Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD : Ths. Nguyễn Thị Ngọc Diệp
MỤC LỤC
1
SV: Lèo Văn Trường Lớp: Tài chính công 52
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD : Ths. Nguyễn Thị Ngọc Diệp
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Giải thích
1 Agribank
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn
2 WTO Tổ chức thương mại thế giới
3 NHNN Ngân hàng Nhà nước
4 NHTW Ngân hàng trung ương
5 NHTM Ngân hàng thương mại
6 PGD Phòng giao dịch
8 TGKBNN Tiền gửi kho bạc nhà nước
9 UTĐT Uỷ thác đầu tư
10 TCTD Tổ chức tín dụng
11 CBTD Cán bộ tín dụng
13 XLRR Xử lý rủi ro
14 TSCĐ Tài sản cố định
15 CBVC Cán bộ viên chức
17 TDN Tổng dư nợ
18 TMCP Thương mại cổ phần
2
SV: Lèo Văn Trường Lớp: Tài chính công 52
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD : Ths. Nguyễn Thị Ngọc Diệp
DANH MỤC BẢNG BIỂU
3
SV: Lèo Văn Trường Lớp: Tài chính công 52
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD : Ths. Nguyễn Thị Ngọc Diệp
LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử ra đời và phát triển của ngân hàng thương mại gắn liền với quá
trình phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, cùng với sự phát triển của
nền kinh tế thị trường, các ngân hàng thương mại ngày càng xâm nhập sâu sắc
hơn vào mọi hoạt động của nền kinh tế, trở thành một trung gian tài chính quan
trọng bậc nhất, là “cầu nối” giữa người có vốn và người cần vốn và giữ vai trò
"bà đỡ" của mọi nền kinh tế.
Tín dụng là hoạt động chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng,
thế nên việc đảm bảo và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng vừa là mục tiêu,
là nhân tố quan trọng để cạnh tranh và phát triển của mỗi NHTM. Trong số các
hoạt động của tín dụng thì hoạt động cho vay là hoạt động chiếm tới hơn 67%
trong bảng tổng kết tài sản của các NHTM, tuy nhiên tỷ lệ này ở Việt Nam cao
hơn nhiều, có thể lên đến từ 80 – 85% và đây cũng là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi
ro nhất Do vậy, việc đưa ra giải pháp, phòng ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng là
việc góp phần nâng cao chất lượng tín dụng của các NHTM.
Nhận thức được vai trò quan trọng của công tác nâng cao chất lượng tín
dụng nên theo sự chỉ đạo của Agribank Tỉnh Sơn La chi nhánh Agribank thành
phố Sơn La đã đưa ra nhiều giải pháp thực tế phù hợp với tình hình hiện tại của
chi nhánh để góp phần giảm thiểu rủi ro trong tín dụng, mở rộng hoạt động kinh
doanh cũng như tăng cường khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên địa bàn. Đây
là một trong những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của bất
kỳ một ngân hàng nào. Vì vậy em chọn đề tài “ Nâng cao chất lượng tín dụng
tại Agribank thành phố Sơn La ”. Để làm chuyên đề thực tập. Bài viết của em
gồm ba chương :
CHƯƠNG I : Những vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng của ngân hàng thương
mại.
CHƯƠNG II : Thực trạng chất lượng tín dụng của Agribank thành phố Sơn La.
CHƯƠNG III : Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Agribank thành phố
Sơn La.
4
SV: Lèo Văn Trường Lớp: Tài chính công 52
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD : Ths. Nguyễn Thị Ngọc Diệp
CHƯƠNG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1. Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế
1.1.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại
Để đưa ra được một định nghĩa về ngân hàng thương mại, người ta thường
phải dựa vào tính chất, mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính và đôi
khi còn kết hợp tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động.
Theo một số chuyên gia về ngân hàng trên thế giới thì ngân hàng trong
nền kinh tế trên thị trường được quan niệm là “Ngân hàng là một doanh nghiệp
đặc biệt hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, tuân thủ theo pháp luật theo
đuổi mục tiêu lợi nhuận”.
Theo các SGK thường định nghĩa: “NHTM là tổ chức tài chính mà hoạt
động chủ yếu và thường xuyên của nó là huy động vốn, cho vay và làm các dịch
vụ tài chính khác”.
Theo luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam được Quốc hội nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày
12/12/1997 “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ
hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính
chất và hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân
hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và
các loại hình ngân hàng khác”.( trích trang 12-luật các tổ chức tín dụng).
Như vậy,qua một số khái niệm về NHTM, ta có thể hiểu NHTM là một
loại hình doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh tín dụng với mục đích thu
lợi nhuận, và nó có những đặc trưng như sau:
-Ngân hàng thương mại là một tổ chức được phép nhận ký thác của công
chúng với trách nhiệm hoàn trả.
5
SV: Lèo Văn Trường Lớp: Tài chính công 52
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD : Ths. Nguyễn Thị Ngọc Diệp
-Ngân hàng thương mại là một tổ chức được phép sử dụng ký thác của
công chúng để cho vay, chiết khấu và thực hiện các dịch vụ tài chính khác.
Căn cứ vào tính chất và mục tiêu hoạt động, ở nước ta các loại hình Ngân
hàng thương mại được hoạt phép hoạt động theo luật tổ chức tín dụng bao gồm:
Ngân hàng thương mại, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng
chính sách, Ngân hàng hợp tác và các loại hình Ngân hàng khác.
1.1.1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
a. Huy động vốn
Đây là hoạt động đầu tiên, căn bản đặt nền tảng cho toàn bộ hoạt động
của ngân hàng, để bắt đầu hoạt động của Ngân hàng chủ Ngân hàng phải có một
lượng vốn nhất định:
Nguồn vốn tự có: Để bắt đầu hoạt động, chủ ngân hàng phải có một lượng
vốn nhất định. Theo nghị định 10/2011/NĐ-CP quy định vốn pháp định thành lập
NHTM nhà nước và NHTM cổ phần là 3.000 tỷ đồng. Nguồn hình thành và
nghiệp vụ hình thành loại vốn này rất đa dạng tùy thuộc vào loại hình sở hữu,
năng lực tài chính của ngân hàng. Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng
vốn của chủ theo nhiều phương thức như: nguồn từ lợi nhuận, nguồn vổ sung từ
phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm.
Nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng ngày càng mở rộng, tạo uy tín của
ngân hàng ngày càng cao, các ngân hàng chủ động trong hoạt động kinh doanh ,
mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế và các tổ chức dân cư,
mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Do đó các NHTM phải căn cứ vào chiến lược,
mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước, của địa phương . Từ đó đưa ra các loại
hình huy động vốn phù hợp nhất là các nguồn vốn trung, dài hạn nhằm đáp ứng
nhu cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
b. Hoạt động đầu tư và sử dụng vốn
Đây là nghiệp vụ trực tiếp mang lại lợi nhuận cho ngân hàng, nghiệp vụ
sử dụng vốn của ngân hàng có hiệu quả sẽ nâng cao uy tín của ngân hàng, quyết
6
SV: Lèo Văn Trường Lớp: Tài chính công 52
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD : Ths. Nguyễn Thị Ngọc Diệp
định năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường . Do vậy ngân hàng cần
phải nghiên cứu và đưa ra chiến lược sử dụng vốn của mình sao cho hợp lý nhất.
Một là, ngân hàng tiến hành cho vay:
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của các NHTM. Theo thống kê, nhìn
chung thì khoảng 60%- 75% thu nhập của ngân hàng là từ các hoạt động cho vay.
Thành công hay thất bại của một ngân hàng tuỳ thuộc chủ yếu vào việc thực hiện kế
hoạch tín dụng và thành công của tín dụng xuất phát từ chính sách cho vay của ngân
hàng. Các loại cho vay có thể phân loại bằng nhiều cách, bao gồm: mục đích, hình
thức bảo đảm, kỳ hạn, nguồn gốc và phương pháp hoàn trả
Hai là, tiến hành đầu tư:
Đi đôi với sự phát triển của xã hội là sự xuất hiện của hàng loạt những
nhu cầu khác nhau. Với tư cách là một chủ thể hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ,
đòi hỏi Ngân hàng phải luôn nắm bắt được thông tin, đa dạng các nghiệp vụ để
cung cấp đầy đủ kịp thời nguồn vốn cho nền kinh tế. Ngoài hình thức phổ biến là
cho vay, ngân hàng còn sử dụng vốn để đầu tư. Có 2 hình thức chủ yếu mà các
ngân hàng thương mại có thể tiến hành là:
Đầu tư vào mua bán kinh doanh các chứng khoán hoặc đầu tư góp vốn
vào các doanh nghiệp, các công ty khác.
Đầu tư vào trang thiết bị TSCĐ phục vụ cho hoạt động kinh doanh của
ngân hàng.
Ba là, nghiệp vụ ngân quỹ:
Lợi nhuận luôn là mục tiêu cuối cùng mà các chủ thể khi tham gia tiến
hành sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, đằng sau mục tiêu quan trọng đó là hàng
loạt các nhân tố cần quan tâm. Một trong những nhân tố đó là tính an toàn. Nghề
ngân hàng là một nghề kinh doanh đầy mạo hiểm, trong hoạt động của mình,
ngân hàng không thể bỏ qua sự “an toàn”. Vì vậy, ngoài việc cho vay và đầu tư
7
SV: Lèo Văn Trường Lớp: Tài chính công 52
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD : Ths. Nguyễn Thị Ngọc Diệp
để thu được lợi nhuận, ngân hàng còn phải sử dụng một phần nguồn vốn huy
động được để đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán và thực hiện các quy định
về dự trữ bắt buộc do Trung ương đề ra.
Các hoạt động sử dụng vốn khác không trực tiếp mang lại lợi nhuận kinh
doanh cho ngân hàng nhưng gián tiếp mang lại cho khách hàng lợi nhuận.
c. Các dịch vụ tài chính khác
Là trung gian tài chính, ngân hàng có rất nhiều lợi thế. Một trong những
lợi thế đó là ngân hàng thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá
và dịch vụ. Để thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân
hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc,
uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ …cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết
nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Mặt khác, các ngân hàng
thương mại còn tiến hành môi giới, mua, bán chứng khoán cho khách hàng và
làm đại lý phát hành chứng khoán cho các công ty. Ngoài ra ngân hàng còn thực
hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát,
uỷ thác giải ngân và thu hộ…
Như vậy, các nghiệp vụ trên nếu thực hiện tốt sẽ đảm bảo cho ngân hàng
tồn tại và phát triển vững mạnh trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt
như hiện nay. Vì các nghiệp vụ trên có mối liên hệ chặt chẽ thường xuyên tác
động qua lại với nhau. Nguồn vốn huy động ảnh hưởng tới quyết định sử dụng
vốn, ngược lại nhu cầu sử dụng vốn ảnh hưởng tới quy mô, cơ cấu của nguồn
vốn huy động. Các nghiệp vụ trung gian tạo thêm thu nhập cho ngân hàng nhưng
mục đích chính là thu hút khách hàng, qua đó tạo điều kiện cho việc huy động và
sử dụng vốn có hiệu quả.
1.1.2. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Tín dụng được coi là mối quan hệ vay - mượn lẫn nhau giữa người cho
vay và người đi vay trong điều kiện có hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian
8
SV: Lèo Văn Trường Lớp: Tài chính công 52
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD : Ths. Nguyễn Thị Ngọc Diệp
nhất định. Hay nói một cách khác: Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh
mối quan hệ kinh tế mà trong đó mỗi cá nhân hay một tổ chức nhường quyền sử
dụng một khối lượng giá trị hoặc hiện vật cho một cá nhân hay một tổ chức khác
với những ràng buộc nhất định về thời gian hoàn trả, lãi suất, cách thức vay
mượn và thu hồi.
1.1.2.2. Sự cần thiết của tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế là người
trung gian điều hoà quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế, hoạt động tín
dụng đã thông dòng cho vốn chảy từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn.
Ngân hàng ra đời gắn liền với sự vận động trong quá trình sản xuất và lưu
thông hàng hoá. Nền sản xuất hàng hoá phát triển nhanh chóng đã thúc đẩy hàng
hoá - tiền tệ ngày càng sâu sắc, phức tạp và bao trùm lên mọi sinh hoạt kinh tế xã
hội. Mặt khác, chính sản xuất và lưu thông hàng hoá ra đời và được mở rộng xã
kéo theo sự vận động vốn và là nền tảng tạo nên những tổ chức kinh doanh tiền
tệ đầu tiên mang những đặc trưng của một ngân hàng.
Hoạt động tín dụng ngân hàng ra đời đã biến các phương tiện tiền tệ tạm
thời nhàn rỗi trong xã hội thành những phương tiện hoạt động kinh doanh có hiệu
quả, động viên nhanh chóng nguồn vật tư, lao động và các nguồn lực sẵn có khác
đưa vào sản xuất, phục vụ và thúc đẩy sản xuất lưu thông hàng hoá đẩy nhanh
quá trình tái sản xuất mở rộng. Mặt khác việc cung ứng vốn một cách kịp thời
của tín dụng ngân hàng để đáp ứng được nhu cầu về vốn lưu động, vốn cố định
của các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được liên tục tránh
tình trạng ứ tắc, đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có vốn để ứng
dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm thúc đẩy nhanh quá trình sản xuất và tái
sản xuất mở rộng từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triênr nhanh chóng.
Tín dụng ngân hàng thúc đẩy việc sử dụng vốn có hiệu quả và củng cố chế
độ hoạch toán kinh tế
Đặc trưng cơ bản của tín dụng là cho vay có hoàn trả và có lợi tức ngân
hàng huy động vốn của doanh nghiệp khi họ có vốn nhàn rỗi và cho vay khi họ
cần vốn để bổ xung cho sản xuất kinh doanh. Khi sử dụng vốn vay của ngân
hàng, doanh nghiệp phải tôn trọng mọi điều kiện ghi trong hợp đồng tín dụng, trả
9
SV: Lèo Văn Trường Lớp: Tài chính công 52
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD : Ths. Nguyễn Thị Ngọc Diệp
nợ vay đúng hạn cả gốc và lãi. Do đó thúc đẩy các doanh nghiệp phải tìm mọi
biện pháp tăng hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí, tăng vòng quay vốn để tạo
điều kiện nâng cao doanh lợi cho doanh nghiệp. Muốn vậy các doanh nghiệp
phải tự vươn lên thông qua các hoạt động của mình, một trong những hoạt động
khá quan trọng là hạch toán kinh tế.
Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế
đối ngoại.
Ngày nay sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn luôn gắn quan hệ
kinh tế với thị trường thế giới, nền kinh tế “đóng” tự cung tự cấp trước đây nay
đã nhường chỗ cho nền kinh tế “mở” phát triển, mở rộng quan hệ kinh tế với các
nước trên thế giới.
Một quốc gia được gọi là phát triển thì trước hết phải có một nền kinh tế
chính trị ổn định, có vị thế trên thị trường quốc tế, có một lượng vốn lớn trong đó
vốn dự trữ ngoại tệ là rất quan trọng. Tín dụng ngân hàng trở thành một trong
những phương tiện nối liền kinh tế các nước với nhau bằng các hoạt động tín
dụng quốc tế như các hình thức tín dụng giữa các chính phủ, giữa các tổ chức cá
nhân với chính phủ, giữa các cá nhân với cá nhân Sự phát triển ngày càng tăng
trong hoạt động ngoại thương và số thành viên tham dự hoạt động ngaỳ càng lớn
làm cho nhu cầu về hoạt động tài chính càng trở nên cần thiết. Vì vậy việc tạo
điều kiện thuận lợi về tài chính là một công cụ cạnh tranh có hiệu quả bên cạnh
các yếu tố cạnh tranh khác như giá cả, chất lượng sản phẩm, dịch vụ, thương
mại đã vượt ra khỏi phạm vi của một nước ra phạm vi của thế giới có tác dụng
thúc đẩy nền sản xuất mang tính quốc tế hoá, hình thành thị trường khu vực và
thị trường thế giới, tạo ra bước phát triển mới trong quan hệ hợp tác và cạnh
tranh giữa các nước với nhau. Như vậy các hình thực thanh toán cũng sẽ đa dạng
hơn như thanh toán qua mạng SWIFT, thanh toán LC mỗi hình thực thanh toán
đòi hỏi hình thức tín dụng phù hợp và đảm bảo cho nó an toàn và hiệu quả. Chất
lượng của hoạt động tín dụng ngoại thương là cơ sở để tạo lòng tin cho bạn hàng
trong thương mại, tạo điều kiện cho quá trình lưu thông hàng hoá, thắng trong
cạnh tranh về thanh toán sẽ dẫn tới thắng lợi của mọi cạnh tranh khác trọng hoạt
động ngoại thương.
10
SV: Lèo Văn Trường Lớp: Tài chính công 52
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD : Ths. Nguyễn Thị Ngọc Diệp
1.1.2.3. Các hình thức tín dụng ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường tín dụng hoạt động rất đa dạng và phong phú.
Tuỳ theo tiêu thức phân loại mà tín dụng được phân thành nhiều loại khác nhau.
Căn cứ vào thời hạn tín dụng: Tín dụng được chia ra ba loại là tín
dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn và tín dụng dài hạn.
Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm và thường
được sử dụng để cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời vốn lưu động và phục vụ cho
nhu cầu sinh hoạt của cá nhân.
Tín dụng trung hạn: là tín dụng có thời hạn từ 1 – 5 năm, được cung cấp
để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng
các công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh.
Tín dụng dài hạn: là loại có thời hạn trên 5 năm, loại tín dụng này được
sử dụng để cung cấp vốn cho XDCB, cải tiến và mở rộng sản xuất có qui mô lớn.
Tín dụng trung hạn và dài hạn được đầu tư để hình thành vốn cố định và
một phần tối thiểu cho hoạt động sản xuất.
Căn cứ vào đối tượng tín dụng : Tín dụng được chia thành hai loại
là tín dụng vốn cố định và tín dụng vốn lưu động.
Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được sử dụng để hình thành
TSCĐ. Loại này được đầu tư để mua sắm TSCĐ, cải tiến và đổi mới kỹ thuật mở
rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công trình mới. Thời hạn cho vay là
trung hạn và dài hạn.
Tín dụng vốn lưu động : là loại vốn tín dụng được sử dụng để hình thành
vốn lưu động của các tổ chức kinh tế, như cho vay để dự trữ hàng hóa, mua
nguyên vật liệu cho sản xuất. Tín dụng vốn lưu động thường được sử dụng để
cho vay bù đắp mức vốn lưu động thiếu hụt tạm thời. Loại tín dụng này thường
được chia ra các loại : cho vay dự trữ hang hóa; cho vay chi phí sản xuất và cho
vay để thanh toán các khoản nợ dưới hình thức chiết khấu kỳ phiếu.
Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn: Tín dụng được chia làm hai loại
là tín dụng tiêu dùng và tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Tín dụng tiêu dùng: là hình thức cấp phát tín dụng cho cá nhân để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng: Như mua sắm nhà cửa, xe cộ, các hàng hoá bền chắc và
11
SV: Lèo Văn Trường Lớp: Tài chính công 52
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD : Ths. Nguyễn Thị Ngọc Diệp
cả những nhu cầu hàng ngày. Tín dụng tiêu dùng có thể được cấp phát dưới hình
thức bằng tiền hoặc dưới hình thức bán chịu hàng hoá.
Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là loại cấp phát tín dụng cho
các doanh nghiệp và các chủ thể kinh tế khác để tiến hành sản xuất hàng hoá và
lưu thông hàng hoá.
Căn cứ vào chủ thể trong quan hệ tín dụng : Tín dụng được chia
thành các loại là tín dụng thương mại, tín dụng Nhà nước và tín
dụng ngân hàng.
Tín dụng thương mại: Là quan hệ tín dụng giữa các nhà doanh nghiệp
được biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá. Mua bán chịu hàng hoá
là hình thức tín dụng, vì: Người bán chuyển giao cho người mua để sử dụng
vốn tạm thời trong một thời gian nhất định. Đến thời hạn được thoả thuận,
người mua hoàn lại vốn cho người bán dưới hình thức tiền tệ và cả phần lãi
suất. Cơ sở pháp lý xác định quan hệ nợ nần của tín dụng thương mại là giấy
nợ một dạng đặc biệt của khế ước dân sự xác định trái quyền cho người bán và
nghĩa vụ phải thanh toán nợ của người mua. Giấy nợ trong quan hệ tín dụng
thương mại được gọi là kỳ phiếu thương mại (thương phiếu), với 2 loại: hối
phiếu và lệnh phiếu. Hối phiếu là một thương phiếu do chủ nợ lập ra để ra
lệnh cho người thiếu nợ trả một số tiền nhất định cho người hưởng thụ khi
món nợ đáo hạn. Người hưởng thụ có thể là người phát hành, cũng có thể là
thứ ba. Lệnh phiếu là một thương phiếu do người thiếu nợ lập ra để cam kết
trả một số tiền nợ nhất định khi đến hạn cho chủ nợ.
Tín dụng nhà nước : là quan hệ tín dụng trong đó nhà nước đóng vai trò
là người đi vay. Nhà nước huy động vốn bằng cách phát hành các loại tín phiếu,
trái phiếu qua đó để có thể thu hút một lượng lớn tiền mặt trong lưu thông nhằm
kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả thị trường. Đây cũng là cơ sở quan trọng để
hình thành nên thị trường tài chính. Tín dụng nhà nước ra đời nhằm thỏa mãn
những nhu cầu chi tiêu của ngân sách nhà nước trong điều kiện nguồn thu không
đáp ứng nổi các khoản phải chi; mặt khác tín dụng nhà nước cũng để tài trợ cho
các ngành kinh tế yếu kém, các ngành kinh tế mũi nhọn, các vùng kinh tế kém
phát triển.
12
SV: Lèo Văn Trường Lớp: Tài chính công 52
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD : Ths. Nguyễn Thị Ngọc Diệp
Tín dụng ngân hàng : là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, tổ chức tín
dụng khác với các tổ chức, cá nhân. Ngân hàng thực hiện vai trò vừa là người đi
vay vừa là người cho vay và được thể hiện chủ yếu thông qua hình thức tiền tệ.
Các hình thức cho vay chủ yếu như là : Cho vay thương mại, cho vay tiêu
dùng, cho vay thế chấp và đầu tư chứng khoán và có mối quan hệ chặt chẽ, bổ
sung với tín dụng thương mại.
1.1.2.4. Các biện pháp quản lý tín dụng ngân hàng
Thông thường, các Ngân hàng thương mại quản lý hoạt động tín dụng
thông qua các biện pháp sau: phân loại tín dụng, nguyên tắc tín dụng, quy trình
quản lý tín dụng, phân tích tín dụng, quản lý cơ cấu tài sản nợ - có.
o Phân loại tín dụng:
Phân loại tín dụng nhằm giám sát và kiểm tra những khoản nợ hiện có
theo các mức độ khác nhau, xác định chất lượng và mức độ rủi ro của những
khoản nợ, từ đó có chế độ quản lý thích hợp đối với từng khoản cho vay. Có
nhiều tiêu thức phân loại tín dụng, nhưng để phục vụ trực tiếp cho việc quản
lý, người ta thường phân loại nợ theo các tiêu thức: theo thời hạn cho vay,
theo mức độ rủi ro của các khoản nợ, theo kỳ hạn nợ, theo tính chất đảm bảo
của tài sản thế chấp.
Phân loại theo thời hạn cho vay : có 3 loại: tín dụng ngắn hạn, tín dụng
trung hạn và dài hạn, tuỳ theo quan niệm và điều kiện quản lý cụ thể của từng
nước trong việc huy động vốn mà quy định các loại tín dụng có khác nhau
Thông thường, tín dụng có liên quan đến việc bổ sung vốn phục vụ cho việc mua
sắm tài sản lưu động còn tín dụng trung và dài hạn có liên quan đến lĩnh vực đầu
tư xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản cố định, cải tiến kỹ thuật, mở rộng sản xuất
kinh doanh trong các doanh nghiệp. Phân loại theo thời hạn, tính chất của các
khoản vay tạo điều kiện cho việc xây dựng chính sách tín dụng, kế hoạch hóa
nguồn vốn huy động và cho vay phù hợp với từng giai đoạn cụ thể.
Phân loại theo kỳ hạn nợ : Căn cứ vào thời hạn trả nợ đã thỏa thuận trong
hợp đồng vay vốn và khả năng thanh toán thực tế của bên vay vốn,
Nợ chưa đến hạn : Là nợ chưa đến thời hạn thanh toán, khoản nợ này có
thể thu hồi được nhưng cũng có khả năng rủi ro. Làm tốt khâu này sẽ tạo điều
kiện cho việc hoàn thành chu kỳ khép kín của một khoản tín dụng.
13
SV: Lèo Văn Trường Lớp: Tài chính công 52
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD : Ths. Nguyễn Thị Ngọc Diệp
Nợ đến hạn : Là khoản nợ đến hạn phải thanh toán, để đánh giá một khoản
tín dụng đã cung cấp và có ảnh hưởng đến tình hình tài chính và khả năng thanh
toán của NHTM.
Nợ quá hạn : Là khoản nợ mà vì lý do nào đó mà đến thời hạn nhưng chưa
thanh toán được, dẫn đến nợ quá hạn càng lớn, mức độ rủi ro thiếu thanh khoản
ngày càng cao.
o Nguyên tắc tín dụng:
Nguyên tắc tín dụng là kim chỉ nam cho việc điều hành tín dụng, đó cũng
là chuẩn mực và thước đo để các cán bộ thừa hành và thực hiện nhiệm vụ một
cách tốt nhất. Thông thường, nguyên tắc tín dụng phải phải đảm bảo nội dung cơ
bản là phải giải quyết hợp lý giữa 3 lợi ích: lợi ích của Nhà nước, của khách hàng
và của ngân hàng, đồng thời phải hạn chế tới mức tối đa rủi ro tín dụng vì sự tồn
tại và phát triển của ngân hàng.
o Quy trình quản lý tín dụng :
Chính sách tín dụng : Chính sách tín dụng của ngân hàng do Hội đồng
quản trị hay ban lãnh đạo của NHTM vạch ra để thực hiện mục tiêu kinh doanh
của ngân hang.
Quy định về cho vay vốn : Giới hạn về địa lý, lĩnh vực chuyên môn trong
tín dụng; thể thức cho vay; giới hạn kỳ hạn nợ; tiêu chuẩn đánh giá để tín toán
cho vay…
Thực hiện quy trình tín dụng với chính sách đúng đắn, các quy định rõ
rang, tổ chức quản lý có khoa học và sự phối hợp nhịp nhàng, có hiệu quả
giữa các bộ phận có liên quan tới chất lượng tín dụng trong mối quan hệ hợp
tác,thồng nhất giữa ban lãnh đạo ngân hàng với toàn thể nhân viên thì sẽ đem
lại hiệu quả tốt.
o Phân tích tín dụng :
Là phân tích rủi ro có liên quan đến việc cho vay khách hang, nhằm thiết
lập hệ thống phòng ngừa rủi ro tín dụng trước khi quyết định cho vay, cũng như
trong quá trình quản lý tiền vay. Qua đó có thể giúp ngân hàng đưa ra những biện
pháp quản lý phù hợp nhằm đảm bảo an toàn tín dụng.
o Quản lý tài sản nợ- tài sản có :
14
SV: Lèo Văn Trường Lớp: Tài chính công 52
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD : Ths. Nguyễn Thị Ngọc Diệp
Quản lý tài sản nợ : Tìm cách thu hút nhanh chóng các khoản tiền tệ trên
thị trường với chi phí ít nhất để tạo điều kiện tăng cường khả năng thanh toán và
mở rộng quy mô, phạm vi hoạt động tín dụng trong giới hạn cho phép.
Quản lý tài sản có : Với mục tiêu hàng đầu là đảm bảo đáp ứng kịp thời
mọi nhu cầu về tiền với chi phí hợp lý, nhu cầu tiền được thỏa mãn bằng các
khoản tiền đến hạn, bán tài sản có hoặc tang them nguồn tiền gửi, hoặc bổ sung
vốn từ thị trường tiền tệ. Để thực hiện mục tiêu này các NHTM thường sử dụng
biện pháp : chấp hành các tỷ lệ an toàn; đảm bảo giá trị tài sản có lớn hơn các
khoản nợ phải thanh toán; đảm bảo mức độ rủi ro trong giới hạn nhất định; thực
hiện đa dạng hóa các tài sản có; quản lý trạng thái lỏng của tài sản và giữ ở mức
hợp lý; sắp xếp hợp lý tài sản có theo thứ tự ưu tiên.
1.2. Chất lượng tín dụng và các nhân tố ảnh hưởng
1.2.1.Khái niệm về chất lượng tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường, bất kỳ một loại hàng hoá nào sản xuất ra
cũng phải là những hàng hoá mang tính cạnh tranh. Điều đó có nghĩa là mọi loại
hàng hoá sản xuất ra đều phải có chất lượng. Chất lượng của bất kỳ một loại hàng
hoá nào cũng đều được thể hiện bằng giá trị sử dụng của nó. Muốn tạo ra được
những loại hàng hoá mang giá trị sử dụng cao thì đòi hỏi người sản xuất ra chúng
phải trả lời được 3 câu hỏi quan trọng. Đó là: sản xuất ra cái gì? Sản xuất cho ai
và sản xuất như thế nào? các nhà kinh tế đã nhận xét rằng: "Chất lượng là sự phù
hợp mục đích của người sản xuất và người sử dụng về một loại hàng hoá nào đó"
hay "Chất lượng là năng lực của một sản phẩm hoặc dịch vụ thoả mãn nhu cầu
khách hàng".
Từ những nhận xét như vậy, có thể quan niệm chất lượng tín dụng ngân hàng
là việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, đáp ứng nhu cầu tồn tại, phát triển ngân
hàng và mục tiêu phát triển kinh tế -xã hội.
Để có chất lượng tín dụng cao, cần phải có sự quản lý chất lượng đồng bộ.
Đây là một cách quản lý mới không chỉ đảm bảo chất lượng tín dụng mà còn cải
tiến tính hiệu quả và linh hoạt của toàn bộ ngân hàng nhằm ngày càng thoả mãn
đầy đủ yêu cầu của khách hàng trong mọi công đoạn. Để làm được điều này mỗi
15
SV: Lèo Văn Trường Lớp: Tài chính công 52
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD : Ths. Nguyễn Thị Ngọc Diệp
thành viên trong ngân hàng thương mại cần phải hiểu và thực hiện tốt quy trình
quản lý chất lượng tín dụng.
Như vậy, là chất lượng tín dụng ngân hàng là một khái niệm hoàn toàn
tương đối, nó vừa cụ thể (thể hiện qua chỉ tiêu có thể tính toán được: kết quả kinh
doanh của ngân hàng, nợ quá hạn ) vừa trừu tượng (thể hiện qua khả năng thu
hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế qua các ảnh hưởng xuôi và ngược ).
Chất lượng tín dụng còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố chủ quan (khả năng,
trình độ quản lý của cán bộ tín dụng) và khách quan (sự thay đổi trong môi
trường kinh doanh, xu hướng phát triển nền kinh tế, sự thay đổi giá cả thị
trường).
Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố: thu hút được nhiều
khách hàng, thủ tục đơn giản, thuận tiện, mức độ an toàn trong tín dụng cao, chi
phí thấp
Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ thích nghi
của ngân hàng thương mại với sự thay đổi của môi trường bên ngoài và thể hiện sức
mạnh của một ngân hàng thương mại trong quá trình cạnh tranh để tồn tại.
Như vậy chất lượng tín dụng là một khái niệm tương đối rộng. Để có
chất lượng tín dụng thì trong hoạt động tín dụng phải thực hiện có hiệu quả
và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở sự tin cậy và uy tín. Cụ thể
hơn, chất lượng tín dụng là kết quả đạt được với hiệu quả và độ tin cậy trong
hoạt động tín dụng.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
Tín dụng là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của NHTM. Do đó, đo lường
chất lượng tín dụng là một nội dung quan trọng trong việc phân tích hiệu quả
hoạt động kinh doanh của NHTM. Tuỳ theo mục đích phân tích mà người ta đưa
ra nhiều chỉ tiêu khác nhau, tuy mỗi chỉ tiêu có nội dung khác nhau nhưng giữa
chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Trong phạm vi bảng báo cáo tổng hợp
kết quả hoạt động kinh doanh, ta có thể áp dụng các chỉ tiêu sau để đánh giá tình
hình chất lượng tín dụng của ngân hàng.
a. Doanh số cho vay
16
SV: Lèo Văn Trường Lớp: Tài chính công 52
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD : Ths. Nguyễn Thị Ngọc Diệp
Đây là chỉ tiêu phản ánh quy mô cấp tín dụng của ngân hàng với nền kinh tế, là
chỉ tiêu phản ánh chính xác tuyệt đối về hoạt động cho vay trong một khoảng
thời gian. Do đó, nếu kết hợp doanh số cho vay của các thời kỳ liên tiếp thì có
thể thấy được xu hướng hoạt động tín dụng của NHTM.
b. Tổng dư nợ
Nó phản ánh khối lượng tiền cấp cho nền kinh tế tại một thời điểm nhất
định. Tổng dư nợ thấp chứng tỏ ngân hàng không có khả năng mở được mạng
lưới khách hàng, hoạt động tín dụng yếu kém, khả năng tiếp thị khách hàng chưa
tốt. tuy nhiên chỉ tiêu này càng cao thì chất lượng tín dụng càng tốt bởi lẽ khi
ngân hàng cho vay vượt quá mức giới hạn cũng là lúc ngân hàng bắt đầu chấp
nhận những rủi ro tín dụng. Chỉ tiêu tổng dư nợ phản ánh quy mô tín dụng đồng
thời cũng phản ánh uy tín của ngân hàng. Khi so sánh tổng dư nợ của ngân hàng
với thị phần tín dụng của ngân hàng sẽ cho chúng ta biết được dư nợ của ngân
hàng là cao hay thấp.
c. Tỷ lệ nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = Nợ quá hạn/Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của
NHTM ở một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm, đây
là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng của một NHTM. Tỷ lệ nợ
quá hạn thấp cho thấy chất lượng hoạt động tín dụng tại ngân hàng có độ an toàn
cao, tức là mức độ rủi ro thấp. Để đánh giá chính xác hơn thì người ta chia tỷ lệ
nợ quá hạnthành hai loại : tỷ lệ nợ quá hạn có khả năng thu hồi và tỷ lệ nợ quá
hạn không có khả năng thu hồi, và việc xác định được chính xác tỷ lệ phần trăm
của 2 loại chỉ tiêu này người ta mới có thể đánh giá được chất lượng tín dụng của
ngân hàng.
d. Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ
Theo quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín
dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành kèm theo quyết
định sô 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc ngân hàng nhà
nước Việt Nam thì “ Trong thời hạn tối đa 3 năm kể từ ngày quy định này có
17
SV: Lèo Văn Trường Lớp: Tài chính công 52
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD : Ths. Nguyễn Thị Ngọc Diệp
hiệu lực, tổ chức tín dụng phải xây dựng Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để
hỗ trợ cho việc phân loại nợ, quản lý chất lượng tín dụng phù hợp với phạm vi
hoạt động, tình hình thực tế của tổ chức tín dụng ”.
Cụ thể quyết định 493 cũng quy định việc phân loại nợ đối với các tổ chức tín
dụng như sau :
- Nhóm 1(Nợ đủ tiêu chuẩn ) bao gồm : các hoản nợ được các tổ chức tín
dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn.
- Nhóm 2(Nợ cần chú ý ) bao gồm : Các khoản nợ được tổ chức tín dụng
đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu
khách hàng suy giảm khả năng trả nợ.
- Nhóm 3(Nợ dưới tiêu chuẩn ) bao gồm : Các khoản nợ được các tổ chức
tín dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn.
Các khoản nợ này được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn thất
một phần nợ gốc và lãi.
- Nhóm 4(Nợ nghi ngờ ) bao gồm : Các khoản nợ được tổ chức tín đánh giá
là có khả năng tổn thất cao.
- Nhóm 5(Nợ có khả năng mất vốn ) bao gồm : Các khoản nợ được tổ chức
tín dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi, mất vốn.
Trong đó các khoản nợ từ nhóm 3 trở lên được xem là các khoản nợ xấu.
Tỷ lệ nợ xấu = Nợ xấu/Tổng dư nợ
1.2.3.5. Thu nhập từ hoạt động cho vay
Hoạt động tín dụng tuy chứa nhiều rủi ro nhưng là hoạt động mang lại thu
nhập chính cho ngân hàng. Do vậy, chất lượng tín dụng được nâng cao chỉ thực
sự có ý nghĩa khi nó góp phần nâng cao khả năng sinh lời của ngân hàng. Thu
nhập từ hoạt động cho vay là chỉ tiêu cần thiết để đo khả năng sinh lời của ngân
hàng do hoạt động tín dụng mang lại. Chính vì vậy, ngoài việc giảm tỷ lệ nợ quá
hạn, tỷ lệ nợ xấu ngân hàng còn phải tang được thu nhập từ hoạt động cho vay.
1.2.3.6. Hiệu suất sử dụng vốn
Chỉ tiêu này phản ánh tỷ lệ vốn cho vay trong tổng nguồn vốn huy động.
Nó xem xét, đánh giá tỷ trọng cho vay đã phù hợp với khả năng đáp ứng về vốn
của bản thân ngân hàng cũng như nền kinh tế hay chưa.
Hiệu suất sử dụng vốn = Tổng dư nợ/Tổng vốn huy động
18
SV: Lèo Văn Trường Lớp: Tài chính công 52
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD : Ths. Nguyễn Thị Ngọc Diệp
Tỷ lệ này trên thực tế giao động từ 30% đến 100%. Thông thường vào
khoảng trên 80% là tốt, còn nếu dưới hoặc trên mức đó, thậm chí xấp xỉ 100% có
thể sẽ gây ảnh hưởng không tốt tới ngân hàng. Lúc đó tính thanh khoản của ngân
hàng sẽ bị đe dọa do khối lượng dự trữ không được đảm bảo.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
Chất lượng tín dụng theo đúng nghĩa của nó chính là vốn vay của ngân
hàng được khách hàng sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh dịch vụ để có
thể tạo ra một số tiền lớn hơn vừa để hoàn trả ngân hàng cả gốc lẫn lãi,trang trải
các chi phí khác và lợi nhuận. Trong một quá trình luân chuyển vốn như vậy
ngân hàng nhận được vốn và một phần lợi nhuận từ vốn đó còn khách hàng thì
đạt hiệu qủa trong kinh doanh. Như vậy, có thể nói chất lượng tín dụng phải được
đảm bảo từ hai phía ngân hàng và khách hàng.trong hoạt động của mình ngân
hàng cũng như khách hàng luôn phải chịu tác động trực tiếp của rất nhiều nhân tố
cả trực tiếp lẫn gián tiếp mà chỉ một trong số đó có thể ảnh hưởng không nhỏ đến
chất lượng tín dụng của ngân hàng.
1.2.3.1. Các nhân tố bên ngoài
Như chúng ta đều biết, tín dụng ngân hàng là một trong những yếu tố hết
sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các ngân hàng thương mại và
đối với toàn bộ nền kinh tế. Để quản lý chất lượng tín dụng có hiệu quả và đồng
bộ đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải hiểu rất rõ các tác nhân bên ngoài gây
nên các ảnh hưởng. Có thể chia các ảnh hưởng thành nhóm các yếu tố:kinh tế, xã
hội, pháp lý.
a.Nhóm các nhân tố kinh tế:
Khái quát chung nhất thì nếu một nền kinh tế ổn định thì sẽ tạo điều kiện
lưu thông hàng hoá và các vòng quay tiền tệ cũng trôi chảy và làm cho hoạt động
tín dụng thuận lợi. Nền kinh tế ổn định là một nền kinh tế tạo được mọi điều kiện
cho các doanh nghiệp tiến hành kinh doanh mà không bị ảnh hưởng của các yếu
tố lạm phát, khủng hoảng làm cho quá trình thực hiện tín dụng của các ngân hàng
thương mại và các kế hoạch trả nợ vay ngắn hạn của các doanh nghiệp bị xáo
trộn. Trong trường hợp này chất lượng tín dụng chỉ còn chủ yếu phụ thuộc vào
khả năng quản lý của bản thân các ngân hàng thương mại.
19
SV: Lèo Văn Trường Lớp: Tài chính công 52
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD : Ths. Nguyễn Thị Ngọc Diệp
Chu kỳ kinh tế cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động tín dụng. Trong
thời kỳ nền kinh tế đình trệ, sản xuất kinh doanh bị thu hẹp, hoạt động tín dụng
sẽ gặp nhiều khó khăn trên tất cả các mặt. Nhu cầu vốn tín dụng sẽ giảm trong
thời kỳ này, nếu tín dụng đã được thực hiện thì cũng khó có thể sử dụng hiệu quả
hoặc trả nợ ngân hàng. Tuy nhiên, trong thời kỳ hưng thịnh của nền kinh tế, nhu
cầu vốn tín dụng tăng lên, rủi ro tín dụng giảm, thì hoạt động tín dụng của các
ngân hàng thương mại sẽ thuận lợi hơn. Nhưng cũng không loại trừ trừng hợp do
chạy đua trong sản xuất kinh doanh, nạn đầu cơ tích trữ, làm nhu cầu vốn tín
dụng lên quá cao và quá nhiều khoản tín dụng được thực hiện mà rất ít có khả
năng hoàn trả khi các phương án sản xuất kinh doanh không có kế hoạch dẫn đến
suy thoái và khủng hoảng kinh tế.
Mức độ phù hợp giữa lãi suất ngân hàng với mức lợi nhuận đạt được của
doanh nghiệp sản suất kinh doanh và dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân cũng
ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng ngắn hạn. Như Mác nói: " lợi tức
chỉ là một phần lợi nhuận mà nhà tư bản công nghiệp trả cho nhà tư bản kinh
doanh tiền tệ mà giới hạn tối đa của lơi tức là bản thân lợi nhuận" (Tư bản quyển
3 - tập 2 NXB Sự Thật - 1962). Như vậy, mức lợi tức của các ngân hàng thương
mại thu được từ hoạt động tín dụng sẽ bị giới hạn bởi mức lợi nhuận đạt được
cuả doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khi sử dụng nguồn vốn vay của ngân
hàng. Vì vậy, với một mức lãi suất cao hơn mức lợi nhuận mà các doanh nghiệp
vay vốn ngân hàng thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh thì các doanh
nghiệp này sẽ không có khả năng trả nợ, ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tái sản
xuất giản đơn và tía sản xuất mở rộng của doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế
nói chung. Hoạt động tín dụng lúc này không còn là đòn bảy để thúc đẩy sản xuất
kinh doanh phát triển và theo đó chất lượng tín dụng cũng bị ảnh hưởng.
Hoạt động tín dụng là hoạt động cho vay với mọi nhu cầu vốn. Như vậy,
chất lượng tín dụng còn phụ thuộc quan trọng nhất là yếu tố chất lượng khách
hàng. Tín dụng là chiếc cầu nối giữa các ngành sản xuất và kinh doanh dịch vụ
với nhau nhưng đặc biệt nó lại là hoạt động "sản xuất kinh doanh" của các ngân
hàng thương mại. Do vậy, mọi dấu hiệu tốt hay xấu trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp đều có ảnh hưởng tương ứng tới hoạt động tín
20
SV: Lèo Văn Trường Lớp: Tài chính công 52
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD : Ths. Nguyễn Thị Ngọc Diệp
dụng thông qua việc tác động dây chuyền theo các mối quan hệ tín dụng. Với các
doanh nghiệp làm ăn có lãi, có xu thế phát triển, có khả năng chiếm lĩnh thị
trường và quan hệ tín dụng tốt (vay và trả sòng phẳng) thì mọi hoạt động tín
dụng của ngân hàng sẽ thông suốt, nguồn vốn được quay vòng thường xuyên.
Ngược lại, các ngân hàng thương mại với các chính sách tín dụng phù hợp,
phương pháp phân tích kinh tế doanh nghiệp được xây dựng trên cơ sở tương
thích với đặc điểm hoạt động tín dụng sẽ tìm được khách hàng tốt để huy động và
cho vay, thấy được sự hợp lý giữa nguồn vốn huy động được với việc đáp ứng
nhu cầu vốn vay của khách hàng.
b. Nhóm các nhân tố xã hội:
Các yếu tố xã hội ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng là các nhân
tố trực tiếp tham gia quan hệ tín dụng . Đó là người gửi tiền, người vay tiền, ngân
hàng thương mại.
Tín dụng có nghĩa là sự vay mượn dựa trên cơ sở lòng tin, sự tín nhiệm.
Điều đó có nghĩa là quan hệ tín dụng là sự kết hợp giữa 3 yếu tố: nhu cầu của
khách hàng, khả năng của ngân hàng và sự tin tưởng lẫn nhau giữa ngân hàng và
khách hàng. Vì vậy, chất lượng tín dụng phụ thuộc vào cả 3 yếu tố: khách hàng,
ngân hàng, sự tín nhiệm. Trong đó sự tín nhiệm là chiếc cầu nối mối quan hệ
giữa khách hàng và ngân hàng: sự tín nhiệm của ngân hàng càng cao thì thu hút
khách hàng càng lớn và cũng như vậy với một khách hàng có sự tín nhiệm của
ngân hàng sẽ dễ dàng được vay vốn của ngân hàng thường xuyên, có thể còn
được hưởng một mức lãi suất ưu đãi hơn các đối tượng khác. Như vậy, tín dụng
là tiền đề để không ngừng cải tiến chất lượng tín dụng.
Ngân hàng: là chủ thể đại diện cho bên cầu về huy động vốn đồng thời
cũng là người cung cấp tín dụng. Quy mô và phạm vi hoạt động phụ thuộc rất lớn
vào nguồn vốn tự có của ngân hàng thương mại, khả năng huy động vốn cũng
như uy tín và trình độ quản lý của ngân hàng, ngoài ra còn phụ thuộc vào trình độ
kỹ thuật nghiệp vụ, mạng lưới hoạt động khả năng tạo tiền của các ngân hàng
thương mại và việc sử dụng các công cụ tiền tệ của ngân hàng Nhà nước.
Khách hàng: là chủ thể đại diện cho bên cung về nguồn vốn tín dụng,
đồng thời cũng là đại diện cho bên có nhu cầu vay vốn. Với tư cách là người
cung cấp nguồn vốn tín dụng , họ mong muốn nhận được từ ngân hàng một
21
SV: Lèo Văn Trường Lớp: Tài chính công 52
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD : Ths. Nguyễn Thị Ngọc Diệp
khoản lãi tiền gửi hay những dịch vụ thanh toán thuận tiện. Sự tín nhiệm của
khách hàng đối với ngân hàng sẽ làm tăng thêm tính ổn định của nguồn vốn huy
động để đáp ứng nhu cầu của người vay. Đối với người vay, họ đến với ngân
hàng với mong muốn nhu cầu vay của mình được đáp ứng để có được một khoản
tín dụng sử dụng trong mục đích sản xuất kinh doanh của mình với sự xác định
rõ ràng khối lượng tiền vay, thời hạn vay và lãi suất. Nếu nhu cầu của khách
hàng được chấp nhận trong một thái độ niềm nở và thủ tục đơn giản thì chắc
chắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng
được thuận lợi, chất lượng tín dụng được bảo đảm.
Bên cạnh đó là các biến động kinh tế, chính trị, xã hội ở các nước trong
khu vực cũng như trên thế giới cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngắn
hạn. Trong tình hình hiện tại bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới cũng đều đặt
mình trong hợp tác toàn diện với các nước khác nhau trên thế giới, các quan hệ
kinh tế, xã hội được mở rộng, theo đó là loại hình doanh nghiệp đa quốc gia cũng
ngày càng tăng về số lượng và quy mô hoạt động. Vì vậy, mọi sự biến động về
kinh tế, văn hoá, xã hội ở nước ngoài cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình
kinh tế, chính trị, xã hội trong nước vàcũng ảnh hưởng đến chất lương tín dụng
ngắn hạn. Có thể dễ dàng nhận ra rằng, do cuộc khủng hoảng tiền tệ trong khu
vực mà các mặt hàng xuất khẩu của ta đi các nước liên tiếp bị hạ giá để cạnh
tranh, điều này có nghĩa là các doanh nghiệp vay vốn ngắn hạn làm hàng xuất
khẩu đã bị động trong kế hoạch trả nợ vốn các ngân hàng thương mại dẫn đến
chất lượng tín dụng bị suy giảm Ngoài ra, chất lượng tín dụng còn phụ thuộc
vào nhiều yếu tố môi trường như thời tiết, dịch bệnh cũng như các biện pháp
tích cực bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
Ngoài những yếu tố nêu trên, còn phải kể đến một số yếu tố ảnh hưởng
đến chất lượng tín dụng như: đạo dức xã hội có liên quan đến rủi ro tín dụng
trong trường hợp lợi dụng lòng tin để lừa đảo, hoặc do điều kiện sống còn khó
khăn hay trình độ dân trí chưa cao, kém hiểu biết dẫn đến chưa hiểu đúng bản
chất hoạt động của ngân hàng nói chung cũng như hoạt động tín dụng nói riêng,
làm ăn kém hiệu quả, nhiều khi không phát huy tốt chức năng của các phương
tiện tín dụng ngắn hạn.
c. Nhóm các nhân tố pháp lý.
22
SV: Lèo Văn Trường Lớp: Tài chính công 52
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD : Ths. Nguyễn Thị Ngọc Diệp
Nhân tố pháp lý bao gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính đầy
đủ, thống nhất của các văn bản dưới luật, đồng thời gắn liền với quá trình chấp
hành luật và trình độ dân trí trong lĩnh vực này.
Thực tiễn kinh tế thị trường qua hàng ngàn năm đã đủ cơ sở kết luận rằng:
pháp luật đã trở thành bộ phận không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường
có sự điều tiết của Nhà nước. Không có pháp luật hay pháp luật không phù hợp
với những yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường thì mọi hoạt động trong
nền kinh tế thị trường không thể trôi chảy được. Với vai trò đảm bảo cho việc
chuyển nền kinh tế thị trường tự phát, kém tổ chức sang một nền kinh tế thị
trường văn minh, pháp luật có một nhiệm vụ hết sức to lớn trong việc tạo ra một
môi trường pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh được thuận tiện và đạt
hiệu quả kinh tế cao, là cơ sở để giải quyết mọi tranh chấp, khiếu nại xảy ra. Do
đó, yếu tố pháp luật có vị trí hết sức quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng
thương mại nói chung và chất lượng tín dụng nói riêng. Chỉ có trong điều kiện
các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng tuân thủ chấp hành pháp luật một cách
nghiêm chỉnh thì quan hệ tín dụng mới mang lại hiệu quả, lợi ích cho cả 2 bên
và chất lượng tín dụng mới được bảo đảm.
Việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng nhằm:
Hợp pháp hoá các hoạt động ngân hàng, đảm bảo cho ngân hàng hoạt
động theo đúng pháp luật;tạo môi trường pháp lý lành mạnh và ổn định để hoạt
động tín dụng có hiệu quả, an toàn.
Xã hội hoá hoạt động ngân hàng, biến ngân hàng thương mại thành người
bạn cho mọi tổ chức, cá nhân, các thành phần kinh tế trong xã hội, tạo điều kiện
cho ngân hàng thương mại có thế mạnh riêng trong cạnh tranh.
Hạn chế rủi ro, bảo toàn vốn, nâng cao thu nhập, lợi nhuận từ hoạt động
tín dụng của các ngân hàng thương mại.
1.2.3.2. Các nhân tố bên trong
Các yếu tố bên trong thường liên quan đến sự phấn đấu của bản thân ngân
hàng trên tất cả các mặt của hoạt động tín dụng như việc xây dựng chiến lược,
sách lược trong quá trình phát triển, các chính sách tín dụng, xây dựng cơ cấu tổ
chức ngân hàng nói chung và quản lý hoạt động tín dụng nói riêng, công tác kiểm
23
SV: Lèo Văn Trường Lớp: Tài chính công 52
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD : Ths. Nguyễn Thị Ngọc Diệp
tra, kiểm soát và thiết lập hệ thống thông tin Vì vậy, các yếu tố bên trong
thường có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng ngắn hạn. Ta có thể
nghiên cứu sự ảnh hưởng của chúng qua một số yếu tố sau:
o Công tác tổ chức của ngân hàng:
Tổ chức ngân hàng được sắp xếp một cách có khoa học, bảo đảm sự phối
hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng, ban trong từng ngân hàng, trong toàn
bộ hệ thống ngân hàng cũng như giữa ngân hàng với các cơ quan khác như tài
chính, pháp lý sẽ tạo điều kiện đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng, quản
lý sát sao các khoản huy động vốn cũng như các khoản vốn cho vay. Tổ chức
ngân hàng theo nguyên tắc tập trung có phân cấp là một khâu quan trọng trong
quá trình quản lý chất lượng tín dụng đồng bộ, góp phần thực hiện chính sách
tiền tệ quốc gia trong từng thời kỳ.
o Chất lượng nhân sự ngân hàng:
Con người là một yếu tố hết sức quan trọng quyết định đến sự thành bại
trong quản lý vốn tín dụng cũng như trong hoạt động của ngân hàng, xã hội ngày
càng phát triển đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao để đối phó kịp thời, có
hiệu quả với các tình huống khác nhau của hoạt động tín dụng. Việc tuyển chọn
nhân sự có đạo đức nghề nghiệp tốt và chuyên môn giỏi sẽ giúp cho ngân hàng
ngăn ngừa được những sai phạm có thể xảy ra khi thực hiện một chu trình khép
kín của một khoản tín dụng.
o Thông tin tín dụng:
Thông tin tín dụng có vai trò quan trọng trong quản lý chất lượng tín
dụng. Nhờ có thông tin tín dụng , người quản lý có thể đưa ra các quyết định cần
thiết có liên quan đến cho vay, theo dõi và quản lý tài khoản cho vay. Thông tin
tín dụng có thể lấy được từ các nguồn sẵn có từ ngân hàng (hồ sơ vay vốn, thông
tin giữa các tổ chức tín dụng, phân tích của các cán bộ tín dụng ), từ các nguồn
của khách hàng (theo chế độ báo cáo định kỳ, các dự án sản xuất kinh doanh), từ
các cơ quan chuyên thông tin tín dụng trong và ngoài nước, từ các bộ, các ngành
chủ quản Số lượng và chất lượng thông tin thu nhận được có liên quan đến việc
cho vay, theo dõi và quản lý tài khoản cho vay. Số lượng, chất lượng của thông
tin thu nhận được có liên quan đến mức độ chính xác trong việc phân tích, nhận
định tình hình thị trường, khách hàng để đưa ra những quyết định phù hợp. Vì
24
SV: Lèo Văn Trường Lớp: Tài chính công 52
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD : Ths. Nguyễn Thị Ngọc Diệp
vậy, thông tin càng đầy đủ, nhanh nhậy, chính xác và toàn diện thì khả năng
phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngày càng lớn, chất lượng tín
dụng ngày càng cao.
o Chính sách tín dụng:
Chính sách tín dụng là quỹ đạo quyết định đến hoạt động tín dụng của các
ngân hàng thương mại, nó quyết định thành công hay thất bại của một ngân hàng.
Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến với
ngân hàng, đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán
rủi ro, tuân thủ pháp luật, theo các đường lối, chính sách của Nhà nước và đảm
bảo công bằng xã hội. Điều đó cũng có nghĩa là chất lượng tín dụng tuỳ thuộc
vào việc xây dựng chính sách của ngân hàng thương mại có đúng đắn hay không.
Bất cứ một ngân hàng thương mại nào muốn có chất lượng tín dụng đều phải có
một chính sách tín dụng rõ ràng, phù hợp với bản thân ngân hàng mình.
o Quy trình tín dụng:
Quy trình tín dụng bao gồm những quy định cần phải thực hiện trong quá
trình cho vay, thu nợ nhằm bảo đảm an toàn nguồn vốn tín dụng. Nó được bắt
đầu từ khi chuẩn bị cho vay, phát tiền vay, kiểm tra quá trình cho vay cho đến
khi thu hồi được nợ. Chất lượng tín dụng có bảo đảm hay không tuỳ thuộc vào
việc thực hiện tốt các quy định ở từng bước và sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng
giữa các bước trong quy trình tín dụng.
Trong quy trình tín dụng, bước chuẩn bị cho vay là hết sức quan trọng, là
cơ sở để định lượng rủi ro trong quá trình cho vay. Trong bước này, chất lượng
tín dụng tuỳ thuộc vào chất lượng công tác thẩm định đối tượng được vay vốn
cũng như quy định điều kiện và thủ tục vay ở từng ngân hàng thương mại.
Kiểm tra quá trình cho vay giúp ngân hàng nắm được diễn biến của khoản
vay đã cung cấp để có thể điều chỉnh hoặc can thiệp khi cần thiết, sớm thấy được
nguyên nhân và ngăn ngừa rủi ro có thể xẩy ra. Việc lựa chọn và áp dụng có hiệu
quả các hình thức kiểm tra sẽ thiết lập được một hệ thống phòng ngừa hữu hiệu
cho chất lượng tín dụng ngắn hạn.
Thu nợ và thanh lý là khâu có ý nghĩa quyết định sự tồn tại của ngân hàng
thương mại. Sự nhạy bén của ngân hàng thương mại trong việc phát hiện kịp thời
những bất lợi xảy ra đối với khách hàng cùng các biện pháp xử lý chính xác,
25
SV: Lèo Văn Trường Lớp: Tài chính công 52