CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
(Trích “Truyền kì mạn lục” – Nguyễn Dữ)
1. Nguyễn Dữ người làng Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải
Dương. Không rõ ông sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống ở thế kỉ XVI, thời kì triều đình nhà
Lê đã bắt đầu suy thoái, các tập đoàn phong kiến Lê, Mạc, Trònh tranh giành quyền lực, gây ra các
cuộc nội chiến kéo dài. Nguyễn Dữ học rộng tài cao. Theo Lê Quý Đôn trong “Kiến văn tiểu lục”
(1777), Nguyễn Dữ thi hương đỗ hương cống, thi hội trúng kì đệ tam, được bổ làm tri huyện Thanh
Tuyền (nay là Bình Xuyên, Vónh Phúc). Nhưng ông chỉ làm quan có một năm rồi xin nghỉ về nhà
nuôi mẹ già và viết sách, sống ẩn dật như nhiều trí thức đương thời.
2. “Truyền kì mạn lục” (Ghi chép tản mạn những điều kì lạ được lưu truyền) được viết bằng
chữ Hán, gồm 20 truyện, khai thác từ các truyện cổ dân gian và các truyền thuyết lòch sử, dã sử của
Việt Nam. Các truyện được viết bằng tản văn xen lẫn biền văn và thơ ca, từ khúc, cuối mỗi truyện
thường có lời bình của tác giả. Nội dung tác phẩm có giá trò hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Tác giả
lấy xưa để nói nay, lấy cái “kì” để nói cái “thực”. Nhân vật chính trong các truyện thường là :
+ Những người phụ nữ đức hạnh, khao khát một cuộc sống yên bình, hạnh phúc, nhưng các thế
lực bạo tàn và cả lễ giáo khắc nghiệt lại xô đẩy họ vào những cảnh ngộ éo le, oan khuất, bất hạnh.
+ Những người trí thức có tâm huyết, bất mãn với thời cuộc, không chòu trói mình trong vòng
danh lợi chật hẹp.
3. “Chuyện người con gái Nam Xương” là truyện thứ mười sáu trong số hai mươi truyện của
“Truyền kì mạn lục”. Truyện có nguồn gốc từ truyện dân gian “Vợ chàng Trương”. Đây là câu
chuyện về số phận oan nghiệt của một người phụ nữ có nhan sắc, có đức hạnh dưới chế độ phụ
quyền phong kiến, chỉ vì một lời nói ngây thơ của con trẻ mà bò nghi ngờ, bò sỉ nhục, bò đẩy đến
bước đường cùng, phải tự kết liễu đời mình để bày tỏ tấm lòng trong sạch. Cũng giống như truyện
dân gian, truyện thể hiện mơ ước ngàn đời của nhân dân là “ở hiền gặp lành”, người tốt bao giờ
cũng được đền trả xứng đáng.
4. Truyện có thể chia làm 3 đoạn :
+ Đoạn 1 : từ đầu đến “lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”, nói về cuộc hôn nhân giữa Trương
Sinh và Vũ Nương, sự xa cách vì chiến tranh và phẩm hạnh của nàng trong thời gian xa cách.
+ Đoạn 2 : “Qua năm sau … nhưng việc trót đã qua rồi”, nói về nỗi oan khuất và cái chết bi thảm
của Vũ Nương.
+ Đoạn 3 : phần còn lại : Vũ Nương được cứu và sống ở thủy cung Linh Phi. Nỗi oan được giải
nhưng nàng quyết không trở lại trần gian.
5. Nhân vật Vũ Nương :
“Chuyện người con gái Nam Xương” là chuyện về nàng Vũ Nương – vợ chàng Trương Sinh :
“Vũ Thò Thiết, người con gái Nam Xương, tính đã thùy mò, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Nếu
truyện cổ tích thường chỉ thiên về cốt truyện và hành động của nhân vật, thì ở đây, dưới ngòi bút
sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Dữ, nhân vật hiện lên có đời sống, có tính cách rõ rệt hơn nhiều.
Tác giả đã đặt nàng Vũ Nương vào nhiều tình huống khác nhau để khắc họa tính cách nhân vật.
- Trang 1 -
5.1. Trong cuộc sống vợ chồng bình thường : chồng có tính đa nghi, nhưng nàng đã là một
người vợ tốt, biết giữ đạo làm vợ, lúc nào cũng “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ
chồng phải đến thất hòa”.
5.2. Khi tiễn chồng đi lính: nàng rót rượu tiễn chồng và nói những lời mà ai nghe cũng “đều ứa
hai hàng lệ”. Nàng không mong vinh hiển mà chỉ mong cho chồng được bình an trở về : “Chàng đi
chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm, trở về quê cũ, chỉ xin ngày
về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Đó là mong ước hết sức bình thường của một
người vợ, một người phụ nữ khao khát cuộc sống gia đình bình yên. Tình thương chồng còn thể
hiện qua sự cảm thông những vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chòu đựng : “Chỉ e việc quân khó
liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có…”,
qua nỗi khắc khoải nhớ nhung : “mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền
lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rũ bãi hoang, lại
thổn thức tâm tình, thương người đất thú ! Dù có thư tín ngàn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay
bổng”. Trong nỗi niềm của người vợ xa chồng, nàng cảm thông cho cả nỗi niềm của bà mẹ xa con.
5.3. Khi xa chồng: Vũ Nương là người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết. Tác giả đã miêu tả
thật xúc động nỗi buồn thương nhớ chồng khắc khoải triền miên theo thời gian : “Ngày qua tháng
lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân
trời không thể nào ngăn được”. Thời gian trôi qua, không gian cảnh vật thay đổi, mùa xuân vui tươi
– “bướm lượn đầy vườn”, mùa đông ảm đạm – “mây che kín núi”, còn lòng người thì chỉ dằng dặc
một nỗi buồn thương.
Nàng còn là người mẹ hiền, dâu thảo. Chồng đi chinh chiến xa xôi, một mình nàng vừa nuôi
con nhỏ, vừa chăm sóc mẹ chồng. Cách chăm sóc của nàng thật cảm động. Mẹ già đau ốm, “nàng
hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Lời trối trăng của
bà mẹ chồng trước khi mất chính là một sự ghi nhận nhân cách và đánh giá cao công lao của nàng
đối với gia đình nhà chồng : “Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống chết không khỏi phiền
đến con. Chồng con nơi xa xôi, chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được. Sau này, trời
xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, trời xanh kia quyết chẳng
phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Mẹ mất, “nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế
lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”. Nàng làm tất cả những việc đó không phải vì trách nhiệm
mà vì tình nghóa thực sự trong lòng.
Vũ Nương là người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam truyền
thống.
5.4. Khi bò chồng nghi oan :
+ Nàng một mực phân trần để chồng hiểu rõ lòng mình. Nàng nói về thân phận mình : “Thiếp
vốn con nhà kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”. Nàng nói về tình nghóa vợ chồng và khẳng đònh
tấm lòng thủy chung trong trắng của mình : “Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động
việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu
tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói”. Nàng cầu xin chồng đừng
nghi oan : “Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”.
Trong những lời nói ấy, Vũ Nương đã cố gắng tìm mọi cách để hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có
nguy cơ tan vỡ.
+ Vũ Nương hết lời phân trần nhưng Trương Sinh vẫn không tin, vẫn “mắng nhiếc nàng và đánh
đuổi đi”. Ngay đến cái quyền được tự bảo vệ mình, nàng cũng không có. Lời nói của nàng thâu
tóm tất cả những đau khổ của một đời phụ nữ. Hạnh phúc gia đình – “cái thú vui nghi gia nghi
- Trang 2 -
thất”, niềm khao khát của cả đời nàng đã tan vỡ. Tình yêu cũng không còn : “bình rơi trâm gãy,
mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió ; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân
cái én lìa đàn”. Ngay cả nỗi đau khổ chờ chồng đến hóa đá trước đây cũng không còn có thể làm
lại được nữa : “nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng phu kia nữa”.
+ Mọi cố gắng của Vũ Nương đều trở thành vô ích. Không thể giải được nỗi oan khuất, tất cả đã
tan vỡ, nàng đau khổ tuyệt vọng tìm đến cái chết để bày tỏ tấm lòng trong trắng, mượn nước sông
để rửa sạch tiếng nhơ oan ức. “Nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà
than rằng :
- Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chòu nhuốc nhơ,
thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước
xin làm ngọc Mò Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mó. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối
con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chòu khắp mọi người phỉ
nhổ”.
Lời than như một lời nguyền, xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và tiết sạch giá trong
của nàng, của một “kẻ bạc mệnh” đầy đau khổ. Hành động tự trẫm mình của nàng là một hành
động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự. Truyện cổ tích miêu tả việc tự tử của nàng như một
hành động bột phát trong cơn tuyệt vọng : “Vũ Nương chạy một mạch ra bến Hoàng Giang đâm đầu
xuống nước”. Trong tác phẩm của Nguyễn Dữ, hành động ấy có nỗi đau khổ tuyệt vọng nhưng
cũng có sự tham gia của lí trí. Có thể thấy rõ điều đó qua chi tiết nàng “tắm gội chay sạch” trước
khi quyên sinh, và lời nguyền của nàng rất rõ ràng, dứt khoát. Cái chết của Vũ Nương đẩy nỗi đau
khổ lên đến tột cùng.
Vũ Nương là một người phụ nữ xinh đẹp, thùy mò, nết na, hiền thục, lại đảm đang tháo vát, phụng
dưỡng mẹ chồng rất mực hiếu thảo, một dạ thủy chung với chồng, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia
đình. Nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, thế nhưng lại phải chết một cách oan uổng,
đau đớn. Câu chuyện về Vũ Nương đã thể hiện sâu sắc số phận bi kòch của người phụ nữ trong chế
độ phụ quyền phong kiến đầy bất công.
6. Nhân vật Trương Sinh :
6.1. Trương Sinh là “con nhà hào phú, nhưng không có học”. Trương lấy Vũ Nương nào phải là
tình yêu, mà chỉ là “mến vì dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về”. Mầm mống bi kòch
của Vũ Nương có lẽ đã bắt đầu từ những yếu tố này. Cuộc hôn nhân vốn đã không bình đẳng giữa
nam và nữ, lại thêm sự cách bức giàu nghèo : Vũ Nương “vốn con kẻ khó”, lấy Trương Sinh là
“được nương tựa nhà giàu”. Vũ Nương sẽ là nạn nhân của một chế độ đầy bất công.
6.2. Trong đời sống vợ chồng, Trương Sinh là người chồng “có tính đa nghi, đối với vợ phòng
ngừa quá sức”.
6.3. Hết chiến tranh, Trương Sinh trở về và đối diện với nỗi mất mát : mẹ già thương nhớ con
nên sinh bệnh và đã qua đời.
Trong hoàn cảnh và tâm trạng như thế, tính tình chàng càng dễ bò kích động. Lời nói ngây thơ
của con trẻ đã kích động tính ghen tuông của Trương. Tác giả đã xây dựng đoạn truyện này bằng
những chi tiết đầy kòch tính. Chàng bế con, “đứa trẻ không chòu, ra đến đồng, nó quấy khóc”. Chàng
dỗ dành, đứa con ngây thơ nói “Ô hay ! Thế ra ông cũng là cha tôi ư ? Ông lại biết nói, chứ không
như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít”. Lời nói được tách ra thành hai phần, phần sau thông tin càng
“ghê gớm” hơn phần trước. Làm sao Trương Sinh khỏi bàng hoàng khi biết đứa trẻ có những hai
người cha, người cha – Trương Sinh biết nói còn người cha trước kia “chỉ nín thin thít” ? Sau đó lại
thêm những thông tin : “một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi
- Trang 3 -
cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Tục ngữ có câu : “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”, trẻ con
bao giờ cũng nói thật. Những lời nói ngây thơ của đứa con khiến người ta không thể không nghó
đến cảnh tượng của một đôi gian phu dâm phụ, huống chi là Trương Sinh : “Tính chàng hay ghen,
nghe con nói vậy, đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được”. Cách
dẫn dắt tình tiết như vậy là rất chân thực và khéo léo.
Tuy nhiên, điều đáng trách là cách xử sự của Trương Sinh. Con người ít học này đã hành động
một cách quá nông nổi và hồ đồ. Không cần hỏi đến vợ nửa lời, vừa về đến nhà, chàng đã “la um
lên cho hả giận”. Chàng không còn bónh tónh để phân tích, phán đoán, mặc kệ những lời phân trần
của Vũ Nương, rồi “họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng, cũng chẳng ăn thua gì”.
Cách duy nhất để làm sáng tỏ mọi chuyện là giải quyết chính cái nguyên nhân gây xung đột : kể
lại câu chuyện của đứa trẻ. Nhưng điều tệ hại nhất là chàng cũng không cho nàng cơ hội để minh
oan khi nhất quyết “giấu không kể lời con nói”. Trương Sinh từ một người chồng độc đoán, ghen
tuông mù quáng, đã trở thành một kẻ vũ phu, thô bạo : “mắng nhiếc nàng, và đánh đuổi đi”. Hàng
động ấy đã bức tử Vũ Nương, đã buộc người phụ nữ đáng thương ấy phải chết một cách bi thảm.
Đáng giận hơn nữa là cái chết của Vũ Nương vẫn không thể làm cho Trương tỉnh ngộ để tin nàng
trong sạch. Chàng vẫn “giận là nàng thất tiết” và chỉ “động lòng thương”.
Nhân vật Trương Sinh là hiện thân của chế độ phụ quyền phong kiến bất công. Sự độc đoán,
chuyên quyền đã làm tê liệt lí trí, đã giết chết tình người và dẫn đến bi kòch.
7. Những yếu tố truyền kì :
Truyện cổ tích “Vợ chàng Trương” kết thúc ở chỗ thằng bé chỉ cái bóng trên tường, Trương
Sinh tỉnh ngộ và thấu nỗi oan của vợ. Kết thúc như thế đã là có hậu vì nỗi oan của Vũ Nương đã
được giải. Nguyễn Dữ thêm vào đoạn kết, đem lại cho tác phẩm sức hấp dẫn và những giá trò mới.
7.1. Câu chuyện ở trần gian đã chấm dứt, tác giả mở tiếp câu chuyện ở thế giới thần linh. Sức
hấp dẫn của đoạn truyện này, trước hết và chủ yếu, là ở những yếu tố hoang đường, yếu tố truyền
kì : Phan Lang nằm mộng thấy người con gái áo xanh, rồi thả rùa mai xanh ; Phan Lang lạc vào
động rùa của Linh Phi, được đãi tiệc yến và gặp Vũ Nương ; câu chuyện Vũ Nương được tiên rẽ
nước cứu mạng đưa về thủy cung ; Phan Lang được sứ giả Xích Hỗn rẽ nước đưa về dương thế ;
hình ảnh Vũ Nương hiện ra sau khi Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng ở bến Hoàng Giang,
lung linh huyền ảo với “một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ
tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện”, rồi sau đó “bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần
mà biến đi mất” trong chốc lát. Dẫu biết rằng đó chỉ là những yếu tố hoang đường, nhưng người
đọc vẫn cảm thấy gần gũi và chân thực bởi tác giả đã khéo kết hợp với những yếu tố thực về đòa
danh , về thời điểm lòch sử, sự kiện và nhân vật lòch sử, những chi tiết về trang phục của các mó
nhân và Vũ Nương, câu chuyện của Phan Lang về tình cảnh nhà Vũ Nương sau khi nàng mất.
7.2. Ý nghóa của những yếu tố truyền kì :
+ Trước hết, những yếu tố truyền kì có ý nghóa hoàn chỉnh thêm nét đẹp của nhân vật Vũ Nương.
Dù đã ở thế giới khác, nàng vẫn nặng tình với cuộc đời, vẫn quan tâm đến chồng con, phần mộ tổ
tiên, thương nhớ quê nhà. Khi nghe Phan Lang nói về tình cảnh quê nhà, nàng “ứa nước mắt khóc,
rồi quả quyết đổi giọng mà rằng :- Có lẽ, không thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi, để mang tiếng
xấu xa. Vả chăng, ngựa Hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về
có ngày”.
Và dù không còn là con người của trần gian, nàng vẫn còn đó nỗi đau oan khuất, vẫn khao
khát được phục hồi danh dự : “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghóa cũ,
xin lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về”.
- Trang 4 -
+ Điều quan trọng hơn, là những yếu tố truyền kì đó đã tạo nên một kết thúc có hậu cho tác
phẩm, thể hiện mơ ước ngàn đời của nhân dân về lẽ công bằng : người tốt dù có trải qua bao oan
khuất, cuối cùng cũng được đền trả xứng đáng, cái thiện bao giờ cũng chiến thắng.
Tuy nhiên, kết thúc có hậu vẫn không làm giảm đi tính bi kòch của tác phẩm. Vũ Nương trở về
uy nghi, rực rỡ nhưng chỉ thấp thoáng, lúc ẩn lúc hiện ở giữa dòng sông. Sau lời tạ từ đầy ngậm
ngùi “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa”, “trong chốc lát, bóng nàng loang
loáng mờ nhạt dần mà biến mất”. Nàng không thể trở lại trần gian, thực ra đâu phải chỉ vì cái nghóa
với Linh Phi : “Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ”, mà điều chủ yếu
là nàng chẳng còn gì để trở về. Đàn giải oan chỉ là một chút an ủi cho người bạc phận chứ không
thể làm sống lại tình xưa. Nỗi oan đã được giải, nhưng hạnh phúc thực sự đâu có thể tìm lại được
nữa. Sự dứt áo ra đi của Vũ Nương biểu hiện thái độ phủ đònh cõi trần thế với cái xã hội bất công
đương thời, cái xã hội mà ở đó người phụ nữ không thể có hạnh phúc.
Điều đó càng khẳng đònh niềm thương cảm của tác giả đối với số phận bi thảm của người phụ
nữ trong chế đôï phong kiến.
So vơi truyện dân gian, kết thúc truyện của Nguyễn Dữ cũng làm tăng thêm sự trừng phạt đối
với Trương Sinh. Vũ Nương không trở về, Trương Sinh càng phải cắn rứt ân hận vì lỗi lầm của
mình.
“Chuyện người con gái Nam Xương” khẳng đònh nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam,
đồng thời cảm thương cho số phận nhỏ nhoi, đầy tính chất bi kòch của họ dưới chế độ phong kiến.
Đây là một áng văn hay, thành công về mặt dựng truyện, dựng nhân vật, kết hợp cả tự sự, trữ tình
và kòch.
- Trang 5 -