phạm Quỳnh làm chủ bút.
Báo in bằng hai ngữ Việt và Hán. Phần
chữ Việt quốc ngữ do Phạm Quỳnh đảm nhiệm, phần chữ Hán do Nguyễn
Bá Trác phụ trách. Từ năm 1922, tờ báo có thêm phần chữ Pháp. Nam
Phong tự nhận là một tờ báo chính trị – xã hội và văn học – khoa học.
“Nam Phong tạp chí” ra đời nhằm hai mục đích chính. Thứ nhất là
dùng chữ quốc ngữ để diễn tả, giải thích các tư tưởng, học thuật Âu - Á và
mang những kiến thức này đến cho người không biết tiếng Pháp hoặc chữ
Nho. Thứ hai là nâng cao trình độ chữ quốc ngữ thành một nền ngôn ngữ so
sánh được với tiếng Pháp và chữ Nho. Để thực hiện cho được tôn chỉ ấy,
nhóm trợ bút, biên tập của tạp chí đã tiến hành nhiều hoạt động như: Khảo
cứu và viết bài về triết học, khoa học, văn chương, lịch sử của Á Đông và
15
Âu Tây, đăng những sáng tác đương đại: truyện ngắn, du ký, tùy bút…, dịch
các tác phẩm triết học, văn học từ tiếng Pháp hoặc chữ Nho, sưu tầm và
đăng tải thơ văn cổ của Việt Nam, kể cả chữ Nho và tiếng Nôm, in lại các
sách cũ của Việt Nam, như bộ “Lịch triều hiến chương loại chí”
“Nam Phong tạp chí” có các mục Văn uyển, Tiểu thuyết, Văn học
bình luận, cung cấp cho độc giả một số kiến thức khái quát về văn học, triết
học, lịch sử, địa lí. Tạp chí bước đầu giới thiệu văn học cổ Việt Nam bằng
chữ Hán qua các triều đại và dịch ra quốc văn một số tác phẩm văn học có
giá trị như thơ văn thời Lý-Trần, “Vũ trung tùy bút” (Phạm Đình Hổ),
“Thượng Kinh kí sự” (Lê Hữu Trác) cùng nhiều tác phẩm thơ văn cổ khác…
Ảnh hưởng của “Nam Phong tạp chí” thực sự sánh ngang với tờ “Đông
Dương tạp chí” của Nguyễn Văn Vĩnh ngày trước. Tờ báo đã thu hút không
ít cây bút viết văn quốc ngữ có tiếng ở xứ Bắc ngày đó như Phạm Duy Tốn,
Nguyễn Bá Học, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Trọng Thuật, Trần Trọng Kim,
Tản Đà, Dương Quảng Hàm… Về chuyên môn, “Nam Phong tạp chí” đi
đầu trong việc sáp nhập vào tiếng Việt nhiều danh từ triết học, khoa học
mới, và luyện cho chữ quốc ngữ có thể dịch được các lý thuyết, các ý tưởng
về triết học, khoa học mới.
Phạm Quỳnh nổi tiếng với câu nói: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn.
Tiếng ta còn thì nước ta còn”. Đó cũng là tinh thần chủ đạo của “Nam
Phong tạp chí” trong suốt thời gian tồn tại của mình – khuếch trương, cổ vũ
cho một nền văn hóa mang bản sắc riêng biệt của Việt Nam.
“Nam Phong tạp chí” ban đầu ra đời theo mưu đồ tuyên truyền chính
sách cai trị của người Pháp ở Việt Nam nhưng theo thời gian, tờ tạp chí đã
phát triển mạnh mẽ để trở thành một trong những tạp chí đầu tiên của Việt
Nam được trình bày bài bản, đúng thể thức và giá trị về tri thức, tư tưởng.
16
Sau khi “Đông Dương tạp chí” kết thúc sứ mệnh lịch sử của mình, “Nam
Phong tạp chí” đã đóng vai trò như là người kế tục sự nghiệp truyền bá quốc
ngữ văn vào Việt Nam.
Cuối năm 1932, chủ bút Phạm Quỳnh vào Huế làm quan dưới triều
Bảo Đại hoàng đế được bổ làm Thượng thư Bộ Học rồi Thượng thư bộ Lại.
Thời gian này, “Nam Phong tạp chí” đã không còn duy trì được phong độ
sung mãn như những năm đầu tiên. Từ khi Phạm Quỳnh đeo đuổi sự nghiệp
chính trị, tờ Nam Phong chìm dần và cuối cùng đình bản vào tháng 12/1934,
cả thảy được hơn 17 năm và 210 số.
Phạm Quỳnh sinh giữa buổi văn hóa Đông – Tây giao thoa nhau mãnh
liệt. Con người nào rồi sống trong thời đại ấy cũng khó tránh khỏi những
bốc đồng và khiếm khuyết. Nay nhìn lại những lời mà ông từng viết cách
đây hơn 70 năm trước, hình như, Thượng Chi tiên sinh đã lờ mờ đoán ra
được số vận của kiếp đời mình rồi đây sẽ chứa nhiều uẩn khúc. Đây là bức
thư Phạm Quỳnh gửi cho Chánh mật thám Đông Dương Marty ngày
30/12/1933:
"Về phần riêng tôi, như thế là số mệnh đã an bài. Tôi là người của
chuyển tiếp, vì vậy, sẽ không bao giờ được người đời hiểu mình. Chuyển
tiếp giữa Á Đông và Tây Âu, giữa quá khứ và tương lai, giữa một trạng
thái chính trị sản phẩm của xâm lăng và đương nhiên là phải hư hỏng
ngay từ nền tảng, và một nền trật tự mới không thể nhất đán mà thành
tựu, khả dĩ biết tôn trọng phẩm cách của con người. Sống giữa đầy rẫy
những mâu thuẫn như thế, cố gắng dung hòa các mâu thuẫn đó, với
hoài bão thực hiện một chương trình tiến hóa hợp tình hợp lý khả dĩ
đưa đến tình trạng hòa hợp toàn diện; dĩ nhiên là tôi phải đương đầu với
những ngộ nhận đủ loại…
17
Và một cuộc phiêu lưu đưa đến với tôi.
Là một nhà ái quốc An Nam, tôi yêu nước với tất cả tâm hồn:
người ta lên án tôi phản bội Tổ quốc, vì tôi đồng lõa với xâm lăng và
phục vụ xâm lăng!
Mặt khác, là bạn chân thành của nước Pháp: người ta lại trách tôi
khéo léo che đậy một ý thức quốc gia khe khắt và bài Pháp sau một tấm
bình phong thân Pháp !
Và trường hợp của tôi làm ai nấy ngạc nhiên. Người ta cố tìm hiểu
giải thích, bằng đủ mọi cách, mà vẫn không thể hiểu.
Có lẽ, một ngày kia, người ta sẽ hiểu, khi một thỏa hiệp được chào
đời có thể hòa giải tinh thần quốc gia An Nam và chính sách thuộc địa
Pháp.
Tôi tin sự hòa giải có thể thực hiện được. Nhưng trong khi sự hòa
giải đó chưa được thực hiện, cuộc phiêu lưu của tôi không tránh khỏi trở
nên bi đát?
Có lẽ chăng, đó chẳng phải là cuộc phiêu lưu của riêng tôi. Nó vượt
ra ngoài khuôn khổ của một cá nhân, để trở nên của cả một thế hệ, một
thời đại".
18
5. “An Nam tạp chí” – tạp chí chuyên về văn học đầu tiên của Việt Nam
Cho đến trước “An Nam tạp chí”, nước ta chưa có được một tạp chí
văn học đúng nghĩa. Tờ “Nam Phong tạp chí” gần như ôm đồm đủ mọi vấn
đề, cho nên phần văn học tuy có được đề cập nhưng cũng rất hạn chế. Phạm
Quỳnh chú trọng tính cách phổ cập khoa học cho tờ báo của mình hơn và có
đề cập đến văn học thì cũng chỉ chuyên về dịch văn học cổ nước Nam sang
chữ quốc ngữ.
Nhận thấy sự cần thiết phải có một
tờ tạp chí riêng cho giới văn nhân trong
nước, năm 1926, Tản Đà Nguyễn Khắc
Hiếu đã lập ra tờ “An Nam tạp chí” với
mục đích cổ vũ cho văn chương tiến bộ
và phong trào yêu nước thời bấy giờ. Tờ
báo in khổ 22cm x 30 cm, mỗi số gồm 8
trang thường đăng những bài kí, thơ,
truyện ngắn khá sắc sảo. Ngoài văn học,
báo còn đưa cả tin về thể thao, vẽ tranh
biếm họa và có những bài xã luận dạng
tạp văn bàn về vấn đề thế giới và Việt
Nam… Tòa soạn của báo có hai cây bút lừng danh thời bấy giở là Tản Đà
làm chủ báo và Ngô Tất Tố làm thư kí tòa soạn. Tờ báo chính là tâm huyết
suốt một đời của Tản Đà. Duyên nợ của ông với tờ “An Nam tạp chí” được
người đời sau cho là truyền kì. Tờ tạp chí của ông ba lần đổ, lại ba lần dựng
được. Đến nay đó vẫn là chuyện hiếm có trong làng báo.
19
“An Nam tạp chí” ra đời tháng 7/1926 nhưng không lâu sau đó, vào
tháng 3/1927, tờ báo bị đình bản khi mới ra được 10 số. Đây là lần đình bản
thứ nhất. Sang đến năm 1929, Tản Đà tái bản tạp chí theo thỏa thuận với một
chủ nợ (tái bản tờ báo để lấy tiền trả nợ). Trên bìa “An Nam tạp chí” bấy giờ
ghi tên Tản Đà là “chủ sự” còn người chủ nợ được ghi là “chủ nhân”. Có
nghĩa là tờ báo bây giờ chỉ còn thuộc về Tản Đà trên khía cạnh học thuật, bài
vở, còn về tài chính hẳn là không thể tự chủ được! Lần tái bản này cũng
không được lâu, tạp chí chỉ ra được 2 số thì đình bản. Đến tháng 4/1931, một
lần nữa, “An Nam tạp chí” lại “tái xuất giang hồ”. Hoạt động trở lại được
gần 2 năm, đến 1/3/1933, tờ báo tiếp tục bị cho đình bản vì lí do tài chính và
lần này vĩnh viễn không thể gượng dậy được nữa, số phận long đong “bảy
nổi ba chìm” tờ “An Nam tạp chí” đến hồi kết. Tính từ lúc cho ra đời số đầu
tiên đến khi chấm dứt hoạt động hoàn toàn, “An Nam tạp chí” trụ được gần
7 năm, xuất bản được 48 số.
Tản Đà là cây bút chủ lực của "An Nam tạp chí". Cách làm báo của
ông rất đặc biệt. Theo lời kể của những người bạn, ban ngày ông không làm
việc, chỉ uống rượu, nói chuyện hay đọc sách, đến hai - ba giờ đêm ông mới
trở dậy thắp đèn viết cho đến sáng. Trong tờ báo nhiều khi độc giả thấy
những bài viết đang liền mạch, tự nhiên bị bỏ dở trong 1 thời gian dài mới
thấy Tản Đà xuất hiện viết tiếp. Hơn nửa thế kỷ trôi qua, ngoài việc nổi tiếng
với nhiều văn tập, thi tuyển, Tản Đà còn là ngòi bút có sức nặng trong làng
báo. Dưới chế độ kiểm duyệt hà khắc của Pháp, phương tiện ấn loát cũ kĩ, kỹ
thuật trình bày đơn giản, lại không có phóng viên, tài chính nghèo nàn, Tản
Đà vẫn ra được báo, mỗi lần đình bản, lại cố tái bản. Quả thực là
người hết mình vì nghiệp văn, nghiệp báo vậy. Đây là lời nhận xét về Tản
Đà của Nguyễn Tuân: “ Trong chốn Tao Đàn, Tản Đà xứng đáng ngôi
20
chủ suý, trong Hội tài tình, Tản Đà xứng đáng ngôi hội chủ mà làng
văn, làng báo xứ này, ai dám ngồi chung một chiếu với Tản Đà? ”
“An Nam tạp chí” cũng là nơi Tản Đà dốc bầu tâm sự, một tâm sự
thầm kín cao hơn, sâu hơn cả những éo le tình cảm, những nỗi đời cơ cực
mà ông phải gánh chịu. Đó là tâm sự của một người dân mất nước lúc nào
cũng bị dằn vặt về “tấm dư đồ rách” – chính là hình hài tàn tạ, xót thương
của đất nước dưới vết giày ngoại bang. Tấm lòng yêu nước thầm kín của ông
thể hiện qua tấm bản đồ Việt Nam trên trang bìa các số báo, lại được treo
cao ở trước cửa tòa soạn. Mục “Xã hội ba đào kí” (nghĩa Nôm là “Ghi chép
về những sóng gió xã hội”) là chuyên mục đặc sắc nhất của “An Nam tạp
chí”, có tính chiến đấu cao, tố cáo mạnh mẽ sự đàn áp, bóc lột của thực dân,
phong kiến. Chính vì chuyên mục này mà tờ “An Nam tạp chí” cũng như
chính bản thân Tản Đà đã phải chịu không biết bao cơ cực, đày đọa và bị
chính quyền bảo hộ coi như cái đinh trong mắt.
“An Nam tạp chí” tuy hoạt động thất thường, thiếu chuyên nghiệp,
nhưng được đánh giá là một trong những tờ báo đầu tiên có công đóng góp
cho sự phát triển của văn học Việt Nam. Nếu như Tản Đà được Hoài Thanh
coi là người mở đầu của cả một nền thi ca mới thì “An Nam tạp chí” cũng
xứng đáng có được vị trí là tiếng nói đầu tiên báo hiệu buổi bình minh của
nền văn học mới vậy. Dưới đây, để phần nào hiểu được tâm huyết của Tản
Đà với “An Nam tạp chí” xin trích bài thơ “An Nam tạp chí lại ra lần thứ
năm cảm tác” của ông:
“Thần Chung im tiếng phương Nam
Phổ Thông xứ Bắc ai làm tắt hơi?
Duy Tân thôi đã cũ rồi
21
Đông Tây lại cũng đi đời đằng mô!
Khóc ai! riêng cũng mừng cho
An Nam tạp chí cơ đồ còn đây
Mới xưa Hàng Lọng cờ bay
Thứ năm lại có phen này Hàng Bông
Cuộc đời xoay chuyển lung tung
Mà trong báo giới tranh hùng những ai?
"Thức lâu mới biết đêm dài"
Tiền chưa mạnh sức mà tài cũng thua!
Hơn nhau một bức dư đồ
Khí thiêng sông núi hộ phù nước non
Hơn nhau một tấm lòng son
Cho người chung nước chung non chung tình
Đêm thu gió thoảng bên mình
Sạch đem tâm sự bất bình thổi xuôi
Bút hoa chép lại đôi lời
Đưa ai bốn bể là người tình chung
Đi về xin nhớ Hàng Bông”
6. “Đông Tây” của Hoàng Tích Chu và cuộc cách tân văn quốc ngữ
Ngày nay khi nói về “Đông Tây”, không ai là không chịu đây là tờ
báo đi trước thời đại. Những năm 30 của thế kỉ trước, báo chí Việt Nam dần
đi vào tĩnh lặng. “Đông Dương tạp chí” từ sau khi đổi tên thành “Học báo”
đã tự đánh mất đi bản sắc của mình, thời kì hoàng kim của “Nam Phong tạp
22
chí” cũng đã không còn sau khi Phạm Quỳnh có xu hướng tham gia chính trị
hơn là làm báo, “An Nam tạp chí” của Tản Đà thì sống lay lắt và đình bản
lên xuống mấy lần. Giữa buổi tao loạn ấy, tờ “Đông Tây” ra đời như một
luồng gió mới thổi bay những cũ kĩ và ì ạch của làng báo nước Nam ta. Tên
tuổi của tuần báo này ngày càng bay xa và nhanh chóng trở thành tờ báo bán
chạy nhất Bắc Kì hồi ấy. Đặc biệt những cách tân đặc sắc trong trình bày,
cách thông tin và ngôn ngữ đã khiến cho “Đông Tây” trở thành tiêu biểu
cho báo chí phong cách mới, mở đường cho báo chí hiện đại sau này.
Nhắc đến “Đông Tây” mà quên Hoàng Tích Chu, có lẽ, là thiếu sót
rất lớn. Năm 1921, khi mới chưa đầy 24 tuổi, ông được nhận vào làm trong
tòa báo “Nam Phong tạp chí” đang cực nổi bấy giờ ở Bắc Kì. Sau đó ít lâu
lại được vời sang làm chủ bút cho báo “Khai hóa” của Bạch Thái Bưởi. Ông
từng sang Pháp nhiều lần vào các năm 1923 và 1927 để học cách viết báo và
nghe diễn thuyết của báo giới. Năm 1929, ông được vời làm chủ bút báo
“Hà thành ngọ báo” – tờ báo được hai nhà tư bản Bùi Xuân Học và Bùi
Xuân Thành sáng lập. Ở đây, ông có dịp thử nghiệm những kiến thức đã
thâu nạp được ngày ở Pháp và tiến hành cách tân triệt để tờ báo về cả nội
dung lẫn hình thức (như rút gọn tối đa câu chữ, rút ngắn các thể loại xã
thuyết, tiểu thuyết, thời luận, cho đăng bài ngay trang nhất, đặt tít cỡ lớn giật
gân, gây tò mò với người đọc). Tuy nhiên, sau đó số lượng phát hành của
“Hà thành ngọ báo” sụt giảm trông thấy, ông bị chỉ trích là “kẻ học mót, lên
mặt dạy đời”, văn của ông bị lăng mạ là “văn cứt dê” và bị mời ra khỏi tòa
soạn.
Vẫn tiếp tục kiên trì với lí tưởng của mình, ngày 15/11/1929, Hoàng
Tích Chu cùng với Phùng Tất Đắc, Phùng Bảo Thạch và Tạ Đình Bính cho
xuất bản tờ Đông Tây. Tòa soạn tờ báo đặt tại số nhà 12 phố Nhà thờ Hà
23
Nội. Lúc đầu, báo ra hàng tuần, về sau 2 tuần một số. Từ ngày 28/5/1932,
báo ra hàng ngày. “Đông Tây” gồm 4 trang khổ lớn, in tại nhà in Trung -
Bắc của Nguyễn Văn Vĩnh.
Tờ “Đông Tây” sau khi ra đời đã quy tụ nhiều cây bút có tư tưởng
canh tân như Phan Khôi, Phùng Bảo Thạch, Tạ Đình Bính, Phùng Tất Đắc,
Á Nam Trần Tuấn Khải, Tô Ngọc Vân, Vi Huyền Đắc, Thiết Can, Hoàng
Ngọc Phách Hoàng Tích Chu tiếp tục thực hiện những cải cách triệt để từ
thời còn ở “Hà Thành ngọ báo”. Lối văn được củng cố lại, hình thức cũng
được làm hấp dẫn hơn. Về nội dung, tờ báo mang nặng tính chính trị hơn,
như thông cảm với những thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái, với những
lãnh tụ Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính…, phê phán chủ thuyết Quân chủ
lập hiến của Phạm Quỳnh, tố cáo những viên tham quan như Tổng đốc Thái
Bình Vi Văn Định Tờ báo ngay lập tức được công chúng ủng hộ mạnh mẽ.
Chỉ sau vài tháng xuất bản đã phát hành tới 5000 bản và trở thành tờ báo bán
chạy nhất Bắc Kỳ thời đó. Năm 1930, nhờ tiếng tăm nổi như cồn, ông trúng
cử vào Viện Dân biểu Bắc Kỳ.
“Đông Tây” là tờ báo có lối trình bày khác lạ nhất thời bấy giờ. Báo
dùng nhiều ảnh minh họa ở những bài quan trọng. Có những bài thời luận
khoảng 400-500 chữ, xung quanh đặt những mẩu thông tin nhỏ xoay quanh
những khía cạnh liên quan đến nội dung chính. Đó là cách làm mà đến ngay
cả báo chí Việt Nam hiện đại bây giờ cũng ít tờ có được. Nói về những cải
tiến của mình, Hoàng Tích Chu từng viết “Tôi vốn bị cái bả viết văn kéo
dài hàng mười lăm dòng mới hạ được cái chấm dứt câu, hàng hai, ba
cột báo vẫn trọi một ý. Phải có lối viết khác. Cái lối viết phải làm sao
cho gọn, không thừa nhiều lời Tôi định rằng bài nào cũng vậy, chỉ
được chiếm một cột là nhiều lắm”. Hồi làm ở tờ “Đông Tây”, Hoàng Tích
24
Chu lấy bút danh Văn Tôi ý là để phân biệt rạch ròi với người khác, và cũng
hàm ý “văn tôi, tôi chịu”, tự chịu trách nhiệm. Hoàng Tích Chu không chỉ
tinh giản câu chữ đến mức tối đa, ông còn rất khuyến khích phóng viên hạn
chế sử dụng những từ gốc Hán. Các bài viết của ông bao giờ cũng đi thẳng
vào vấn đề, không vòng vo, thuyết lý dài dòng. Ông quan niệm báo chí là
phải đặt nhiệm vụ thông tin lên hàng đầu. Thông tin phải khách quan, trung
thực và nhất thiết phải thời sự nóng hổi cũng như thiết thực với người đọc.
Đó được coi là kim chỉ nam hoạt động
của “Đông Tây”. Tờ báo gồm rất
nhiều trang mục như: Chuyện Đông
Tây, Chuyện đâu, Cuốn phim, Chuyện
lạ đường rừng, Chuyện Hà thành,
Trong tiệm hút, Bút mới… Điều đáng
nói là ông đã cố gắng để mỗi chuyên
mục lại có một giọng điệu riêng, khi
mạnh mẽ, rắn rỏi, khi mềm mỏng, thiết
tha, lúc lại dí dỏm, hài hước khiến
người đọc luôn có tâm trạng hứng
khởi, không bị nhàm chán. Quả thực, lối làm báo, viết báo của Hoàng Tích
Chu là “có một không hai” ở nước ta thời ấy. Tờ “Đông Tây”, đứa con tinh
thần của ông, thực sự là tờ báo đi trước thời đại, vượt qua thời gian và không
gian. Giờ đây, những người sống trong thời đại của máy tính và truyền hình
khi cầm đọc tờ “Đông Tây” hẳn là cũng ngỡ ngàng vậy.
Cuối năm 1932, vì cho đăng tải bài thơ “Cái chày” ám chỉ Tổng đốc
Thái Bình Vi Văn Định dùng chày đánh vào đầu gối phạm nhân mà “Đông
Tây” bị thu hồi giấy phép với tội danh vu khống người nhà nước. Số cuối
cùng của Đông Tây ra ngày 25/7/1932. Tuy chỉ tồn tại trong chưa đầy 3 năm
25