BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA SAU ĐẠI HỌC
QUẢN TRỊ RỦI RO
Tiểu luận
ỨNG DỤNG CÁC CÔNG CỤ PHÁI SINH TRONG VIỆC QUẢN TRỊ RỦI RO GIÁ XĂNG DẦU 
HIỆN NAY TẠI VIỆT NAM
 
Giảng viên hướng dẫn: TS.Mai Thu Hiền
 Nhóm thực hiện: Nhóm 5
 72. Nguyễn Huy Thành
33.Nguyễn Thị Mai Hương
52. Đinh Văn Nghị
76. Nguyễn Thị Minh Thu
88. Đỗ Quang Tùng
 Lớp: TCNH 19A
Hà Nội - Năm 2013
PHẦN MỞ ĐẦU
Việt Nam đang tiến hành xây dựng nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà 
nước. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phải tăng cường các hoạt động nhằm phục 
vụ cho nhu cầu của người dân, đồng thời phải cạnh tranh với nhau giữa các doanh 
nghiệp trong nước và nước ngoài. Việc bình ổn giá trong xu thế thị trường hiện nay là 
một vấn đề rất quan trọng trong việc ổn định và phát triển nền kinh tế, kìm chế lạm phát 
cao của nền kinh tế. Nhu cầu tiêu dùng cũng như sản xuất tiêu dùng ngày càng tăng, 
nhiều ngành nghề phải chịu sự tác động của sự biến động giá cả. Mặt hàng xăng dầu là 
một nhân tố mà mỗi quốc gia đều phải sử dụng cho nhu cầu tiêu dùng cũng như sản 
xuất, nó cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế, đất nước muốn phát triển thì phải có nguồn 
năng lượng. Hiện nay xăng dầu vẫn là nguồn năng lượng chủ yếu. Giá cả của xăng dầu 
trong thời gian qua tăng rất cao liên tục phá vở những kỷ lục về giá cả gây ảnh hưởng 
không nhỏ đến nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng.
Mặc dù, chính phủ đã có những kế hoạch dài hạn để tránh việc phụ thuộc quá 
nhiều vào lượng nhập khẩu bằng biện pháp tự sản xuất các sản phẩm hóa dầu thay cho 
việc hiện nay chỉ là sơ chế. Nhưng để thực hiện được điều này, lo rằng cần phải có một 
khoảng thời gian khá dài, trong khi đó xăng dầu luôn là mặt hàng thiết yếu của nền kinh 
tế. Việc giá xăng dầu cao và ngày càng tăng làm giảm mức sống của dân cư xuống dưới 
mức lẽ ra đã có thể đạt được do tổng tiêu dùng cho sản phẩm xăng dầu tăng lên tương 
đối so với thu nhập. Do xăng dầu là yếu tố đầu vào của hầu như tất cả các ngành kinh tế 
khác, nên giá đầu vào tăng, trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi, sẽ kéo theo 
giá đầu ra sản phẩm tăng lên dẫn đến chỉ số giá cả nói chung gia tăng, ảnh hưởng đến 
sức mua của xã hội và gây ra áp lực lạm phát.
Một thị trường tài chính phái sinh còn ít được biết tới ở Việt Nam. Doanh nghiệp 
dường như còn quá xa lạ với những công cụ để phòng tránh rủi ro cho hoạt động kinh 
doanh trước những biến động của thị trường. Các ngân hàng thương mại về việc áp 
dụng các công cụ phái sinh còn rất hạn chế, đặc biệt ở các ngân hàng thương mại quốc 
doanh, trong khi khối ngân hàng này có lợi thế hơn vì quy mô hoạt động và vốn. Trong 
khoảng thời gian 2005 đến tháng 9/2007 mới chỉ có hơn 40 hợp đồng hoán đổi lãi suất 
và một số ít hợp đồng phái sinh không chuẩn khác được phép thực hiện. Hiện nay, các 
nước trên thế giới đã sử dụng các công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro biến động giá 
của nhiều mặt hàng trong đó có xăng dầu. Nhưng các công cụ này rất ít các doanh
1
nghiệp Việt Nam sử dụng và với mặt hàng xăng dầu các công cụ phái sinh chưa được
sử dụng.
Đề tài này nghiên cứu về thị trường quyền chọn, giao sau và cách thức sử dụng 
quyền chọn và giao sau để phòng ngừa biến động giá nhập khẩu xăng dầu tại Việt Nam. 
Phân tích ảnh hưởng biến động giá xăng dầu của Việt Nam trong thời gian qua, phân 
tích tác dụng của việc sử dụng quyền chọn và giao sau trong phòng ngừa rủi ro biến 
động giá nhập khẩu xăng dầu ở Việt Nam, xác định nguyên nhân và đề xuất một số giải 
pháp ứng dụng thị trường quyền chọn và giao sau xăng dầu ở Việt Nam.
1. Mục tiêu đề tài.
2.1 Mục tiêu tổng quát:
Nghiên cứu, đánh giá hoạt động liên quan đến các công cụ phái sinh .
 Đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển thị trường các công cụ phái sinh. 
Những vấn đề xăng dầu trên thế giới và ở Việt Nam.
Sử dụng các công cụ phái sinh vào việc bình ổn giá xăng dầu.
2.2 Mục tiêu cụ thể:
Đánh giá các vấn đề liên quan đến thị trường các công cụ phái sinh  
Đánh giá hoạt động thị trường các công cụ phái sinh ở Việt Nam.
Xác định vai trò của việc nghiên cứu các công cụ phái sinh đối với nền kinh tế
thế giới và ở Việt Nam.
Nêu ra một số biện pháp cụ thể cũng như việc thu thập thông tin để ứng dụng các
công cụ phái sinh vào thị trường.
2. Kết quả mong đạt được.
Giới thiệu cho nhiều người hiểu biết về thị trường các công cụ phái sinh.
Giới thiệu cho các tổ chức cá nhân cũng như đơn vị có hướng nghiên cứu ứng 
dụng công cụ phái sinh về vai trò của thị trường các công cụ phái sinh vào các mặt hàng 
xăng dầu cũng như các sản phẩm khác giúp xác định được mục tiêu cũng như ổn định 
thị trường.
Các hoạt động của thị trường các sản phẩm phái sinh đi vào nề nếp trở thành một 
thói quen của các doanh nghiệp và cá nhân. Nâng cao vị thế của doanh nghiệp, cá nhân 
trong nền kinh tế.
3. Phạm vi nghiên cứu.
Nghiên cứu về thị trường sản phẩm phái sinh trên thế giới và tình hình phát triển 
ở Việt Nam.
Tình hình biến động xăng dầu trên thế giới và ở Việt Nam trong thời gian qua.
4. Phương pháp nghiên cứu.
2
 Nghiên cứu tại văn phòng:
Thông qua sách, báo chí, tài liệu, internet…
 Nghiên cứu thực tế:
Xem xét việc sử dụng các công cụ phái sinh tại các Ngân hàng.
Theo dõi những hoạt động kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam.
3
MỤC LỤC
Chương 1: Cơ sở lý luận
1.1 Thuật ngữ và khái niệm 6
1.1.1 Phòng ngừa rủi ro bằng công cụ phái sinh 6
1.1.2 Vai trò của các công cụ tài chính phái sinh 6
1.1.3 Các khái niệm giao sau và quyền chọn 7
1.1.3.1 Hợp đồng giao sau 7
1.1.3.2 Hợp đồng quyền chọn 11
1.2 Đặc điểm 12
1.2.1 Đặc điểm của hợp đồng giao sau 13
1.2.2 Đặc điểm của hợp đồng quyền chọn 14
1.2.2.1 Đặc điểm của hợp đồng quyền chọn bán 15
1.2.2.2 Đặc điểm cuả hợp đồng quyền chọn mua 15
1.3 Những kinh nghiệm của thế giới và trong khu vực trong việc sử dụng các
công cụ phái sinh 15
Chương 2: Thực trạng của tình hình xăng dầu trên thế giới và việc sử dụng
các công cụ phái sinh để bình ổn giá xăng dầu.
2.1 Nhận định chung về tình hình xăng dầu ở các nước xuất khẩu dầu lớn trên thế 
giới 17
2.2 Ảnh hưởng của tình hình xăng dầu trên thế giới đến Việt Nam 29
2.3 Tại sao giá xăng tăng đột biến trong những năm gần đây 32
Chương 3: Ứng dụng các công cụ phái sinh trong các hoạt động xăng dầu
hiện nay
3.1 Ứng dụng các công cụ phái sinh trong các hoạt động xăng dầu hiện nay trên 
thế giới 35
3.1.1 Thị trường phi tập trung 35
3.1.1.1 Thị trường giao sau phi tập trung 35
3.1.1.2 Thị trường quyền chọn phi tập trung 35
3.1.2 Thị trường tập trung 37
3.1.2.1 Thị trường giao sau tập trung 38
3.1.2.2 Thị trường quyền chọn tập trung 38
4
3.1.3 Cơ chế yết giá giao sau và quyền chọn 39
3.1.3.1 Hợp đồng giao sau 39
3.1.3.2 Hợp đồng quyền chọn 41
3.2 Ứng dụng cho thị trường Việt Nam 44
3.2.1 Những bất cập trong việc ứng dụng các công cụ phái sinh ở thị trường
Việt Nam 44
3.2.2 Tại sao các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam cần phòng 
ngừa rủi ro cho mặt hàng này là cần thiết? 48
3.3 Các giải pháp giảm ảnh hưởng biến động giá xăng dầu đến đời sống kinh tế
- xã hội Việt Nam 49
3.3.1 Nhà nước cần tăng lượng dự trữ xăng dầu 49
3.3.2 Khuyến khích tiết kiệm năng lượng 50
3.3.3 Các DN tự tích lũy tài chính và xây dựng chiến lược kinh doanh phù 
hợp, giảm tối đa chi phí để tăng sức cạnh tranh 51
3.4 Giải pháp ứng dụng quyền chọn và giao sau xăng dầu ở Việt Nam 51
3.4.1 Xây dựng khung pháp lý hoàn chỉnh về công cụ tài chính phái sinh. 51
3.4.2 Sử dụng chính sách giá và thuế để thực hiện giá xăng dầu theo cơ chế
thị trường, cần chống độc quyền ngành 52
3.4.3 Xây dựng thị trường hiệu quả 52
3.4.4 Nhận thức đầy đủ vai trò quan trọng của các công cụ phái sinh trong
phòng ngừa rủi ro về giá xăng dầu trên thị trường Việt Nam 53
3.4.5 Tái phòng ngừa rủi ro và mua bảo hiểm giá trên thị trường quốc tế. . 53 
3.4.6 Tăng cường hợp tác quốc tế 53
Kết luận
5
Chương 1: Cơ sở lý luận.
1.4 Thuật ngữ và khái niệm.
1.4.1 Phòng ngừa rủi ro bằng công cụ phái sinh.
Rủi ro (theo quan điểm hiện đại) là sự bất ổn về tỷ suất sinh lợi của một chứng khoán
hay một danh mục, hơn nữa rủi ro phản ánh một sự không chắc chắn trong tương lai.
Rủi ro (theo quan điểm truyền thống) là những kết quả nhận ít hơn mong đợi trong quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
Một vấn đề nữa cần quan tâm nhất trong xu thế hiện nay đó là thế giới ngày càng trở 
nên nhiều rủi ro hơn, những biến động không thể dự đoán trước của tỷ giá, lãi suất và giá cả 
hàng hoá không những ảnh hưởng đến các khoản lợi nhuận, sự tồn tại và phát triển của doanh 
nghiệp cũng như nó ảnh hưởng đến khả năng phát triển của một quốc gia khi phải chịu tác 
động của những biến động. Một doanh nghiệp hiện nay muốn phát triển không chỉ có công 
nghệ sản xuất tiên tiến, nguồn cung cấp lao động rẻ hoặc phải có chiến lược tiếp thị tốt nhất, 
những biến động giá đột ngột có thể đẩy một doanh nghiệp vào tình trạng khó khăn, những 
thay đổi trong tỷ giá có thể tạo ra nhiều đối thủ cạnh tranh mới, những biến động trong lãi suất 
tạo ra áp lực làm tăng chi phí của doanh nghiệp và có thể dẫn tới tình trạng kiệt quệ tài chính.
Bất ổn của giá cả hàng hoá, giá cả trong thời gian qua chịu nhiều biến động của thị 
trường, cụ thể bất ổn trong giá của loại dầu thô: Trước những năm 1973 không có một sự biến 
động đáng kể nào trong giá dầu thế giới. Tính bất ổn của giá tăng trong giai đoạn giữa thập 
niên 1980 chịu tác động của việc cấm vận dầu mỏ, bất ổn của chiến tranh Iran – Iraq và việc 
bãi bỏ các quy định quản lý giá dầu ở Mỹ. Kể từ khi Mỹ phát động cuộc chiến tranh Iraq lần 
thứ hai giá dầu thế giới đã liên tục phá vỡ các mức kỷ lục và đã vượt ngưỡng đến mức mà 
không còn ai có thể tưởng tượng được, làm cho cả thế giới chịu biến động lớn như giá cả hàng 
hóa tăng liên tục, lạm phát nhiều quốc gia tăng lên.
Thị trường các công cụ phái sinh là các thị trường dành cho các công cụ mang tính hợp 
đồng mà thành quả của chúng được xác định trên một công cụ hoặc một tài sản khác. Các công 
cụ phái sinh khác nhau bao gồm các hợp đồng quyền chọn, kỳ hạn, giao sau, quyền chọn, 
quyền chọn trên hợp đồng giao sau, hoán đổi. Chúng ta sẽ đi sâu hơn vào phần hợp đồng kỳ 
hạn, quyền chọn và giao sau cho sản phẩm là xăng dầu.
1.4.2 Vai trò của các công cụ tài chính phái sinh.
Thứ nhất, quản trị rủi ro: Thị trường sản phẩm phái sinh cho phép những người muốn 
làm giảm rủi ro của mình chuyển giao rủi ro cho những người sẵn sàng chấp nhận nó, đó là các 
nhà đầu tư. Vì thị trường này rất hiệu quả trong việc phân phối lại rủi ro giữa các nhà đầu tư, 
không có ai cần phải chấp nhận một mức rủi ro không phù hợp với bản thân mình. Công cụ
6
phái sinh chính là một loại hình bảo hiểm rủi ro tài chính khi thực hiện các hợp đồng kinh tế
mà bản chất là phân tán rủi ro tiềm ẩn và đương nhiên, lợi nhuận của các giao dịch cùng được 
chia sẻ cho các bên. Công cụ phái sinh gồm các công cụ giao dịch kỳ hạn (Forward), hoán đổi 
(Swaps), quyền chọn (Options) và tương lai (Futures).
Thứ hai, thông tin hiệu quả hình thành giá: Các thị trường kỳ hạn và tương lai là nguồn 
thông tin quan trọng đối với giá cả. Đặc biệt, thị trường tương lai được xem là một công cụ chủ 
yếu để xác định giá giao ngay của tài sản. Điều này không hề bất bình thường, bởi có rất nhiều 
hàng hoá được giao dịch trên thị trường tương lai nhưng thị trường giao ngay của nó rất rộng 
lớn và phân tán nên rất khó có thể xác định được giá giao ngay của chúng. Ở đây, thường giá 
tương lai của những giao dịch sớm nhất sẽ được xác định là giá giao ngay. Thêm nữa, thị 
trường giao sau, trên thế giới thường nhộn nhịp hơn nên các thông tin do nó cung cấp có tính 
tin cậy cao hơn. Những thông tin được cung cấp trên thị trường phái sinh dù trực tiếp hay gián 
tiếp đều góp phần hình thành giá giao ngay trong tương lai một cách có hiệu quả mà những 
người tham gia thị trường có thể chốt lại trong giới hạn chấp nhận của mình.
Thứ ba, các lợi thế về hoạt động và tính hiệu quả: Chi phí giao dịch thấp hơn, điều này 
làm cho việc chuyển hướng từ các giao dịch giao ngay sang phái sinh ngày càng dễ dàng và 
hấp dẫn hơn. Tính thanh khoản cao hơn hẳn so với thị trường giao ngay. Thêm nữa, tỷ suất 
sinh lời và rủi ro có thể được điều chỉnh ở bất cứ mức độ nào như mong muốn. Các nhà đầu tư 
có thể tìm kiếm được những khoản lợi nhuận đáng kể từ chênh lệch giá, chênh lệch lãi suất. 
Tất cả các chủ thể tham gia thị trường đều có thể tìm thấy lợi nhuận. Thị trường phái sinh giúp 
các tín hiệu thị trường khó bị bóp méo. Vì thế, các nhà đầu cơ với ý định thao túng thị trường 
cũng có những khó khăn nhất định. Chính vì thế, đặt bên cạnh thị trường giao ngay, sự hiệu 
quả của thị trường phái sinh giúp nâng cao tính lành mạnh cho thị trường đó. Như vậy công cụ 
tài chính phái sinh là sản phẩm của nền kinh tế hiện đại. Kỹ thuật tài chính này đòi hỏi một 
trình độ hiểu hiết và phát triển nhất định của bất kỳ nền kinh tế nào. Việt Nam đã gia nhập 
WTO, hoà chung vào hơi thở chung của nền kinh tế toàn cầu, tuy nhiên, mức độ và điều kiện 
áp dụng ở Việt Nam còn có những hạn chế nhất định. Điều đó đòi hỏi chúng ta cần có một hệ 
thống giải pháp tích cực để triển khai thành công kỹ thuật này trên thị trường tài chính.
1.4.3 Các khái niệm giao sau và quyền chọn.
1.4.3.1 Hợp đồng giao sau.
 Quá trình hình thành và phát triển của thị trường giao sau:
Vào những năm 1840, Chicago nhanh chóng trở thành trung tâm phân phối và vận 
chuyển của vùng Trung Tây nước Mỹ. Nông dân chở ngũ cốc từ các nông trại vành đai đến 
Chicago để bán và sau đó phân phối về hướng Tây dọc theo đường ray và hồ lớn. Giá cả giảm 
đáng kể vào thời kỳ thu hoạch khi cung tăng nhưng sau đó giá lại tăng đều đặn.
7
Vào năm 1848, một nhóm thương gia đã thực hiện bước đầu làm nhẹ bớt vấn đề này
bằng cách thành CBOT (hội đường thương mại Chicago), CBOT ban đầu được tổ chức vì mục 
đích chuẩn hoá số lượng và chất lượng ngũ cốc. Một vài năm sau đó, hợp đồng kỳ hạn đầu tiên 
được triển khai gọi là hợp đồng đến trước (to – arrive contract), cho phép công nhân có thể 
đồng ý giao ngũ cốc vào một ngày trong tương lai với một giá xác định trước. Thoả thuận này 
làm cho nông dân không phải chờ ngũ cốc đến Chicago vào thời kỳ thu hoạch nữa nhưng lại có 
thể cố định được mức giá và ngày mà sau đó ngũ cốc sẽ được bán.
Vào năm 1874, Chicago Product Exchange được thành lập và sau đó trở thành Chicago 
Butter and Egg Board. Vào năm 1898, tổ chức này được sắp xếp lại thành Sàn Giao Dịch Hàng 
Hoá Chicago (Chicago Mercantile Exchange – CME). Hiện nay đây là sàn giao dịch hợp đồng 
giao sau lớn thứ hai thế giới. Nhiều năm trôi qua, nhiều sàn giao dịch đã được thành lập bao 
gồm sàn giao dịch giao sau New York (1979).
Vào năm 1976, thị trường tiền tệ quốc tế đã giới thiệu hợp đồng giao sau đầu tiên trên 
trái phiếu chính phủ và các công cụ tài chính ngắn hạn là trái phiếu kho bạc T-Bill Mỹ loại 90 
ngày. Hợp đồng này đã được giao dịch rất năng động trong nhiều năm liền nhưng sau đó đã 
giảm dần do những thành công mang lại từ các hợp đồng giao sau Eurodollar, đây là dạng giao 
dịch đã được phát triển mạnh mẽ trong những năm thập niên 1980.
Vào năm 1977, CBOT bắt đầu cho giao dịch sau trái phiếu kho bạc T-Bond Mỹ, đây là 
loại hợp đồng giao sau thành công nhất trong các thời kỳ. Chỉ trong vòng một vài năm, công cụ 
này đã trở thành hợp đồng giao dịch năng động nhất và vượt qua cả hợp đồng giao sau ngũ cốc, 
vốn đã tồn tại hơn một thế kỷ trước đây.
Vào thập niên 1980, hợp đồng giao sau chỉ số chứng khoán đã đạt được những thành 
công cao độ. Công cụ này là chiếc cầu nối giữa các nhà giao dịch cổ phiếu tại New York và các 
nhà giao dịch giao sau tại Chicago. Tuy nhiên, có một điều thú vị là hợp đồng giao sau chỉ số 
chứng khoán lại không phải xuất hiện ở New York hoặc Chicago mà là tại thành phố Kansas. 
Hội đồng thương mại thành phố Kansas đã hoàn thành quá trình đăng ký với bên đối tác New 
York và Chicago và vào ngày 16 tháng 2 năm 1982 đã cho khai trương các hợp đồng giao sau 
chỉ số Value Line. Thị trường quyền chọn và chỉ số, một bộ phận của CME, đã hình thành vào 
21 tháng 4 với các hợp đồng giao sau S&P 500. Sàn giao dịch giao sau New York cũng đã 
tham gia vào cuộc chơi này vào ngày 6 tháng 5, với các hợp đồng giao sau chỉ số sàn giao dịch 
giao sau New York. Mặc dù vậy, hợp đồng giao sau chỉ số Value Line và NYSE hiện nay có 
khối lượng giao dịch không lớn lắm.
Có một điều thú vị là tại Mỹ, chỉ sau một vài năm đã có hợp đồng giao sau chỉ số trung
bình công nghiệp Dow Jones, một chỉ số tên tuổi trên thị trường chứng khoán. Hầu hết các 
8
nước phát triển đều có sàn giao dịch giao sau riêng cho hợp đồng chỉ số chứng khoán hoạt
động thành công, nước có hợp đồng giao sau chỉ số chứng khoán cực kỳ phổ biến gồm Anh,
Pháp, Nhật, Đức, Tây Ban Nha và HồngKông .
 Mục đích, vai trò của hợp đồng giao sau:
− Hợp đồng giao sau đóng vai trò như một công cụ đầu tư:
Đây là một vai trò hết sức quan trọng của thị trường giao sau. Các nhà đầu tư sử dụng 
hợp đồng giao sau như một công cụ đầu cơ để kiếm lời, nhờ đó thị trường giao sau mới hoạt 
động liên tục, nhộn nhịp và hiệu quả được. Sở dĩ người đầu cơ mạo hiểm chấp nhận rủi ro để 
tham gia thị trường giao sau là vì công cụ đòn bẩy tài chính của thị trường giao sau. Khi người 
đầu cơ tham gia vào thị trường giao sau, họ không phải bỏ ra đầy đủ số tiền như mình đã ký kết 
trong hợp đồng để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của mình, thay vào đó là đóng tiền bảo 
chứng cho mỗi lần giao dịch. Các sở giao dịch trên thế giới đều buộc những người tham gia 
đóng tiền bảo chứng (margin) và quy định cụ thể mức duy trì tài khoản bảo chứng (maintenant 
margin) là mức tiền bảo chứng thấp nhất cho phép. Thông thường, mức tiền bảo chứng chỉ 
nằm trong khoảng từ 2% đến 20% giá trị hợp đồng giao sau tuỳ thuộc vào loại hàng hoá. Mức 
tiền bảo chứng càng thấp thì khả năng đòn bẩy tài chính càng cao. Tiền bảo chứng chỉ là một 
tài khoản cam kết thi hành hợp đồng ở một mức giá cụ thể (không phải là chi phí cho việc lập 
hợp đồng giao sau) do đó sự thay đổi giá cả trên thị trường giao sau so với mức giá mà người 
đó đã thiết lập có thể ảnh hưởng đến tài khoản bảo chứng.
Như vậy, đòn bẩy tài chính như là con dao hai lưỡi. Nó mang lại nhiều lợi nhuận cho nhà 
đầu tư, giúp cho mọi người có thể kiếm lời từ sự thay đổi giá cả của các loại hàng hoá. Ngược 
lại, nó cũng là nơi dành cho những người đầu cơ dám chấp nhận rủi ro và là công cụ nguy hiểm 
cho các loại tội phạm tài chính. Trường hợp của quỹ Quantum dùng đòn bẩy hợp đồng giao sau 
để kinh doanh đã làm khủng hoảng nền kinh tế Thái Lan, các nước khu vực Đông Nam Á vào 
năm 1997 là một ví dụ tiêu biểu cho sự thống nhất biện chứng giữa rủi ro và lợi ích của hợp 
đồng giao sau.
− Bên cạnh đó, hợp đồng giao sau còn có vai trò là một công cụ bảo hộ:
Nhóm người bảo hộ là tất cả những người sử dụng hợp đồng giao sau để bảo hộ cho hoạt 
động kinh doanh của mình, bao gồm: người sản xuất, người sở hữu hàng hoá, người xuất khẩu, 
người nhập khẩu, các công ty, các công ty quản lý quỹ, các ngân hàng, các công ty đa quốc gia 
và kể cả chính phủ. Họ bảo hộ những rủi ro sau:
Đối với sự biến đổi về giá cả hàng hoá đối với các nguyên vật liệu thô (về năng lượng, 
kim loại, nông sản…). Người mua không muốn giá quá cao nên đã mua trước bằng hợp đồng 
giao sau ở một giá định trước, còn người bán thì không muốn giá cả rớt quá thấp nên đã bán 
9
trước bằng hợp đồng giao sau.
Đối với sự thay đổi của tỷ giá hối đoái: Người nhập khẩu thì không muốn đồng ngoại tệ
thanh toán lên giá nên đã mua trước bằng hợp đồng giao sau, trong khi người xuất khẩu thì 
không mong muốn đồng ngoại tệ rớt giá bằng cách bán trước đồng ngoại tệ thanh toán bằng 
hợp đồng giao sau.
Đối với sự thay đổi về lãi suất: Lãi suất cao thì giá trái phiếu sẽ hạ, ngược lại, nếu lãi suất 
hạ thì giá trái phiếu cao. Dựa vào tính chất đó mà các công ty, các quỹ đầu tư hoặc kể cả chính 
phủ thi hành các chính sách tài chính của mình sao cho ít bị thiệt hại vì sự thay đổi về lãi suất.
Để tiện cho việc so sánh, quan hệ giữa người mua, người bán hợp đồng giao sau và lợi 
ích của họ được mô tả như sau:
Bảng 1.1 Lý do để mua, bán hợp đồng giao sau
Lý do để mua 
hợp đồng giao sau
Lý do để bán 
hợp đồng giao sau
Người bảo vệ. Khóa giá mua. Đạt được mục 
đích bảo hộ khi giá tăng.
Khóa giá bán. Đạt được mục đích
bảo hộ khi giá giảm.
Người đầu cơ. Kiếm lời từ việc tăng giá. Kiếm lời từ việc giảm giá.
− Ngoài ra, hợp đồng giao sau còn là công cụ điều chỉnh giá cả trên thị trường: Việc 
các bên mua bán hàng hoá với giá cả dự kiến trong tương lai giúp cho thị trường tự điều chỉnh 
giá. Nhờ biết trước được giá cả dự kiến trong tương lai nên những người cần bảo hộ có thể điều 
tiết sản xuất, tự động cân bằng cung cầu. Hơn thế nữa, việc niêm yết giá cả công khai trên thị 
trường sẽ giúp cho các nhà kinh doanh không lo việc mua bán không đúng giá, ép giá. Giá cả 
được niêm yết công khai không chỉ lợi cho những người giao dịch trên thị trường giao sau mà 
nó còn là căn cứ để các nhà kinh doanh trong nước, khu vực hoặc thế giới thực hiện việc mua 
bán của mình.
− Sử dụng giao sau để đầu cơ:
− Đối với vai trò quản lý Nhà nước:
Đối với các loại hàng hoá thông thường, sự xuất hiện thị trường giao sau sẽ giúp cho các 
thành phần tham gia thị trường cũng như Nhà nước nắm được quan hệ cung cầu và giá cả. Sự 
giao dịch tập trung giúp cho diễn tiến giá trên thị trường phản ánh được quan hệ cung cầu, đặc 
biệt hơn ở chỗ là giá cả đó lại là giá cả dự kiến trong tương lai gần. Những người bảo vệ sẽ 
không lo bị ép giá và tự động điều tiết việc sản xuất của mình dựa trên quan hệ cung cầu trên 
thị trường. Còn Nhà nước thì biết được quan hệ cung cầu và giá cả để định hướng sản xuất, 
thực hiện việc quản lý kinh tế vĩ mô.
10
Từ những lợi ích thiết thực trên, các nước khác trên thế giới đều đang nỗ lực xây
dựng và phát triển thị trường giao sau. Và để cho thị trường giao sau được hoạt động và phát 
triển trong sự quản lý và theo định hướng của Nhà nước, các nước có thị trường giao sau đều 
có luật qui định tổ chức và hoạt động của thị trường phái sinh và các văn bản luật cụ thể cho 
một số loại hợp đồng giao sau cụ thể.
1.4.3.2 Hợp đồng quyền chọn (Option).
 Quá trình hình thành và phát triển của thị trường quyền chọn:
Ttrong những năm đầu của thập nhiên 1900, một nhóm các công ty gọi là Hiệp hội các 
Nhà môi giới và Kinh doanh quyền chọn mua và quyền chọn bán đã thành lập thị trường các 
quyền chọn. Nếu một người nào đó muốn mua quyền chọn, một thành viên của hiệp hội này sẽ 
tìm một người bán sẵn sàng muốn ký hợp đồng bán quyền chọn. Nếu công ty thành viên không 
thể tìm được người bán, tự công ty sẽ bán quyền chọn. Mặc dù thị trường quyền chọn phi tập 
trung (OTC) này có thể tồn tại, nó có rất nhiều khiếm khuyết. Thứ nhất, thị trường này không 
cung cấp cho người nắm giữ quyền chọn có cơ hội bán quyền chọn cho một người khác trước 
khi quyền chọn đáo hạn. Thứ hai, việc thực hiện hợp đồng của người bán chỉ được đảm bảo bới 
các công ty môi giới kiêm kinh doanh. Nếu người bán hoặc công ty thành viên của Hiệp hội 
các Nhà môi giới và Kinh doanh quyền chọn mua và quyền chọn bán bị phá sản, người nắm 
giữ quyền chọn tuyệt đối không may mắn. Thứ ba, chi phí giao dịch tương đối cao, một phần là 
do hai vấn đề trên.
Năm 1973, đã có một thay đổi mang tính cách mạng trong thế giới quyền chọn. Sàn giao 
dịch Chicago Board Of Trade (CBOT), sàn giao dịch lâu đời nhất và lớn nhất về các hợp đồng 
giao sau hàng hoá, đã có tổ chức một sàn giao dịch dành riêng cho giao dịch quyền chọn cổ 
phiếu. Sàn giao dịch này được đặt tên là Chicago Board Options Exchange (CBOE) và mở cửa 
giao dịch quyền chọn mua vào ngày 25/04/1973. Các hợp đồng quyền chọn bán đầu tiên được 
đưa vào giao dịch trong tháng 6/1977.
Từ thời điểm đó, nhiều sàn giao dịch chứng khoán và gần như tất cả sàn giao dịch giao 
sau bắt đầu giao dịch quyền chọn. Được kích thích bởi nhu cầu của công chúng về quyền chọn, 
ngành kinh doanh này tăng trưởng mạnh mẽ cho đến khi thị trường chứng khoán sụp đổ nặng 
nề vào năm 1987. Bị tổn hại bởi cú sốc này, nhiều nhà đầu tư cá nhân đã sử dụng quyền chọn 
trước đây đã tránh xa thị trường này, và khối lượng giao dịch chỉ mới phục hồi ở mức năm 
1987 trong thời gian gần đây.
Quyền chọn là một hợp đồng giữa hai bên – người mua và người bán – trong đó cho 
người mua quyền, nhưng không phải là nghĩa vụ, để mua hoặc bán tài sản nào đó vào một ngày 
trong tương lai với giá đã đồng ý vào ngày hôm nay.
11
Theo luật thương mại (Điều 66- LTM). Hợp đồng quyền chọn mua hoặc quyền chọn
bán là thoả thuận, theo đó bên mua có quyền được mua hoặc được bán một hàng hoá xác định
với mức giá xác định trước và phải trả một khoản tiền nhất định để mua quyền này.
Quyền lựa chọn là một công cụ cho phép người nắm giữ nó được mua (nếu là quyền 
chọn mua) hoặc bán (nếu là quyền chọn bán) một khối lượng nhất định hàng hoá với một mức 
giá xác định, và trong một thời gian nhất định.
Quyền chọn kiểu Châu Âu là quyền chọn được thực hiện vào cuối kỳ hạn.
Quyền chọn kiểu Mỹ là quyền chọn có thể được thực hiện vào bất kỳ thời điểm nào 
trước khi đáo hạn. Quyền chọn này có tính linh động hơn so với quyền chọn kiểu Châu Âu.
Phí quyền chọn là người mua quyền chọn trả cho người bán một số tiền.
Quyền chọn bán (put option) là một quyền chọn để bán tài sản, cho phép người mua 
Option có quyền quyết định thực hiện bán tài sản hay không bán tài sản theo giá đã ấn định 
trước trong hợp đồng. Hay có thể hiểu người sở hữu một quyền chọn bán có quyền bán một tài 
sản, tại một mức giá nhất định, vào một thời điểm nhất định.
Quyền chọn mua (call option) là một quyền chọn để mua tài sản, cho phép người mua 
Option có quyền quyết định thực hiện mua tài sản hay không mua tài sản theo giá đã ấn định 
trước trong hợp đồng. Hay có thể hiểu người sở hữu một quyền chọn mua có quyền mua một 
tài sản, tại một mức giá nhất định, vào một thời điểm nhất định.
Giá thực hiện còn được gọi là giá điểm là mức giá tại đó tài sản trong một quyền chọn
có thể được mua hoặc bán.
Tài sản cơ sở là loại tài sản sẽ được giao trên cơ sở mua hoặc bán khi quyền chọn được
thực hiện.
Giá trị nội tại (intrinsic value) là giá trị mà người nắm giữ quyền lựa chọn sẽ nhận được 
bằng cách thực hiện quyền. Nếu quyền ở trạng thái bị mất tiền, giá trị nội tại bằng 0. Giá thị 
trường của một quyền thường ít nhất là bằng giá trị nội tại. Giá bán quyền được gọi là phần 
phụ trội, chênh lệch giữa giá bán quyền với giá trị nội tại (trong trường hợp quyền đang được 
tiền) được gọi là phần phụ trội giá trị theo thời gian.
Nói cách khác, khi đó:
Giá trị theo thời gian của quyền chọn mua = Giá quyền - (giá thị trường - giá thực
hiện).
1.5 Đặc điểm.
1.5.1 Đặc điểm của hợp đồng giao sau.
Hợp đồng giao sau có nhiều đặc điểm riêng biệt, không có ở các hợp đồng khác. Dựa 
vào định nghĩa và thực tiễn, hợp đồng giao sau có thể được chia thành các đặc điểm chính sau:
12
Các điều khoản trong hợp đồng giao sau được tiêu chuẩn hoá.
Hợp đồng giao sau là một hợp đồng song vụ, cam kết thực hiện nghĩa vụ hợp đồng
trong tương lai.
Hợp đồng giao sau được lập tại Sở giao dịch qua các cơ quan trung gian.
Hợp đồng giao sau phải có tiền bảo chứng và đa số các hợp đồng giao sau đều được
thanh lý trước thời hạn.
Hợp đồng giao sau tiến triển từ hợp đồng kỳ hạn nên có những điểm giống với hợp 
đồng kỳ hạn. Về bản chất, chúng giống tính thanh khoản của hợp đồng kỳ hạn. Tuy vậy, khác 
với hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng giao sau được giao dịch trên thị trường có tổ chức, được gọi là 
sàn giao dịch giao sau. Người mua hợp đồng giao sau là người có nghĩa vụ mua hàng vào một 
ngày trong tương lai, có thể mua lại hợp đồng giao sau trên thị trường giao sau. Điều này làm 
cho họ thoát khỏi nghĩa vụ mua hàng. Và tương tự đối với người bán hợp đồng giao sau, là 
người có nghĩa vụ bán hàng vào một ngày trong tương lai, có thể mua lại hợp đồng trên thị 
trường giao sau, và điều này cũng làm cho họ thoát khỏi nghĩa vụ bán hàng. Đặc trưng này 
giúp những người tham gia mua bán công cụ tài chính phái sinh tránh được những thiệt hại 
kinh tế đáng kể nếu trong thời hạn hợp đồng giá cả của tài sản cơ sở có sự biến động không có 
lợi cho mỗi bên.
Nhưng khác biệt rõ nhất với thị trường kỳ hạn là thị trường giao sau sử dụng hai công 
cụ để loại bỏ rủi ro này. Thứ nhất, thay vì giao nhận giá trị hợp đồng vào một ngày thông qua 
mua bán đơn thuần vào ngày đáo hạn, thay đổi trong giá trị hợp đồng giao sau được thực hiện 
thanh toán vào cuối ngày giao dịch. Điều này có nghĩa hợp đồng giao sau có tính chất thanh 
toán tiền mặt hay điều chỉnh theo ngày, tức thời hạn giao sau được rút ngắn lại. Nhờ thế mà rủi 
ro trong thanh toán được giảm đi. Thứ hai, hợp đồng giao sau yêu cầu tất cả các thành viên 
tham gia thị trường, người bán và người mua đều như nhau, phải thực hiện một khoản ký gửi 
gọi là ký quỹ. Nếu hợp đồng giao sau của bạn tăng giá trị trong ngày giao dịch, mức tăng này 
sẽ được công vào tài khoản ký quỹ của bạn vào cuối ngày. Ngược lại, nếu hợp đồng của bạn 
giảm giá trị, thua lỗ sẽ được trừ ra.Và nếu số dư tài khoản ký quỹ của bạn giảm xuống mức tối 
thiểu đã thoả thuận trước đó, bạn sẽ bị yêu cầu nộp một khoản ký gửi bổ sung, tài khoản ký 
quỹ của bạn phải được bổ sung như cũ hoặc là vị thế của bạn sẽ bị đóng.
Hợp đồng giao sau rất giống với một danh mục các hợp đồng kỳ hạn. Tuy nhiên, hợp 
đồng giao sau và một danh mục các hợp đồng kỳ hạn chỉ giống nhau khi lãi suất là có thể xác 
định trước, tức là biết được một cách chắc chắn. Vào lúc đóng cửa mỗi ngày, các hợp đồng 
giao sau mang tính kỳ hạn đang tồn tại sẽ được thanh toán cũng như một hợp đồng mới được 
ký kết. Tính chất thanh toán hàng ngày kết hợp với yêu cầu ký quỹ cho phép hợp đồng giao sau 
giảm thiểu đáng kể rủi ro tín dụng vốn có của hợp đồng kỳ hạn.
13
1.5.2 Đặc điểm của hợp đồng quyền chọn.
Hợp đồng quyền chọn mang những đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hoá:
Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá được thiết lập giữa các chủ thể chủ yếu là 
thương nhân.
Hình thức có thể được thiết lập theo cách thức mà hai bên thể hiện được sự thoả thuận 
mua bán hàng hoá giữa các bên (có thể: bằng lời nói, văn bản, hoặc hành vi của các bên giao 
kết) (điều 24 LTM2005).
Đối tượng của hợp đồng là hàng hoá.
Nội dung, thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mua bán, theo đó bên 
bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá cho bên mua và nhận tiền; còn 
bên mua có nghĩa vụ nhận hàng hoá và trả tiền cho bên bán.
Ngoài ra hợp đồng quyền chọn mang những đặc điểm:
Hợp đồng này là hợp đồng song vụ, theo đó các bên cam kết thực hiện nghĩa vụ trong 
tương lai.
Đối tượng là những hàng hoá chưa hiện hữu tại thời điểm các bên giao kết hợp đồng
mua bán.
Được giao kết và thực hiện qua sở giao dịch hàng hoá. 
Không bắt buộc các bên phải giao sản phẩm.
Chỉ quy định quyền giao hay nhận, mà không bắt thuộc thực hiện nghĩa vụ của mình.
Người mua có thể thực hiện quyền hoặc bán quyền cho người khác hay không thực 
hiện quyền. Để thực hiện quyền này, khi ký kết hợp đồng người mua phải trả quyền phí, giá 
trong hợp đồng gọi là giá thực hiện và ngày định trong hợp đồng là ngày đáo hạn. Tương tự 
như vậy đối với người bán trong hợp đồng quyền chọn bán.
Tuỳ theo từng loại mà hợp đồng quyền chọn có thể thực hiện tại bất kỳ thời điểm nào 
trước ngày đáo hạn hoặc đến ngày đáo hạn.
Mặc dù các quyền chọn được giao dịch trong một thị trường có tổ chức nhưng phần lớn
các giao dịch quyền chọn được quản lý riêng rẽ giữa hai bên. Những người này tự tìm đến với 
nhau, loại thị trường này gọi là thị trường OTC, đây chính là loại thị trường quyền chọn xuất 
hiện đầu tiên. Hầu hết các quyền chọn chúng ta quan tâm là mua bán các loại tài sản tài chính 
chẳng hạn như cổ phiếu, trái phiếu… Mặc dù vậy, chúng ta cũng thấy xuất hiện loại thoả thuận 
tài chính khác như hạn mức tín dụng, đảm bảo khoản vay, và bảo hiểm cũng là một hình thức 
khác của quyền chọn.
14
Mặc dù các quyền chọn được giao dịch trong một thị trường có tổ chức nhưng phần lớn
các giao dịch quyền chọn được quản lý riêng rẽ giữa hai bên. Quyền chọn cũng có những nét
giống với một hợp đồng kỳ hạn nhưng quyền chọn không bắt buộc phải thực hiện giao dịch
còn người sở hữu hợp đồng kỳ hạn bắt buộc phải thực hiện giao dịch. Hai bên trong hợp đồng 
kỳ hạn có nghĩa vụ phải mua và bán hàng hoá, nhưng người nắm giữ quyền chọn có thể quyết 
định mua hoặc bán tài sản với giá cố định nếu giá trị của nó thay đổi.
1.5.2.1 Đặc điểm của hợp đồng quyền chọn bán.
Hợp đồng quyền chọn bán (put option): là thoả thuận cho phép người bán bán tài sản 
cho người mua với giá định sẵn vào ngày đáo hạn hợp đồng.
Đối với quyền chọn bán, người thực hiện quyền sẽ có lợi nếu giá bán thực hiện quyền 
cao hơn giá thị trường của hàng hoá cơ sở và sẽ bị mất tiền nếu giá thực hiện quyền thấp hơn 
giá thị trường của hàng hoá cơ sở.
1.5.2.2 Đặc điểm cuả hợp đồng quyền chọn mua.
Hợp đồng quyền chọn mua (call option): là thoả thuận cho phép người người mua có
quyền mua tài sản từ người bán với mức giá định sẵn vào ngày đáo hạn hợp đồng.
Đối với quyền chọn mua, nếu giá thực hiện thấp hơn giá hiện hành của chứng khoán cơ 
sở, thì quyền đó được gọi là đang được tiền (in the money), tức là người có quyền có thể có lợi 
từ việc thực hiện quyền. Nếu giá thực hiện bằng với giá thị trường, quyền đang ở trạng thái hoà 
vốn (at the money), và nếu cao hơn, gọi là đang mất tiền (out of money).
1.6 Những kinh nghiệm của thế giới và trong khu vực trong việc sử dụng các công cụ
phái sinh.
Bằng chứng về những thoả thuận cho vay đã xuất hiện ở nhiều nền văn minh cổ đại, 
đặc biệt những nhà nghiên cứu đã ghi nhận về sự tồn tại của ít nhất là hai tổ chức hoạt động 
theo hình thức ngân hàng ở Babylonia và Assyria khoảng vài ngàn năm trước Công Nguyên. 
Những công cụ vốn và trái phiếu bắt đầu được phát triển vào những thế kỷ 16. Những chứng 
khoán chuyển đổi cũng có lịch sử phát triển từ khá lâu. Ở Châu Âu lục địa, vào thế kỷ 16 đã có 
những loại cổ phần được phát hành kèm với điều khoản chuyển đổi thành các khoản nợ trong 
trường hợp một số điều khoản đi kèm bị phá vỡ. Tương tự, các dạng cổ phiếu ưu đãi cũng đã 
được phát triển từ giai đoạn này. Hoạt động giao dịch chứng khoán, xét trên góc độ tài chính, 
có một lịch sử rất dài. Các dạng cổ phần đã bắt đầu được giao dịch ở Antwerp và Amsterdam 
từ đầu những năm 1600. Hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn bắt đầu được giao dịch 
khi sàn Amsterdam ra đời vào năm 1611.
Thế kỷ 18 chứng kiến nhiều sàn giao dịch ở Châu Âu trải qua những giai đoạn "bong 
bóng thị trường" (stock market bubble). "Bong bóng South Sea" (1720) là một ví dụ điển hình. 
15
Sự kiện bong bóng thị trường này là nguyên nhân trực tiếp hình thành bộ luật Bubble Act (tạm 
dịch là "luật về giá bong bóng"). Đạo luật này bắt buộc mỗi công ty khi đăng ký thành lập phải 
có điều lệ và cũng nghiêm cấm công ty hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh không mô tả trong 
điều lệ.
Những năm 1960 chứng kiến nhiều đổi bước tiến trong lĩnh vực tài chính bắt nguồn từ 
những hạn chế trong các quy định quản lý. Thị trường Eurobond hình thành tạo điều kiện cho 
các doanh nghiệp không thuộc Mỹ có thể thực hiện các khoản vay bằng đồng USD. Điều này 
rất có ý nghĩa bởi ở giai đoạn đó người nước ngoài không được phép vay vốn ở thị trường Mỹ. 
Tương tự như vậy, hợp đồng hoán đổi tiền tệ cũng được hình thành và phát triển trong giai 
đoạn này để tránh những quy định ràng buộc về hoạt động giao dịch tiền tệ ở Anh. Những năm 
1970 chứng kiến sự hình thành của những công cụ tài chính có lãi suất biến đổi (floating- 
interest instruments - loại trái phiếu có lãi coupon gắn với một loại lãi suất biến đổi, chẳng hạn 
như lãi suất LIBOR) và việc bắt đầu giao dịch những hợp đồng tương lai tài chính chẳng hạn 
như hợp đồng tương lai với tiền tệ, lãi suất và với chỉ số thị trường chứng khoán.
Điều gì đã giúp cho các công cụ tài chính mới này trở nên phổ biến nhanh chóng trên 
phạm vi toàn thế giới chỉ trong vòng vài năm? Đó là sự tăng trưởng mạnh mẽ của các nền kinh 
tế đang phát triển đòi hỏi một lượng đầu tư khổng lồ và những kiến thức, kinh nghiệm để cải 
tiến hệ thống tài chính lạc hậu. Ngoài ra, những cải tiến trong công nghệ thông tin, hệ thống 
truyền thông cũng đóng góp một phần không nhỏ trong quá trình phát triển các công cụ tài 
chính này. Hơn bao giờ hết, sự xuất hiện của hàng loạt các công cụ tài chính mới đang đặt ra 
nhiều thách thức và cơ hội trong việc nâng cao năng lực quản lý tài chính ở các ngân hàng, bảo 
hiểm, doanh nghiệp.
Kinh nghiệm tiết kiệm năng lượng của các nước trên thế giới:
 12 biện pháp tiết kiệm năng lượng của Thái Lan:
- Cấm bán xăng dầu từ 21g đến 5g sáng hôm sau ở nội thành.
- Xác định thứ hai là ngày gia đình và ngày tiết kiệm năng lượng nhằm hạn chế giao 
thông trên đường phố.
- Khuyến khích dùng ôtô loại nhỏ và đánh thuế nặng các loại ôtô có dung tích máy trên
 1.800cc (nếu có thể cấm nhập khẩu các loại xe này).
- Ra chiến dịch giảm tiêu thụ dầu diesel.
- Tắt các bảng hiệu dùng đèn từ 21g, sớm hơn một giờ so với hiện nay.
- Chỉ sử dụng máy điều hoà từ 9g-16g và thực hiện chế độ giờ làm việc so le từ 7g30- 
15g30 và từ 9g30-17g30 tại các cơ quan chính phủ nhằm giảm tiêu thụ điện.
- Yêu cầu các hình thức tiết kiệm điện đối với đồ điện gia dụng bán ra tại Thái Lan.
- Kêu gọi các hãng sản xuất ôtô ghi rõ mức tiêu thụ nhiên liệu của máy xe.
16
- Phân hạng các loại taxi ở những trung tâm giải trí và mua sắm.
- Nâng phí đậu xe bằng cách tăng thuế các gara có diện tích lớn hơn 1.600 m
2
.
- Củng cố các qui định giao thông và kiểm soát chặt chẽ các xe thải nhiều khí.
17
Chương 2: Thực trạng của tình hình xăng dầu trên thế giới và việc
sử dụng các công cụ phái sinh để bình ổn giá xăng dầu.
2.1 Nhận định chung về tình hình xăng dầu trên thế giới.
Hiện nay, ngành công nghiệp năng lượng đóng vai trò quan trọng và ảnh hưởng lớn đến 
sự phát triển của các nền kinh tế thế giới. Nhằm đảm bảo an toàn, bình ổn thị trường và đáp 
ứng nhu cầu năng lượng đang gia tăng cho mỗi quốc gia, các nước xuất khẩu dầu lớn trên thế 
giới (Nga, Iran, Quatar, Venezeuela, Arập Xêut, ) đang cố nỗ lực phát triển, đầu tư, mở rộng 
quan hệ hợp tác với các nước khác để tăng sản lượng khai thác, chế xuất dầu và khí gas tại các 
mỏ dầu khí tiềm năng xa bờ cũng như tăng hiệu suất lọc dầu ở các mỏ dầu có trữ lượng lớn.
Hiện nay, trước tình hình biến động rất lớn về giá dầu và sự thiếu hụt năng lượng ở các 
nền kinh tế lớn như: Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Đức, Pháp…, Nga đang nổi lên với 
cương vị là một nhà sản xuất năng lượng siêu cường. Chính phủ nước này đang tập trung đầu 
tư mạnh vào ngành năng lượng, khai thác triệt để các mỏ dầu tiềm năng, trữ lượng lớn. Phía 
EU đang hối thúc Nga ký kết nhiều hợp đồng năng lượng dài hạn nhằm đảm bảo nhu cầu năng 
lượng đang gia tăng trong khối. Hiện nay, EU nhập khẩu khoảng 82% lượng dầu và 57% lượng 
khí gas từ các nước khác (trong đó Nga xuất khẩu khoảng 50% lượng dầu và khí gas sang EU 
và con số này có thể tăng lên 70% trong thập niên tới.
Nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu năng lượng trên toàn cầu, quốc gia sản xuất dầu lớn 
nhất thế giới- Arập Xêut có kế hoạch sẽ tăng sản lượng dầu thô lên tới 40% (khoảng 12,5 triệu 
thùng dầu thô/ngày) vào năm 2009 và tăng năng suất lọc dầu lên gấp đôi (khoảng 6 triệu 
thùng/ngày, trong vòng 5 năm tới. Qatar, một trong những quốc gia có trữ lượng khí gas tự 
nhiên hoá lỏng (LNG) lớn nhất thế giới cũng có kế hoạch sẽ tăng xuất khẩu LNG ra thị trường 
quốc tế. Ông Al Attiyal- Bộ Trưởng Công Nghiệp và Năng Lượng Qatar cho biết, lượng LNG 
xuất khẩu của Qatar ra nước ngoài sẽ tăng lên khoảng 35 triệu tấn/năm trong năm nay và tăng 
đến mức ổn định nhất khoảng 77 triệu tấn/năm vào năm 2010. Đặc biệt, các quốc gia châu Á 
như : Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ là những thị trường quan trọng nhất của Qatar. Qatar sẽ 
tăng xuất khẩu LNG sang Nhật Bản từ 6 triệu tấn/năm hiện nay lên 11 triệu tấn/năm vào năm 
2010. Trong năm nay, xuất khẩu LNG sang Hàn Quốc tăng từ 2 triệu tấn/năm lên 7 triệu 
tấn/năm; sang Ấn Độ tăng từ 2,5 triệu tấn/năm lên 7,5 triệu tấn/năm.
Trong những năm vừa qua, giá dầu thế giới có nhiều biến động lớn. Giá dầu hiện nay 
đang ở mức cao nhất mọi thời đại, kể từ khi đem ra giao dịch trên các sàn từ năm 1983 tới nay 
(giá dầu kỷ lục mọi thời đại là 125,80 USD/thùng vào ngày 17-5-2008). Từ đó đến nay giá dầu 
chưa khi nào xuống lại dưới mức 100 USD/thùng dù có rất nhiều biến động về chính trị và 
18
những nhân tố khác tác động vào.
Biểu đồ thể hiện biến động giá dầu trong vòng 1 năm qua. Ảnh Nymex.
Giá dầu thô tại NYMEX đã đạt mức cao kỷ lục là $111,80 vào ngày 17/03/2008. Giá 
xăng RBOB kỳ hạn tháng 5/2008 tại NYMEX đã tăng 4,40 cent hay 1,6% đạt 2,7944 $/thùng. 
Tại Luân Đôn, giá dầu thô brent đã tăng $2,12 hoặc 1,99% đạt 108,46 $/thùng, giá giao dịch từ 
105,75 đến $108,77. Giá dầu tăng còn là do lo ngại nguồn cung nhiên liệu cho ô tô chiết xuất 
từ dầu thô, trước thời điểm nhu cầu đi lại ở Mỹ sẽ lên đến đỉnh điểm trong mùa Hè, bắt đầu từ 
tháng 5, khi nhiều người Mỹ sẽ đổ ra đường để đi nghỉ. Bộ Năng lượng Mỹ dự báo lượng xăng 
tiêu thụ tại nước này trong mùa Hè này sẽ giảm lần đầu tiên kể từ năm 1991. Ngoài ra, giá dầu 
cũng chịu sức ép từ việc đồng USD tăng giá. Đồng bạc xanh yếu có xu hướng sẽ làm tăng giá 
hàng hoá tính bằng đồng tiền này, bằng cách tăng cường sức mua của người nước ngoài và thu 
hút các nhà đầu tư tìm kiếm một nơi trú ẩn trước lạm phát, do đó một đồng USD mạnh hơn sẽ 
đẩy giá hàng hoá giảm xuống.
Cơ quan thông tin năng lượng Mỹ thông báo dự trữ dầu thô đã giảm 3,2 triệu thùng còn 
316 triệu thùng. Theo EIA, mức tiêu thụ dầu của thế giới tăng, đi đôi với sản lượng dư thấp 
đang gây sức ép ngày càng tăng lên giá dầu. Luồng vốn đầu tư đổ vào hàng hoá cũng góp phần 
khiến giá dầu bất ổn. EIA cũng điều chỉnh tăng dự báo về giá dầu năm 2009 từ mức 86 $/thùng 
ban đầu lên 92,5 $/thùng. EIA nhận định, giá dầu cao làm giảm nhu cầu tại Mỹ, nhưng mức 
tiêu thụ dầu vẫn khá mạnh ở Trung Quốc, Ấn Độ, Nga và Trung Đông.IEA dự đoán sản lượng 
dầu của Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) ước đạt trung bình 32,3 triệu thùng/ngày 
trong năm 2008, tăng khoảng 100.000 thùng/ngày so với con số được đưa ra trước đó. IEA 
thừa nhận có sự thay đổi lớn trong những dự báo của cơ quan này về giá dầu, bởi lẽ những gián 
đoạn về nguồn cung không lường hết được (do xung đột tại các nước sản xuất dầu mỏ), điều 
kiện thời thiết bất thường hay một số cơ sở lọc dầu ngừng hoạt động, tất cả những nhân tố này 
đều có thể khiến dầu tăng giá mạnh. Giá dầu tăng dự kiến sẽ đánh mạnh vào người tiêu dùng 
19
Mỹ và làm giảm nhu cầu tiêu thụ xăng của nước này trong những tháng hè - mùa du lịch cao 
điểm tại đây. EIA dự kiến giá xăng bán lẻ sẽ tăng lên gần 3,6 $/gallon trong tháng 6/08. Giá
xăng cao và kinh tế yếu kém sẽ khiến nhu cầu của Mỹ đối với nhiên liệu này giảm khoảng
0,4%. Nhiều chuyên gia phân tích dự báo giá xăng có thể tăng cao hơn và chạm ngưỡng 
4$/gallon. Đặc biệt, mức tiêu thụ các chế phẩm dầu mỏ tại Mỹ dự kiến sẽ giảm 90.000 
thùng/ngày trong năm nay. Trong khi trước đó, EIA dự báo sức tiêu thụ các sản phẩm này tăng
40.1 thùng/ngày.
 Lịch sử giá xăng dầu trong giai đoạn 2005 đến đấu năm 2008:
− Sự gia tăng trong năm 2005:
Giá dầu thô đã tăng lên một ngưỡng mới vào tháng 3/2005. Giá chốt ở sàn NYMEX 
trên mức $50/thùng từ ngày 5/03/2005. Vào ngày 16/03/2005, giá đã vượt qua ngưỡng cao nhất 
là $55.17 của tháng 10/2004 và đóng ở mức $56.46. Vào tháng 4/2005 giá bắt đầu giảm, ở mức
$53.32 vào ngày 9/4. Sau đó tiếp tục tăng ở mức giá $58.28 trong suốt 1 khoảng thời gian, 
nguyên nhân là do ảnh hưởng kéo dài của việc đồng dollar mất giá. Vào tháng 06/2005 giá dầu 
thô đã phá vỡ kỷ lục ngưỡng tâm lý ở mức $60/thùng.
Vào ngày 17/01/2006 dầu thô giao ngay tháng 2 tăng lên mức từ $2.38(3.7%) đến
$33.30 một thùng. Đây là mức tăng cao nhất từ tháng 10/2005. Nhiều chuyên gia cho rằng bạo 
lực ở Nigeria, và xung đột ở miền Tây Iran là nguyên nhân chủ yếu của dự gia tăng này. Tiếp 
tục liên quan đến sự gia tăng xung đột ở Iran, giá tăng đến $68.38 vào ngày 31/01. Tuy nhiên, 
tuỳ vào lượng dầu thô dự trữ và sự khác thường của thời tiết vào mùa đông, vì thế ngày 14/12, 
giá dầu thô ở mức thấp nhất là $59.60.
− Sự gia tăng trong năm 2006:
Tháng 7/2006, San Francisco, California: Vào tháng 7/2006, giá dầu thô khi thực hiện 
xong việc giao hàng ở mức $79/bbl trong một khoảng thời gian. Cuộc chạy đua giá vào đầu và 
giữa mùa hè năm 2006 có thể quy cho sự gia tăng của mức tiêu thụ gasoline, lên đến 1.9% mỗi 
năm ở Mỹ và tình hình chính trị căng thẳng như vụ việc Bắc Triều Tiên thử tên lửa, việc giậm 
chân tại chỗ của chương trình hạt nhân Iran và chiến tranh giữa Israel và Lebanon. Đầu năm 
2006 cuộc chạy đua giá được hình thành từ nhiều nhân tố khác nhau, bao gồm cả việc nguồn 
cung bị gián đoạn từ thiên tai của mùa hè năm 2005 và những vấn đề liên quan đến Iran và 
Nigeria, và sự tiên đoán nhu cầu tăng lên vào mùa hè. Trạng thái thù địch của Nigeria là 
nguyên nhân nguồn cung 675,000 bbl/day gián đoạn. Vào ngày 7 tháng 8, BP cắt giảm sản 
lượng làm cho nguồn cung giảm 400,000 bbl/day hay 8% tổng sản lượng Mỹ,“Chia lại từng 
phần cho giá cả” là một thực tế bởi vì sự đình trệ của nguồn cung dầu thô trên thế giới ngày 
càng gia tăng, bằng sự chứng tỏ bởi sự thiếu hụt dầu thô ở Châu Phi, Ấn Độ và Trung Quốc. 
20
Có thể nói rằng cuộc khủng hoảng nguồn cung dầu mỏ sẽ sớm xảy ra, và một cuộc khủng 
hoảng năng lượng có thể xảy ra ở Mỹ-một nước tiêu thụ dầu lớn nhất thế giới tính theo đầu
người. Với xấp xỉ khoảng 5% dân số thế giới, nước Mỹ sử dụng khoảng 25% lượng dầu thế
giới và 40% lượng gasoline được sản xuất ra mỗi ngày- khoảng 2/3 là từ nhập khẩu. Giá dầu 
cao hơn là nền tảng của việc cắt giảm nhu cầu tiêu thụ dầu trên thế giới, bao gồm cả việc giảm 
hoàn toàn nhu cầu dầu của OECD. Bảo tồn năng lượng và nhu cầu khai thác sẽ có thể xảy ra 
chỉ sau khi giá gasoline Mỹ duy trì ở khoảng $4.00-500/gallon.
Sự giảm giá trong tháng 9/2006: Giá dầu bắt đầu giảm trong suốt tháng 9/2006, giá 
đóng cửa dưới $66/ thùng vào ngày 11/9. Giá gas trung bình của Mỹ rơi xuống $2.7/gallon vào 
đầu tháng 9, xuống mức $0.11 từ tuần trước. Một vài thành phố giá trung bình mức dưới
$2.40/gallon.
Khi tháng 9, giá bắt đầu giảm, chi phí trung bình của một gasoline dưới $2.50. Vào 
ngày 19/09, giá dầu giảm $2.14 .Việc giá dầu thô giảm gần đây đã dẫn dến một suy đoán rằng 
giá gasoline có thể giảm ở mức $1.15/gallon. Qua ngày 03/10, giá đóng ở mức $58.68, giá 
đóng cửa thấp nhất từ giữa tháng hai. Nguyên nhân của sự giảm giá này có thể là tình hình 
chính trị Iran dễ chịu hơn, nguồn cung dư thừa và thiên tai giảm nhiều ở khu vực sản xuất dầu 
của Vịnh Mexico.
Sau khi có tin Bắc Triều Tiên thử thành công tên lửa vào ngày 09/10/2006, giá dầu đã 
tăng qua mức $60/ thùng, nhưng đã giảm xuống ngay ngay hôm sau. Cũng như thế, trong vài 
ngày đầu tháng 10, giá dầu nhảy lên quanh mốc $60 điểm khi có tin cho rằng các nước thuộc 
khối OPEC sẽ cắt giảm sản lượng sản xuất dầu thô 1,000,000 thùng/ ngày. OPEC đã không cắt 
giảm sản lượng từ tháng 12/2004. Tuy nhiên, thị trường dường như đã xoá bỏ tin này, đặc biệt 
khi có tin Saudi Arabia đã nói rằng không có thoả thuận cắt giảm ở đây.
Vào ngày 11 tháng10, giá dầu lần đầu tiên đã giảm xuống dưới $58 từ tháng 2. Những 
ngày sau đó, vào ngày 20 tháng 10, giá đóng cửa một thùng dầu thô là $56.82. Cùng ngày này, 
OPEC đã công bố rằng họ sẽ cắt giảm sản lượng từ 1.2 tỷ thùng mỗi ngày để ngăn chặn sự 
trượt giá.
− Sự tăng giá giữa năm 2007:
Mức trung bình ở Mỹ là $3.09, và một vài phần của bờ biển phía Tây đã bán với giá 
không dưới $3.33/gallon. Ở NYMEX do tình trạng bất ổn ở Nigeria, một thùng dầu được giao 
dịch ở mức $73.93. Sự ngưng trệ của một đường ống dẫn dầu ở bờ biển Bắc cũng là nguyên 
nhân làm cho giá dầu thô Brent lên tới $79.64. Dự luật từ Đảng Dân Chủ-được ban hành bởi 
Quốc Hội Mỹ, chấp hành dự luật không sản xuất và xuất khẩu dầu của năm 2007 từ Uỷ ban 
Năng lượng và Thương Mại. Đại diện Nhà Trắng đã thông qua đạo luật “NOPEC” vào ngày 22 
21
tháng 5/2007. Vào ngày 12 tháng 9/2007 giá dầu tăng lên mức kỷ lục là $80 mỗi thùng, vượt 
qua mức giá cao nhất của thập kỷ 80. Giá dầu cao và nguồn cung hạn chế làm gia tăng mối
quan tâm của những người tin rằng giá dầu trong tương lai không xa sẽ đạt đỉnh, hoặc mới vừa
trôi qua, bởi người ta cho rằng nguồn cung sẽ không gia tăng một cách đáng kể, và trong một
khoảng dài hạn hơn nguồn cung giảm xuống là một điều dễ xảy ra. Một điều nên nhớ rằng xu 
hướng giá này tuỳ thuộc vào sự trượt giá của đồng dollar so với những đồng tiền khác. So sánh 
so với đồng Euro là một ví dụ, vì đồng dollar giảm từ từ, giá dầu dường như ít thay đổi hơn. 
Kết quả của mức giá này đem lại một mối quan hệ tương đối, nhưng vì đồng dollar mất giá trị 
so với đồng Euro, giá dầu ở Mỹ sẽ tăng bởi vì chúng được yết giá theo đồng dollar.
Sự tăng giá vào cuối năm 2007: Vào ngày 19 tháng 10/2007 giá dầu thô Mỹ tăng lên 
mức giá cao mới là $90.02 mỗi thùng tuỳ thuộc vào sự kết hợp diễn biến tình hình ở Miền 
Đông Thổ Nhĩ Kỳ và mức độ giảm giá của đồng dollar. Giá giảm trong ngắn hạn do mong chờ 
sự tăng giá của cổ phiếu dầu thô của các nhà đầu tư, tuy nhiên chúng nhanh chóng đạt mức 
đỉnh là $92.22 vào ngày 26 tháng 10 năm 2007 khi cổ phiếu biểu lộ sự giảm giá.
Giá tăng trong cuối tháng 10 và đầu tháng 11. Vào ngày 7 tháng 11/2007 giá dầu thô 
đạt mức kỷ lục mới khi đóng cửa ở mức $98.10/thùng. Khi ngày 21 tháng 11/2007 giá dầu tăng 
mức giá kỷ lục mới là $99.29/thùng, điều này dẫn đến lo ngại giá dầu sẽ phá vỡ ngưỡng tâm lý 
100$/thùng.
Vào ngày 15 tháng 3 năm 2008, thành phố Redwood, California, Ngày 2 tháng 1 năm 
2008, giá dầu thô đã vượt qua ngưỡng tâm lý $100/thùng trước khi giảm xuống $99.69, tuỳ 
thuộc vào tình hình của ngày đón năm mới ở Nigeria và có nghi ngờ cho rằng giá cổ phiếu dầu 
thô ở Mỹ sẽ giảm giá trong 7 tuần liên tục.
Theo báo cáo của BBC những ngày qua những người đầu cơ riêng lẻ đã đẩy giá lên. 
Stephen Schork, một nhà kinh doanh sàn chuyên nghiệp tại sàn giao dịch New York 
Mercantile và người biên tập của một tờ báo chuyên về thị trường dầu mỏ, đã nói rằng một nhà 
kinh doanh tại sàn mua 1000 thùng dầu, một khoảng nhỏ nhất được cho phép, và bán ngay lập 
tức với giá $99.40 tức là lỗ $600. Tuy nhiên, vào ngày 3 tháng 1 giá dầu đã tăng lên $100.05 
một thùng. Giá dầu đã giảm xuống giá $97.91 sau đó một tuần tại giá đóng cửa vào thứ sáu 
ngày 4 tháng 1.
Mặc dù có tin nhu cầu dầu đã giảm đi, song giá dầu đã vẫn một lần nữa tăng lên ở mức 
giá $100.10/ thùng vào ngày 19 tháng 2 sau cuộc hoả hoạn ở nhà máy lọc dầu Texas, và tin đồn 
về việc OPEC cắt giảm sản lượng, và những chứng cứ cho thấy nguồn cung dầu đã giảm xuống 
nhanh hơn nhu cầu dầu. Giá dầu tăng lên mức $101/thùng vào ngày 27 tháng 2/2008. Giá dầu 
vượt đỉnh khi tăng lên giá $103/thùng vào ngày 29 tháng 2/2008 khi đồng dollar Mỹ tiếp tục 
22
yếu đi và việc Fed liên tục hạ lãi suất để kích thích nền kinh tế.
Giá dầu tiếp tục tăng lên giá $104 vào ngày 3 tháng 3/2008, nguyên nhân chính vẫn là
do đồng dollar Mỹ yếu đi. Vào ngày 5 tháng 3/2008 OPEC đã buộc tội cho việc điều hành 
không tốt nền kinh tế Mỹ và nói rằng sẽ đẩy giá dầu lên một mức kỷ lục cao hơn nữa, đồng
thời từ chối dứt khoát việc tăng sản lượng và đổ trách nhiệm cho sự yếu kém của chính quyền
Bush. Giá dầu đẩy lên trên mức $110/thùng khi có dự kiến về mức lạm phát vào ngày 12 tháng 
3/2008 trước khi chốt ở mức giá $109.92 khi mức sản xuất toàn cầu giảm xuống một mức mới. 
Hàng loạt những sự kiện liên quan đã đẩy giá dầu tăng tột đỉnh. Giá dầu tiếp tục với những 
cuộc mốc kỷ lục mới khi tăng $111/thùng vào 13/3/2008 trước khi trượt xuống dưới giá $110 
do mối lo ngại nền kinh tế Mỹ suy thoái.
Tóm lược và phân tích tình hình dầu thô và khí Gas tự nhiên trong hiện tại.
+ Thị trường dầu tiếp tục diễn biến phức tạp bởi những đặc tính vốn có của nó, những 
vướng mắc trong việc phân vùng địa lý, và sự thích nghi chậm chạp với những biến động để có 
thể mang lại một mức giá thấp hơn.
+ Chi phí thăm dò và khai thác có thể tăng lên một cách nhanh chóng hơn chúng ta 
mong đợi khi ta chứng kiến sự thay đổi trong giá năng lượng dài hạn vào năm 2007.
+ Hơn nữa, nguồn tài nguyên quốc gia, những thay đổi trong kỳ tài khoá, và khó khăn
trong vùng địa lý tới nguồn cung dầu cũng ảnh hưởng đến giá dầu.
+ Mối quan hệ giữa nhu cầu dẫn đến giá năng lượng tăng tuỳ thuộc vào mức độ thu 
nhập thực tế. Giá có thể bị ảnh hưởng bởi sự sụt giảm của GDP toàn cầu, nhưng sự suy thoái 
mang tính toàn cầu dường như không như vậy.
+ Chúng tôi mong đợi giá dầu của WTI, và Brent trong bảng danh sách trên sẽ có mức 
trung bình ở mức $75/bbl năm 2010 và $80/bbl trong năm 2012-2013. So sánh này với giai 
đoạn giữa chu kỳ ước tính trên $65/bbl.
+ Giá gas dự đoán ở Mỹ dự đoán trung bình ở mức $8.75/mmBtu trong năm 2010, tăng
lên $8/mmBtu so với trước đó.
Vào trung tuần tháng 11, dự đoán giá dầu trong ngắn hạn phản ánh đúng thực tế khi giá 
dầu ở mức khá cao và tiếp tục chính sách siết chặt của các nước cung cấp dầu mỏ và sự gia 
tăng trong nhu cầu. Nhưng chúng tôi cũng không ngạc nhiên khi có sự thay đổi từ việc dự đoán 
giá trên $60s cho dài hạn hay giữa chu kỳ trong khung thời gian 2012-2013 mà chúng tôi đã 
chốt giá vào tháng 7/2007. Chúng tôi tin rằng đây chính là giá dầu đòi hỏi sẽ bao gồm thay đổi 
trong hành vi của người sản xuất và người tiêu thụ và chúng tôi vẫn nghĩ rằng giá dầu sẽ ở mức 
thấp hơn $100/bbl. Nhưng như chúng tôi đã đề cập trong tháng 7, “trạng thái cân bằng” của giá 
dầu là không thật sự bất biến, nó có thể thay đổi lên hoặc xuống bởi thay đổi thất thường của 
chính sách tiền tệ, thay đổi của GDP, kỹ thuật, sự phân vùng địa lý, chính sách thuế, luật môi 
23
trường,…Về mặt cung cấp còn có sự cạnh tranh giá của các loại như dầu hơi, dầu nặng, gas 
lỏng, biofuels giữa những nguyên liệu khác. Về mặt tiêu thụ, khoa học kỹ thuật có thể khuyến 
khích sử dụng các nhiên liệu hiệu quả để thay thế.
Điều này nói lên rằng, yếu tố then chốt để đưa ra nhận định mới trong việc dự báo giá
năng lượng trong dài hạn là cần phải xem xét kỹ nguyên nhân của việc gia tăng quá nhanh của 
chi phí thăm dò và khai thác. Ủy ban năng lượng Mỹ vừa mới công bố dữ liệu từ các công ty 
năng lượng lớn nhất rằng chi phí trung bình cho việc F&D trung bình trong ba năm 2004-2006 
tăng hơn 50% giai đoạn 2003-2005, đạt mức kỷ lục từ $11.38/bbl lên mức $17.23/bbl.
Việc gia tăng chi phí trên mỗi thùng được lưu ý bởi uỷ ban năng lượng Mỹ phản ánh sự 
kết hợp của chi phí F&D cao (tiền thưởng, bản quyền, nhân công, nguyên vật liệu,…) và 
nguyên liệu dự trữ thay thế hiếm hoi. Giả định rằng chi phí F&D cho mỗi thùng sẽ tăng lên $20 
trong năm 2010, nhưng với dữ liệu mới năm 2006 và việc tiếp tục gia tăng chi phí trong năm 
2007 theo báo cáo của công ty cùng với đề nghị gia tăng thêm chi phí dự trữ thì chi phí F&D 
có thể lên một kỷ lục mới là $25/bbl.
Giá dầu cao hơn được thúc đẩy bởi sự củng cố thêm của việc gia tăng chi phí . Chúng ta 
hiểu rằng nguyên nhân xu hướng này là của cuộc chạy đua của giá và chi phí mà không thể nào 
là một con đường nào khác, nhưng trừ khi có một vài nhân tố bên ngoài có thể làm giá dầu 
giảm xuống, chứ chi phí thì không thể hạ thấp trong tương lai.
Trong chu kỳ giá dầu giảm được tạo ra bởi các yếu tố như nhu cầu các sản phẩm từ dầu 
thô thấp, nhiều mỏ dầu mới được tìm thấy, và kỹ thuật máy khoan hiện đại, và cả việc dự trữ 
nguồn dầu mỏ dồi dào. Sự lặp lại những điều kiện này điều có thể chắc chắn, nhưng dường như 
không thể trong vài năm tới. Nhu cầu dầu tăng nhanh ở các khu vực như Châu Á và Trung 
Đông những khu vực mà nền kinh tế không dễ ảnh hưởng ngay lập tức. Kỹ thuật công nghệ 
vẫn đang phát triển nhưng nó không đủ sức để tạo ra một bước đột phá như cách đây hai thập 
kỷ. Việc phát hiện những khu vực có trữ lượng dầu mỏ tiềm năng cao ngày càng giảm xuống vì 
“nguồn lực quốc gia” đã dần chuyển sang vấn đề chính trị hơn là việc khai thác.
24