Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

BÀI GIẢNG DỊCH TỄ HỌC THÚ Ý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 122 trang )





BÀI GIẢNG
DỊCH TỄ HỌC THÚ Y
Trương Hà Thái







Mục lục

CHƯƠNG 1: MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ CỦA DỊCH TỄ HỌC
I. MỘT VÀI KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ DỊCH TỄ HỌC
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ MỤC TIÊU CỦA DỊCH TỄ HỌC
III. PHẠM VI CỦA DỊCH TỄ HỌC
IV. VAI TRÒ CỦA DỊCH TỄ HỌC
V. NHIỆM VỤ CỦA DỊCH TỄ HỌC
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU DỊCH TỄ HỌC
VII. NỘI DUNG CỦA MÔN DỊCH TỄ HỌC
VIII. CHU TRÌNH NGHIÊN CỨU DỊCH TỄ

CHƯƠNG 2: KHÁI NIỆM VÀ THUẬT NGỮ DÙNG TRONG DỊCH TỄ HỌC
I. QUÁ TRÌNH TỰ NHIÊN CỦA BỆNH
II. ĐIỀU KIỆN ĐỂ BỆNH PHÁT TRIỂN
III. ĐỊNH ĐỀ KOCK
IV. CÁC MÔ HÌNH CỦA DỊCH BỆNH


V. MỘT SỐ THUẬT NGỮ THƯỜNG DÙNG
VI. THUẬT NGỮ DÙNG TRONG BỆNH TRUYỀN NHIỄM
VII. THUẬT NGỮ ĐỐI VỚI BỆNH KHÔNG TRUYỀN NHIỄM
CHƯƠNG 3: DỊCH TỄ HỌC BỆNH TRUYỀN NHIỄM
I. QUÁ TRÌNH NHIỄM TRÙNG
II. SỰ THÍCH ỨNG BẢO VỆ TỰ NHIÊN CỦA CƠ THỂ
III. QUÁ TRÌNH TIẾN TRIỂN CỦA BỆNH
IV. CÁC THỂ BỆNH NHIỄM TRÙNG
V. BÀI MẦM BỆNH
VI. QUÁ TRÌNH TRUYỀN LÂY
VII. CÁC DẠNG HÌNH THÁI, MỨC ĐỘ DỊCH
CHƯƠNG 4: BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG BỆNH TRUYỀN NHIỄM
I. NGUYÊN LÝ CỦA CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG BỆNH
II. CÔNG TÁC ĐIỀU TRA DỊCH TỄ HỌC
III. BIỆN PHÁP ĐỐI VỚI NGUỒN BỆNH
IV. BIỆN PHÁP ĐỐI VỚI YẾU TỐ TRUYỀN LÂY
V. BIỆN PHÁP BẢO VỆ ĐỘNG VẬT THỤ CẢM
VI. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN TRONG Ổ DỊCH
VII. CÔNG TÁC KHỐNG CHẾ VÀ THANH TOÁN DỊCH BỆNH
CHƯƠNG 5: CÁC THÔNG SỐ ĐO LƯỜNG DỊCH TỄ HỌC
I. KHÁI NIỆM VỀ SỐ LIỆU VÀ BẢNG SỐ LIỆU
II. KHÁI NIỆM VỀ TỶ SỐ, TỶ LỆ, TỶ SUẤT
III. CÁC THÔNG SỐ ĐO LƯỜNG DỊCH TỄ HỌC
CHƯƠNG 6: DỊCH TỄ HỌC MÔ TẢ
I. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔ TẢ
II. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔ TẢ
III. NGHIÊN CỨU MÔ TẢ TRONG THÚ Y
IV. GIẢ THUYẾT NHÂN QUẢ TRONG DỊCH TỄ HỌC
VI. TÌNH HUỐNG CHO VIỆC HÌNH THÀNH GIẢ THUYẾT
CHƯƠNG 7: DỊCH TỄ HỌC PHÂN TÍCH

PHẦN 1: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU BỆNH CHỨNG
I. ĐỊNH NGHĨA
II. THIẾT KẾ VÀ THỰC HIỆN NGHIÊN CỨU BỆNH - CHỨNG
III. PHÂN TÍCH NGHIÊN CỨU BỆNH - CHỨNG
IV. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
PHẦN 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU THUẦN TẬP
I. ĐỊNH NGHĨA
II. CÁC LOẠI NGHIÊN CỨU THUẦN TẬP
III. THIẾT KẾ VÀ THỰC HIỆN NGHIÊN CỨU THUẦN TẬP
IV. PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
V. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
VI. NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ CỦA NGHIÊN CỨU THUẦN TẬP

1
3
3
4
4
5
6
7

9
9
12
13
16
18
18


20
25
28
30
31
31
41

45
45
49
51
52
54
54

57
58
61

68
68
70
71
71

76
76
76
78

82
84
84
84
85
88
92
93
CHƯƠNG 8: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM
I. ĐỊNH NGHĨA
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM
III. CÁC LOẠI NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM
IV. NHỮNG VẤN ĐỀ TRONG NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM
IV. THIẾT KẾ VÀ THỰC HIỆN THỬ NGHIỆM THỰC NGHIỆM
V. VẤN ĐỀ KẾT THÚC SỚM THỬ NGHIỆM
VI. PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ
CHƯƠNG 9: PHƯƠNG PHÁP CHỌN MẪU VÀ TÍNH SỐ MẪU NGHIÊN CỨU
I. MỤC ĐÍCH VÀ Ý NGHĨA
II. CÁC KỸ THUẬT CHỌN MẪU CƠ BẢN
III. SỐ LƯỢNG MẪU NGHIÊN CỨU
IV. PHÂN TÍCH CHẨN ĐOÁN QUA XÉT NGHIỆM
TÀI LIỆU THAM KHẢO




94
94
94
95

96
99
101

102
102
105
110
115



1

CHƯƠNG 1
MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ CỦA DỊCH TỄ HỌC
I. MỘT VÀI KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ DỊCH TỄ HỌC
Trong vài thập kỷ gần đây với những thành tựu của y học, thú y học và các ngành khoa học cơ
bản khác nhiều quan niệm về mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp dịch tễ học đã có những thay đổi khá
sâu sắc và phát triển mạnh mẽ. Dịch tễ học đã trở thành một ngành khoa học của tư duy khách quan cả về
phương pháp nghiên cứu và thực hành.
Dịch tễ học phát triển với một quan niệm bao trùm cơ bản là mọi bệnh trạng của con người và
động vật không phải xảy ra một cách ngẫu nhiên vô cớ mà tất cả các bệnh trạng đều có những yếu tố quy
định nhất định. Những yếu tố này đều có thể xác định được nhờ sự tìm tòi nghiên cứu một cách có hệ
thống với các phương pháp dịch tễ học.
Dịch tễ học nghiên cứu mọi hiện tượng về sức khỏe và những tác động qua lại giữa cơ thể với những
yếu tố nội, ngoại sinh có thể liên quan đến sức khỏe.
Sự tác động qua lại đó sẽ đưa đến kết quả là trong những điều kiện nhất định cơ thể sẽ thắng
(khỏe mạnh, khỏi bệnh) hoặc bị bại (bị bệnh, chết)
Sự phát triển của dịch tễ học ngày càng được hoàn thiện nên mỗi một thời kỳ có những định

nghĩa về dịch tễ học khác nhau, điều đó nói lên sự phát triển của môn học qua từng thời gian.
1. Sơ lược lịch sử phát triển của dịch tễ học
1.1. Dịch tễ học y học
Là môn khoa học học có từ lâu đời, Hipocrat là người đầu tiên đặt nền móng cho môn khoa học
này. Ông quan niệm “Sự phát triển bệnh tật của con người và động vật có thể liên quan đến những yếu tố của
môi trường bên ngoài”
Lịch sử của dịch tễ học phát triển qua nhiều thời kỳ, nhưng nổi bật nhất là 3 cột mốc đánh dấu
những giai đoạn phát triển đặc biệt:
- John Graunt (1662): người đầu tiên định lượng các hiện tượng sức khoẻ, bắt đầu chú ý tới tần
số mắc, chết ở các lứa tuổi, giới tính khác nhau, ông cũng nhận thấy dịch xảy ra khác nhau ở những năm
khác nhau, nêu lên được đặc điểm của các năm có dịch xảy ra.
- William Farr 1983: đã có đóng góp rất nhiều cho việc hình thành về phương pháp nghiên cứu
dịch tễ học hiện đại như: Định nghĩa quần thể có nguy cơ, phương pháp so sánh giữa các đối tượng khác
nhau, chọn nhóm so sánh, rất coi trọng đến các yếu tố có thể ảnh hưởng đến bệnh hoặc chết theo nhóm
tuổi, thời gian tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ, theo tình trạng sức khoẻ chung.
- John Snow khoảng những năm 40 –50 của thế kỷ 19: là người đầu tiên đưa ra giả thuyết về
một yếu tố bên ngoài có liên quan chặt chẽ đối với một bệnh (tuy giả thuyết này khoảng 30 năm sau mới
được kiểm chứng).
Như vậy John Snow là người đầu tiên, là cha đẻ của ngành dịch tễ học, ông đã nêu đầy đủ các
thành phần của định nghĩa dịch tễ học và quan niệm đúng đắn về một đề cập dịch tễ học.

2

1.2. Dịch tễ học thú y
Có nhiều tài liệu cổ của Ai-cập, Hy Lạp, Trung Quốc, ấn Độ… đề cập đến các bệnh truyền
nhiễm của động vật: Dại, Uốn ván, Tỵ thư…
Cũng từ lâu con người đã biết phòng chống bệnh tật cho mình và cho gia súc: hạn chế tiếp xúc
với chuột để giảm bệnh dịch hạch, cách ly người hủi, lấy vẩy đậu mùa sấy khô để phòng bệnh…
Một số nhà học giả nổi tiếng như: Hipocrat, Xidenham, Rracatoro… đã có học thuyết “mầm
truyền nhiễm do tiếp xúc” hoặc “hạt nhỏ gây bệnh” và đề ra biện pháp chống dịch.

Sau này có thêm một số nhà khoa học khác: Jenner, Xamoilovic, Kock, Pasteur và nhiều nhà
bác học khác đã góp công lớn trong việc nghiên cứu các bệnh truyền nhiễm và môn dịch tễ học.
Như vậy có thể thấy dịch tễ học đã có từ rất lâu, nhưng để giải thích đầy đủ thì dịch tễ học là
môn khoa học còn tương đối non trẻ.
1.3. Ở nước ta
Tài liệu cổ chỉ bắt đầu từ thời Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần… đã có những tài liệu ghi chép về bệnh
dịch gia súc.
- Từ thời Hậu Lê đã có những quy định về biện pháp cần thi hành để phòng chống dịch khi có
gia súc chết.
- Đến thế kỷ 18: Tuệ Tĩnh, Nguyễn Gia Phan đã có những tài liệu chữa bệnh cho gia súc.
Sau này trải qua gần 100 năm dưới ách thống trị của thực dân Pháp tuy ngành thú y đã bước
đầu được hình thành và ở giai đoạn này mặc dù đã có áp dụng một số biện pháp phòng trừ dịch bệnh
nhưng dịch bệnh của gia súc vẫn thường xuyên xảy ra.
Chỉ sau Cách mạng tháng Tám ngành thú y nước ta mới thực sự được xây dựng, củng cố và
phát triển, các hoạt động phòng chống dịch bệnh cho gia súc được đẩy mạnh, nghiên cứu khoa học phòng
chống dịch được tăng cường, các nghiên cứu điều tra dịch tễ học đã là cơ sở cho công tác phòng trừ dịch
bệnh.
2. Một vài định nghĩa cơ bản
Nguyễn Lương (1978): Dịch tễ học là khoa học nghiên cứu về tần số xuất hiện của các bệnh
trong các quần thể động vật, theo dõi diễn biến của các bệnh đó, đề xuất ra các giả thuyết về nguyên nhân
bệnh học và phòng chống bệnh đó
Martin (1987): Dịch tễ học là khoa học nghiên cứu về tính thường xuyên, sự phân bố cùng các
yếu tố quyết định đến sức khỏe và bệnh tật trong một quần thể động vật.
Dương Đình Thiện (1997): Dịch tễ học là khoa học nghiên cứu sự phân bố tần số mắc hoặc
tần số chết đối với các bệnh trạng cùng với những yếu tố quy định sự phân bố của các yếu tố đó.
Có thể nhận thấy Dịch tễ học là khoa học nghiên cứu sự phân bố tần số mắc hoặc chết đối với
các bệnh trạng cùng với những yếu tố quy định sự phân bố của các yếu tố đó.
3. Thành phần cơ bản của định nghĩa
Trong các định nghĩa trên đều có 2 thành phần liên quan chặt chẽ với nhau đó là sự phân bố tần
số mắc bệnh hoặc chết và các yếu tố quy định sự phân bố các bệnh trạng.


3

- Sự phân bố tần số mắc bệnh hoặc chết đối với một bệnh trạng nhất định được nhìn dưới 3 góc
độ của dịch tễ học (Cơ thể động vật - Không gian - Thời gian), để có thể giải đáp một bệnh trạng nào đó:
Phân bố như thế nào? Có mắc hay không? Mắc nhiều hay ít? Xảy ra trên loại động vật như thế nào: loài,
giống, lứa tuổi, tính biệt…? Mắc ở vùng nào? Thời gian cụ thể ra sao?
- Các yếu tố quy định sự phân bố các bệnh trạng gồm:
+ Mọi yếu tố nội, ngoại sinh thuộc nhiều lĩnh vực, bản chất khác nhau có ảnh hưởng tới sự mất
cân bằng sinh học đối với một cơ thể, khiến cơ thể đó không duy trì được tình trạng sức khỏe bình
thường.
+ Chúng ta phải tiến hành nghiên cứu các yếu tố quy định sự phân bố để từ đó giải thích các
nguyên nhân, các yếu tố nghi ngờ và đưa ra biện pháp phòng ngừa đối với từng bệnh.
Qua đây ta thấy cả hai thành phần của định nghĩa về dịch tễ học đều có liên quan chặt chẽ tới
tần số mắc và tần số chết. Do đó phải định lượng các hiện tượng sức khoẻ của quần thể đó dưới các dạng
số tuyệt đối bằng đo đếm chính xác và dưới các dạng tỷ số để có thể đem so sánh được.
Nhìn chung định nghĩa về dịch tễ học có 2 nội dung chính đó là điều tra về nguyên nhân gây
bệnh và có biện pháp, có hành động hiệu quả để chặn đứng sự lây lan của bệnh. Do đó, khi nghiên cứu
dịch tễ học thì cần nắm vững 2 thành phần liên quan chặt chẽ trong dịch tễ học để tiến hành bước tiếp
theo là lập luận dịch tễ học.
4. Quá trình lập luận dịch tễ học
Thường bắt đầu bằng sự nghi ngờ về những ảnh hưởng có thể có của một nguyên nhân đặc thù
nào đó dẫn đến sự xuất hiện bệnh, diễn biến bệnh hay suy tàn bệnh.
- Sự nghi ngờ này nảy sinh từ những phát hiện lâm sàng hoặc qua xét nghiệm, qua báo cáo về
tình hình các ca bệnh từ những nghiên cứu mô tả dịch tễ học… Từ đó có thể phác thảo nên những giả
thuyết về nguyên nhân nghi ngờ của bệnh hoặc giả thuyết về quan hệ nhân quả.
+ Giả thuyết nhân – quả này sẽ được kiểm định bằng các nghiên cứu dịch tễ học trên quần thể
với một nhóm thí nghiệm và một nhóm đối chứng để so sánh.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ MỤC TIÊU CỦA DỊCH TỄ HỌC
1. Đối tượng

Dịch tễ học nghiên cứu các quy luật phát sinh, phát triển, kết thúc quá trình dịch của động vật
trong quần thể và những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình đó.
2. Mục tiêu
Có ba mục tiêu chính sau:
- Xác định sự phân bố các hiện tượng bệnh tật
- Làm bộc lộ các nguy cơ và các yếu tố nguy cơ
- Đề ra các biện pháp phòng ngừa, kiểm soát, hạn chế, ngăn chặn sự lây lan, tiến tới thanh toán
các bệnh hoặc nhóm bệnh đó với chi phí kinh tế ít nhất nhưng lại có hiệu quả cao nhất.
III. PHẠM VI CỦA DỊCH TỄ HỌC
Các biện pháp kỹ thuật của dịch tễ học đều được áp dụng vào tất cả các lĩnh vực thú y bao gồm:

4

1. Sử dụng dịch tễ học
Dịch tễ học được sử dụng với những mục đích:
- Xác định nguyên nhân, nguồn gốc khi có dịch xảy ra
- Giải thích sự phân bố tần số mắc, tần số chết của bệnh
- Đề ra những biện pháp khống chế có hiệu quả nhất khi có dịch xảy ra trước khi hoàn tất việc
chẩn đoán
- Lập kế hoạch mang tính chiến lược để khống chế, thanh toán bệnh, tính toán được hậu quả
kinh tế khi dịch bệnh xảy ra
2. Hoạt động dịch tễ học
Đặc tính của dịch tễ học là quan tâm đến tổng đàn gia súc hơn là đối với một cá thể động vật
ốm, chết. Mục đích chính là phòng bệnh hơn chữa bệnh.
Hoạt động của dịch tễ học bao gồm các lĩnh vực sau:
- Nghiên cứu về dịch tễ học: Dịch tễ học mô tả, dịch tễ học phân tích, dịch tễ học thực nghiệm
- Giám sát về dịch tễ học: quan sát, phát hiện sớm
- Những đánh giá về dịch tễ học: sức khỏe và bệnh tật
IV. VAI TRÒ CỦA DỊCH TỄ HỌC
Dịch tễ học có vai trò quan trọng trong các công tác sau:

- Duy trì, bảo vệ sức khỏe, phát triển chăn nuôi, nâng cao sản lượng, chất lượng đàn gia súc - gia
cầm của một cơ sở, một xí nghiệp chăn nuôi hoặc của một huyện, một tỉnh, một quốc gia.
- Là căn cứ khoa học để xây dựng các chủ trương, chính sách của nhà nước đối với ngành thú y.
- Phương pháp dịch tễ học được coi là cơ sở pháp lý của công tác quản lý hành chính của ngành
thú y của một huyện, tỉnh, quốc gia.
- Là cơ sở của phương pháp nghiên cứu đo lường mức độ tác động của dịch bệnh, đồng thời
cũng là phương pháp để đánh giá các biện pháp can thiệp về mặt thú y.
V. NHIỆM VỤ CỦA DỊCH TỄ HỌC
Dịch tễ học có 3 nhiệm vụ chính như sau:
- Nghiên cứu các quy luật của sự phát sinh và diễn biến của các hiện tượng bệnh lý khác nhau
xảy ra trong quần thể động vật trên những quy mô nhất định.
- Nghiên cứu sự phát sinh (xuất hiện, tái diễn) và diễn biến (gia tăng, thu hẹp, ngừng tắt, kết
thúc) của bệnh.
- Mọi hiện tượng bệnh lý đều có nguyên nhân nhất định, khi nghiên cứu các bệnh đó phải chú ý
tới tác động qua lại chặt chẽ của những yếu tố bên trong và bên ngoài.
Hay nói cách khác nhiệm vụ của dịch tễ học thú y là:
- Nghiên cứu các quy luật phân bố của các bệnh, xác định căn nguyên của các hiện tượng bệnh
lý xảy ra trên mỗi cơ thể và quần thể động vật.
- Tìm ra những yếu tố nguy cơ đặc thù cùng với những yếu tố nguy cơ nghi ngờ chi phối sự phát
sinh và diến biến của bệnh trong những điều kiện nhất định theo không gian, thời gian.

5

- Đề xuất ra các biện pháp đúng đắn, hữu hiệu nhằm hạn chế, thu hẹp dần sự phân bố tần số của
các bệnh, tiến tới thanh toán các bệnh đó trong quần thể.
Chú ý: Khi nghiên cứu sự phân bố các tần số cùng với các căn nguyên của bệnh là không tĩnh
tại mà luôn thay đổi theo thời gian, không gian, theo các yếu tố bên trong là các phản ứng của cơ thể và
yếu tố bên ngoài là môi trường xung quanh mà các cá thể đó đang sống trong mối tương tác: Thời gian -
Không gian - Quần thể động vật đó.
Tuy nhiên để thực hiện các nhiệm vụ của dịch tễ học ta cần tiến hành các công việc sau:

- Giám sát dịch tễ học: Bằng cách thu thập các thông tin một cách liên tục, thường xuyên,
nhanh chóng và có hệ thống. Sử dụng các thông tin đó để dự báo sự xuất hiện của một vấn đề nào đó liên
quan đến dịch bệnh hoặc xác định các yếu tố có liên quan đến sự tiến triển của vấn đề đó.
- Điều tra dịch tễ học: Nhiệm vụ này bổ sung cho nhiệm vụ thứ nhất bằng cách thực hiện các
cuộc điều tra dịch tễ học nhằm nghiên cứu thực tế các hoàn cảnh xuất hiện của một vấn đề có liên quan
tới sức khỏe và dịch bệnh đồng thời phân tích các yếu tố quyết định vấn đề đó từ đó rút ra các kết luận và
đưa ra các khuyến nghị nhằm kiểm soát và dự phòng vấn đề đặt ra.
- Đánh giá dịch tễ học: Sử dụng các phương tiện kỹ thuật tham gia vào việc đánh giá các
chương trình dự phòng dịch bệnh cũng như các chiến lược phòng chống dịch bệnh và mọi sự can thiệp
nhằm giảm bớt bệnh và tỷ lệ ốm, tỷ lệ chết.
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU DỊCH TỄ HỌC
Thông thường chúng ta thường sử dụng các phương pháp nghiên cứu dịch tễ học sau:
1. Dịch tễ học mô tả
Là phương pháp nghiên cứu mô tả bệnh và sự phân bố tần số của chúng dưới 3 góc độ Cơ thể động
vật - Không gian - Thời gian trong mối quan hệ tương tác thường xuyên của cơ thể đó cùng các yếu tố nội,
ngoại sinh để làm bộc lộ ra những yếu tố mang tính căn nguyên của các bệnh trong quần thể từ đó phác thảo,
hình thành nên những giả thuyết giữa yếu tố nguy cơ và bệnh.
2. Dịch tễ học phân tích
Là phương pháp nghiên cứu phân tích các dữ liệu thu thập được từ dịch tễ học mô tả, đồng thời
tìm cách giải thích những yếu tố căn nguyên của bệnh và tiến hành các phân tích, thống kê những thông
tin thu được để xác định căn nguyên đặc thù.
Nói một cách khác là kiểm định những giả thuyết được hình thành từ dịch tễ học mô tả, từ đó
đề ra những biện pháp thích hợp để hạn chế ngăn ngừa bệnh.
3. Dịch tễ học can thiệp
Là các phương pháp nghiên cứu can thiệp được đặt ra với các biện pháp tác động vào yếu tố
nguy cơ nhằm làm giảm khả năng mắc hoặc chết với bệnh đó.
4. Dịch tễ học thực nghiệm
Là các phương pháp nghiên cứu thử nghiệm được tiến hành để lập lại mô hình tương tác giữa
bệnh và căn nguyên của chúng để đối chiếu, so sánh, kiểm định lại một cách chắc chắn và xác nhận tính
đúng đắn của giả thuyết đã hình thành.


6

5. Kinh tế dịch tễ học
Là phương pháp nghiên cứu những thiệt hại do bệnh gây nên, nghiên cứu những phương pháp
tác động sao cho với những chi phí tốn kém ít nhất, nhưng lại có hiệu quả nhất cho việc phòng chống
dịch bệnh gia súc, gia cầm để khôi phục và phát triển chăn nuôi.
6. Dịch tễ học lý thuyết khái quát
Là phương pháp nghiên cứu xây dựng các mô hình lý thuyết của bệnh đã được nghiên cứu, trên
cơ sở đó khái quát sự phân bố của bệnh cùng với những mối tương tác có căn nguyên của chúng, giúp
cho việc hạn chế, ngăn ngừa khả năng phát triển, xu hướng gia tăng và sự phân bố rộng rãi của bệnh
trong những quần thể tương tự khác.
Các định nghĩa tổng quát trên là những phương hướng chiến lược của dịch tễ học, chúng quy
định những phương pháp của dịch tễ học tương ứng mà chúng ta sẽ tiếp tục nghiên cứu với những nội
dung cụ thể của nó trong các phương pháp điều tra, quan sát, mô tả, phân tích, thực nghiệm
VII. NỘI DUNG CỦA MÔN DỊCH TỄ HỌC
Là môn khoa học nghiên cứu về tần số xuất hiện của các bệnh trong các quần thể động vật, theo
dõi diễn biến của các bệnh đó, đề xuất ra các giả thuyết về nguyên nhân bệnh học và phòng chống các
bệnh đó.
Tuy nhiên, trong ngành Thú y cho đến nay môn học này mới chỉ nghiên cứu về các bệnh truyền
nhiễm, đặc biệt là các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm có ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế.
Mỗi bệnh truyền nhiễm có những quá trình phát sinh, phát triển và ngừng tắt của nó, các quá trình
đó tuân theo những quy luật nhất định, có những quy luật riêng cho từng bệnh, nhưng có những quy luật
chung cho mọi bệnh.
Nghiên cứu những quy luật chung và đề ra những biện pháp chung để phòng chống dịch là
nhiệm vụ và nội dung của môn dịch tễ học đại cương, còn nghiên cứu những quy luật riêng, biện pháp
riêng sẽ được nghiên cứu trong phần dịch tễ của mỗi bệnh.
1. Nghiên cứu mối quan hệ giữa cơ thể - mầm bệnh - ngoại cảnh
Mối quan hệ giữa cơ thể - mầm bệnh - ngoại cảnh là nguyên nhân của sự ổn định, không ổn
định của sức khỏe dẫn đến phát sinh bệnh, nó bao gồm: Khả năng nhiễm và gây bệnh của mầm bệnh,

tính thụ cảm, sức chống đỡ và khả năng đáp ứng miễn dịch của cơ thể, các yếu tố ngoại cảnh
Như vậy, dịch tễ học nghiên cứu mối quan hệ giữa mầm bệnh và ngoại cảnh, sự tồn tại của
mầm bệnh, các điều kiện làm cho vi sinh vật trở thành mầm bệnh, ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh
tới mầm bệnh.
2. Nghiên cứu các cơ chế phát sinh bệnh truyền nhiễm
Dịch tễ học cũng nghiên cứu mối quan hệ giữa mầm bệnh và động vật bị bệnh trong những điều
kiện nhất định, những vấn đề về lý thuyết nhiễm trùng như đường xâm nhập, đường bài xuất của mầm
bệnh Nên cũng có thể gọi dịch tễ học là khoa học về các cơ chế phát sinh bệnh truyền nhiễm.



7

3. Nghiên cứu nguyên nhân làm nổ ra và lây lan dịch
Dịch tễ học còn nghiên cứu các nguyên nhân làm nổ ra và tồn tại của các dịch lớn, như vậy dịch
tễ học là khoa học về sự lây lan.
Dịch tễ học cũng nghiên cứu về sự phát triển bệnh giữa các loài động vật với nhau, giữa động
vật với con người, nên dịch tễ học là khoa học về các quy luật phát sinh, lây lan trong xã hội và các biện
pháp phòng bệnh.
4. Kết luận
Dịch tễ học là khoa học nghiên cứu sự phân bố tần của bệnh, của hiện tượng dịch và các yếu tố
quyết định sự phân bố đó trong khoảng thời gian và không gian nhất định.
+ Hiện tượng dịch: là một hiện tượng có tần số xuất hiện bệnh cao hơn bình thường.
VIII. CHU TRÌNH NGHIÊN CỨU DỊCH TỄ
Có thể khẳng định rằng dịch tễ học mô tả là cơ sở khoa học cho các nghiên cứu dịch tễ khác, do
vậy khi nghiên cứu về nó cần chú trọng 3 yếu tố cơ bản:
- Đặc điểm của cơ thể bị bệnh: loài, giống, tuổi, tính biệt
- Đặc điểm về thời gian: tháng, năm, mùa vụ, thời gian nung bệnh, bệnh trình, diễn biến bệnh
- Đặc điểm về không gian: vùng, tính chất vùng, tính chất của bệnh trong vùng
Đây là 3 chìa khóa của dịch tễ học, các yếu tố này cung cấp tài liệu cho dịch tễ học phân tích để

đi sâu tìm ra các yếu tố gây bệnh, phân biệt nguyên nhân và các điều kiện làm bệnh phát sinh, lây lan
hoặc tồn tại.
Chính vì vậy nghiên cứu dịch tễ học được bắt đầu bằng nghiên cứu mô tả sự phân bố của bệnh
trong những nhóm, đàn, quần thể động vật cùng với các yếu tố nguy cơ quy định sự phân bố đó dưới 3
góc nhìn của dịch tễ học: Cơ thể động vật – Không gian – Thời gian.
Như vậy, dịch tễ học mô tả là bước khởi đầu cung cấp những thông tin, dữ kiện về sức khoẻ,
bệnh tật của quần thể động vật mà chúng ta đang nghiên cứu.
Dịch tễ học mô tả cũng còn là bước khởi đầu trong việc làm sáng tỏ phần nào các nguyên nhân
của bệnh, vì đã nêu ra được các nhóm động vật có tỷ lệ mắc cao hay thấp đối với một bệnh nhất định nên
người nghiên cứu sẽ đặt câu hỏi là tại sao lại có những tỷ lệ mắc khác nhau đó? Do vậy lập nên những
giả thuyết về nguyên nhân mà những nghiên cứu dịch tễ học tiếp theo có thể xác nhận hoặc bác bỏ.
Các nghiên cứu dịch tễ học nhằm kiểm định lại những giả thuyết từ dịch tễ học mô tả được gọi
là dịch tễ học phân tích.
Dịch tễ học phân tích có nhiệm vụ xác nhận hoặc loại bỏ những giả thuyết đã nêu của dịch tễ
mô tả, là tiền đề cho những nghiên cứu mô tả khác để dẫn tới những giả thuyết mới sát hơn, cao hơn, chi
tiết hơn. Những giả thuyết mới này lại được kiểm định bằng những nghiên cứu phân tích mới và cứ tiếp
tục chu trình nghiên cứu như vậy cho đến khi kết hợp nhân - quả được xác lập đúng đắn nhất.
Sau khi giả thuyết hình thành từ nghiên cứu mô tả được kiểm định là đúng bởi các nghiên cứu
phân tích dịch tễ học thì các nghiên cứu can thiệp được đặt ra với các biện pháp tác động vào yếu tố nguy
cơ nhằm làm giảm khả năng mắc hoặc chết đối với bệnh.

8

Nếu các biện pháp can thiệp là không hoàn toàn vô hại, thì trước khi áp dụng cho cả quần thể
cần phải qua nghiên cứu thực nghiệm (vacxin, thuốc điều trị mới) để xem các biện pháp can thiệp có hiệu
quả hay không, người ta phải tiến hành các cuộc điều tra đánh giá.
Bằng các bước như trên, nếu chân lý được tiếp cận, cuối cùng có thể xây dựng được mô hình
dịch tễ của các bệnh trạng đã nghiên cứu.
Sơ đồ chu trình nghiên cứu dịch tễ
Hình thành giả thuyết

Nghiên cứu
mô tả
Nghiên cứu
phân tích
Kiểm định
gi

thu
y
ế
t

Nghiên cứu can thiệp
Nghiên c

u th

c nghi

m

Đánh giá
Xây dựng mô hình dịch tễ

9

CHƯƠNG 2
KHÁI NIỆM VÀ THUẬT NGỮ DÙNG TRONG DỊCH TỄ HỌC
I. QUÁ TRÌNH TỰ NHIÊN CỦA BỆNH
Bất kỳ một bệnh nào cũng có thời gian tiến triển nhất định trên cơ thể động vật từ trạng thái khỏe

mạnh, rồi sau đó khỏi hoặc để lại di chứng hoặc chết.
Trong cùng một loại bệnh có thể khác nhau về mức độ, nhưng nhìn chung mỗi loại bệnh đều có
một quá trình diễn biến tự nhiên theo một quy luật riêng trong một thời gian nhất định.
Quá trình đó được gọi là quá trình tự nhiên của bệnh, nghĩa là quá trình diễn biến của bệnh
không có sự can thiệp điều trị.
1. Giai đoạn cảm nhiễm
Định nghĩa: là giai đoạn bệnh chưa phát triển nhưng cơ thể đã bắt đầu có tiếp xúc và cảm thụ với
yếu tố nguy cơ, làm cho cơ thể có thể xuất hiện bệnh.
Trong giai đoạn này có những yếu tố không thay đổi: tuổi, tính biệt, loài, giống và những yếu
tố có thể thay đổi: vệ sinh, khí độc, sức khỏe, thức ăn, nước uống, các bệnh khác Chính những yếu tố
này có thể làm tăng hoặc giảm nguy cơ phát bệnh.
Như vậy, nếu xác định được các yếu tố nguy cơ thì sẽ làm giảm hoặc không phát bệnh. Tuy
nhiên không phải tất cả mọi cá thể có cảm thụ với các yếu tố nguy cơ đó đều phát bệnh, cũng không đảm
bảo rằng tất cả mọi cơ thể không cảm thụ với yếu tố nguy cơ đó đều sẽ không phát bệnh. Do mỗi bệnh
đều có những mối nguy cơ riêng không thể phát hiện được hết và không có dấu hiệu nào để phát hiện
một cơ thể động vật đang ở giai đoạn này.
Nên để hạn chế khả năng phát bệnh cần: chăm sóc tốt, làm giảm hoàn toàn tính cảm thụ với
bệnh, làm giảm các yếu tố nguy cơ.
2. Giai đoạn tiền lâm sàng
Cơ thể chưa có triệu chứng của bệnh nhưng bắt đầu có những thay đổi bệnh lý do tác động qua
lại giữa cơ thể và các yếu tố nguy cơ tuy nhiên những thay đổi này ở dưới mức bệnh lý
3. Giai đoạn lâm sàng
Cơ thể đã có những thay đổi về chức năng các triệu chứng và dấu hiệu đặc trưng của bệnh đã
thể hiện ra bên ngoài. Do vậy có thể chẩn đoán bệnh qua những biểu hiện lâm sàng
4. Giai đoạn sau lâm sàng
Nhiều bệnh có thể khỏi hoàn toàn do tự khỏi hoặc do điều trị. Một số bệnh để lại di chứng nhất
thời (Newcastle, Tụ huyết trùng, Lao…) hoặc vĩnh viễn (Brucellosis, Đậu mùa ).
II. ĐIỀU KIỆN ĐỂ BỆNH PHÁT TRIỂN
1. Quan niệm về nguyên nhân đa yếu tố
Trong quan niệm và phương pháp dịch tễ học hiện đại người ta không nhấn mạnh về một yếu tố

nào trong các điều kiện để bệnh phát triển. Bất kỳ một bệnh nào đó nảy sinh không chỉ liên quan đến một
yếu tố đơn thuần mà liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau. Cho nên, trong quá trình phân tích dịch tễ học

10

của bất kỳ bệnh nào phải tiến hành tìm hiểu nguyên nhân, đó phải bao gồm một chuỗi những yếu tố tác
động phối hợp qua lại lẫn nhau.
Như vậy, sự phát sinh và phát triển của một bệnh nào đó liên quan đến nhiều yếu tố căn nguyên
khác nhau và sự tác động qua lại của các yếu tố đó, gọi đó là nguyên nhân đa yếu tố.
Do đó: “Một nguyên nhân đầy đủ” có thể được xem như một tập hợp những hiện tượng, những
điều kiện, những đặc tính tối thiểu không thể tránh khỏi để gây nên bệnh.
Tối thiểu: có nghĩa là không thể bỏ qua bất cứ hiện tượng nào, điều kiện nào, đặc tính nào.
2. Những yếu tố cần thiết và cơ bản để bệnh phát sinh
- Yếu tố gây bệnh hay tác nhân gây bệnh gồm: các yếu tố sinh học, lý học, hóa học
+ Là điều kiện cần thiết nhưng chưa đủ để gây nên bệnh vì nó còn cần phải có các điều kiện hỗ
trợ của yếu tố bên trong là vật chủ và yếu tố bên ngoài là môi trường ngoại cảnh thì bệnh mới phát sinh.
Nhưng là một yếu tố bắt buộc phải có, là điều kiện cần thiết để bệnh phát sinh, phát triển.
- Yếu tố bên trong (vật chủ):
+ Là cơ thể động vật với những đặc trưng của chúng như loài, giống, tuổi, giới tính, đặc tính di
truyền, trạng thái sinh lý, trạng thái bệnh lý
- Yếu tố bên ngoài (môi trường ngoại cảnh):
+ Yếu tố tự nhiên: khí hậu, thời tiết, địa lý, địa hình, nhiệt độ, ánh sáng, không khí, độ ẩm
+ Các yếu tố do con người tạo ra: chuồng trại, vệ sinh, chăm sóc, dụng cụ nuôi dưỡng
3. Các dạng liên kết của các yếu tố (nhân tố)
Mục tiêu của nghiên cứu các dạng liên kết này nhằm xác định tác nhân liên quan tới sự phát
sinh bệnh. Sau khi tác nhân đã được xác định ta có thể đánh giá tác nhân đó gây bệnh như thế nào? Nếu
thấy có sự phối hợp nguyên nhân giữa tác nhân và bệnh đang tồn tại, thì tác nhân đó được gọi là yếu tố
quyết định.
Như vậy, sự liên kết giữa các yếu tố có thể được hiểu nếu mức độ phối hợp của các tác nhân
càng cao thì dịch bệnh sẽ xảy ra thường xuyên hơn trong quần thể. Ngược lại nếu chúng ta loại trừ chính

xác sự phối hợp của các tác nhân gây bệnh đó thì dịch bệnh sẽ giảm hoặc không xảy ra.
Sự liên kết giữa tác nhân gây bệnh và bệnh có thể nhận thức ở 3 mức độ của sự phối hợp: phối
hợp bên ngoài, sự phối hợp thống kê (hay phối hợp bên trong) và phối hợp nguyên nhân.
Sự phối hợp bên ngoài
Bất kỳ một bệnh nào cũng có một sự phối hợp giữa tác nhân gây bệnh, loài gia súc và dịch
bệnh, sự phối hợp này có thể biểu diễn:
Tác nhân Bên ngoài Dịch bệnh
Những yếu tố phối hợp này thường được rút ra từ những nghiên cứu Dịch tễ học mô tả hay là
quan sát dịch tễ về tính lưu hành của bệnh. Khi nghiên cứu ta có thể nhận thấy tỷ lệ mắc bệnh trong một
quần thể hay tiểu quần thể này có thể cao hoặc thấp hơn so với một quần thể hay tiểu quần thể khác,
được đặt trong cùng một điều kiện tương tự.
Vấn đề đặt ra là vì sao và những tác nhân gây bệnh nào có thể giải thích được cho vấn đề trên?

11

Như vậy, để trả lời cho cầu hỏi trên phải tiếp tục nghiên cứu để xác định một số giả thuyết khác
có liên quan và bắt đầu tìm hiểu, thu thập những dữ liệu của các tác nhân này ở trong quần thể tương ứng
Sự phối hợp thống kê
Một khi đã đặt ra giả thuyết về những yếu tố phối hợp bên ngoài thì phải tính đến các yếu tố
phối hợp đó có ý nghĩa thống kê hay không?
Tác nhân Ý nghĩa thống kê Dịch bệnh
Để biết ý nghĩa thống kê thực sự cần thiết trong nghiên cứu, ta phải nêu một số giả thuyết làm
cơ sở khoa học cho việc đánh giá sự phối hợp của các yếu tố này. Mỗi một giả thuyết thống kê là một sự
xác nhận hay một sự phỏng đoán có liên quan tới một hay một số quần thể.
Những giả thuyết được đặt ra là để so sánh, đánh giá và mong muốn có được một giả thuyết xác
thực, đồng thời loại trừ những giả thuyết vô giá trị. Muốn vậy phải căn cứ vào sự khác biệt giữa hai hay
nhiều nhóm khi lấy mẫu thực nghiệm, bằng kiểm tra ý nghĩa thống kê và giá trị thống kê của các nhóm
này.
Sự chính xác hay không chính xác của một giả thuyết được đánh giá bằng độ tin cậy P. Độ tin
cậy P là trị số thống kê được tính toán từ những kết quả khi kiểm tra giả thuyết, hay nói cách khác độ tin

cậy P là xác suất từ những dữ liệu ta quan sát, tính toán được từ những giả thuyết đặt ra. Độ tin cậy P có
phạm vi từ 0 đến 1, thường ta xác định giá trị 5% là tiêu chuẩn được chọn để đánh giá độ tin cậy và chỉ
số này được dùng để xếp loại giả thuyết có ý nghĩa hay không có ý nghĩa, nếu P>0,05 thì giả thuyết được
coi là có giá trị và có độ tin cậy.
Cần lưu ý khi nhận định về ý nghĩa thống kê như thế nào cho đúng ở một ngưỡng xác suất nhất
định nào đó, bởi vì ý nghĩa thống kê chỉ là một định hướng cho hành động, do đó trước một kết quả
nghiên cứu được đánh giá:
+ Có ý nghĩa thống kê: không có nghĩa là các kết quả nghiên cứu của chúng ta đã loại trừ hoàn
toàn các yếu tố may rủi.
+ Không có ý nghĩa thống kê: cũng không có nghĩa là các yếu tố may rủi hoàn toàn chi phối các
kết quả nghiên cứu, mà chỉ có ý nghĩa là các yếu tố may rủi chưa bị loại trừ ra khỏi kết quả.
Trong các kết quả nghiên cứu về kết hợp giữa yếu tố nguy cơ và dịch bệnh, ý nghĩa thống kê
không phản ánh gì về quan hệ nhân quả trong kết hợp đó, vì vậy trong các trường hợp này:
+ Có ý nghĩa thống kê: không có nghĩa là xác nhận bản thân yếu tố nguy cơ là nguyên nhân
chính gây ra hậu quả đó.
+ Không có ý nghĩa thống kê: cũng không có nghĩa là kết hợp đó không phải là một kết hợp
nhân quả.
Ý nghĩa thống kê của các nhân tố phối hợp cũng có thể dẫn tới những sai lầm (Bias) trong bố trí
thí nghiệm.
+ Bias là một thuật ngữ để chỉ bất cứ một sai lầm nào có tính thiên lệch trong bố trí nghiên cứu
thí nghiệm, trong phân tích kết quả. Dù chỉ một hoặc hai trường hợp bị đánh giá thiên lệch cũng có thể

12

làm sai lệch các thông số, làm thay đổi tính chính xác và khách quan của kết quả nghiên cứu. Do vậy,
cần phải kiểm tra và khống chế Bias thì giá trị thống kê mới có ý nghĩa khoa học.
Sự phối hợp nguyên nhân
Dạng phối hợp này đòi hỏi nhà nghiên cứu phải xác định được nguyên nhân gây nên dịch bệnh
là nhân tố trực tiếp hay nhân tố gián tiếp. Không những phải xác định về tính chất mà còn xác định cả về
số lượng.

Tác nhân Nguyên nhân trực tiếp Dịch bệnh
Sự phối hợp nguyên nhân trực tiếp chỉ là tượng đối, nó phụ thuộc vào khả năng phát hiện của
nhà nghiên cứu về sự phối hợp trực tiếp này để từ đó có thể tác động làm thay đổi nguyên nhân theo
hướng có lợi.
Tác nhân NN gián tiếp Dịch bệnh
Có nhiều nghiên cứu bố trí thí nghiệm để phát hiện nguyên nhân phối hợp gián tiếp hay các yếu
tố trung gian giữa tác nhân và dịch bệnh.
4. Nguyên nhân tối thiểu
Dịch tễ học quan niệm bất cứ một bệnh nào cũng không phải xảy ra một cách ngẫu nhiên, vô cớ
mà phải có những nguyên nhân nhất định của chúng, những nguyên nhân này có thể xác định được.
Một thuật ngữ được đề cầp đến đó là “nguyên nhân tối thiểu vừa đủ” khái niệm này đã có từ
lâu, thí dụ như: LD50, ID50, CPE50, TCID50, EID50
+ Nguyên nhân tối thiểu vừa đủ: vừa mang ý nghĩa của liều đáp ứng, vừa mang ý nghĩa của thời
gian đáp ứng, nghĩa là mỗi liều đáp ứng tối thiểu đều ứng với một thời gian đáp ứng tối thiểu nhất định.
+ Hay nói cách khác sự xuất hiện của một bệnh nào đó là do lượng nguyên nhân quá ngưỡng
tác động trong một thời gian nhất định, liều càng cao thì thời gian tác động càng ngắn và ngược lại.
III. ĐỊNH ĐỀ KOCK
Với quan niệm mới về nguyên nhân đa yếu tố thì khái niệm về bệnh tật chỉ do một tác nhân đơn
lẻ gây nên là hoàn toàn không đúng. Chúng ta hãy trở lại một nguyên tắc xác định tác nhân gây bệnh
được biết đến là định đề Kock.
1. Định đề Kock
Bao gồm 4 điểm sau:
- Tác nhân phải được tìm thấy trong các trường hợp bệnh.
- Tác nhân này phải không được tìm thấy ở những trường hợp bệnh khác.
- Tác nhân này phải có thể gây lại bệnh khi tiêm truyền qua động vật thí nghiệm.
- Tác nhân này phải tìm lại được từ vật chủ đã được gây bệnh thí nghiệm
2. Nhận xét
Định đề Kock cho thấy một tác nhân đơn lẻ có thể gây ra một bệnh riêng. Tuy nhiên với quan
niệm mới về bệnh tật, thì định đề Kock chưa đủ và chưa chính xác vì:
- Có nhiều bệnh truyền nhiễm chúng ta có thể tìm thấy nhiều tác nhân gây bệnh (Tiêu chảy,

DTL, CRD, Viêm teo mũi lợn truyền nhiễm )

13

- Có nhiều bệnh mà tác nhân gây bệnh có thể tìm thấy ở những động vật khỏe mạnh
(Pasteurella, VK ĐDL, Tụ cầu khuẩn, Liên cầu khuẩn ) tại sao những vi khuẩn này lại không gây bệnh?
- Định đề Kock không chú ý tới ảnh hưởng của các yếu tố môi trường.
- Định đề Kock quá nhấn mạnh biện pháp kỹ thuật trong thực nghiệm để xác định nguyên nhân,
nhưng lại chưa quan tâm đầy đủ tới môi trường thực nghiệm có phù hợp hay không?
3. Một số điểm bổ sung cho định đề Kock
Định đề Kock tuy có giá trị trong việc xác định những nguyên nhân làm lây lan bệnh ở từng cá
thể nhưng chưa đầy đủ khi đề cập tới những bệnh xảy ra trong quần thể, vì vậy nó cần được bổ sung. Một
khuynh hướng mới với một tư duy mới về nguyên nhân gây bệnh được thiết lập đó là:
- Bệnh phải gắn với sự việc đã xảy ra, sự kết hợp này phải được giải thích bằng những hiện
tượng sinh học với những kiến thức về lâm sàng và bệnh lý học.
- Bệnh phải ổn định và được lập lại, sự kết hợp này phải được mô phỏng lại dưới những điều
kiện khác nhau, tức là phải được bố trí nghiên cứu song song với các nhóm đối chứng khác nhau.
- Bệnh phải có sự nối tiếp về thời gian, tức là tác nhân gây bệnh phải được bộc lộ trước khi
bệnh khởi phát.
- Bệnh phải mang tính đặc thù, nghĩa là một nguyên nhân sẽ dẫn tới một kết quả riêng, chứ
không phải nhiều kết quả (trong thực tế những hiện tượng riêng đôi khi cho nhiều kết quả).
- Cường độ của sự kết hợp giữa tác nhân và bệnh có thể được tính bằng tỷ số của nguy cơ
tương đối (Relative Risk=RR) trong quần thể, nếu tỷ số RR này lớn hơn 1 thì có sự kết hợp giữa tác nhân
gây và bệnh.
- Sự quan hệ về liều đáp ứng: khi có sự thay đổi về tác nhân gây bệnh sẽ dẫn tới sự thay đổi
tương ứng về tỷ lệ phát bệnh. Tức là khi tác nhân nhiều thì bệnh sẽ xảy ra thường xuyên hơn và khi tác
nhân ít thì bệnh sẽ xảy ra ít hơn, tác nhân là yếu tố cơ bản để xác định bệnh.
Rõ ràng 6 quan điểm trên đây là sự kết hợp của các yếu tố tiêu chuẩn để xác định nguyên nhân.
Tuy nhiên cũng còn có những điểm chưa thật phù hợp như tính đặc thù, tính liên kết cần được bổ sung,
chỉnh lý tùy theo từng trường hợp cụ thể và theo mốc thời gian. Bởi vì mọi công trình khoa học đều có

khả năng bị bác bỏ hay được sửa đổi bổ sung do những tiến bộ về kiến thức khoa học của loài người. Do
đó quan hệ nhân quả chưa bao giờ được chứng minh một cách tuyệt đối, mà chỉ là dự đoán dựa trên
những chứng cứ quan trọng thu thập được.
IV. CÁC MÔ HÌNH CỦA DỊCH BỆNH
1. Mô hình sinh thái học
Mô hình sinh thái học chính là sự tương tác của tất cả các yếu tố với nhau cùng tác động lên cơ
thể vật chủ. Mô hình này được thiết lập nhằm tìm ra cơ chế, hậu quả của tất cả những tác động đó đối với
việc hình thành, xuất hiện bệnh như thế nào? Tìm ra được nguyên nhân nào là chủ yếu ảnh hưởng tới tình
trạng sức khỏe của quần thể đàn gia súc hay của một cá thể ở một thời điểm nhất định để điều chỉnh kịp
thời và giữ thăng bằng cho cơ thể.

14

Có những yếu tố trong hệ sinh thái thay đổi, nhưng không gây ảnh hưởng tới sức khỏe quần thể
đàn gia súc, thì không cần phải điều chỉnh, vì có các yếu tố khác trong hệ sinh thái đó có khả năng tự bù
đắp tự điều chỉnh lại những ảnh hưởng đó. Ngược lại có những thay đổi dù nhỏ nhưng lại ảnh hưởng tới
sức khỏe của quần thể đàn gia súc, dẫn tới bệnh tật thì phải điều chỉnh ngay.







Mô hình tam giác
Gồm 3 thành phần: Tác nhân – Vật chủ – Môi trường
Mô hình này cho rằng trong bất cứ dịch bệnh nào cũng phải phân tích đầy đủ 3 thành phần trên,
nếu có bất kỳ một thành phần nào thay đổi sẽ kéo theo sự gia tăng hoặc giảm thấp tần số của bệnh.
Tuy nhiên với quan niệm về các yếu tố bên trong và bên ngoài, ứng với tính cảm thụ của cơ thể
và khả năng phơi nhiễm đối với các yếu tố của môi trường bên ngoài thì thành phần “tác nhân” chỉ là

một trong các yếu tố của môi trường bên ngoài.
Khi nghiên cứu dịch tễ học của các bệnh truyền nhiễm thì việc tách riêng các VSV gây bệnh ra
khỏi các yếu tố của môi trường thành loại tác nhân là chính xác, nhằm làm sáng tỏ nguyên nhân chính
gây ra bệnh. Nhưng với quan niệm và phương pháp nghiên cứu dịch tễ học hiện nay áp dụng cho mọi
loại bệnh, người ta sẽ không nhấn mạnh vào yếu tố đặc thù nào, ngay cả đối với các bệnh đã biết được
“tác nhân” gây bệnh.
Mô hình sinh thái học được hình thành, không nhấn mạnh đến “tác nhân” mà quan tâm đến các
tác động qua lại giữa vật chủ và môi trường, nghĩa là quan tâm đến tác động giữa yếu tố bên trong và bên
ngoài.
Mô hình bánh xe
Mô hình bánh xe là mô hình được đề cập để phát hiện những mối quan hệ giữa cơ thể và môi
trường, đó là các vòng tròn lớn, nhỏ khác nhau được lồng vào nhau. Ở giữa là một vòng tròn biểu thị cho
cơ thể vật (1) chủ với hệ thống thông tin di truyền của nó (G). Xung quanh là môi trường, chia thành 3
mảnh, biểu thị cho các loại môi trường: môi trường sinh học (a), môi trường lý học (b) và môi trường xã
hội (c).
Độ lớn của từng thành phần của “bánh xe” phụ thuộc vào từng bệnh cụ thể: bệnh do di truyền,
bệnh truyền nhiễm, bệnh không truyền nhiễm
Mô hình này xác định được nhiều yếu tố căn nguyên của bệnh mà không cần nhấn mạnh đến
tác nhân.
Dịch bệnh
Vật chủ
Môi trường
Tác nhân
Hình 1: Sơ đồ mô hình tam giác
G

1
a
b
c


Hình 2: Sơ đồ mô hình bánh xe

15

VD: trong bệnh Dại không cần nhấn mạnh đến virus Dại, mà phải nhấn mạnh đến gia súc mắc
bệnh là ổ chứa virus đó và môi trường.
Sự phân chia ra các yếu tố của vật chủ và các yếu tố của môi trường rất có lợi trong phân tích
dịch tễ học.
2. Mô hình Reed Frost
Mô hình phát triển của dịch bệnh có thể được sử dụng để đánh giá, để dự đoán và đề ra những
chiến lược không chế, ngăn chặn sự phát triển của các dịch bệnh khác nhau.
Mô hình Reed Frost là một trong những mô hình đơn giản nhất, nhưng lại rất hữu ích trong dịch
tễ học, mô hình Reed Frost nhận xét:
- Sự nhiễm bệnh trực tiếp từ cá thể bị nhiễm sang cá thể mẫn cảm bằng một loạt các tiếp xúc
nhất định được gọi là “tiếp xúc đầy đủ”.
- Bất cứ cá thể nào chưa được miễn dịch hoặc chưa mẫn cảm trong nhóm, đàn, quần thể tiếp
xúc với một cá thể mắc bệnh bệnh truyền nhiễm trong một giai đoạn nhất định sẽ phát triển thành bệnh
và có khả năng lây lan cho các cá thể khác trong nhóm, đàn, quần thể và trong giai đoạn tiếp theo, sau đó
sẽ có khả năng hoàn toàn miễn dịch.
- Mỗi một cá thể có một xác suất cố định để “tiếp xúc đầy đủ” và hoàn toàn ngẫu nhiên với cá
thể đặc biệt khác trong nhóm, đàn, quần thể trong một khoảng thời gian nhất định, xác suất này cũng
tương ứng cho mỗi thành viên trong nhóm, đàn, quần thể khác.
- Những cá thể đã bị nhiễm “được coi như tách khỏi” những cá thể trong nhóm, đàn, quần thể.
- Khoảng cách thời gian cho giai đoạn nhiễm bệnh bằng bình quân độ dài của khoảng cách tiền
phát.
* Mô hình Reed Frost mô tả dịch bệnh bằng phương trình sau:
C
(t+1)
= S

t
(1- Q
ct
)
Trong đó:
+ t là giai đoạn thời gian xác định bởi thời kỳ nung bệnh của tác nhân (được đo bằng đơn vị
giờ, ngày, tháng).
+ C
(t+1)
là số trường hợp bệnh bị nhiễm trong thời gian t
+ S
t
là số động vật dễ phơi nhiễm trong thời gian t
+ Q là khả năng của một cá thể không được tiếp xúc đầy đủ trong một giai đoạn thời gian. Giá
trị của Q được xác định bằng 1 - P, mà P là khả năng của một cá thể được tiếp xúc đầy đủ, nên: Q = 1 - P
+ Khả năng tiếp xúc đầy đủ P có thể được xác định bằng K/(N – 1)
+ K là số lượng tiếp xúc có hiệu quả của một cá thể trong một giai đoạn xác định, còn N là quy
mô của quần thể.
Mô hình Reed Frost có thể xác định được số động vật mới bị nhiễm trong giai đoạn về sau nếu
biết được số lượng hiện tại những động vật dễ nhiễm, số lượng các ca bệnh hiện tại và khả năng tiếp xúc
có hiệu quả.

16

Mô hình Reed Frost nghiên cứu dịch tễ học hiện hành, chứng minh rằng dịch bệnh sẽ tàn lụi
hay kết thúc khi sự tiếp xúc đầy đủ (P) ở mức độ thấp và khi số lượng động vật dễ nhiễm (S) giảm:
+ Khi mà P x S > 1 thì dịch bệnh có thể xảy ra
+ Ngược lại khi P x S < 1 thì dịch bệnh sẽ không xảy ra hoặc kết thúc
+ Còn nếu như dịch bệnh không mất hết, có thể là do có sự thay đổi về độc lực của VSV gây
bệnh.

Mô hình Reed Frost cho biết nếu số động vật dễ nhiễm trong quần thể giảm do tăng tỷ lệ động
vật được miễn dịch thì mức độ của dịch bệnh và thời gian của dịch bệnh có thể sẽ giảm nhiều. Điều này
nêu lên khái niệm về “miễn dịch đàn”.
- “Miễn dịch đàn” được coi như sự bảo vệ của quần thể khỏi nhiễm dịch bệnh bằng miễn dịch
của các cá thể trong quần thể. Nếu như tỷ lệ động vật được miễn dịch trong quần thể giảm dưới mức quy
định, thì dịch bệnh sẽ tăng cao đó là điều tất yếu.
Do vậy tiêm vacxin phòng bệnh cho đàn gia súc là phương pháp tạo và duy trì những động vật
có miễn dịch trong quần thể, bảo vệ từng cá thể gia súc khỏi mắc phải dịch bệnh, đem lại lợi ích cho
cộng đồng, đem lại lợi ích cho cá nhân. Đây chính là những lý do tại sao chúng ta phải tiêm các loại
vacxin phòng bệnh cho đàn gia súc.
V. MỘT SỐ THUẬT NGỮ THƯỜNG DÙNG
1. Nguy cơ, yếu tố nguy cơ
Trong các bệnh nhiễm khuẩn, nguyên nhân gây bệnh là do các VSV gây nên. Tuy nhiên ngày nay
khái niệm này được mở rộng nó bao gồm tất cả các yếu tố bên trong và bên ngoài có liên quan, ảnh hưởng
đến việc hình thành, diễn biến của bệnh trong một quần thể. Chúng đều được nhìn nhận là những yếu tố
nguy cơ của bệnh nhưng ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào kết quả xác định đó là yếu tố nguy cơ nghi
ngờ hay yếu tố nguy cơ căn nguyên.
Nguy cơ: Là khả năng mắc một bệnh nào đó
Nguy cơ được định nghĩa là xác suất xuất hiện một biến cố không có lợi đối với sức khỏe của
mỗi cá thể hoặc của một quần thể. Có thể nhận thấy khái niệm nguy cơ là một khái niệm xác suất trìu
tượng có thể xảy ra và cũng có thể không xảy ra.
Yếu tố nguy cơ: Bất kỳ một yếu tố nào, dù có bản chất nào (vật lý, hóa học, sinh học ) góp
phần làm cho một cơ thể đang khỏe mạnh mà mắc bệnh thì yếu tố đó được gọi là yếu tố nguy cơ.
Như vậy, khác hẳn với nguy cơ, yếu tố nguy cơ là một khái niệm vật chất cụ thể. Nên khi nói
đến nguy cơ chúng ta bao giờ cũng phải gắn liền với yếu tố nguy cơ nếu không sẽ không có ý nghĩa gì về
mặt dịch tễ học và cũng sẽ không mang lại một lợi ích gì khi muốn can thiệp để bảo vệ cá thể hoặc quần
thể đó.
Nếu không khắc phục được yếu tố nguy cơ thì hậu quả tất nhiên là dịch bệnh sẽ xảy ra.
2. Tương tác quan hệ nhân quả
Một bệnh xảy ra là hậu quả do tác động của nhiều yếu tố nguyên nhân khác nhau, trong dịch tễ

học, người ta gọi các hiện tượng đó là “lưới nguyên nhân”. Bởi vì một bệnh có thể được hình thành do

17

nhiều nguyên nhân khác nhau. Ngược lại, một yếu tố nguyên nhân cũng có thể gây tác động hình thành
nhiều hậu quả khác nhau, người ta gọi đó là “lưới hậu quả”.
Vì vậy, trong các giả thuyết nhân quả không chỉ quan sát những “diễn biến” của bệnh mà phải
nắm được “chất tác động” lên “diễn biến” đó cũng như biểu hiện của các “diễn biến” đó.
Trong mối tương tác quan hệ nhân quả, một vấn đề không thể bỏ qua được đó là các quan hệ về
liều đáp ứng và thời gian đáp ứng.
3. Quần thể
Quần thể: được hiểu một cách khái quát là tập hợp nhiều cá thể trong một phạm trù nhất định,
là tổng số cá thể trong một phạm trù xảy ra bệnh hoặc các cá thể có phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ của
bệnh cần nghiên cứu.
Có thể chia ra các loại quần thể sau:
- Quần thể toàn bộ: là một tập hợp các cá thể có chung những đặc điểm, tính chất nhất định
trong một thời gian và không gian nhất định.
- Quần thể định danh: là một tập hợp những cá thể có chung những tính chất nhất định, hình
thành một xác suất mắc tương tự đối với một bệnh nào đó trước những yếu tố nguy cơ nhất định. Tức là
các cá thể đó phải đồng nhất với nhau về nhiều tính chất và đồng nhất tối đa về nguy cơ mắc bệnh.
Trong quần thể định danh có thể chia ra:
+ Quần thể dễ nhiễm còn gọi là quần thể mục tiêu
+ Quần thể có nguy cơ
+ Quần thể bị đe dọa
Chúng ta có thể chọn bất kỳ quần thể nào tùy theo mục đích nghiên cứu, nhưng phải xác định
được số cá thể có trong quần thể đó hoặc số cá thể có trong thời điểm nghiên cứu (nghiên cứu ngắn) hoặc
phải xác định được số cá thể trung bình có trong thời gian nghiên cứu hoặc giai đoạn nghiên cứu (nghiên
cứu dài). Vì các cá thể này sẽ được dùng làm mẫu số cho tính toán các tỷ lệ sau này.
Đối với một quần thể lớn (nghiên cứu trong phạm vi rộng và thời gian dài) thì không nên tính
tổng số cá thể, vì sẽ không chính xác. Trong trường hợp này nên lấy số thống kê tổng đàn gia súc có

trong khu vực ở giữa thời kỳ nghiên cứu.
Đối với các quần thể nhỏ, mà quan sát lại được tiến hành trong phạm vi hẹp và thời gian ngắn
thì tử số của các tỷ lệ cần phải là số chính xác của các trường hợp gia súc mắc bệnh, gia súc chết còn
mẫu số là tổng đàn gia súc có trong thời gian ngắn đó.
4. Thời điểm phát bệnh
Xác định thời điểm phát bệnh là rất cần thiết, trong việc thiết lập các tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ chết
và đặc biệt là tỷ lệ mới mắc.
Có bệnh có thể xác định được thời điểm phát bệnh một cách dễ dàng và chính xác. Có bệnh thì
khó xác định hơn hoặc nhiều khi không xác định được chính xác. Trong trường hợp này ta có thể coi thời
điểm phát hiện những triệu chứng đầu tiên sớm nhất hoặc là lúc có chẩn đoán chính xác là thời điểm phát
bệnh.

1
8

5. Thời kỳ quan sát
Khi xác định các tỷ lệ luôn luôn phải bao phủ một khoảng thời gian nhất định, thường là: 1
tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm hoặc có thể bao gồm một khoảng thời gian dài ngắn bất kỳ nào. Nói
chung khoảng thời gian đó phải đủ dài để có thể đảm bảo được sự ổn định của tử số khi tính các tỷ lệ.
Thời kỳ quan sát là khoảng thời gian được tính từ ngày phát bệnh đến ngày có con vật mắc
bệnh cuối cùng trong một vụ dịch.
VI. THUẬT NGỮ DÙNG TRONG BỆNH TRUYỀN NHIỄM
1. Thời kỳ nung bệnh (incubation period)
Là khoảng cách thời gian giữa khả năng bị lây từ một tác nhân truyền nhiễm và sự xuất hiện
những triệu chứng đầu tiên của một bệnh nghi vấn.
2. Thời kỳ tiền phát (prepatent period)
Là khoảng thời gian giữa sự nhiễm tới khi bài xuất mầm bệnh truyền nhiễm.
3. Động vật mang trùng (carier)
Là động vật bị nhiễm chứa một tác nhân gây nhiễm đặc biệt mà không có triệu chứng lâm sàng
rõ rệt nhưng là nguồn dịch cho các động vật khác.

Trạng thái mang trùng có thể là không rõ rệt trong suốt quá trình bị nhiễm hay có thể xảy ra
trong thời kỳ nung bệnh hoặc trong thời kỳ hồi phục.
4. Động vật nhiễm bệnh
Là động vật chưa có những triệu chứng điển hình của bệnh đó, nhưng có những biểu hiện tương
tự như động vật mắc bệnh.
5. Động vật nghi nhiễm bệnh
Là động vật dễ nhiễm đã tiếp xúc hoặc ở gần động vật mắc bệnh hoặc nghi mắc bệnh.
6. Nguồn dịch (reservoir)
Là vi sinh vật sống ký sinh trên cơ thể động vật hay trong môi trường ngoại cảnh (đất, nước,
không khí…) mà ở đó chúng có khả năng tồn tại, duy trì sự sống, nhân lên, chúng có thể gây bệnh làm
lây lan bệnh.
7. Sự nhiễm (infection)
Là tác nhân truyền nhiễm có khả năng xâm nhập, phát triển và nhân lên trong cơ thể động vật
sống.
8. Sự ô nhiễm (contamination)
Là sự có mặt của các tác nhân gây nhiễm trong môi trường với một số lượng vượt quá chỉ tiêu
cho phép.
9. Tính cường độc (virulence)
Là khả năng của một tác nhân có thể gây bệnh nặng cho động vật.
VII. THUẬT NGỮ ĐỐI VỚI BỆNH KHÔNG TRUYỀN NHIỄM
1. Giai đoạn cảm ứng

19

Là thời gian từ lúc tiếp xúc với tác nhân đến khi xuất hiện bệnh (giống như thời thời kỳ nung
bệnh trong bệnh truyền nhiễm)
2. Sự ô nhiễm
Là sự có mặt của các chất độc, các khí thải có hại cho sức khoẻ của con người và động vật với
một số lượng vượt quá các chỉ tiêu cho phép ở trong một môi trường ngoại cảnh nhất định.


20

CHƯƠNG 3
DỊCH TỄ HỌC BỆNH TRUYỀN NHIỄM
I. QUÁ TRÌNH NHIỄM TRÙNG
1. Hiện tượng nhiễm trùng
Nhiễm trùng là hiện tượng xảy ra khi mầm bệnh là vi sinh vật xâm nhập vào cơ thể động vật
trong những điều kiện nhất định của ngoại cảnh.
- Theo Metsnhicop: “Nhiễm trùng là một cuộc đấu tranh giữa hai sinh thể”.
- Theo Paplop: “Nhiễm trùng là một quá trình sinh vật học phức tạp bắt đầu bằng cuộc đấu
tranh giữa mầm bệnh và cơ thể bị xâm nhiễm”.
Như vậy nhiễm trùng là một trạng thái đặc biệt của cơ thể, là kết quả xảy ra khi mầm bệnh xâm
nhập vào cơ thể, gặp những điều kiện thích hợp cho sự phát triển, sinh sôi nẩy nở và phát huy tác hại của
nó. Nhưng đồng thời cũng kích thích cơ thể phản ứng lại, bằng cách huy động mọi cơ năng bảo vệ để
chống đỡ.
Hiện tượng đấu tranh giữa hai sinh thể này (cơ thể và mầm bệnh) diễn ra trong những điều kiện
nhất định của ngoại cảnh nên nó còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác. Ảnh hưởng của các loại yếu
tố đó dẫn đến kết quả là xảy ra hiện tượng nhiễm trùng. Đây là một khái niệm cơ bản quán triệt mọi mặt
của công tác phòng chống bệnh truyền nhiễm cho gia súc.
2. Điều kiện để mầm bệnh gây được nhiễm trùng
2.1.Tính gây bệnh
Một trong những tính chất cơ bản của mầm bệnh thể hiện qua tính gây bệnh của chúng. Đây là
điều kiện đầu tiên, cơ bản nhất để mầm bệnh gây được nhiễm trùng.
Mầm bệnh thu được khả năng này qua quá trình tiến hoá thích nghi của nó trên cơ thể. Khả năng
này gắn liền với đặc tính ký sinh của mầm bệnh và có tính chất chuyên biệt: một loại mầm bệnh chỉ gây được
một bệnh nhất định.
Mầm bệnh trong thiên nhiên có nhiều loại:
+ Loại hoại sinh
+ Loại tuỳ tiện (vừa sống ký sinh vừa hoại sinh)
+ Loại ký sinh bắt buộc (chỉ sống và phát triển trong cơ thể và gây tác hại đối với cơ thể).

Nghiên cứu đời sống VSV người ta thấy nhiều loại vi khuẩn sống ở môi trường dần dần thích
ứng trên cơ thể sinh vật, ban đầu là loại ký sinh không thường xuyên sau thành ký sinh bắt buộc và cơ
thể trở thành môi trường sống thuận lợi duy nhất đối với chúng.
Sự thích nghi của mầm bệnh dần dần tạo cho chúng những kiểu trao đổi chất khác nhau, có
hình thái và đặc điểm sinh lý đặc trưng cho từng loài, đặc tính này được truyền từ đời này qua đời khác.
Trong quá trình tiến hoá thích nghi với cơ thể động vật nhiều loại mầm bệnh ký sinh thường
hướng về các mô bào nhất là Ricketsia và Virut.

21

Mầm bệnh cũng có xu hướng cư trú và sinh sản ở những tổ chức nhất định hoặc với mỗi loại
động vật nhất định: virut LMLM, vi khuẩn Tỵ thư hoặc gây bệnh cho tất cả các loài như virut Dại, vi
khuẩn Nhiệt thán…
2.2. Độc lực
Mầm bệnh tuy đã có tính gây bệnh nhưng muốn gây được nhiễm trùng cần phải có độc lực.
Độc lực biểu hiện mức độ cụ thể của tính gây bệnh. Nhưng khái niệm độc lực không chỉ nói về
đặc tính của mầm bệnh, mà còn nói lên sự chống đỡ của cơ thể, vì một mầm bệnh có thể có độc lực đối
với cá thể này, loài này nhưng lại không có độc lực đối với cá thể khác, loài khác.
Một mầm bệnh có độc lực là do nó có khả năng xâm nhập và phát triển trong cơ thể, trong quá
trình đó nó tiết ra những chất độc, những chất ngăn cản cơ năng bảo vệ của cơ thể hoặc phá huỷ tổ chức
của cơ thể.
Độc lực của mầm bệnh không cố định mà rất dễ bị biến đổi do tác động của cơ thể và ngoại
cảnh. Độc lực của mầm bệnh cũng có thể được làm tăng hoặc giảm hoặc mất hoàn toàn bằng phương
pháp nhân tạo hoặc bị biến đổi trong tự nhiên. Người ta đã lợi dụng tính chất này trong việc phòng chống
bệnh như tiêu độc, chế các loại vacxin…
Trong phòng thí nhiệm người ta có quy ước để tính độc lực của mầm bệnh, đó là liều gây chết
ít nhất (DLM), tức là dùng số lượng mầm bệnh ít nhất nuôi trong những điều kiện nhất định về môi
trường, nhiệt độ, thời gian có thể giết chết một động vật nhất định trong những điều kiện nhất định hoặc
xác định liều gây chết 50% động vật thí nghiệm (LD50%).
2.3. Số lượng

Muốn gây được bệnh thì mầm bệnh phải có số lượng nhất định. Độc lực đi đôi với số lượng
mầm bệnh nhiễm vào cơ thể, số lượng càng nhiều bệnh thể hiện càng nặng.
Tuy nhiên có loại mầm bệnh chỉ cần số lượng rất ít cũng đủ để gây bệnh (Virus Dịch tả lợn, vi
khuẩn Pasteurela multocida) nhưng có loại phải cần số lượng nhiều mới gây được bệnh (Virus Loét da
quăn tai, vi khuẩn Nhiệt thán, Brucella).
Để xác định tính chất này chính xác hơn người ta quy định các liều: LD50, EID50, CPE50,
TCID
50

2.4. Đường xâm nhập
Súc vật thường xuyên tiếp xúc với môi trường xung quanh chứa mầm bệnh, nên có nhiều điều
kiện và nhiều cách để mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể. Những đường xâm nhập đó được xác lập qua quá
trình tiến hoá lâu dài của chúng để thích nghi với đời sống ký sinh, tạo điều kiện thích hợp nhất để chúng
gây bệnh và bảo tồn nòi giống.
Vì vậy, mỗi loại mầm bệnh đã chọn lọc một con đường thích hợp nhất để vào cơ thể. Những
loại mầm bệnh khác nhau có những đường xâm nhập khác nhau. Tuy nhiên một loại mầm bệnh có thể có
một hoặc nhiều đường xâm nhập, nhưng trong đó vẫn có một đường xâm nhập chính.
Đường xâm nhập có ý nghĩa quan trọng trong hiện tượng nhiễm trùng:

22

- Nếu đường xâm nhập thích hợp thì mầm bệnh dễ dàng gây bệnh và bệnh thể hiện điển hình.
- Nếu đường xâm nhập không thích hợp thì có thể không gây bệnh hoặc gây bệnh nhẹ và cho
miễn dịch hoặc cần số lượng nhiều gấp nhiều lần mới gây được bệnh.
- Ngoài ra, cùng một đường xâm nhập nhưng ở những vị trí khác nhau trên cơ thể thì có thể gây
nên những hiện tượng bệnh lý khác nhau.
Những đường xâm nhập chủ yếu là: đường tiêu hoá, đường hô hấp, đường qua da, niêm mạc,
sinh dục tiết niệu và đường máu.
2.5. Kết luận
Khả năng xâm nhập vào cơ thể, sinh sôi nảy nở trong cơ thể, khả năng chịu đựng trong điều

kiện ngoại cảnh hợp lại tạo thành khả năng xâm nhiễm của mầm bệnh. Khả năng này làm cho mỗi bệnh
truyền nhiễm có tính chất dịch tễ học riêng biệt. Những điều đó có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác
phòng chống bệnh truyền nhiễm.
3. Phương thức tác động của mầm bệnh
Phương thức tác động của mầm bệnh đối với cơ thể động vật chủ yếu gồm hai phương thức
chính:
- Thứ nhất là sinh sản cực nhanh chiếm đoạt vật chất của cơ thể ký chủ để phát triển. VD: như
vi khuẩn gây bệnh Nhiệt thán (B. anthracis)
- Thứ hai tác động bằng những chất tiết ra như: độc tố, giáp mô, yếu tố lan truyền hay khuyếch
tán, công kích tố, các loại men… VD: vi khuẩn gây bệnh Uốn ván (Clostridium tetani)
3.1. Độc tố
Độc tố của vi khuẩn có 2 loại:
- Ngoại độc tố: do vi khuẩn gây bệnh tiết ra môi trường xung quanh, các mô bào của cơ thể hút
vào và gây nên triệu chứng ngộ độc.
Ngoại độc tố rất độc, tác động với một lượng rất ít, thường có đặc tính hướng thần kinh. VD:
độc tố của vi khuẩn Uốn ván lan truyền vào thần kinh trung ương gây kích thích trung tâm vận động làm
bắp thịt bị co giật.
- Nội độc tố: là sản phẩm của nhiều loại vi khuẩn (chủ yếu là vk Gram âm).
Nội độc tố gắn liền với tế bào vi khuẩn, khi vi khuẩn bị dung giải nội độc tố mới được giải
phóng. Khác với ngoại độc tố, nội độc tố gây các hiện tượng bệnh lý chung cho động vật như: ủ rũ, sốt,
bỏ ăn, gầy còm…
3.2. Giáp mô
Giáp mô là yếu tố độc lực của vi khuẩn, có tác dụng giúp vi khuẩn chống lại thực bào.
Một số vi khuẩn có khả năng sinh giáp mô trong cơ thể gia súc: trực khuẩn và cầu khuẩn.
Những vi khuẩn này nếu không sinh giáp mô thì không còn độc lực. Hiện tượng này được ứng dụng để
chế vacxin phòng bệnh cho gia súc, gia cầm.


×