Thiết kế Ánh sáng Sân khấu
PHẦN 1 / 7 – Lời giới thiệu về Ánh sáng Sân khấu
1.01 Niềm vui khi Thiết kế ánh sáng
1.02 Sự phát triển của ánh sáng sân khấu
1.03 Người thiết kế ánh sáng
1.04 Mục tiêu của ánh sáng sân khấu
1.05 Phẩm chất của ánh sáng
1.06 Cường độ & độ sáng
1.07 Dạng thức & phân phối
1.08 Color, Chroma, Hue & Giá trị
1.09 Định hướng & Di chuyển
1.10 Ngôn ngữ của ánh sáng
1.01 - NIỀM VUI KHI THIẾT KẾ ÁNH SÁNG
1.) GIỚI THIỆU:
Một trong những ngành
nghề xứng đáng nhất hiện nay
có thể là nghề thiết kế ánh sáng làm việc trong môi trường nghệ
thuật. Nó cũng có thể là một trong những ngành nghề dễ nản chí
nhất trên hành tinh.
Người thiết kế ánh sáng sẽ không bao giờ ngừng học
hỏi. Mỗi tác phẩm, dự án sẽ đưa ra những thách thức mới,
những trở ngại mới, những động lực của con người mới và các
vấn đề mới phải giải qu
yết. Bạn có thể gặp nhiều thất bại trên
công việc. Đây là một phần của tiến trình nghệ thuật. Các người
thiết kế ánh sáng không nên ngần ngại mà chùn bước khi có
những sai lầm, nên có càng nhiều sai lầm càng tốt, chỉ cần không bao giờ mắc phải sai lầm tương tự đến
lần thứ hai.
Niềm vui tuyệt vời là khi thiết kế ánh sáng cho một tác phẩm đã đáp ứng được các y
êu cầu của các
nhà biên soạn kịch bản và cũng có thể đáp ứng các ý đồ của giám đốc chương trình và các người thiết kế
khác. Tuy nhiên, niềm vui sẽ lớn hơn nhiều khi biết rằng bạn đã thành công trong mục đích và ý đồ của
bạn và bạn sẽ vô cùng xúc động khi "kích động" được toàn bộ khán giả thông qua việc xử dụng bộ điều
khiển và chương trình
ánh sáng của bạn.
Ánh sáng sân khấu không chỉ là vấn đề chiếu sáng đơn giản như hơn 100 năm trước đây. Ngày
nay, người thiết kế ánh sáng dự kiến sẽ là một bậc thầy về nghệ thuật, khoa học, lịch sử, tâm lý học,
truyền thông, chính trị và thậm chí đôi khi còn đọc được tâm hồn.
Người thiết kế sân khấu sẽ học được một cách nhanh chóng rằng mọi thứ không lu
ôn là những gì
họ thấy thể hiện. Một giám đốc yêu cầu cho “nhiều ánh sáng” trên một diễn viên, không có nghĩa là cho tất
cả diễn viên. Thay vào đó, ông ta thực ra chỉ muốn “để xem các diễn viên đẹp hơn”. Người thiết kế có thể
chọn: giảm độ tương phản ánh sáng chung quanh diễn viên này, hay đơn giản hơn là yêu cầu diễn viên
nghiêng mặt của mình lên một chút. Cả hai giải pháp đều giải quyết được vấn đề mà không cần "thêm
nhiều ánh sáng hơn”. Vì vậy, người thiết kế ánh sáng cũng phải là một người biết lắng nghe, người phiên
dịch cẩn thận và là một người có tay nghề cao.
Cuối cùng, người thiết kế ánh sáng phải là một nghệ sĩ! Họ phải hiểu biết phong cách, kết cấu, cân
bằng, thẩm mỹ và cảm xúc
của con người. Họ cũng phải hiểu khoa học của ánh sáng, quang học, tầm
nhìn, nhận thức tâm lý học và công nghệ ánh sáng. Xử dụng những công cụ để thiết kế ánh sáng phải học
cách suy nghĩ, cảm nhận và tạo ra tác phẩm bằng trái tim mình.
Khi thiết kế ánh sáng tốt – chỉ một mình bạn biết.
Khi thiết kế ánh sáng tồi tất cả mọi người sẽ cho bạn biết!
1.02 – SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THIẾT KẾ ÁN
H SÁNG
1.) ÁNH SÁNG SÂN KHẤU TRƯỚC ĐÂY
Thiết kế ánh sáng sân khấu có thể cổ xưa như nhà
hát trang trọng. Người Hy Lạp trước đây đã xây dựng nhà
hát của họ với không gian mở và định hướng chúng quan hệ
với ánh nắng mặt trời, xử dụng ánh sáng tự nhiên để chiếu
sáng sân khấu. Họ trình diễn vở kịch của mình tại những
thời điểm khác nhau tron
g ngày, để tận dụng lợi thế sự khác
nhau của ánh sáng tự nhiên. Loại hình này về bản chất, là
thiết kế ánh sáng đầu tiên. Nhà hát Dionysus (Athens,
khoảng năm 330 trước Công nguyên) và nhà hát Epidaurus
(đã hoàn thành khoảng năm 340 trước Công nguyên) là những thí dụ về các nhà hát công cộng đầu tiên
trên thế giới.
Ánh sáng cho nhà hát được phát triển qua nhiều thế kỷ, xử dụng cả hai nguồn: tự nhiên và sau đó
là các nguồn nhân tạo. Mặt trời, nến, đuốc dầu,
khí đốt, hồ quang điện và ánh sáng vôi? (lime), tất cả đều
có một vị trí trong ánh sáng sân khấu trước kia. Tại Italia thời Phục hưng, nhiều nền tảng của thiết kế ánh
sáng như hiện nay, đã được xây dựng khá vững chắc.
2.) ÁNH SÁNG SÂN KHẤU HIỆN ĐẠI
Thiết kế ánh sáng sân khấu hiện đại bắt đầu tiến triển mạnh với sự phát triển của đèn
đốt tim vào
cuối những năm 1800. Sáng chế này cho phép phát triển thiết bị đèn (fixture) ánh sáng nhỏ, an toàn, di
động, có thể dễ dàng đặt ở bất cứ đâu chung quanh sân khấu, và sau đó được điều khiển bởi một hệ
thống dimmer từ xa. Trước đây trong thời kỳ ánh sáng khí đốt, ánh sáng sân khấu phức tạp đã thực sự tồn
tại. Tuy nhiên, nó được giới hạn bởi công nghệ này có mùi khó chịu, với nhiều vấn đề vốn có của nó.
Trong thời kỳ ánh sáng khí, một số lượng lớn nhà hát đã bị p
há hủy bởi hỏa hoạn.
Trong thời gian đầu những năm 1900, ánh sáng sân khấu tiếp tục phát triển, một số ngành công
nghiệp ánh sáng bắt đầu phát triển song song, vay mượn gốc cơ bản từ các lĩnh vực thiết kế ánh sáng sân
khấu. Các lĩnh vực hiện đại của màn hình, phim ảnh, nhiếp ảnh và thiết kế ánh sáng t
ruyền hình tất cả đã
tiến hóa và phát triển từ những nguồn gốc cơ bản của thiết kế ánh sáng sân khấu ban đầu. Thiết kế ánh
sáng sân khấu hiện nay đã được công nhận như là một sự hợp nhất của hai lĩnh vực: khoa học với nghệ
thuật.
3.) ÁNH SÁNG SÂN KHẤU TRONG TƯƠNG LAI
Tương lai của ánh sáng sân khấu rất là thú vị. Sau khi có các bóng đèn đốt tim, ánh sáng sân khấu
đã được cách mạng hóa trong những năm 1930 bởi sự phát triển của loại đèn phản xạ hình elip (ellipsoidal
reflector) (Leko). Sự phát triển của các dimmer SCR vào năm 1960 tạo ra một sự thay đổi triệt để. Bây giờ
các loại đèn tự động (được giới thiệu lần đầu tiên trong năm 1970) là cuộc cách mạng hóa ngành công
nghiệp ánh sáng một lần nữa. Công nghệ mới gần đây đã sản xuất ra những màu sắc, chưa ba
o giờ nhìn
thấy trong các thiết kế ánh sáng trước đây. Nguồn ánh sáng mới được phát triển bao gồm: Xenon, Metal
Halide, cảm ứng, ánh đèn huỳnh quang và đèn lưu huỳnh. Việc xử dụng sợi quang học mang theo cả hai:
“ánh sáng (light)” và “dữ liệu (data)” và sự phát triển hơn nữa của công nghệ chiếu hình tinh thể lỏng là tất
cả các phần của tương lai thú vị cho
thiết kế ánh sáng giải trí.
Thiết kế phần mềm cho máy tính sẽ tiếp tục phát triển và cuối cùng cho cho người thiết kế đầy đủ
nghệ thuật điều khiển "tương tác" qua công nghệ "trực quan (visual)". Phần mềm ánh sáng hiện nay cung
cấp sự hỗ trợ với thiết kế, bản vẽ và giấy tờ. Thiết kế phần mềm trong tương lai sẽ xử dụng cả hai loại:
màn hình cảm ứng và công nghệ “nhận dạng tiến
g nói”. Có thể điều khiển tinh thần của hệ thống ánh sáng
được xa tới đâu?
"Vở kịch có vẻ như dài vô tận.
Đừng nhớ một điều nhỏ nào giống như các diễn viên đang thách thức
Điều duy nhất tôi lo lắng là về mặt trời.
Chúng ta sẽ đúng hoàn toàn nếu ánh sáng không có gì sai ".
(It Bids Pretty Fair - Steeple Bush - 1947)
1.03 – NGƯỜI THIẾT KẾ ÁNH SÁNG
1.) VIỆC LÀM, SỰ NGHIỆP, CUỘC SỐNG
Người thiết kế ánh sáng sân khấu truyền thống
chịu trách nhiệm cho việc thiết kế và giám sát tất cả các
khía cạnh của ánh sáng cho một chương trình sân khấu
điển hình. Trong giữa năm 1900 người thiết kế ánh sáng
ở Anh và Mỹ phát triển và tinh chế các phương pháp
thiết kế ánh sáng hiện đại cho sân khấu, múa và opera.
Đó là chỉ sau khi sự phát triển của b
óng đèn đốt tim mà
những người tiên phong đầu tiên đã có thể thành lập
các điểm cơ bản và tiêu chuẩn mới trong thiết kế. Cho
dù làm việc trong một nhà hát cộng đồng nhỏ hay trong một hội trường opera lớn, người thiết kế ánh sáng
là (hay nên là) một thành viên quan trọng và được tôn trọng của bất kỳ chương trình hiện đại nào. Thiết kế
này, phối hợp với Giám đốc và các người thiết kế khác (th
iết lập và trang phục) để bảo đảm rằng chương
trình là đúng và phù hợp với ánh sáng trong tất cả các khía cạnh, từ khi thành lập đến khi hoàn thành.
Người sản xuất chương trình và quản lý nhà hát đã thực hiện điều này nhiều năm trước đây, họ có
thể chi tiêu “hàng triệu” đô la, cho cảnh trí, trang phục, và diễn viên nhưng tất cả đều lãng phí nếu ánh
sáng “xấu”. Nhiều chương trình thương mại hiện tại có nhu
cầu rất cao về các yêu cầu ánh sáng cho nó và
về mặt này, người thiết kế ánh sáng đã trở thành một thành viên quan trọng và không thể tách rời của
ngành công nghiệp nhà hát và giải trí. Thiết kế ánh sáng thường được thiết kế ở giai đoạn cuối cùng ở nhà
hát, và tất cả mọi người hoàn toàn hy vọng anh (chị) ta thực hiện được các ma thuật, phép lạ và làm cho
bộ trang phục và diễn viên "nhìn tuyệt vời'.
Nhiều cá nh
ân, trong những năm 1700 và 1800, đã đóng góp cho sự phát triển nghệ thuật và khoa
học về thiết kế ánh sáng sân khấu. Không phải cho đến đầu những năm 1950 mới có, tuy nhiên cho đến
khi vai trò của người thiết kế ánh sáng chắc chắn là một nghệ sĩ cuối cùng đã được thừa nhận. Cho đến
thời điểm này, ánh sáng chủ yếu là một cái gì đó để được các kỹ thuật viên chăm chút. Ngày nay, hàng
ngàn người thiết kế ánh sáng làm việc trên thế giới trong nhiều ngành công nghiệp giải trí khác nhau.
Thiết kế ánh sáng ngày nay thường có khuynh hướng chuyên môn hóa trong từng loại cụ thể của
chương trình giải trí, mỗi yêu cầu hơi khác nhau trong phương pháp làm việc và kỹ thuật. Chuyên ngành
có thể bao gồm chiếu sáng cho Nhà hát, Dance, Opera, Truyền hình, Công viên, cho show trượt băng,
cuộc thi ngoài trời, truyền hình thương mại v
à các chương trình công nghiệp hay doanh nghiệp.
Một số thiết kế ánh sáng sân khấu cũng có thể chuyên môn hóa trong chuyên ngành. Thí dụ, hiện
nay khó tìm một người thiết kế ánh sáng “dance” mà có thể làm việc tốt trong lĩnh vực múa hiện đại, hay
nhiều người thiết kế ánh sáng chỉ hoạt động chuyên biệt trong lĩnh vực nhạc "Rock”.
Bất kể dùng phương pháp rèn luyện ánh sáng nào, tất cả các người thiết kế ánh sáng phải có một
sự hiểu biết đầy đủ về c
ác công cụ của họ và cả hai khía cạnh: vật lý và tâm lý của ánh sáng. Điểm cơ bản
chính của tầm nhìn, ánh sáng và thiết kế, áp dụng cho bất kỳ phương pháp rèn luyện thiết kế ánh sáng
nào.
Chỉ có khác biệt thực sự từ một ngành công nghiệp ánh sáng khác là hệ phương pháp
(methodology) và các loại thiết bị liên quan. Thí dụ, người thiết kế màn hình có thể xử dụng đèn Fresnel 3"
-150watt, thiết kế sân khấu nhà hát có thể dùng
Fresnel 8" -2000 watt, và thiết kế truyền hình hay phim ảnh
có thể xử dụng Fresnel 30" -10000 watt. Hơn nữa, người thiết kế ánh sáng phải có kiến thức và kinh
nghiệm với các phương pháp ánh sáng, thiết bị (fixture) và các phần cứng có sẵn để phục vụ ngành công
nghiệp ánh sáng đặc biệt của họ.
Mọi người trong nhà hát đều biết 2 việc làm cho riêng mình và ánh sáng!
1.04 – MỤC TIÊU CỦA ÁNH SÁNG SÂN KHẤU
1) MỤC TIÊU CỦA ÁNH SÁNG SÂN KHẤU
"Ánh sáng sân khấu có
thể được định nghĩa là
việc xử dụng ánh sáng để tạo ra một cảm giác về TẦM
NHÌN, TỰ NHIÊN, BỐ CỤC và TÂM TRẠNG, (hay
KHÔNG KHÍ)". Vì vậy, bắt đầu một chương trong văn bản
năm 1933: "Đề cương của chiếu sáng sân khấu của
Stanley McCandless. Các văn bản ánh sáng toàn diện
nhất, có khuynh hướng thảo luận về các mục tiêu nghệ
thuật, (chức năng) của ánh sáng, trong những điều khoản
này, McCan
dless công nhận rằng đây là những phẩm
chất "chồng chéo" và một trong những cái hiện ra không tồn tại độc lập với những cái khác.
2.) TẦM NHÌN (VISIBILITY)
TẦM NHÌN là thường được coi là chức năng cơ bản nhất của ánh sáng sân khấu. Những gì chúng
ta không nhìn thấy, chúng ta hiếm khi hiểu rõ được nó. Tầm nhìn bị phụ thuộc vào nhiều hơn so với cường
độ của ánh sáng. Các yếu tố khác như, tương p
hản, màu sắc, kích thước và dịch chuyển tất cả có thể ảnh
hưởng đến tầm nhìn. Khoảng cách, độ tuổi và tình trạng của mắt cũng đóng vai trò quan trọng trong tầm
nhìn. "Tầm nhìn tốt về bản chất là lựa chọn mục đích của nó là để tiết lộ những điều có chọn lọc trong các
điều khoản của độ sắc sảo." - (S. McCandless, 1933).
3) TỰ NHIÊN (NATURALISM) và THÚC ĐẨY (
MOVATION)
TỰ NHIÊN tạo ra một cảm giác về THỜI GIAN và ĐỊA ĐIỂM. Thiết lập sân khấu có thể được đánh
giá cao hay thực tế hoàn toàn trừu tượng, vô lý, hay cách điệu. Nếu thời điểm trong ngày là quan trọng hay
địa điểm là thực tế, sau đó động cơ thúc đẩy thường được cung cấp bởi ánh sáng mặt trời, ánh trăng, ánh
lửa, ánh đèn, hay các nguồn sáng sân khấu tự nhiên khác.
Khái niệm về phong cách bao gồm: tự nhiên, không tự nhiên, thực tế, siêu thực, pointilistic, tương lai, đơn
giản, ấn tượng, expressionistic, expansionistic, trừu tượng, hiện đại, tôn giáo, lãng mạn, Victorian, nguyên
thủy, Gothic, Elizabethan, Georgian, và nhiều, nhiều hơn nữa.
4) BỐ CỤC (COMPOSITION)
BỐ CỤC đề cập đến các khía cạnh hình ảnh tổng thể của sân khấu, chịu ảnh hưởng của ánh sáng.
Bố cục cũng liên hệ với DẠNG THỨC của một đối tượng. Một cảnh (sce
ne) sân khấu có thể tràn lan rộng
rãi nhẹ nhàng, ngay cả ánh sáng, biểu lộ tất cả các đối tượng như nhau, hay nó có thể được chiếu sáng
bởi ánh sáng cao cục bộ chỉ trên các diễn viên - hay bất cứ cái gì nằm ở giữa. Vì vậy, bố cục trong ánh
sáng phải biểu lộ ra diễn viên, các đối tượng và khung cảnh tương ứng với tầm quan trọng của họ, bằng
cách xây dựng một hình ảnh trực qu
an.
Khái niệm bố cục bao gồm: cân bằng, không cân bằng, đối xứng, không đối xứng, đơn giản, phức
tạp, trừu tượng, hình học, phân mảnh, biểu tượng, năng động, tuyến tính, ngẫu nhiên, thô, ngang, dọc,
chéo, và còn nhiều nữa.
5.) TÂM TRẠNG (MOOD) và KHÔNG KHÍ (ATMOSPHERE)
TÂM TRẠNG xem xét các phản ứng tâm lý cơ bản của khán giả. Nếu các yếu tố ánh sáng khác đã
được áp dụng, kết quả cho ra một tâm trạng cụ thể, được tạo ra bởi thiết kế ánh sán
g. Ánh sáng có thể
làm cho một khán giả cảm thấy nhiều cảm xúc khác nhau. Cảm giác hạnh phúc, hài lòng, buồn bã, sợ hãi,
kích thích, (và thường là 'chán'), tất cả đều phụ thuộc vào một số lượng lớn các yếu tố tâm lý và sinh lý.
Điều này cũng đúng đối với khán giả, giải thích tâm trạng tự nhiên hay khí quyển, như nắng, mây, sấm
chớp, mưa, v.v. Các người thiết kế
ánh sáng sân khấu nhanh chóng nhận ra rằng: "Mọi thứ không phải là
những gì nó đang có, mọi thứ là những gì chúng xuất hiện. " (Tác giả).
1.05 – PHẨM CHẤT CỦA ÁNH SÁNG
1.) PHẨM CHẤT CỦA ÁNH SÁNG
Bất kỳ nghiên cứu nào về thiết kế ánh sáng phải
bao gồm một sự hiểu biết toàn diện cả về các tính chất
VẬT CHẤT và TÂM LÝ của ánh sáng.
Kiến thức về hành vi và tính chất của ánh sáng có
thể giúp giải thích về tầm nhìn và n
hận thức của con
người. Các người thiết kế ánh sáng quan tâm đặc biệt
đến các tính chất của ánh sáng ảnh hưởng đến quá trình
mắt / não và gây ra sự nhạy cảm và cảm xúc.
Một sự hiểu biết về các tính chất vật lý của ánh
sáng cũng có thể giúp giải thích về quang học, ống kính,
lý thuyết màu sắc, ánh sáng, thiết bị chiếu và nhiều hơn nữa. Định luật và các ứng dụng của khúc xạ, phản
xạ và hấp thụ đang gặp phải và xử dụng hàng ng
ày bởi người thiết kế ánh sáng sân khấu, và các khái
niệm này phải được hiểu kỹ lưỡng cả về lý thuyết lẫn trong thực tế.
Những phẩm chất cơ bản của ánh sáng là CƯỜNG ĐỘ, DẠNG THỨC, MÀU SẮC, HƯỚNG XẠ và
DỊCH CHUYỂN. Đây là những công cụ thiết kế ánh
sáng.
Hầu như tất cả các hình ảnh trực quan có thể được mô tả, thảo luận và phân tích trong các điều
khoản này - cả về vật chất lẫn tâm lý. Đây là một lớp học thực hành tuyệt vời mà thường bắt đầu với một
phân tích về bức tranh sao chép từ “Old Masters”. Học viên học để thảo luận về những phẩm chất của
ánh sáng, xử dụng các thuật ngữ như cường độ, hướng xạ, độ sáng, màu sắc, dạng thức, và phân phối.
Những thuật ngữ này được dùng để thảo luận về các bức tra
nh chi tiết từ một khu vực nhỏ này sang khu
vực khác. Ngoài ra bức tranh như một toàn bộ thảo luận liên quan đến tác động tổng thể của ánh sáng:
phong cách, tâm trạng, bố cục, hài lòng, cảm xúc và các phẩm chất khác. (Bài tập này đôi khi được gọi là
bài tập "postcard" thường là nguồn gốc của những bức tranh sao chép. Tác giả có khá nhiều trong bộ sưu
tập của mình.)
Những nguời thiết kế ánh sáng có kinh nghiệm cũng thường dựa trên những phẩm chất của ánh
sáng để truyền đạt khái niệm ánh sáng của mình cho người khác. Thí dụ: “Sân khấu rực rỡ tắm mình
trong màu xanh sâu (deep blue). Dần dần, mặt trời màu hổ phách nhẹ nhàng hồng lên trên đường chân
trời, chiếu sáng nhẹ sân khấu trong
một ánh sáng màu vàng nhạt. Ánh sáng có kết cấu lạnh và không dứt
khoát từ từ bắt đầu phát triển và leo lên khắp mọi góc của sân khấu. Ngay sau đó, một sự ấm áp thấp từ
bên phải sân khấu trở nên hiển nhiên, cân bằng (balanced) bằng cách suy giảm và làm lạnh các ánh sáng
chung khác. Khi màn đêm buông xuống, toàn bộ sân khấu phát triển bóng mờ (shadow) và bao phủ với các
đèn chiếu sắc nét. Màu xanh nền mờ nhạt lại xuất hiện như một trục của ánh trăng bạc sắc nét n
gang sân
khấu.”
1.06 – CƯỜNG ĐỘ và ĐỘ SÁNG
1) CƯỜNG ĐỘ và ĐỘ SÁNG (INSTENSITY
and BRIGHTNESS)
CƯỜNG ĐỘ điển hình đề cập đến "sức mạnh"
của một nguồn ánh sáng. Cường độ của một nguồn tồn
tại độc lập với khoảng cách của nó. Cường độ được đo
bằng candela (thuật ngữ cũ là candlepower).
RỌI SÁNG (ILLUMINATION) đề cập đến lượng
ánh sáng ch
iếu trên một bề mặt. Thụât ngữ cũ của từ
illuminace là "illumination". Rọi sáng được đo bằng một
đồng hồ độ sáng (đã điều chỉnh theo đường cong của
mắt người) bằng footcandles hay lux (metric). Mức độ
chiếu (rọi) sáng của ánh sáng sân khấu có thể là 25-200 footcandles hay nhiều hơn. Mắt có một sức mạnh
đáng kinh ngạc về sự thích nghi và có thể thoải mái điều chỉnh mức độ chiếu sáng tr
ong tự nhiên từ 1 đến
10.000 footcandles, hay nhiều hơn.
ĐỘ SÁNG đề cập đến cảm giác của thị giác gây ra bởi một nguồn ánh sáng khi nó tương tác với
một đối tượng và sau đó là mắt. Độ sáng phụ thuộc vào cường độ của nguồn, vào khoảng cách tới đối
tượng và trên các thuộc tính phản chiếu của đối tượng. Footlambert là đơn vị của độ sáng.
Thí dụ: Tại nhà hát, khi chúng ta thay đổi các thiết lập dimmer của một fixture ánh sáng, nghĩa là
chúng ta đang thay đổi cường độ đầu ra của nguồn. Điều này dẫn đến một thay đổi sự rọi sáng (ánh sáng
chiếu vào sân khấu) và cảm nhận của mắt là một sự thay đổi về độ sáng.
TẦM NHÌN phụ thuộc vào nhiều yếu tố, không chỉ là cường độ của một nguồn hay độ sáng của một
đối tượng. Màu
sắc, độ tương phản, khoảng cách, dịch chuyển, các điều kiện của mắt và hệ thống thị giác,
tất cả đều đóng một vai trò quan trọng đối với khả năng hiển thị tầm nhìn.
Người thiết kế ánh sáng sân khấu quan tâm về độ sáng của một đối tượng nhiều hơn so với cường
độ nguồn ánh sáng của nó. Họ đã sớm biết rằng đối tượng có độ sáng
cao hơn thường thu hút sự chú ý
trên sân khấu. Ánh sáng thu hút! Ngược lại, bóng tối che giấu - nhưng cũng có thể đưa khán giả có cảm
giác buồn ngủ. Một trong các công việc chính của thiết kế ánh sáng là thực sự giữ cho khán giả tỉnh táo.
Điều này không phải là buồn cười tuy bạn có thể nghĩ như vậy, nhưng khi bạn xem xét những gì chúng ta
làm cho một khán giả phổ biến. Thôn
g thường vào cuối năm, sau khi ăn tối và uống vài ve, chúng ta cho
khán giả ngồi trong ghế ngồi thật thoải mái - và sau đó tắt tất cả các đèn đi. Các người thiết kế chiếu sáng
phải xử dụng sức mạnh của ánh sáng để giữ khán giả tỉnh táo và trỏ sự chú ý của họ lên sân khấu bằng
cách cung cấp khả năng hiển thị thích hợp, quan tâm và trọng tâm có chọn lọc.
1.07 – DẠNG THỨC (FORM) và PHÂN PHỐI (DISTRIBUTTON)
1) DẠNG THỨC - (và PHÂN PHỐI)
Ánh sáng cung cấp cho các đối tượng một cảm
giác về DẠNG THỨC. Mắt có thể nhận ra kích thước, hình
dạng và vị trí của đối tượng. Thị lực hai mắt của chúng ta
hỗ trợ quá trình này bằng cách cung cấp thêm về chiều
sâu.
"Bằng phương tiện kiểm soát việc phân phối các
mô hình ánh sáng và tạo ra các thành phần sáng và tối, nó
có thể tạo ra cảm giác trên võng mạc sẽ được h
iểu là dạng
thức trong không gian". (Đề cương của ánh sáng sân
khấu, S. McCandless 1964).
Dạng thức áp dụng với ánh sáng khá phức tạp. Đó là tất cả mọi thứ chuyển động, cường độ, màu
sắc, và không định hướng. Tuy nhiên, dạng thức tạo ra và chịu ảnh hưởng bởi những phẩm chất khác của
ánh sáng. Dạng thức đã làm chuyện này với sự PHÂN PHỐI của ánh sáng hay ánh sáng quét vào một bề
mặt và để lộ ra một đối tượng. Chúng ta thường bàn
luận về dạng thức trong giới hạn của sự rõ ràng và
công nhận hình dạng của nó.
Dạng thức và phân phối có thể được thảo luận ở hai cấp độ.
Trước hết, chúng ta có thể thảo luận về dạng thức áp dụng cho các thiết lập sân khấu đối với vấn
đề đối tượng xuất hiện như thế nào
. Một sân khấu có thể được chiếu sáng đồng đều, nhẹ nhàng và dứt
khoát từ một góc độ thấp phía trước. Cách khác, trên cùng một sân khấu, có thể có những đốm sáng
không đồng đều, nối với các các khoang tròn từ một góc độ cao trên đầu.
Chúng ta cũng có thể thảo luận về dạng thức áp dụng cho ánh sáng được tạo ra bởi một thiết bị
(fixture) ánh sáng sân khấu. (Thí dụ: "Thiết bị cho ra một chùm tia mạnh,
hình vuông với một góc phân tán
rất rộng".)
Dạng thức trở nên phức tạp hơn nhiều khi bạn xem xét rằng một máy chiếu hình có thể được xử
dụng như một thiết bị ánh sáng sân khấu. Kết quả của công nghệ này, ánh sáng sản xuất từ “fixture” có thể
hoàn thành bất kỳ dạng thức, hình dạng hay phân phối nào.
Như trong tự nhiên, nguồn ánh sáng sân khấu có thể cho ra hay khuếch tán ánh sáng shadowless
(không bóng) mềm hay shadow (bóng) cứng, hay bất cứ loại gì ở giữa. Các
cạnh của một chùm ánh sáng
cũng có thể nằm trong một giải: cạnh mềm gần như vô hình đến cạnh cứng mạnh xác định rõ. Một chùm
ánh sáng cũng có thể phân phối không đồng đều, bị bể ra, như trong trường hợp của một Gobo hay mô
hình của máy chiếu.
1.08 – MÀU SẮC (COLOR)
1.) MÀU SẮC
Tất cả ánh sáng đều có màu sắc. Ánh sáng
trắng đơn giản chỉ là một hỗn hợp của tất cả cá
c
bước sóng có thể nhìn thấy (màu sắc). Mắt người
nhạy cảm nhất với ánh sáng ở phần màu vàng =>
xanh lục của quang phổ thị giác (khoảng 550
nanomet), hơn là màu đỏ hay màu xanh ở cuối của
quang phổ.
Màu sắc thường được thảo luận về GIÁ TRỊ,
SẮC THÁI và SĂC ĐỘ (VALUE, HUE, CHROMA)
Sắc thái là việc phân loại màu mà mắt nhìn thấy như đỏ, xanh lục, hổ phách, Giá trị cho thấy một
màu sắc sáng hay tối. Sắc độ cho thấy sự tinh khiết hay độ bão hòa của màu sắc.
Những màu sắc NGUYÊN THỦY (PRIMARY) của ánh sáng là ĐỎ, LỤC và XANH (RED, GREEN,
BLUE). Ba màu sắc này có thể kết hợp với nhau để cho ra bất kỳ màu nào khác, bao gồm cả màu trắng.
(Các màu nguyên thủy của các sắc tố là đỏ, vàng và xanh dương.)
Màu
sắc THỨ CẤP (SECONDARY) của ánh sáng được hình thành khi kết hợp 2 màu cơ bản. 3
màu thứ cấp là màu HỒNG TÍM (MAGENTA) (màu đỏ và màu xanh), VÀNG (YELLOW) (màu đỏ và màu
xanh lục) và XANH NGỌC (CYAN) (xanh dương và xanh lục).
Màu BỔ SUNG (COMPLEMENTARY) là sự kết hợp bất kỳ của một màu chính và một màu thứ cấp,
pha trộn với nhau làm cho ánh sáng trắng. Thí dụ về các màu bổ sung: Màu HỒNG TÍM & LỤC, màu
VÀNG & XANH, và màu XANH NGỌC & RED).
Khi ánh sáng trắng truyền qua một bộ lọc màu chỉ có các bước sóng tương ứng với màu đó được
truyền đi. Tất cả các bước sóng khá
c bị hấp thụ lại. Điều này được gọi là lọc trừ (sutractive).
Khi 2 hay nhiều chùm ánh sáng màu kết hợp để chiếu sáng trên một bề mặt, nó kết hợp với nhau
thông qua sự pha trộn phụ gia (additive).
Những thiết bị ánh sáng sân khấu tạo ra ánh sáng màu bằng cách xử dụng các bộ lọc bằng nhựa
(plastic) chịu nhiệt độ cao. Có hơn 100 màu sắc khác nhau
có sẵn từ nhiều nhà sản xuất. Những bộ lọc
này “mang đi (pass)” hay “TRUYỂN (TRANSMIT)” màu sắc của riêng mình và “ngăn chận (block)” hay “hấp
thụ (absorb)” tất cả những màu khác.
Đôi khi, cũng xử dụng bộ lọc màu bằng thủy tinh. Bộ lọc thủy tinh thông thường nói chung bị giới
hạn trong một phạm vi của màu sắc, tuy nhiên nó rất hữu ích cho các ứng dụng yêu cầu chịu nhiệt độ cao
hay kéo dài độ bền của bộ lọc. Một thế hệ mới của các bộ lọc thủy tinh “lưỡng sắc (dichroic)” đôi
khi cũng
được xử dụng cho các ứng dụng ánh sáng giải trí, nơi rất cần thiết màu sắc sôi động sẽ không bao giờ bị
phai mờ theo thời gian. Bộ lọc lưỡng sắc được thực hiện với công nghệ màng mỏng, có thể điều chỉnh
đuợc bước sóng nhất định. Các bộ lọc này truyền đi một mà
u sắc cụ thể và phản chiếu lại tất cả những
màu sắc khác. (Không giống như các bộ lọc thông thường, hấp thụ nhưng không phản chiếu lại các bước
sóng không mong muốn.)
1.09 – ĐỊNH HƯỚNG VÀ DỊCH CHUYỂN (DIRECTION and MOVEMENT)
1.) ĐỊNH HƯỚNG
Hướng của ánh sáng là một trong những thuộc
tính quan trọng nhất trong thiết kế ánh sáng sân khấu.
Tất cả ánh sáng đều được định hướng. Một ngọn nến
trần tỏa ánh
sáng ra tất cả các hướng. Một đèn
spotlight sân khấu tỏa ánh sáng theo một hướng rất cụ
thể. Trong tự nhiên, hầu hết ánh sáng đến đến từ bầu
trời, từ trên cao. Ánh sáng trong nhà hát cũng thường
có đúng như vị trí ánh sáng này nhất là trên sân khấu
hay khán giả.
Ánh sáng thấp đằng trước thường được coi là “phẳng (flat)”. Ánh sáng góc độ rất cao có thể tạo ra
những khoảng tối trên khuôn mặt của diễn viên. Ánh sáng từ nhiều hướn
g có thể thêm độ “tạo hình
(plasticity)” và kích cỡ cho một diễn viên. Ánh sáng từ "đường viền ban công” có thể thêm bóng trên khuôn
mặt của diễn viên, tuy nhiên vị trí này cũng có thể tạo ra bóng trên phông nền phía sau sân khấu hay
phông cảnh. Góc độ ánh sáng rất thấp luôn luôn được kết hợp với ánh sáng nhân tạo và thường chỉ được
xử dụng cho ánh sáng kỹ xảo. Đèn chân (footlight), đã phổ biến ở nhiều nhà hát, ngày nay hiếm khi được
xử dụng. Rõ ràng là khi thiết kế ánh sáng phải chọn hướng ánh sáng rất cẩn thận.
Trong nhà hát, cũng giống như trong tự nhiên, “sàn (floor)” phản chiếu một số ánh sáng từ bên
dưới, thường để tạo ra bóng. Chất lượng màu sắc và phản xạ của sàn sân khấu rất quan trọng và vì lý do
này nó luôn luôn được lựa chọn với sự hỗ trợ từ nguời thiết kế ánh sán
g.
Nhiều điều thú vị, đặc tính của ĐỊNH HƯỚNG không thực sự xem xét bởi McCandless là một trong
những “phẩm chất của ánh sáng" trong “Đề cương của ánh sáng sân khấu, 1964” của mình. Ông đã thảo
luận về (một thời gian ngắn) tầm quan trọng của hướng để tạo hình các đối tượng và vị trí thực tế của
nguồn sáng.
2.) DỊCH C
HUYỂN
Dịch chuyển trong ánh sáng thường được thực hiện, có nghĩa là bất kỳ sự thay đổi theo CƯỜNG
ĐỘ, DẠNG THỨC, MÀU SẮC hay ĐỊNH HƯỚNG. Thay đổi năng động trong tất cả những phẩm chất này
diễn ra trong tự nhiên một cách thường xuyên. Dịch chuyển cũng có thể bao gồm các chuyển động vật lý
của một nguồn, chẳng hạn như đèn tìm kiếm, đèn hiệu cảnh
sát, bánh xe màu, hiệu ứng quang học đặc
biệt, máy chiếu phim, trái châu.v.v.
Dịch chuyển có thể rất nhanh hay huyền ảo, chậm và khó nhận ra. Như vậy có thể là trường hợp
của một nguời thiết kế tạo ra ánh sáng mặt trời thay đổi chậm từ một bên của sân khấu sang bên kia trong
suốt thời gian diễn. Khán giả không thể nhận thấy sự thay đổi, tuy nhiên họ có thể “cảm thấy” kết quả của
sự thay đổi về mặt cảm xúc
. Một ánh sáng bình minh hay hoàng hôn cũng có thể thay đổi chậm và sự dịch
chuyển của ánh sáng khó nhận thấy và khán giả chỉ có thể cảm nhận được kết quả và trên thực tế đã
không nhìn thấy nó.
Cho đến gần đây, dịch chuyển đã có thể tận dụng ít nhất là chất lượng của ánh sáng, do người
thiết kế ánh sáng sân khấu. Tất cả chuyện này t
hay đổi từ những năm 1980 khi các thiết bị ánh sáng tự
động được sản xuất. Các thiết bị tự động hiện đại có thể di chuyển hướng vật lý, chùm tia sáng của nó từ
một vị trí của sân khấu này sang vị trí khác. Ngoài ra, thiết bị tự động có thể di chuyển từ một màu hay
bánh xe kỹ xảo sang những cái khác, ở bất kỳ tốc độ nào. Những thay đổi và sự kết hợp về cường độ,
dạng thức, màu
sắc, phân phối và dịch chuyển là vô tận.
1.10 - NGÔN NGỮ của ÁNH SÁNG
1.) GIỚI THIỆU ÁNH SÁNG MÀ KHÔNG CÓ ÁNH SÁNG
Người thiết kế ánh sáng phải hình dung ra được
các hình ảnh từ đâu đến. Họ phải có khả năng nhìn thấy
được ánh sáng cuối cùng trong tâm trí của mình, từng
cảnh (scene) một, rất lâu trước khi sản xuất ra tác phẩm.
Thiết kế ánh sáng chỉ là tiến trình “đảo ngược công nghệ”
của hình ản
h trí tuệ này và đưa nó vào thực tế.
Các người thiết kế ánh sáng phải học để thảo luận
và biểu thị hình ảnh trực quan với các từ ngữ (word), biểu
hiện (render) và tài liệu tham khảo để hiểu về nghệ thuật,
lịch sử, thời đại và phong cách. Đây là một phần quan
trọng của tiến trình thiết kế và truyền thông. Khi thiết kế
ánh sáng, thường là một quá trình hợp tác là bắt b
uộc
các người thiết kế phải tìm hiểu để giải thích đề xuất thiết
kế của mình cho người khác để bảo đảm rằng hình ảnh của mình là thích hợp và thực hiện đúng cách.
Điều đó rất quan trọng để học cách xử dụng các thuật ngữ về TẦM NHÌN, TỰ NHIÊN, THÀNH
PHẦN, TÂM TRẠNG, ĐỘ SÁNG, DẠNG THỨC, MÀU SẮC, DỊCH CHUYỂN, PHÂN PHỐI và ĐỊNH
HƯỚNG. Các thuật ngữ và khái niệm này dưới dạng thức từ vựng cơ bản cho bất kỳ nguời thiết kế ánh
sáng nào và họ phải được làm chủ được nó đầy đủ và hiểu nó tường tận.
Chất lượng ánh sáng như phát quang (luminescent), trắng đục (opalescent), trong mờ (translucent),
trong suốt (transparent), lân quang (phosphorescent), huỳnh quang (fluorescent), hay chẳng hạn như
quang phổ (spectral), khúc xạ (refractive), phản chiếu (refective), mờ xỉn (matter), và khuếch tán (diffuse)
cũng hình thành một phần của sự hiểu biết và từ vựng của bất kỳ nguời thiết kế ánh
sáng nào.
2) CÁC CÔNG CỤ THÔNG TIN KHÁC
Một bộ sưu tập các “bức tranh” sao chép lại có thể là một công cụ thiết kế, công cụ giảng dạy và
công cụ truyền thông tuyệt vời,. Nhiều tác phẩm “ Bậc thầy - Old Masters” với sự chú ý đến từng chi tiết về
ánh sáng đáng kinh ngạc. Một số thí dụ đáng chú ý bao gồm: Claude Lorraine, Claude Monet, Edouard
Manet, Johannes Vermeer, Jan Steen, Leonardo de Vinci, Edgar Degas, Georges de La Tour, Rembrandt,
Renoir và những người khác.
Xử dụng tác phẩm nghệ thuật với một quá trình nghiên cứu và nói với nó là
có thể xác định dễ dàng và thảo luận một số lượng lớn các phẩm chất ánh sáng khác nhau: phong cách,
tâm trạng và cảm xúc.
Thiết kế ánh sáng cũng có thể sản xuất phác thảo hay biểu hiện ra, hay xử dụng các chương trình
CAD (máy tính hỗ trợ thiết kế) để hỗ trợ trong quá trình thảo luận về ánh sáng. Mặc dù còn xa mới hoàn
hảo, nhiều chương trình CAD cung cấp hình ảnh hình ảnh thực tế với ánh sáng rất chính xác
và cụ thể. Là
một trợ giúp cho việc thiết kế, những công cụ này có thể chứng minh là rất hữu ích, tuy nhiên tất cả đều
dựa trên thiết kế đầu tiên để có một vốn từ vựng về các mục tiêu và những phẩm chất của ánh sáng.
PHẦN 2 - Phương pháp thiết kế tổng quát
2.01 Phương pháp thiết kế tổng quát
2.02 Phương pháp nguồn đơn
2.03 Phương pháp nguồn điểm
2.04 Phương pháp đa nguồn
2.05 Phương pháp McCandless
2.06 Ánh sáng khu vực
2.07 Hòa hợp & Pha trộn
2.08 Ánh sáng bối cảnh
2.09 Đặc điểm và đặc biệt
2.10 Phương pháp bí mật
2.01 - PHƯƠNG PHÁP THIẾT KẾ TỔNG QUÁT
1.) GIỚI THIỆU VỀ PHƯƠNG PHÁP THIẾT KẾ ÁNH SÁNG
Có hay không chỉ có một phương pháp thiết
kế cho ánh sáng sân kh
ấu - có rất n
hiều. Hay nói một
cách khác, quy tắc đầu tiên của ánh sáng sân khấu là
không có gì bất kỳ. Miễn là các mục tiêu đáp ứng
được việc thiết kế và những khái niệm ánh sáng, thiết
kế có thể xử dụng bất kỳ kỹ thuật THIẾT KẾ thích
hợp nào mà bạn muốn. Tuy nhiên, người thiết kế
ánh sáng chuyên nghiệp phải làm sao để truyền đạt
thiết kế của mình cho người khác, thông qua việc xử
dụng các tiê
u chuẩn công ước.
Mỗi chương trình có nhu cầu ánh sáng rất
khác nhau. Ánh sáng cho một chương trình múa của
'Annie' với Martha Graham đều có phong cách và
các yêu cầu hoàn toàn khác nhau. Học viên ánh sáng
không phải tìm kiếm một “hệ thống” hay “phương pháp” để thực hiện cho tất cả các nhu cầu ánh sáng.
Không chỉ có một. Thay vào đó, người thiết kế ánh sáng phải hiểu được nhu cầu của từng ngành, nghề
sản xuất cụ thể, cẩn thận xác định và sau đó thực hiện việc thiết kế ánh
sáng cho phù hợp. Chỉ trong cách
tiếp cận này, các thiết kế ánh sáng có hiệu quả nhất phù hợp với nhu cầu chính xác của chương trình.
Không bao giờ có hai chương trình nào giống nhau và cũng không bao giờ có hai thiết kế ánh sáng nào
thực hiện như nhau.
2). TẦM NHÌN & TÂM TRẠNG
Nguyên tắc đầu tiên và quan trọng nhất của ánh sáng sân khấu là vẫn là TẦM NHÌN. Điều này có lẽ
cũng đúng cho các người thiết kế ánh sáng trước đây, xử dụng nến, đèn dầu, ánh
sáng khí đốt và điện hồ
quang.
Thông thường, các người thiết kế chiếu sáng diễn viên đầu tiên cho tầm nhìn và sau đó cho tâm
trạng và thứ ba là không khí. Đôi khi tâm trạng có thể chế ngự khả năng của tầm nhìn (ít nhất là tạm thời).
Hiện nay nhiều người thiết kế cho buổi hòa nhạc có thể đầu tiên chiếu sáng sân khấu cho tâm trạng và tác
động và sau đó cho tầm nhìn. Về mặt này, có nhiều loại ánh
sáng tổng quát có thể bao gồm: màu sắc
mạnh, máy chiếu, hay các kỹ xảo chuyển động. Xử dụng followspot hay các thiết bị ánh sáng tự động,
người thiết kế có thể “cắt” thông qua ánh sáng tâm trạng và cho vào bộ điều khiển ánh sáng, chính xác cho
người biểu diễn, bất cứ vị trí nào trên sân khấu.
3.) TIẾN TRÌNH CỦA PHƯƠNG PHÁP VÀ TRANG THIẾT BỊ
Hầu hết các phương pháp ánh sáng đã tiến hóa từ nguồn ánh sáng và công nghệ thiết bị ánh
sáng.Thiết bị Spotlight hiện nay cung cấp cho người thiết kế chùm tia hẹp khoảng 10-40 độ. Điều này
không phải luôn luôn như vậy. Gần 100 năm trước đây, hầu hết ánh sáng bao gồm duy nhất của ánh sáng
tỏa (flood), spot hẹp như vậy đã không tồn tại. Với sự phát triển của sp
otlime (ánh sáng vôi, hồ quang
điện, sau đó đèn đốt tim), phương pháp thiết kế ánh sáng đã thay đổi. Bây giờ nó đã có thể cho ra ánh
sáng chính xác địa điểm và định vị, tại bất cứ nơi nào trên sân khấu. Khi thiết bị tiếp tục phát triển, phương
pháp thiết kế ánh sáng cũng vậy. Với thiết bị tự động thế hệ mới, ánh sáng mới không bao giờ nhìn thấy
trước đây - hiện nay thì có thể.
2.02 - PHƯƠNG PHÁP NGUỒN ĐƠN
1.) PHƯƠNG PHÁP NGUỒN ĐƠN
Một người thiết kế có thể muốn có ánh sáng trên toàn bộ sân khấu với một nguồn ánh sáng duy
nhất như ánh sáng mặt trời hay mặt trăng chiếu sáng trái đất, gây ra sự thúc đẩy mạnh mẽ việc định
hướng ánh sáng, vì chỉ có một bóng duy nhất. Điều này là hiếm trên thực tế tuy nhiên lại bất khả thi đối với
một số lý do
.
Trước tiên, có rất ít thiết bị ánh sáng công suất cao có khả năng chiếu sáng toàn bộ sân khấu.
Thông thường một thiết bị 10.000 watt hay hơn sẽ được yêu cầu cung cấp ánh sáng đến một khu vực nhỏ
của sân khấu.
Thứ hai, một thiết bị lớn duy nhất sẽ không kiểm soát hoàn toàn được và sẽ không chỉ chiếu sáng
khu vực diễn xuất, nhưng còn là ở chung quanh sân khấu, hai cánh gà và có lẽ đến cả một số khán giả.
Thứ ba, nếu
nguồn (điểm) ánh sáng thật sự duy nhất để 'thực hiện được', nguồn phải có một
khoảng cách rất lớn. Điều này hiếm khi có thể có trong hầu hết các nhà hát thông thường.
Trong tự nhiên, điểm nguồn của ánh sáng có một khoảng cách để chiếu xuống rất lớn. Giả sử ánh
nắng mặt trời là một thiết bị ánh sáng và di chuyển cho là 25 feet đi. Án
h sáng rọi xuống ra sao không đáng
chú ý. Bạn hầu như không thể di chuyển ra từ nguồn ở tất cả các chỗ khác. Bây giờ tưởng tượng thiết bị
ánh sáng sân khấu duy nhất, cho là 100 feet từ sân khấu. Một diễn viên có thể di chuyển ngắn lại 25 ft từ
nguồn. Họ đã di chuyển một khoảng cách lớn hơn nhiều trong mối quan hệ giữa nguồn và ánh sáng rọi
xuống sẽ rất đáng chú ý.
Điều này là do tính chất định luật bình phương nghịch đảo của ánh sáng. Khoảng
cách xa hơn từ nguồn, mức độ ánh sáng càng giảm nhanh chóng. Nói chung là không thể tìm thấy vị trí lắp
đặt thích hợp trong hầu hết các nhà hát cho nguồn ánh sáng duy nhất và kết quả là, kỹ thuật nhiều thiết bị
thường được xử dụng để thay thế.
Ngoài ra còn có một khái niệm về ánh sáng quan trọng liên quan từ kích cỡ của một nguồn đến độ
sắc nét bón
g hậu của nó. Nói chung, nguồn nhỏ hơn, bóng sắc hơn. Ngược lại, nguồn lớn hơn, bóng mờ
hơn. Thí dụ, tại cùng một khoảng cách một thiết bị ánh sáng với một ống kính có đường kính 6 inch sẽ tạo
ra một cái bóng sắc nét hơn so với một thiết bị với nguồn đường kính 36 inch (chẳng hạn như: đèn scoop,
hộp đèn hay hộp đèn flood). Cũng như vậy, k
hoảng cách đến nguồn được thực hiện để tăng độ sắc của
bóng hậu.
Mặc dù toàn bộ ánh sáng cho chương trình sân khấu với một nguồn duy nhất của ánh sáng thường
không thực tế, ánh sáng nguồn đơn có cách dùng của nó. Thường thì nó có thể xử dụng ánh sáng nguồn
đơn rất ấn tượng, cách điệu hay "hiệu ứng” ánh sáng khá cần thiết cho một cảnh cụ thể. Có thể ánh sáng
cho toàn bộ khung
cảnh chỉ từ một nguồn đơn như ánh sáng từ một đèn bàn hay từ một cánh cửa tủ lạnh
mở, tuy nhiên điều quan trọng ở đây là cần lưu ý rằng có thể dễ dàng làm các khán giả thấy mệt mỏi.
2.03 - PHƯƠNG PHÁP NGUỒN ĐIỂM (POINT SOURCE)
1.) ÁNH SÁNG NGUỒN ĐIỂM
Hầu hết các thiết bị thực hiện ánh sáng sân
khấu là nguồn “điểm”. Trong khía cạnh này, nó tạo
ra một bóng duy nhất và nó cung cấp một số
lượng ánh sáng theo định luật bình phương
nghịch đảo. Thí dụ, một thiết bị ánh sáng cách 50
feet có thể cung cấp 100 footcandles. Nếu khoảng
cách tăng gấp đôi lên 100 feet, chỉ cung cấp được
25 footcandles (1 / 4).
Ánh sáng nguồn điểm là dạng thức gốc cơ
bản của tất cả các th
iết kế ánh sáng sân khấu.
Các thành phần cơ bản của tất cả các thiết kế ánh
sáng bao gồm ánh sáng MẶT TIỀN (FRONT),
MẶT HẬU (BACK), DƯỚI (DOWN), XÉO
(DIAONAL), CẠNH (SIDE) và TRÊN (UP) (và tất cả mọi thứ gì ở giữa). những người thiết kế đôi khi sẽ xử
dụng các nguồn đơn cơ bản một mình, nhưng họ thường sẽ kết hợp lại.
Không có gì là ấn tượng hơn so
với một mẩu múa hiện đại, ánh sáng chỉ với một series đèn chiếu sáng cô lập chiếu xuống hay một đèn
hậu chiếu xéo, đối đầu là ánh sáng đèn cyclorama. Không gì mệt mỏi và nhàm chán hơn là xem một vở
kịch tình cảm được chiếu sáng với một series đèn tight pool (nhiều đèn chiếu chan hòa).
Các học viên thiết kế phải nhận thức để biết được các thuật n
gữ ánh sáng MẶT TIỀN (FRONT),
MẶT HẬU (BACK), DƯỚI (DOWN), XÉO (DIAONAL), CẠNH (SIDE) và TRÊN (UP) thật tốt. Họ nên thử
nghiệm trong một nhà hát thực tế với các loại thiết bị khác nhau được lắp đặt vào các vị trí này. Họ nên cố
gắng thử nhiều góc độ khác nhau và chiếu sáng nhiều loại phông nền, cảnh quan và thậm chí các diễn
viên khác nhau. Trường hợp làm chủ được các nguồn đơn cơ bản, n
ên kết hợp hai hay nhiều góc độ ánh
sáng trên một khu vực duy nhất. Đây là một bài tập rất quan trọng và các dạng thức cơ sở cho tất cả các
thiết kế ánh sáng.
Ngoài ra còn có một số sách về ánh sáng có chứa
nghiên cứu hình ảnh ánh sáng của các nguồn cơ bản (tiền,
hậu, cạnh, v.v) ánh sáng trên một ma-nơ-canh hay một
diễn viên. Một trong các sách nghiên cứu tốt là Jean
Rosenthal trong cuốn “The Magic of Light". Những hình
ảnh cho thấy một số thiết bị ánh sá
ng được gắn tại các vị
trí chiếu sáng điển hình của nhà hát. Nghiên cứu này có
chứa các bức ảnh tuyệt vời, biểu hiện (rendering) và bản
vẽ của nhiều thí dụ khác nhau. Ngoài ra còn có một số sơ
đồ ánh sáng bao gồm các loại hình và cách bố trí các thiết
bị đã xử dụng.
2.04 - PHƯƠNG PHÁP ĐA NGUỒN
1.) ÁNH SÁNG ĐA THIẾT BỊ (MULTI-FIXTURE)
Ngày nay, hầu hết các thiết kế sân khấu và ánh sáng giải trí
xử dụng phương pháp ánh sáng nhiều
thiết bị hầu như trái ngược với phương pháp nguồn đơn hay điểm. Điều này cho phép người thiết kế có
toàn quyền kiểm soát ánh sáng, ở bất cứ nơi nào trên sân khấu, liên quan đến cường độ, định hướng,
phân phối, màu sắc và dịch chuyển.
Phương pháp đa thiết bị xử dụng nhiều loại loại thiết bị và rất nhiều các
kỹ thuật ánh sáng. Ngày
nay, hầu hết các thiết bị đều dùng bóng đèn volfram-halogen “có thể dim được (dimmable)” làm nguồn
sáng. Sau đó, loại bóng mới H.I.D, (high instensity discharge) tìm đường len lỏi vào các ứng dụng ánh
sáng sân khấu. Hiện nay, nó rất phổ biến để tích hợp cả thiết bị ánh sáng thông thường với thế hệ mới, kết
quả cho ra thiết kế ánh sáng tinh tế và đơn giản, không bao giờ có trước đây.
Điều này không phải là bất thường đối với
một nhà hát, phòng hòa nhạc hiện đại, xử dụng đến
400-500 thiết bị ánh sáng cho một chương trình duy
nhất. Lý tưởng nhất là mỗi thiết bị ánh sáng sẽ có
điều khiển dimmer riêng cho nó. Trong những
phương tiện cũ với một số lượng dimmer giới hạn,
đôi khi nó cần thiết để có thể “cắm-plug” hay “vá-
patch” một số thiết bị vào một dimmer.
Nhiều thiết kế ánh sáng t
hường sẽ cố gắng
chỉ xử dụng thiết bị cụ thể cho những cảnh (scene)
cụ thể. Một số người thiết kế có thể thiết kế một “sơ
đồ tổng quát” nhằm mục đích để làm việc với tất cả
các scene tốt như nhau. Tuy nhiên các người thiết
kế khác sẽ xử dụng một sự kết hợp của thiết bị cho
“tổng quát” và “scene cụ thể”. Cách tiếp cận chính xác
thường sẽ được quyết định bởi các thiết bị có sẵn, vị trí gắn, thời gian và ngân sách.
Thông thường người thiết kế đã chuẩn bị để treo một số thiết bị cần thiết cho thiết kế của họ, và
thêm một vài phụ tùng. Người thiết kế khác, không thực sự chắc chắn về những gì đã làm, có thể xử dụng
cách tiếp cận “giấu đuôi của bạn – cover your tai
l” và treo một thiết bị trong từng vị trí có thể gắn được mà
nhà hát sẽ cho phép. (Chỉ trong trường hợp này) Những thiết kế này có thể làm cho thiết kế 400 thiết bị
giống như một thiết kế cố định 120 thiết bị, một cách dễ dàng.
Thiết bị ánh sáng thông thường luôn luôn treo trên 18 inch (feet?-ND) (hay hơn). Ống
tube dài 30 ft
điển hình sẽ gắn được tổng cộng 20 thiết bị.
2.05 - PHƯƠNG PHÁP MCCANDLESS
1.) PHƯƠNG PHÁP MCCANDLESS
Mặc dù có thể không có “một” phương pháp thiết kế ánh sáng nào, Tuy nhiên, lại có một cách tiếp
cận có hệ thống đã được đề xuất bởi Stanley McCandless (Đại học Yale School of Drama 1925-1964). Đây
là cách tiếp cận làm nền tảng cho thiết kế ánh sáng sân khấu hiện đại hiện nay.
2.) ÁNH SÁNG KHU VỰC DIỄN XUẤT
McCandless đề xuất rằng việc thiết lập sân khấu được chia t
hành một số KHU VỰC DIỄN XUẤT,
mỗi khu vực hai (2) thiết bị. Thiết bị ánh sáng được bố trí trên cao như đèn chiếu sáng mặt tiền treo góc
khoảng 90 độ đến khu vực. Thêm các thiết bị được bố trí ở khoảng 45 độ theo chiều ngang. Tiếp theo
McCandless đề nghị mỗi đèn có một bộ lọc màu khác nhau, một 'ấm-warm' từ một bên, một 'lạnh-cool' từ
bên kia. Mỗi khu vực cũng được (lý
tưởng) điều khiển bằng dimmer riêng.
Một sân khấu “mở-open” sẽ được chia thành 9 khu vực (nhiều hơn hay ít hơn tùy theo yêu cầu), có
đường kính 8-12 ft. Khu vực có thể được sắp xếp, 3 sân khấu thấp (downstage), 3 sân khấu giữa
(centerstage) và 3 sân khấu cao (upstage).
Hai thiết bị trang bị TẦM NHÌN cho diễn viên. Các điều khiển dimmer cho phép các khu vực sẽ tối
hay sáng khi cần thiết, cung cấp TIÊU ĐIỂM CHỌN LỌC, BỐ CỤC và T
ÂM TRẠNG cho bức tranh toàn thể
sân khấu. Vị trí của hai thiết bị, cho phép một diễn viên “chơi-play” dù bên phải hay bên trái của mình, và
vẫn năm trong trong một ánh sáng “KHÓA-KEY”. Góc giữa những thiết bị cung cấp tính tạo hình tuyệt vời
và hình thành đến khuôn mặt người. Màu sắc đối lập nhau ấm áp và lạnh giúp đỡ trong việc cung cấp sự
quan tâm, độ tương phản và ánh sáng tự nhiên.
3.) PHA TRỘN (BLENDING) và HÒA HỢP (TONING)
Ánh sáng cho các diễn viên đầu tiên
cho khả năng hiển thị, sau đó ánh sáng môi trường chung
quanh riêng cho tâm trạng và không khí, là cách tiếp cận của McCandless. Đôi khi cần thiết không có ánh
sáng bổ sung, để "bung ra-flare” từ các khu vực diễn xuất và chiếu sáng các bức tường của một thiết lập.
Cách khác, cảnh quan có thể cần ánh sáng WASH hay FLOOD để giúp tích hợp và pha trộn nó thành hình
ảnh ánh sáng toàn bộ.
4.) HÌNH NỀN (BACKGROUND) và PHÔNG NỀN (BACKDROP)
Hình nền, vải nền, phông nền và màn vây (cycloramas), tất cả nên được chiếu sáng một cách riêng biệt từ
diễn viên và cảnh quan.
5.) NHẤN MẠNH và ĐẶC BIỆT
McCandless đề nghị thêm những thiết bị (nếu cần thiết);
(A) để cung cấp khu vực “diễn xuất đặc biệt" (cửa ra vào, đồ gỗ nội thất, v.v).
(B) để cung cấp động lực (ánh sáng mặt trời, ánh trăng, ánh lửa).
(C) để cung cấp máy chiếu hay các hiệu ứng.
2.06 - ÁNH SÁNG KHU VỰC
1.) ÁNH SÁNG KHU VỰC
Thông thường, tất cả các ánh sáng sân
khấu đã thực hiện với ánh sáng cho
một nghệ sĩ
biểu diễn (vũ công, diễn viên, nhạc công, v.v).
Người biểu diễn có khuynh hướng làm việc trong
những KHU VỰC. Đây là một điều tốt, bởi vì hầu
hết các ánh sáng đèn spotlight sân khấu có
khuynh hướng cung cấp ánh sáng các khu vực
đã xác định hay loang tỏa ra.
Thông thường, các yếu tố đầu tiên của
thiết kế ánh sáng, là ÁNH SÁNG KHU VỰC DIỄN
XUẤT (ACTING). Đôi khi được gọi là ánh sáng
“chìa khóa-key”, ánh sáng này cung cấp khả
năng hiển thị cho người biểu diễn trê
n diện tích
theo từng khu vực. Diện tích ánh sáng khi xử
dụng với bộ điều khiển dimmer, cũng cung cấp
một phương pháp có giá trị để cô lập hay nhấn mạnh một nghệ sĩ biểu diễn trong bất kỳ khu vực nào trên
sân khấu. Ngoài ra, thiết kế khu vực ánh sáng cũng có thể đóng góp vào bầu không khí, tổng thể, tâm
trạng và bố cục của hìn
h ảnh sân khấu.
Điều quan trọng là cho người thiết kế có thể hình dung không gian biểu diễn, trong dạng thức khu
vực ánh sáng có tầm nhìn ba chiều. (3D) Các khu vực này liên quan đến kiến trúc và hình học của sân
khấu hay việc thiết lập sân khấu. Cách khác, các khu vực này liên quan đến sự hoạt động và ngăn chặn
những người biểu diễn.
2) KHU VỰC DIỄN XUẤT – THIẾT BỊ (FIXTURE)
PAR và Fresnel spotlight là hai loại đèn đặc biệt
phù hợp với nhu cầu của ánh sáng khu vực.
Những thiết bị này cung cấp chùm sáng tỏa góc từ 10 - 50 độ và thường có công suất 500-2000 watt.
3) KHU VỰC DIỄN XUẤT - PHƯƠNG PHÁP
Thông thường sân khấu chia nhỏ thành một số khu vực, ngang qua mặt tiền, ngang qua giữa sân
khấu và trên sân khấu cao. Thông thường có 3 x 3 hay tổng cộng 9 khu vực có thể trang bị cho một thiết
lập nhỏ. Là 9 khu vực rộng x 5 khu vực chiều sâu, có thể trang bị cho một vở opera lớn, âm nhạc. Một
chương trìn
h thật lớn có thể có hơn 100 khu vực.
Lưu ý rằng một số lượng khu vực không đồng đều (3-5-7-9 ) trên mặt tiền sân khấu đặc biệt hữu
ích. Hệ thống này luôn luôn trang bị cho một khu vực trên đường trung tâm - thường xuyên nhất ở nơi một
nửa chương trình sẽ diễn ra.
Các khu vực ngang 8-12 feet có vẻ hữu ích nhất cho các ứng dụng ánh sáng khu vực sân khấu.
Tuy nhiên chương trình lớn có thể đư
ợc trang bị tốt hơn với các khu vực ngang 12-20 feet (hay hơn).
Khu vực có thể được chiếu sáng với một hay nhiều thiết bị ánh sáng. Thông thường, một khu vực
có thể trang bị với một ánh sáng phía trước (frontlight), ánh sáng thấp (downlight), và ánh sáng hậu
(backlight) - tùy thuộc vào nhu cầu của chương trình. Khu vực cũng có thể được chiếu sáng với hai (2)
thiết bị từ phía trước và có góc 90 độ với nhau (sau thời McCandless). Nguyên tắc mục tiêu của ánh sáng
khu vực nên là ánh sáng cho diễn viên và tránh ánh sáng nền. Về mặt này, người thiết kế ánh sáng phải
chọn một cách cẩn thận cả hai góc độ và hướng của tất cả
các ánh sáng khu vực.
Mặc dù McCandless yêu cầu thiết bị được gắn ở 45 độ theo chiều ngang, ánh sáng hiện đại có
khuynh hướng xử dụng góc 45-60 độ (hay hơn) để chiếu sáng khu vực phía trước. Nói chung góc càng
cao hơn, 'bóng' và ấn tượng sẽ được chiếu sáng. Góc độ cao hơn khá tốt để ngăn chặn ánh sáng tràn ra vị
trí sân khấu cao (upstage). Góc độ ánh sáng thấp hơn tốt cho ánh sáng của mắt và dưới mũ.
2.07 – HÒA HỢP & PHATRỘN
1.) HÒA HỢP & PHA TRỘN
Sau khi chiếu sáng diễn viên
với ÁNH SÁNG
KHU VỰC, có cần thiết hay không để có thể cung
cấp ánh sáng bổ sung cho khung cảnh chung
quanh. Thông thường, xử dụng ánh sáng đặc biệt
để chiếu sáng cảnh quan được gọi là ánh sáng “hòa
hợp và pha trộn” vì nó giúp hòa hợp giữa phong
cảnh và sự pha trộn với ánh sáng đến khu vực diễn
xuất.
Đôi khi, thí dụ như khi ánh sáng một vở kịch
tình cảm (drama), trong một thiết lập nhỏ, có lẽ chỉ
cần có ánh
sáng khu vực. Không cần thiết có ánh
sáng bổ sung để chiếu sáng các thiết lập. Điều này
là do thực tế phản chiếu từ ánh sáng khu vực có
thể dội ra khỏi sàn và chiếu sáng các bức tường
trong một cách tự nhiên và thích hợp nhất.
Cách khác, nếu chương trình là một vở kịch hài, thiết lập này có thể cảm thấy bị hơi tối và ảm đạm.
Không thành vấn đề, người thiết kế ánh sáng sẽ cố gắng để nâng
các đèn chiếu sáng trong khu vực diễn
xuất, thiết lập vẫn có vẻ bị tối khi so sánh. Trong trường hợp này, thêm ánh sáng trên các bức tường phía
trên của các thiết lập nhỏ có lẽ sẽ cung cấp một tầm nhìn thích hợp.
2) HÒA HỢP & PHA TRỘN – THIẾT BỊ
Hòa hợp và pha trộn ánh sáng, có khuynh hướng xử dụng các loại thiết bị khác nhau, tùy thuộc vào
các ứng dụng chiếu sáng chính xác. Spotlight, floodlight và striplights, tất cả đều có chỗ đứng của mình.
3)
HÒA HỢP & PHA TRỘN - PHƯƠNG PHÁP
Thường thì ánh sáng hòa hợp và pha trộn được cung cấp bởi loại đèn flood soft. Cả hai loại triplight
và hộp floodlight cũng phù hợp cho ứng dụng này.
Cách khác, đèn spotlight có thể cung cấp một dạng thức hòa hợp và pha trộn ấn tượng hơn. Cá
nhân tôi thích xử dụng các đèn PAR với tiêu điểm mềm (soft focus) phá vỡ các khuôn mẫu để cung cấp
một kết cấu hòa hợp và pha trộn chiếu sáng cho
mỗi bức tường của thiết lập. Những thiết bị này thường
nằm ở một góc khá thấp (box boom), “wash” nhẹ nhàng và hài hòa với phong cảnh là rất cần thiết.
Trong thời điểm đầu những năm 1900 và cho đến năm 1960, ánh sáng hòa hợp và pha trộn thường được
cung cấp từ một serie ba (3) hay bốn (4) đèn striplight màu, gắn ở trên sân khấu. Strips (còn gọi là X-ray)
chạy từ bến trái sang bến phải sân khấu, và thường được dùng cho; do
wnstage, centerstage và upstage.
Một số nhà hát có thể có nhiều đến năm (5) bộ đèn striplight, lắp đặt cố định. Striplight thường được gắn
bộ lọc màu bằng thủy tinh hay nhựa trong, đỏ, lục, xanh và hổ phách (amber). Vũ nhạc, nhạc kịch và các
chương trình đa dạng, ánh sáng strip đặc biệt hữu ích trong việc cung cấp màu wash. Thời điểm sân khấu
có thể được tắm trong một màu xanh ban đêm, tiếp theo là màu hổ phách vào ban ngày. Các các bộ lọc
màu nguyên
thủy đỏ, lục, xanh, cho phép bất kỳ màu sắc nào cũng được pha trộn ra để cung cấp một
màu wash ngay lập tức lên sân khấu, hay phong cảnh bên dưới.
2.08 – ÁNH SÁNG BỐI CẢNH (BACKGROUND)
1.) ÁNH SÁNG BỐI CẢNH
Sau khi rọi sáng diễn viên với ÁNH SÁNG KHU VỰC, và sau khi rọi sáng cho thiết lập với ánh sáng hòa
hợp và pha trộn, người thiết kế sẽ chiếu sáng riêng biệt mọi bối cảnh. Bối cảnh, thường được thực hiện để
có nghĩa là phông nền hay vải nền. Bối cảnh vẽ sơn đã được xử dụng hàng trăm năm trước ở sân khấu
nhà hát, opera và múa. Một phông cảnh sơn
đúng cách đôi khi có thể truyền tải một cảm
giác về chiều sâu vô song bởi phong cảnh 3
chiều.
Ánh sáng bối cảnh cũng bao gồm ánh
sáng cho màn vây (cycloramas) lớn đến các
mảnh vải sơn thả xuống, từ đỉnh xuyên qua
các cửa sổ của một bộ phông cảnh. Một vở
opera hay múa ba-lê cách điệu có thể biểu
diễn trên một sân khấu mở với màn vây chỉ
30 'x 60' tạo như một bối cảnh. Các chương
trình khác có thể dùng 10 hay nhiều hơn
khung cảnh sơn vẽ. Đôi khi bối cảnh có thể
rất thực tế. Vào
thời điểm khác, nó có thể là
trừu tượng, siêu thực, ấn tượng, hay cách
điệu cao.
2) ÁNH SÁNG BỐI CẢNH – THIẾT BỊ
Thông thường, các phông nền được chiếu sáng với các thiết bị striplight - đôi khi được gọi là X-
Rays, borderlights (đèn viền) hay batten (đèn giàn). Các thiết bị striplight bao gồm một giải chiếu sáng
tuyến tính (thường là dài 6-9 ft), với khoang đèn 9-12 ngăn riêng biệt. Các ngăn nối 3 hay 4 mạch, mỗi
mạch, có m
àu sắc theo yêu cầu với các bộ lọc bằng nhựa. Đôi khi dùng ba (3) màu cơ bản (3) (đỏ, lục,
xanh), do đó người thiết kế có thể kết hợp cho ra gần như bất kỳ màu nào.
Striplights đã phát triển về cơ bản, như công nghệ bóng đèn đã phát triển, từ xử dụng dầu và nến
đầu tiên, sau đó khí sau đó đèn điện đốt tim, với một chóa phản chiếu thô
. Một số thiết bị hiện đại xử dụng
đèn 'R' hay “PAR”. Một striplight thu nhỏ gọn bằng cách xử dụng bóng đèn MR16 được phát triển trong
những năm 1980 và đôi khi được gọi là "dải-Zip”. Mặc dù nhỏ gọn và hiệu quả, sản phẩm này không phải
không có vấn đề. Đèn được nối tiếp với (thường là) 10 bóng x 12 volt trên mỗi mạch. Điều này có nghĩa là
nếu một đèn “cháy”, toàn bộ mạch đều tắt. Ngoài ra, đèn chỉ công suất tối đa là 75 watt, bóng MR1
6.
Những bóng 75 watt thường có nhiệt độ đủ nóng để gây ra thiệt hại cho hầu hết các ổ cắm bóng đèn, sau
một khoảng thời gian. Nếu người thiết kế muốn độ tin cậy, họ buộc phải xử dụng công suất thấp hơn (tức
là 42 hay 50 watt).
Hộp đèn flood không đối xứng thay thế cho các thiết bị striplight. Thiết bị
này có một chóa phản
chiếu không đối xứng để 'đẩy' nhiều ánh sáng hơn về phía dưới chân của màn phông. Những thiết bị này
cũng có loại thiết bị có ngăn, 1, 2, 3, và 4 ngăn.
3) ÁNH SÁNG BỐI CẢNH - PHƯƠNG PHÁP
Thông thường, người thiết kế đang cố gắng để đạt được một loại ánh sáng mềm, phẳng, nhẵn, trên
toàn bộ bối cảnh. Bối cảnh có thể được chiếu sáng
từ phía trên, chỉ từ phía dưới, hay từ cả trên và dưới
cùng một lúc. Cyclorama (màn vây) thường được chiếu sáng với ánh sáng ba (3) màu từ trên và dưới.
Trong khía cạnh này, nó có thể cung cấp một phạm vi rộng các kỹ xảo như bầu trời động, xử dụng các
màu sắc khác nhau từ trên và dưới.
Bối cảnh cũng có thể được chiếu sáng phía trước hay chiếu phía sau bằng máy chiếu hình. Đôi khi
bối cảnh được chiếu với đám mây
di chuyển bằng gobos, hay với các vệt, dấu gạch chéo hay các hiệu
ứng đối xứng hay không đối xứng khác.
2.09 - ĐẶC ĐIỂM VÀ ĐẶC BIỆT
(FEATURES AND SPECIALS)
1) ÁNH SÁNG ĐẶC ĐIỂM
Ánh sáng đặc điểm (hay đặc biệt) là thiết bị
ánh sáng được xử dụng cho các ứng dụng rất đặc
trưng - hơn so với ánh sáng khu vực diễn xuất và
ánh sáng bối cảnh Thông thường chúng được
dùng để bổ sung cho ánh sáng khu vực nói chung
hay cung cấp các hiệu ứng ánh sáng cụ thể.
Một “đặc biệt' có thể bao gồm một thiết bị có tiêu điểm rõ tập trung vào khuôn mặt của một đồng hồ
hay một bức tranh treo trên sân khấu. Điều này có thể cho phép người thiết kế giảm chiếu sáng chung và
“đặc điểm” hay thu hút sự chú ý cho bất kỳ đối tượng hay một phần của sân khấu. (Một thủ thuật rẻ tiền,
nhưng hiệu quả!)
Điều này cũng thức hiện với các diễn viên. Nếu ba diễn viên, ngồi tại một cái bàn và chiếu sáng
mỗi
người với một tiêu điểm rõ "đặc biệt", nó sẽ có thể trực quan thay đổi sự chú ý từ một diễn viên này sang
diễn viên khác, hay cân bằng tất cả 3 người như nhau. Việc xử dụng các đặc biệt cho các diễn viên cũng
bảo đảm cho họ sẽ được chiếu
sáng khi cần thiết, vì lý do kịch tính.
2) ÁNH SÁNG ĐẶC ĐIỂM – THIẾT BỊ
Đèn phản chiếu hình elip (ER) thường là thiết bị khi lựa chọn cho các đặc điểm và đặc biệt. thiết bị
góc hẹp E.R điển hình được xử dụng luồng tỏa 5-20 độ. Những thiết bị này thường được xử dụng với màn
trập (framing shutter), tròng mắt (iris), hay với các thiết bị luồng định hình
khác - để chỉ cho ánh sáng thoát
ra khi cần thiết. Cạnh chùm tia có thể được điều chỉnh từ "cứng" đến "mềm" tùy thuộc vào mục tiêu thiết
kế.
Đôi khi chùm tia máy chiếu và đèn PAR loại ”pinspot” này cũng thích hợp để xử dụng cho đặc biệt.
Những thiết bị góc hẹp này chỉ có thể cung cấp một chùm tia cạnh mềm, thường là một hình hơi bầu dục.
Khi người thiết kế xử dụng đặc biệt cho
người biểu diễn, phải có đủ thời gian trong buổi diễn tập
ánh sáng để cho phép các diễn viên “tìm ánh sáng của ông ấy” và tự tin rằng ông có thể “trên điểm đánh
dấu” mỗi lần diễn. Một diễn viên mà đi ra khỏi đặc biệt cô lập của mình thường làm cho tất cả mọi người
nhìn thấy xấu, nên dành thêm thời gian để làm cho đặc biệt thực hiện.
2.10 – PHƯƠNG PHÁP BÍ MẬT (SECRET)
1) PHƯƠNG PHÁP BÍ MẬT CỦA THIẾT KẾ ÁNH SÁNG
Có thể không có một phương pháp cho
ánh sáng sân khấu hay có thể không có “quy
tắc” cho thiết kế ánh sáng - Tuy nhiên, có "bí
mật" cho thiết kế ánh sáng tốt. Bí mật là: KIẾN
THỨC (KNOWLEDGE), HIỂU BIẾT
(UNDERSTANDING), KINH NGHIỆM
(EXPERIENCE), và TRÌNH ĐỘ
(PROFICIENCY). Nhiều thiết kế ánh sáng có
thể "thử nghiệm" phương pháp tiếp cận, và chỉ
cần cố gắng, không có phương pháp thực tế,
hay khái niệm về những
gì họ đang cố gắng để
đạt được. Đôi khi phương pháp này cho kết quả
rực rỡ và ngoại lệ. Nhiều hơn thì thường không
có. Thử nghiệm rất quan trọng cho những
người thiết kế ánh sáng và tất cả người thiết kế
nên thử những điều mới bất cứ khi nào có thể.
Đó là thông qua một cách tiếp cận có hệ thống, tuy nhiên các người thiết kế ánh sán
g sẽ có thể cung cấp
kết quả dự đoán và nhất quán trong bất kỳ số lượng tình huống khác nhau nào.
Người thiết kế phải biết những gì họ đang chiếu sáng và họ muốn chương trình thể hiện ra như thế
nào. Người thiết kế phải rất quen thuộc với kịch bản và tất cả yêu cầu về ánh sáng của chương trình. Họ
phải xử dụng những phẩm c
hất của ánh sáng và mục tiêu của ánh sáng sân khấu để cho phép anh ta hình
dung đầy đủ, diễn đạt và xác định khái niệm thiết kế và ý định của mình.
Người thiết kế phải có một sự hiểu biết đầy đủ các loại khác nhau của thiết bị đèn, được xử dụng ở
các vị trí ánh sáng khác nhau (một mình và kết hợp). Họ phải biết những vị trí ánh sáng trong chương trình
FRONTLIGHT, SIDELIGHT, DOWNLIGHT, BACKLIGHT, UPLIGHT và DIAGONA - trong sự kết hợp bất
kỳ. Đây
là các khối xây dựng của thiết kế ánh sáng và thiết kế theo bản năng phải biết những dùng thiết bị
nào và đặt hướng nào. Điều này chỉ đến từ kinh nghiệm.
Người thiết kế cũng phải biết làm thế nào để nhận ra THỰC TẾ (PRACTICALLY) thiết kế của họ
trong một nhà hát thực tế hay không gian biểu diễn. Các người thiết kế phải biết chỗ rọi sáng
và chi tiết
của tất cả các vị trí ánh sáng. Họ phải biết thiết bị nào cần thiết để nhận ra hình ảnh trực quan của chương
trình và xử dụng nó. Họ phải biết rất nhiều phương pháp thiết kế có sẵn, (nguồn, điểm nguồn đơn, đa
nguồn, v.v) và họ phải chọn phương pháp nào sẽ đáp ứng cả hai tiêu chí thiết kế của mình - và ngân sách.
Thiết kế ánh sáng không phải là một nghệ thuật đơn độc. Người thiết kế phải học cách cộng tác với
các thành viên khác của nhóm và đội sản xuất thiết kế. Trong khía cạnh này của người thiết kế “kỹ năng
con người -human kill” có thể thực hiện hay phá vỡ toàn bộ thiết kế ánh sáng. Các người thiết kế ánh sáng
chuyên nghiệp phải quan tâm với THỦ TỤC (PROCEDURE). Tuy nhiên, họ cũng phải quan tâm đến KẾT
QUẢ (RESULT) - và biết làm thế nào để có được nó.
PHẦN 3 - Ứng dụng các phương pháp thiết kế
3.01 Sân khấu
3.02 Nhà hát
3.03 Múa
3.04 Opera
3.05 Âm nhạc
3.06 Hòa nhạc
3.07 Arena
3.08 Ngoài trời
3.09 Trưng bày
3.10 Truyền hình & Video
3.11 Ảnh & Nhiếp Ảnh
3.12 Film & Picture Motion
3.13 Bảo tàng / Thư viện ảnh
3.14 Kiến trúc
3.15 Cảnh quan
3.01 - THIẾT KẾ ÁNH SÁNG SÂN KHẤU
1.) GIỚI THIỆU
Theo truyền thống, khi chúng ta nói về ánh
sáng sân khấu, chúng ta thường nghĩ đó là ánh
sáng áp dụng cho chương trình của sân khấu
“chính thống” diễn ra trong một nhà hát thực tế. Khi
biểu diễn nghệ thuật và giải trí phát t
riển trong suốt
những năm 1900, ánh sáng sân khấu đã làm được
nhiều hơn so với “chỉ chơi ánh sáng”. Ánh sáng mới
đặc thù được sinh ra và các tiêu chuẩn ánh sáng
mới đã được thiết lập, opera, ballet, múa hiện đại,
hòa nhạc trực tiếp, trượt băng, chương trình công
nghiệp, truyền hình và những trình diễn “sống-live”
khác. ÁNH SÁNG SÂN KHẤU với sự điều khiển và các ứng dụng ánh sáng đã làm cho khán giả có cảm
xúc và quan tâm nhiều hơn mà chỉ cần chiếu sá
ng sân khấu cho đạt được tầm nhìn.
Hiện nay sự biểu diễn hiện đại có những phương tiện phong cách biểu diễn đa dạng hoạt động bên
trong chúng. Tiện nghi bao gồm nhiều loại nhà hát, khán phòng, phòng hòa nhạc, quảng trường (arena)
lớn, sân vận động, trung tâm mua sắm và những địa điểm thông thường và không thông thường khác.
Hầu hết các sự kiện thương mại (sân khấu, múa, nhạc kịch) thường diễn
ra trong một nhà hát thực
tế. Đây là một điều rất tốt, một nhà hát chỉ kiểm soát môi trường có thể chịu được các yêu cầu đòi hỏi về
dàn dựng, khán giả thoải mái, âm thanh và ánh sáng hy vọng sẽ thích hợp.
Ngày nay ngày càng có nhiều show rời khỏi nhà hát và vào quảng trường. Khán giả ở quảng
trường lớn có thể tạo ra doanh thu nhiều hơn mà chỉ cần một show duy nhất, tuy nhiên điều kiện trong hầu
hết các quảng trường thường ít lý tưởng hơn nhiều. Để cung cấp cho khán giả ánh sáng (và âm thanh) tốt
nhất có thể trong không gian này có nhiều vấn đề, thường có nhu cầu một lượng lớn thiết bị. Một chương
trình đơn giản trong một nhà hát có
thể yêu cầu 24-100 đèn. Các chương trình tương tự trong một quảng
trường có thể yêu cầu 300-500 thiết bị ánh sáng. Show cho quảng trường (arena) đã trở nên có công nghệ
rất cao, đầy nhiệt huyết và rất sáng tạo trong những năm gần đây. Các công cụ mới bao gồm các thiết bị
ánh sáng tự động và thay đổi màu sắc đã mang lại một chiều hướng mới cho thiết kế ánh sáng sân khấu,
không bao giờ nhìn thấy trước đây.
Ngày nay, người thiết kế ánh sáng sân khấu đã phát triển thành NGƯỜI THIẾT KẾ ÁNH SÁNG
GIẢI TRÍ. Thế hệ mới của người thiết kế thường sẽ làm việc trong nhiều địa điểm, thực hiện các phép lạ
liên tục cho một số lượng vô tận các sự kiện khác nhau. Sau đây là tổng quan chung của các phương
pháp ánh sáng cơ bản đối với một số điểm về hiệu suất và không hiệu suất của các
ngành công nghiệp
liên quan. Về thông tin, chúng nó cũng bao gồm: ánh sáng trưng bày, ánh sáng kiến trúc, ánh sáng cảnh
quan, ánh sáng chụp ảnh và ánh sáng cho bảo tàng và phòng trưng bày.
3.02 - THIẾT KẾ ÁNH SÁNG NHÀ HÁT
1.) Ánh Sáng Sân Khấu
Ánh sáng cho nhà hát thường có nghĩa là thiết kế trên một phạm vi rộng các loại hình khác nhau
của chương trình, trình diễn trong các nhà hát hay không gian được thiết kế để có chức năng như một nhà
hát. Chương trình có thể bao gồm nhiều loại kịch, hài kịch, bi kịch, nhạc kịch, hòa n
hạc và kịck ngắn. Nhà
hát “điển hình'” có thể từ một loại ngoài phông màn truyền thống của nhà hát, từ một "sự đột phá", một sân
khấu 3 mặt, sân khấu 4 mặt hay sân khấu không có mặt nào cả. Chỗ ngồi có thể dao động từ 200 chỗ ngồi
trong một nhà hát nhỏ đến hơn 2.500 chỗ ngồi trong một khán phòng lớn cấp thành phố.
Chương trình nhỏ trong hội trường công cộng có
thể xử dụng 12 - 20 đèn. Một chương trình
chuyên nghiệp điển hình có thể xử dụng 48 - 200 thiết bị. Hiện nay không phải là hiếm khi một “mega-
musical” lớn xử dụng 500 thiết bị hay nhiều hơn. Show Broadway của “Lion King” hình như xử dụng 700
thiết bị.
2.) VỊ TRÍ TREO ĐÈN Ở NHÀ HÁT
Ánh sáng sân khấu có hiệu quả phụ thuộc rất nhiều vào các vị trí lắp đặt thiết bị có sẵn trong không
gian. Hầu hết các nhà h
át thường có vị trí lắp đặt ánh sáng cố định (hay ống tube). Một số thường được
cài đặt ở vị trí chiếu sáng bên trên chỗ ngồi khán giả phía trước sân khấu (đôi khi được gọi là "Ceiling
Coves”). Các vị trí ánh sáng trong khán phòng thường bao gồm “Box boom” (ống thẳng đứng liền kề với
các phiӘa ngoaӗi maӗn) và một “Balcony Rail”). Tất cả ánh sáng nằm trong khán phòng được gọi là ánh sáng
“FOH” (Front of House).
Các vị trí khác được cài đặt ở trên sân khấu và thường bao gồm một mạng lưới đường ống tube
cố
định hay một hệ thống ống tube cơ giới hóa (hay đối trọng - counterweight). Khoảng cách chiếu sáng (sân
khấu) thường nằm trong khoảng 30-80 feet cho các thiết bị gắn trên đầu khán giả, và 20-40 feet cho các
thiết bị gắn trên sân khấu. Thiết bị ánh sáng bổ sung thường được đặt trên sàn sân khấu để “chiếu ngược-
uplight” lên phông nền, hay footlight (ít dùng hơn trong những năm gần đây). Việc xử dụng “Box boom”,
“Sào cánh gà-tormentor boom” và ”s
ào sân khấu-stage boom” di động như một phương pháp gắn cố định,
cũng khá phổ biến.
3) ÁNH SÁNG NHÀ HÁT - KỸ THUẬT
Hầu hết các phương pháp ánh sáng sân khấu đều “lỏng lẻo-loosely” dựa vào phương pháp
McCandless, trước tiên chiếu sáng diễn viên cho tầm nhìn, sau đó chiếu sáng phong cảnh, và bối cảnh cho
bầu không khí và sự quan tâm. McCandless cũng đưa ra một phương pháp đơn giản của ánh sáng KHU
VỰC cho sân khấu phiӘa ngoaӗi maӗn. Phương pháp này phân chia các sân khấu ra một số khu vực nhỏ hơn
và sau đó cung cấp cho mỗi khu vực 2 frontlight được gắn một số thiết bị khoảng cách cách nhau. Thiết bị
phải được đặt chính xác để cung cấp các góc độ ánh sáng thích hợp và hướng ánh sáng vào diễn viên.
Khu vực cũng phải được kiểm soát về kích thước, để tránh ánh sáng không cần thiết “tràn-spill” trên các
khu vực hay phông cảnh liền kề. Một loại ánh sáng phía trước góc 70 độ (ngang) đến một diễn viên có thể
khá phù hợp với chương trình, trong khi một góc dưới 50 độ có thể phù
hợp hơn cho một vở kịch hài. Nếu
tất cả các diễn viên đều đội nón, thì có thể cần đặt ánh sáng phía trước không quá 45 độ, để cung cấp
thêm ánh sáng cho khuôn mặt của họ.
4.) LOẠI THIẾT BỊ CHO NHÀ HÁT
Người thiết kế phải cẩn thận lựa chọn thiết bị làm việc có hiệu quả từ một vị trí chiếu sáng cụ thể
(khoảng cách). Đối với hầu hết các ứng dụng ánh
sáng sân khấu tổng quát, người thiết kế sẽ làm việc với
chỉ năm (5) loại thiết bị cơ bản. Tuy nhiên, mỗi loại có sẵn một vài loại công suất, đường kính thấu kính và
luồng sáng tỏa khác nhau. Các loại thiết bị cơ bản được xử dụng cho ánh sáng trong nhà hát là:
FRESNEL, SPOTLIGHT ELLIOSOIDAL PAR, BOX FOODLIGHT và STRIPLIGHT. Công suất điển hình là
500-2000 watt. FOLLOWSPOT cũng đôi khi được xử dụng cho các vở kịch cách điệu, hài kịch.
3.03 - THIẾT KẾ ÁNH SÁNG CHO MÚA (DANCE)
1.) ÁNH SÁNG CHO MÚA
Ánh sáng cho múa có nghĩa là cho tất cả
các dạng thức trình diễn múa, bao gồm: Ballet,
Hiện đại và Đương đại. Các dạng thức truyền
thống hơn của múa thường được trình bày theo
các điều kiện kiểm soát của một nhà hát thích
hợp, với cơ sở vật chất kỹ thuật và ánh sáng
hoàn chỉnh. Các hình thức khác của múa (Hiện
đại và Đương đại) có thể được thoải mái
trong
không gian "tìm thấy-found" hay không quy ước
(nonconventional). Trong khía cạnh này các địa
điểm cho bộ môn múa có phạm vi từ phiӘa ngoaӗi
maӗn nhà hát thanh lịch, đến tầng hầm nhà thờ
và đến cả các trung tâm mua sắm.
2) ÁNH SÁNG CHO MÚA - KỸ THUẬT
Ánh sáng thông thường thì chú tâm đến chiếu sáng mặt của diễn viên cho tầm nhìn. Ánh sáng múa
trước hết quan tâm đến chiếu sáng dạng thức con người, nhấn mạnh đến tính tạo hình, sự thích thú và
tác động cảm xúc và thứ hai mới đến khả năng
hiển thị khuôn mặt. Trong nhà hát, ánh sáng mặt tiền
thường cung cấp ánh sáng chính cho các khu vực diễn xuất. Ở Múa, ánh sáng hai bên lại là một nguồn
chiếu sáng chính. Ánh sáng mặt tiền (frontlight), nếu được dùng, tất cả thường được dành cho việc cung
cấp wash màu hay kỹ xảo.
Ánh sáng hai bên cạnh cho múa đã được giới thiệu bởi Jean Rosenthal, một người thiết kế ánh
sáng nổi tiếng của Mỹ vào đầu những năm 1940. "Hệ thống của tôi yêu cầu sào ánh
sáng cố định dọc theo
cạnh bên ở mọi lối vào, là một cơ sở cho sự linh hoạt và chiếu sáng toàn bộ sân khấu. Điều đó làm những
điệu múa ballet nhìn khác nhau, đã khích động biên đạo múa và người thiết kế châu Âu cho “Ballet
International vào năm 1944". (Rosenthal, The Magic of Light). Bà Rosenthal cũng đã làm việc với biên đạo
múa người Mỹ nổi tiếng, Martha Graham, trong nhiều năm.
Ngoài việc xử dụng rộng rãi ánh sáng bên, ánh sáng múa thường xử dụng “downlight” (tạo vũng
sáng), và "backlight" (tạo bóng vũ công). Ánh sáng mặt tiền hiếm k
hi được xử dụng do đặc điểm “phẳng-
flat” của nó, và vị trí này thường được dành riêng cho loại ánh sáng “colors wash”. Followspot cũng thường
được xử dụng trong Ballet để làm nổi bật các vũ công chính.
Kỹ thuật ánh sáng hai cạnh bên, thường đòi hỏi bố trí các sào ánh sáng theo chiều dọc trong mỗi
“chân cánh gà” hay lối vào. Thông thường có thể yêu cầu 4-6 sào (mỗi bên). Mỗi sào có thể có một (1) thiết
bị ánh sáng hay hơn (thường là 3-5). Các thiết bị (thường là ellipsoidals) có tiêu điểm thẳng qua sân khấu,
và thường dùng “màn trập-shutter” off, ở phía đối diện, nơi bị sân khấu che đi.
Một bộ gồm ba (3) sào thiết bị điển hình, có thể gắn thiết bị ở độ cao 10'
, 8’ và 1 ft, so với sàn sân
khấu. Các thiết bị thường ở vị trí TOP, MID hay SHIN (ống quyển). Các thiết bị TOP và MID thường được
xử dụng cho ánh sáng cạnh bên. Thông thường TOP và MID sẽ có bộ lọc màu khác nhau. Đèn bên dưới
(ống quyển hay giữa ống quyển) được xử dụng truyền thống cho ánh sáng chân của các vũ công ballet, và
để cho ra ánh sáng, dưới váy xòe (tutu). Người thiết kế vũ đạo hiện đại có thể xử dụng “ống quyển-shin”
như là nguồn chủ yếu cho một góc độ ánh sáng
không tự nhiên, thường có (nhiều) màu sắc mạnh. Nếu
dùng shutter off đúng cách với sàn sân khấu, hiệu ứng này có thể làm cho các vũ công hiện ra sẽ “nổi-
float” trên sàn sân khấu. Hiệu quả rất ấn tượng, đặc biệt là với màu sắc đối lập từ phía đối diện.
3.04 - THIẾT KẾ ÁNH SÁNG CHO OPERA
1.) ÁNH SÁNG CHO OPERA
Ánh sáng cho opera được xử dụng để ám
chỉ “opera lớn-grand'' truyền thống, tuy nhiên,
ngày nay nó
cũng có thể ám chỉ opera đương đại.
Như vậy, opera có thể trình diễn trong phòng hòa
nhạc vĩ đại nhất, hay chỉ trong một phần ngắn
của sân khúc côn cầu (hockey). Opera là về âm
nhạc, sân khấu, ca hát, diễn xuất và nhảy múa,
và thiết kế ánh sáng cho opera thường là một sự
kết hợp của kỹ thuật ánh sáng sân khấu múa và
sân khấu âm nhạc. May mắn thay cho các người
thiết kế ánh sáng, vì do sự cần th
iết âm thanh tốt,
hầu hết thiết kế opera chuyên nghiệp được thực
hiện trong nhà hát hay khán phòng hòa nhạc.
2) ÁNH SÁNG OPERA - KỸ THUẬT
Ánh sáng opera phải chiếu sáng ca sĩ cho rõ ràng, chú trọng tới các vũ công và dàn hợp xướng và
cảnh quan cho có “không khí”. Opera có thể chỉ là chiếu đơn giản và thẳng về phía trước, hay rất phức tạp
và cách điệu. Không phải là bất thường khi “tầm nhìn” xuất hiện từ trong “hư không-nowhere". Cũng không
phải bất thường để có “ma quỷ-de
vil” thường xuyên xuất hiện hay biến mất trong suốt chương trình. Người
thiết kế ánh sáng opera phải sẵn sàng cho việc này và còn nhiều hơn nữa.
“Quy mô” của ánh sáng opera thường có thể vượt quá tầm của ánh sáng nhà hát, múa, sân khấu
âm nhạc. Thông thường, opera sẽ xử dụng một không gian biểu diễn lớn. Sân khấu này thường lớn, bố trí
ánh sáng thường là một “high trim” ở 28'-35' và thường phải chiếu sáng một số lượng lớn phong cảnh.
Tiếp tục vấn đề phức tạp, thiết kế cho opera phải làm việc một cách nhanh chóng. Nói chung có ít
thời gian để “chiếu sáng-light” một opera hơn là cho một sân khấu âm nhạc, nhà hát hay chương trình
múa. Tập hợp diễn viên chuyên nghiệp và đội ngũ diễn viên phụ lại rất tốn kém (và quá nhiều người) và
người thiết kế ánh sáng opera thường chỉ có một hay hai buổi diễn tập ánh sáng, trước khi mở chương
trình.
Hầu hết các
ca sĩ opera giống như con bướm đêm và họ có khuynh hướng hút hướng chiếu tới của
ánh sáng. Họ hiếm khi bỏ lỡ sự đặc biệt của họ và nếu họ làm, họ "tìm ánh sáng của họ” rất tốt và nhanh.
Người thiết kế đã học được rằng không có vấn đề các đạo diễn có thể ngăn chặn (block) một vở opera
như thế nào, hầu hết các ngôi sao opera sẽ ở vị trí dưới sân
khấu (downstage) - ở phía trước nhạc trưởng,
trong hầu hết thời gian.
Bên cạnh đạo diễn opera, là Maestro (nhạc trưởng) chạy chương trình. Nhạc trưởng là một thành
viên rất quan trọng của đội ngũ nghệ thuật và có liên quan với sự việc các ca sĩ và nhạc sĩ kết hợp âm
thanh lại với nhau bằng cách nào. Trong khi biểu diễn, phải chú ý đến Maestro khi ông ta vào hố dàn nhạc.
Hơn nữa bắt buộc các ca sĩ và nhạc sĩ, tất cả đều có thể thấy rõ ràng bàn tay của Maestros tại tất cả các
thời điểm. Trong khía cạnh này, Downlight thường
được dùng từ trên cao, chiếu sáng toàn người của nhạc
trưởng, cánh tay và bàn tay của nhạc trưởng.
Thường giả định rằng, người thiết kế ánh sáng opera phải nghe quen âm nhạc và thuộc vở opera
mà họ đang làm ánh sáng, dĩ nhiên trừ khi chỉ mới bắt đầu làm ánh sáng cho một vở opera. Bắt buộc phải
có kiến thức về opera là và thường phải giả định khi người thiết kế là người làm thuê. Nếu người thiết kế
không biết về opera, họ có
một cơ hội lớn để có bản tổng phổ và bản ghi âm (CD, Video, v.v) và dần quen
thuộc với nó ngay cả trước khi họ tham dự buổi diễn tập đầu tiên của mình. Bảng tổng phổ (score) và ghi
âm (recording) sẽ cung cấp sự hỗ trợ có giá trị: phân tích cảnh (scene breakdown), tâm trạng & không khí,
ngăn chặn (blocking) và “cái nhìn ánh sáng-lighting looks" tổng quát.
3.05 - THIẾT KẾ ÁNH SÁNG NHẠC KỊCH
1.) ÁNH SÁNG NHẠC KỊCH
Ánh sáng cho "âm nhạc", thường đề cập đến
ánh sáng sân khấu cho chương trình nhạc kịch quy
mô lớn (tại Broadway hay West End). Chương trình
cổ điển bao gồm: "Dolly", "My Fair Lady", "The King
& I”, ”Oklahoma “, “Showboat”, “Guys & Doll”, “Sound
of Music", “Annie” v.v. Những vở nhạc kịch khác
đương đại bao gồm: “Lion King","Phantom of the
Opera", "Cats ", và còn nhiều nữa.
Nhạc kịch điển hình chứa các yếu tố của kịch, múa, ca hát và âm nhạc. Một nhạc kịch nhỏ có thể
có một dàn diễn viên chỉ 4 người biểu diễn và 2 nhạc sĩ. Một n
hạc kịch lớn có thể có một dàn diễn viên 5-
10, diễn viên và vũ công và 50 nhạc sĩ. Vở nhạc kịch “di chuyển-move” nhanh chóng và thường có nhiều
cảnh và địa điểm khác nhau.
Chương trình nhạc kịch thông thường diễn ra phiӘa ngoài maӗn của nhà hát, với dàn nhạc nằm trong
hố nhạc. Thông thường, nhà hát không bao giờ lớn, chỉ đủ để đáp ứng số lượng đầy đủ cảnh qu
an, ánh
sáng, diễn viên, nhạc sĩ, và những gi cần thiết.
Nhạc kịch thường có cấu trúc với nhiều scene thay thế, biểu diễn ở downstage với một phông nền
khác. Điều này cho phép một scene đầy đủ đã được "cài sẵn-preset" upstage. Khi thả xuống, chúng ta
chuyển thần kỳ sang một thiết lập một sân khấu mới.
2) ÁNH SÁNG NHẠC KỊCH - KỸ THUẬT
Hầu hết các vở nhạc kịch “cổ điển'” cố gắng cho
tính hiện thực. Đó là, nhiều scene được thiết kế
quá hoang phí, rất giống thực tế và nội tâm hay biểu lộ khá xác thực. Về mặt này, ánh sáng được dự kiến
sẽ tạo ra một tâm trạng, không khí và biểu thị cụ thể của thời điểm trong ngày. Thường thì thông tin này
cũng được cung cấp bởi lời bài hát và kịch bản.
Ngoài ra, các yếu tố của chủ nghĩa hiện thực được mong đợi bởi khán giả, nhạc kịch
cũng có các
yếu tố tưởng tượng và bất ngờ. Không phải là hiếm nếu suốt một bài hát, người biểu diễn bị hoàn toàn cô
lập với đèn follow-spot, và sau đó đột nhiên "trở lại thực tế” ở cuối bài hát. Yếu tố khác có thể là để lấp đầy
chương trình, với giàn đồng ca và các vũ công có yêu cầu thay đổi ánh sáng nhanh đầy màu sắc
xuyên
suốt vở kịch.
Thông thường, nhạc kịch xử dụng followspots rất nhiều. Điều này cần thiết nếu diễn viên muốn
được cô lập trong nhóm âm nhạc, và đặc trưng trong cảnh "ưa thích-book". Thường xử dụng hai (2) đến
năm (5) followspots, từ trên trần của khán phòng. Followspots cũng đôi khi được dùng từ phía sau vòm
bên ngoaӗi maӗn (bridge spot) để cung cấp một góc chiếu sáng dốc hơn cô lập nhiều hơn cho sân khấu.
Kỹ thuật ánh sáng cho âm nhạc đa dạng. Khả năng hiển thị thường được cung cấp bởi followspots.
“Khu vực ánh sáng” thường cung cấp cho "cảnh ưa thích -book scenes", màu sắc; wash, sidelight và
backlight thường được cung cấp cho chương trình và nhóm múa. Phông nền và màn vây được chiếu sáng
để có sự quan tâm và tâm trạng. Nhạc kịch thường có ánh sáng “quyến rũ” (hay có hiệu ứng) mức độ cao.
Strobes, neon, đèn hiệu
(beacon), tracking bulb, trái châu, v.v, tất cả đều bình thường.
3.06 - THIẾT KẾ ÁNH SÁNG HÒA NHẠC (CONCERT LIGHTING)
1.) ÁNH SÁNG HÒA NHẠC (CONCERT)
Năm 1960 là lĩnh vực tương đối
mới của thiết kế ánh sáng hòa nhạc (hay
giải trí) đã được sinh ra. Ở New York tại
Filmore East và ở California tại Filmore
West, âm nhạc phổ biến tổ chức thường
xuyên hơn và với điều đó, một phong cách
trình diễn mới đã được
sinh ra bởi nhà
thiết kế ánh sáng hòa nhạc nổi tiếng nhất
người Mỹ trước nay là Monk Chip. Tại
Filmore, ánh sáng hoạt động theo đúng
nghĩa đen bao gồm các người vận hành
thực sự "nhảy múa” trên một bức tường
của autotransformer dimmers đồng thời với
âm nhạc.
Nhiều buổi biểu diễn trước đây tại Filmore, Electric Circus và các nơi khác khắp nước Mỹ, được hỗ
trợ bởi một “light show”.
Một số hiệu ứng chiếu hình bắn phá một màn hình lớn phía sau những người biểu
diễn, tạo ra các mô hình ánh sáng năng động và liên tục thay đổi. Việc chiếu hình thường tạo ra những
quan điểm xung đột, hết sức dơ bẩn hay hoàn toàn tạo ảo giác và đặc sắc.
Thiết kế ánh sáng hòa nhạc đã trở thành một đặc trưng được công nhận và nhiều người thiết kế chỉ
làm việc trong lĩnh vực này mà thôi.
vẫn áp dụng các nguyên tắc cơ bản để thiết kế, chỉ khác là các đồ chơi
lớn hơn, và đắt tiền hơn.
2) ÁNH SÁNG HÒA NHẠC - KỸ THUẬT
Ánh sáng giải trí ngày nay đã trở nên rất thú vị. Ngành công nghiệp này bây giờ gần như độc quyền
xử dụng thiết bị ánh sáng “tự động-automated”. vẫn xử dụng thiết bị thôn
g thường, tuy nhiên ít và ít thường
xuyên hơn. thiết bị PAR 64 vẫn còn rất phổ biến cho ánh sáng hòa nhạc, thiết bị này khá hiệu quả và
tương đối rẻ tiền. Nó không phải là không phổ biến nếu kết hợp với color change, hiệu ứng chuyển động,
hình ảnh và chiếu nền, panel mành hình, strobes, Blacklight, fog, pyro, ánh sáng đuổi và các hiệu ứng hình
ảnh khác. Giới hạn của bầu trời uh giới hạn của ngân sách.
Thông thường tất cả cá
c thiết bị được điều khiển bằng tín hiệu DMX từ một vị trí trung tâm. Ánh
sáng hòa nhạc xử dụng các thiết bị tự động phụ thuộc rất nhiều vào hai người quan trọng – Người thiết kế
ánh sáng và người lập trình . Vị trí của “người lập trình-programmer” được sinh ra trong năm 1980 vì thiết
bị tự động bắt đầu có nhiều hơn và có công năng (và phức tạp) nhiều hơn nữa. Một người lập tr
ình tốt sẽ
hiểu rõ thiết bị của mình và có thể nhanh chóng xây dựng để có nhiếu “cái nhìn-looks” khác nhau, dựa trên
các tiêu chí cơ bản của người thiết kế. Một lập trình viên dở mang đến rất ít và có thể làm cho một triệu đô
la của thiết bị xem như mười xu! Cách khác, người một lập trình tốt có thể tạo ra kết quả tuyệt vời với rất ít
thời gian và thiết bị.