Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Tìm hiểu hệ thống Marketing ngành hàng Bưởi da xanh tại tỉnh Bến Tre

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (528.3 KB, 32 trang )

I.MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam với những điều kiện tự nhiên, khí hậu rất thuận lợi cho việc phát triển
nông nghiệp, đặc biệt là ngành trồng trọt. Hàng năm ngàng trồng trọt cung cấp cho thị
trường trong và ngoài nước những mặt hàng nông sản rất đa dạng và phong phú. Ngoài
sản phẩm lúa gạo truyền thống thì cũng phải kể đến ngành rau quả đã và đang ngày càng
phát triển và góp phần chung vào sự phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam. Tuy
nhiên trong tiến trình phát triển cũng ko tránh khỏi những rào cản lớn, nhất là khi Việt
Nam đã ra nhập sân chơi WTO. Thực tế cho thấy hiện nay những rào cản lớn mà ngành
nông nghiệp nói chung và ngành rau quả nói riêng gặp phải chính là những vấn đề về
trong khâu sản xuất, chất lượng nông sản, thị trường đầu ra, xây dựng thương hiệu, hệ
thống phân phối, tiêu chuẩn hóa chất lượng… Những vấn đề này đã được đưa ra bàn bạc
rất nhiều nhưng vẫn chưa tìm ra được hướng giải quyết triệt để.
Chính vì vậy nhóm chúng em tiến hành nghiên cứu: “Tìm hiểu hệ thống Marketing
ngành hàng Bưởi da xanh tại tỉnh Bến Tre” để có được cái nhìn chung nhất tình hình
sản xuất, tiêu thụ , phân phối và xây dựng thương hiệu cho sản phẩm này, và tìm ra được
những tồn tại, vướng mắc cần giải quyết của những vấn đề trên.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Tìm hiểu về hệ thống marketing nông nghiệp trong ngành hàng bưởi da xanh
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về marketing nông nghiệp & ngành hàng bưởi da xanh
- Tìm hiểu về hệ thống marketing trong ngành hàng bưởi da xanh
- Mối quan hệ giữa các tác nhân tham gia hệ thống marketing ngành hàng bưởi da xanh
- Chi phí, hiệu quả của hệ thống marketing bưởi da xanh
- Đưa ra những khó khăn hạn chế ngành gặp phải, từ đó đề xuất một số giải pháp cụ thể.
1.3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
1.3.1 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Nghiên cứu hệ thống marketing ngành hàng bưởi da xanh -
Phạm vi thời gian: Thu thập số liệu năm 2011
- Phạm vi không gian: Thị trường bưởi da xanh tại Bến Tre.


1.3.2 Đối tượng nghiên cứu
- Khách thể: Hệ thống marketing ngành hàng bưởi da xanh
- Chủ thể: nông dân, thương lái, tác nhân trung gian tham gia sản xuất, tiêu thụ sản
phẩm bưởi da xanh, người tiêu dùng.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong đề tài:
- Phương pháp phân tích thông tin (phân tích, đánh giá, nhận xét,…).
- Phương pháp thống kê mô tả.
- Phương pháp so sánh các chỉ tiêu hiệu quả marketing của các tác nhân trong hệ thống.
- Phương pháp nghiên cứu ngành hàng
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG HỆ THỐNG MARKETING NGÀNH
HÀNG BƯỞI DA XANH TẠI BẾN TRE.
2.1. Hệ thống cơ sở lý luận.
2.1.1 Các khái niệm cơ bản
• Khái niệm Marketing
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về marketing. Theo quan điểm cổ điển:
Marketing là một quá trình mà ở đó nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ được dự đoán và
được thỏa mãn thông qua một quá trình bao gồm nhận thức thúc đẩy và phân phối.
Theo Philip Kotler thà marketing được hiểu là một quá trình quản lý mang tính
xã hội, nhờ đó mà các cá nhân và tập thể có được những gì họ cần và mong muốn thông
qua việc tạo ra, chào bán và trao đổi những sản phẩm có giá trị với những người khác.
Hiệp hội marketing của Mỹ thì nói: Marketing là sự dự đoán, sự quản lý, sự điều
chỉnh và sự thỏa mãn nhu cầu thông qua quá trình trao đổi.
Theo chuyên gia nghiên cứu marketing của Liên hợp quốc “Marketing là khoa
học điều hành toàn bộ hoạt động kinh doanh kể từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ, nó
căn cứ vào nhu cầu biến động của thị trường hay nói cách khác đi là lấy thị trường làm
định hướng”.
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về marketing. Tuy nhiên khái niệm marketing
thường dựa trên những khái niệm cốt lõi như: nhu cầu, mong muốn và yêu cầu, sản
phẩm, giá trị, chi phí và sự hài lòng, trao đổi, giao dịch và các mối quan hệ, thị trường,

marketing và những người làm marketing…
Vậy khái quát nhất có thể nói: Marketing là chức năng quản lý của doanh
nghiệp về tổ chức toàn bộ các hoạt động nhằm hướng tới thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng
của khách hàng, từ việc phát hiện ra nhu cầu và biến sức mua của người tiêu dùng thành
nhu cầu thực sự về một hàng hóa cụ thể đến việc đưa hàng hóa đến người tiêu dùng cuối
cùng nhằm làm cho khách hàng thỏa mãn khi tiêu dùng hàng hóa hay dịch vụ của doanh
nghiệp, trên cơ sở đó đảm bảo cho doanh nghiệp đạt được mục tiêu đề ra.
• Marketing nông nghiệp: Marketing nông nghiệp là toàn bộ các hoạt động marketing liên
quan đến lĩnh vực nông nghiệp.
• Hệ thống marketing là:
• Hệ thống Marketing ngành hàng Bưởi Da Xanh: Là hoạt động của toàn bộ các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia vào chu trình dịch chuyển các sản phẩm Bưởi Da Xanh
từ tay người sản xuất đến tay người tiêu dùng cuối cùng.
• Chi phí marketing:
Chi phí marketing là tất cả các chi phí cho sản phẩm nông nghiệp sau khi rời khỏi
nông trại cho đến khi được người tiêu dùng mua.
Các loại chi phí marketing chủ yếu trong nông nghiệp bao gồm : Chuẩn bị cho sản
phẩm (làm sạch và phân loại), đóng gói, bóc dỡ, vận chuyển, hao hụt sản phẩm, lưu kho,
chế biến…
● Biên Marketing là
2.1.2 Mối quan hệ giữa các tác nhân
Trong ngành hàng bưởi da xanh, các tác nhân trung gian tham gia theo hai mối quan hệ
chính đó là sự liên kết theo chiều dọc và liên kết theo chiều ngang.
• Liên kết dọc
Liên kết dọc là mối quan hệ phân phối lợi ích giữa các tác nhân và việc truyền thông
tin, truyền kiến thức và chia sẽ rủi ro giữa các tác nhân ở các cấp khác nhau tham gia vào
hệ thống marketing.
Hệ thống marketing dọc gồm các nhà sản xuất, nhà bán buôn, nhà bán lẻ, hoạt
động như một thể thống nhất. Hoặc thành viên này là chủ của thành viên khác hoặc cho
họ độc quyền kinh tiêu hoặc có quyền lực mạnh đến nỗi các thành viên kia phải hợp tác.

Một hệ thống marketing dọc có thể do một nhà sản xuất, một nhà bán lẻ hay một nhà bán
buôn thống trị, xuất hiện nhằm kiểm soát hoạt động của kênh và điều giải xung đột do
mỗi thành viên chỉ chạy theo lợi ích riêng của mình.
• Liên kết ngang
Liên kết ngang là mối liên kết giữa những nhà sản xuất với nhau, các nhà bán buôn
với nhau… (hay nói cách khác là những tác nhân cùng cấp với nhau) trong hệ thống
marketing. Mối quan hệ giữa họ vừa là mối quan hệ vừa hợp tác và vừa cạnh tranh với
nhau.
2.2 .Thông tin chung về tỉnh Bến Tre và tình hình sản xuất và tiêu thụ Bưởi Da
Xanh của tỉnh Bến Tre.
2.2.1 Thông tin chung về tỉnh Bế Tre
a. Điều kiện tự nhiên.
Bến Tre là tỉnh đồng bằng nằm cuối nguồn sông Cửu Long, phía đông giáp Biển
Đông với chiều dài bờ biển là 65 km, phía bắc giáp tỉnh Tiền Giang, phía tây giáp tỉnh
Trà Vinh, phía tây nam giáp tỉnh Vĩnh Long. Trung tâm của tỉnh là Thị Xã Bến Tre cách
Thành phố Hồ Chí Minh 87 km về phía Tây. Bốn sông lớn là sông Tiền, sông Ba Lai,
sông Hàm Luông và Cổ Chiên chia địa hình Bến Tre thành ba dải cù lao lớn là cù lao An
Hóa, cù lao Bảo và cù lao Minh. Nhìn trên bản đồ, tỉnh Bến Tre giống như hình rẻ quạt
có đầu nhọn nằm ở thượng nguồn, các nhánh sông lớn giống như nan quạt xoè rộng ra về
phía Biển Đông.
Về vị trí địa lý thì Bến Tre có điểm cực Nam ở vĩ độ 9
o
48’ Bắc, điểm cực Bắc nằm
trên vĩ độ 10
o
20’ Bắc, điểm cực Đông nằm trên kinh độ 106
o
48’ Đông và điểm cực Tây
nằm trên kinh độ 105
o

57’ Đông.
Diện tích tự nhiên của Bến Tre là 2.356,8 km
2
, dân số năm 2005 là 1.351.472
người với mật độ trung bình 573 người/km
2
. Bến Tre có các đơn vị hành chính gồm Thị
Xã Bến Tre và 7 huyện: Chợ Lách, Mỏ Cày, Châu Thành, Bình Đại, Giồng Trôm,
Ba Tri và Thạnh Phú.
Bến tre nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ
tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình
trong năm từ 26 - 27
o
C. Lượng mưa trung bình năm từ 1.250 - 1.500 mm.
Với mạng lưới sông ngòi chằng chịt với tổng chiều dài khoảng 6000 km tạo thuận
lợi cho giao thông thuỷ, tạo ra nguồn thuỷ sản phong phú, nước tưới cho cây trồng tuy
nhiên cũng gây trở ngại đáng kể cho giao thông bộ, cũng như việc cấp nước vào mùa
khô, khi thuỷ triều Biển Đông đưa mặn vào sâu trong kênh rạch.
Do vị trí địa lý và quá trình hình thành, đất đai ở Bến Tre đưọc chia thành 4 loại
nằm trong 4 vùng khác nhau: đất phù sa, đất phèn, đất cát và đất mặn.
Đất phù sa: Chiếm 26,9% diện tích toàn tỉnh (khoảng 66.471 ha), nằm trong các
huyện vùng ngọt phía Tây như Chợ Lách, Châu Thành, bắc Giồng Trôm và bắc Mỏ Cày.
Đất phù sa ở Bến Tre có thành phần cơ giới chủ yếu là sét (50-60%), thường chua ở tầng
mặt, càng về phía biển tầng đất sâu càng có phản ứng trung tính hơn. Nhóm đất phù sa ở
Bến Tre có độ phì vào loại thấp, nguồn đạm tốt, nhưng nguồn dự trữ lân không đủ.
Đất phèn: chiếm 6,74% diện tích toàn tỉnh (khoảng 15.127 ha), phân bố rải rác
trên toàn tỉnh từ vùng ngọt, vùng lợ đến vùng mặn. Đất phèn ở Bến Tre thường có 2 dạng
chủ yếu: dạng có hữu cơ xen kẽ trong các tầng đất thường xuất hiện ở các khu vực thấp,
trũng ven sông lớn hay kênh rạch chằng chịt, dạng có ít hữu cơ thường gặp ở các khu vực
hơi cao nơi có nhiều giồng cát.

Đất cát: chiếm 6,4% diện tích toàn tỉnh (khoảng14.248 ha ). Đây là loại đất hình
thành bởi tác động của dòng sông và sóng biển trong suốt quá trình lấn biển của vùng cửa
sông. Trong thành phần hoá học của đất cát giồng, tỷ lệ sắt khá cao so với các loại đất
khác, ở những nơi không có cây che phủ, đất rất dễ bị thoát nước và tầng mặt thường rất
khô. Đất cát rất ít chất hữu cơ và nghèo dinh dưỡng, độ phì thấp, thiếu đạm nghiêm trọng.
Với những điều kiện tự nhiên như vậy nên Bến Tre có những lợi thế về nông
nghiệp đặc biệt là phát triển các loại cây ăn trái như dừa, bưởi…, nuôi trồng và đánh bắt
thủy hải sản kết hợp với phát triển du lịch.
b. Phát triển kinh tế
Trong giai đoạn 2001-2005 kinh tế Bến Tre tăng trưởng mạnh, GDP năm 2005 đạt
9.974,95 tỷ đồng so với năm 2001 là 5.860,5 tỷ đồng, bình quân tăng 9,23% mỗi năm.
Đóng góp cho GDP cao nhất vẫn là khu vực sản xuất nông lâm và thủy sản chiếm khoảng
60%, kế đến là khu vực dịch vụ chiếm 20-25% và tăng liên tục từ 2001 đến 2005, thấp
nhất là khu vực công nghiệp và xây dựng
Tổng diện tích đất tự nhiên của Bến Tre năm 2005 là 235.684 ha, trong đó đất
dùng cho sản xuất nông nghiệp là 136.795 ha (chiếm 58,04% diện tích đất tự nhiên). Trên
diện tích đất nông nghiệp có 51,405 ha trồng cây hàng năm và 85.390 ha trồng cây lâu
năm, còn lại là đất lâm nghiệp (6.421 ha), đất nuôi trồng thủy sản (36.294 ha), đất là
muối…
Trong những năm qua sản xuất nông nghiệp của tỉnh phát triển khá nhanh, tốc độ
tăng giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân hàng năm là 5,02%, tổng giá trị sản xuất
nông nghiệp tăng một cách đáng kể từ năm 2001. Trong giai đoạn 2001-2005, nông
nghiệp đạt mức tăng trưởng bình quân trên 5,02%/năm, trong đó, chăn nuôi có tốc độ
tăng trưởng cao hơn trồng trọt (bình quân 7,1%/năm, so với 4,1%/năm). Tỉ trọng chăn
nuôi từ 20,46% trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2001 đã tăng lên 29,45% vào
năm 2005. Ngược lại, tỷ trọng trồng trọt giảm từ 75,98% xuống còn 62,54%. Sỡ dĩ tỷ
trọng ngành trồng trọt giảm là vì trong những năm qua, do tác động của khoa học kỹ
thuật nên ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển mạnh đồng thời kéo theo các dịch
vụ phục vụ cho các ngành này như chế biến thức ăn, thú y… cũng tăng theo.
Bảng 1. Tổng giá trị sản xuất nông nghiệp và cơ cấu giá trị sản xuất của

ngành nông nghiệp Bến Tre từ năm 2001 đến 2005
Cơ cấu GTSXNN
Năm
2001
Năm
2002
Năm
2003
Năm
2004
Năm
2005
Tổng GTSXNN (tỷ
đồng)
3.990,3 4212,6 4.493,4 5.002,5 5.521,4
Trồng trọt (%) 75,98 69,25 68,46 66,64 62,54
Chăn nuôi (%) 20,46 25,68 25,05 25,71 29,45
Dịch vụ (%) 3,56 5,07 6,49 7,65 8,01
(Niên giám thống kê tỉnh Bến Tre 2005)
Trong cơ cấu cây trồng, tỉ trọng cây ăn trái chiếm cao nhất 51,3%, đứng thứ hai là
cây lương thực giảm còn 24,2%, cây công nghiệp chiếm 16,4%. Diện tích cây ăn trái tăng
nhanh và đạt 39.739 ha vào năm 2005, chiếm 29,1% diện tích đất nông nghiệp, với sản
lượng 379.901 tấn, phân bố chủ yếu ở Chợ Lách, Tây Châu Thành và một phần ở các
huyện khác. Cơ cấu cây ăn trái được phát triển theo hướng đa dạng hóa sản phẩm, trong
đó chú ý tăng tỉ trọng các cây thuộc nhóm có múi (bưởi, cam, quýt, chanh ), các cây có
khả năng chế biến (xoài, đu đủ, chuối ), ổn định tỉ trọng các cây đặc sản (sầu riêng,
chôm chôm, măng cụt, bòn bon ).
Bến Tre có khoảng 5.000 cơ sở làm cây giống, sản xuất từ 16 triệu - 18 triệu cây
giống mỗi năm trong đó huyện Chợ Lách là địa phương sản xuất cây giống nổi tiếng của
khu vực ĐBSCL. Mỗi năm, Chợ Lách cung ứng trên thị trường khoảng 15 triệu cây

giống các loại. Cây giống làm ra ngoài tiêu thụ tại tỉnh, khắp các tỉnh ĐBSCL mà còn đến
tận các tỉnh miền Đông, miền Trung và cả ở miền Bắc. Từ bình tuyển, du nhập, đến lai
tạo, nhà vườn Chợ Lách cho ra đời nhiều giống cây ăn trái quí hiếm như: Sầu riêng sữa
cơm vàng hạt lép (sầu riêng Chín Hóa), sầu riêng Mong Thoong, sầu riêng Ri-6, măng
cụt Cái Mơn, chôm chôm Rong-riêng, dâu Hạ châu, xoài cát Hòa Lộc, xoài Tứ quí, bưởi
Năm roi, bưởi Da Xanh, quýt đường, cam soàn, bòn bon, mít nghệ, ổi không hạt.
2.2.2 Tình hình sản xuất và tiêu thụ Bưởi Da Xanh của tỉnh.
*) Tình hình sản xuất
Tỉnh Bến Tre có hơn 36.000 hécta trồng cây ăn quả các loại( năm 2010) tập trung
chủ yếu ở các huyện vùng ngọt (Chợ Lách, Châu Thành) và một phần các huyện vùng lợ
(thành phố Bến Tre, huyện Giồng Trôm, Mỏ Cày Nam và Mỏ Cày Bắc) với nhiều chủng
loại trái cây nổi tiếng chất lượng cao. Trong các loại trái cây được xem là đặc sản, chất
lượng cao của Bến Tre thì bưởi da xanh thuộc vào nhóm có tiềm năng và lợi thế cạnh
tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
Cây bưởi có tên khoa học là (Citrus maxima (Burm)Merr.). thuộc chi Citrus, nhóm
cam quýt, họ Rutaceae.Trong phạm vi toàn tỉnh bưởi da xanh được trồng khá phổ biến
với diện tích 3.284 ha (2010), được phân bố ở khắp các vùng ngọt, lợ, trong đó 32,26%
diện tích bưởi cho trái với năng suất 9-14 tấn/ha/năm góp phần mang lại thu nhập khá cao
cho người trồng bưởi. Bưởi da xanh là loại cây ăn trái rất khó tính, đòi hỏi người trồng
phải biết cách trồng và chăm sóc, phải kỹ lưỡng, chịu khó chăm chút từng ly từng tí thì
sản lượng thu hoạch mới cao và cây mới sống được lâu. Bưởi da xanh được trồng ở nhiều
huyện, trong đó có phổ biến nhất là ở Chợ Lách, Châu Thành, Giồng Trôm, Mỏ Cày Bắc
& Nam, và thành phố Bến Tre. Trên cơ sở diện tích canh tác bưởi da xanh hiện có là
1.504,54 ha (Chợ Lách: 150 ha, Mỏ Cày Bắc & Nam: 573,4 ha, thành phố Bến Tre: 300
ha, Châu Thành: 267,14 ha và Giồng Trôm: 214 ha), thì có 485,3 ha (chiếm 32,26%) diện
tích bưởi cho trái với năng suất 9-14 tấn/ha (Chợ Lách: 150 ha, Mỏ Cày Bắc & Nam:
245,3 ha, Giồng Trôm: 30 ha, Châu Thành: 15 ha, thành phố Bến Tre: 45 ha). Phần diện
tích còn lại bưởi có tuổi từ 1 đến 3 năm.
Trái bưởi da xanh có dạng hình cầu, nặng trung bình từ 1,2 -2.5 kg/trái. Khi chín,
vỏ trái có màu xanh đến xanh hơi vàng, dễ lột và khá mỏng (14-18mm); tép bưởi màu

hồng đỏ, bó chặt và dễ tách khỏi vách múi; nước quả khá, vị ngọt, không chua; mùi
thơm; không hạt đến khá nhiều hạt; tỷ lệ thịt đạt trên 55%.(Trần Thanh Tâm và Ctv,
2006). Bưởi da xanh có giá trị cao về dinh dưỡng và y học. Trong 100 g bưởi ăn được
chứa 59 Kalo năng lượng và có nhiều chất khoáng như Ca (30 mg), P (21 mg), Fe (0,7
mg). Ngoài ra, trong bưởi còn có nhiều loại vitamin như C, A, B1, B2. Ăn bưởi góp phần
hỗ trợ sức khoẻ con người như thanh lọc phổi, dễ tiêu hóa và lưu thông máu.
Giống bưởi da xanh có nguồn gốc xuất xứ từ đâu? Câu hỏi này hiện chưa có lời
giải thoả đáng. Có người nói bưởi da xanh xuất xứ từ xã Mỹ Thạnh An, thành phố Bến
Tre, nhưng cũng có người cãi lại, cho rằng giống bưởi “quý tộc” này chính gốc ở huyện
Mỏ Cày Bắc, đã xuất hiện từ đầu thế kỷ XX.
Cho dù xuất xứ từ đâu thì đối với người Bến Tre bưởi da xanh vẫn là loại trái cây
quý, thường dùng làm quà biếu vào các dịp lễ, tết. Giá trị của trái bưởi da xanh nằm ở
chỗ nó không chỉ là món ăn ngon và bổ dưỡng, mà còn có thể được xem là bài thuốc
phòng và trị bệnh do thành phần dinh dưỡng có chứa nhiều loại vitamin, khoáng chất vi
lượng và đa lượng, kể cả một số hoạt chất đặc biệt giúp phòng ngừa bệnh (như bệnh phổi,
tim, gan,…) rất hiệu quả. Biết được giá trị dinh dưỡng và phòng trị bệnh của bười da
xanh nên người Bến Tre dùng trái bưởi da xanh hầu như không bỏ thứ gì, từ phần ruột
cho đến phần vỏ đều có thể ăn tươi (múi bưởi) hoặc chế biến (vỏ bưởi).
Bưởi da xanh Bến Tre đã được Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn công
nhận là giống quốc gia và được thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước ưa chuộng vì
phẩm chất ngon đặc trưng. Tuy nhiên, việc đăng ký thương hiệu Bưởi da xanh còn rất ít.
Ngoài ông Đặng Văn Rô (Ba Rô) ở Mỏ Cày Bắc đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp thương
hiệu bưởi da xanh BR99, còn lại 3 tổ chức, cá nhân đang làm thủ tục xin đăng ký thương
hiệu là ông Hai Hoa (huyện Chợ Lách), Nông Phú Điền (phường 8, thành phố Bến Tre)
và Hợp tác xã Bưởi da xanh Mỹ Thạnh An (thành phố Bến Tre).
Trong tương lai, bưởi da xanh Bến Tre sẽ còn phát triển mạnh mẽ cả về diện tích
lẫn chất lượng trái và từ đó mở rộng hơn nữa thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước.
Đóng vai trò chủ đạo trên con đường phát triển này là chương trình canh tác bưởi da xanh
theo các tiêu chuẩn Viet GAP và Global GAP và Chương trình phát triển trồng mới 4.000
hécta bưởi da xanh tỉnh đang triển khai. Hiện tại, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bến

Tre đã hoàn chỉnh quy trình kỹ thuật trồng và chăm sóc bưởi da xanh phục vụ dự án phát
triển 4.000 hécta. Bên cạnh đó, Sở cũng đang xây dựng dự án xác lập quyền và quản lý
nhãn hiệu tập thể “Bến Tre” cho trái bưởi da xanh. Đây là một bước đi quan trọng nhằm
tạo thế mạnh mới cho trái bưởi da xanh trên đường chinh phục thị trường. Nhưng bấy
nhiêu chưa đủ, muốn mở rộng thị trường xuất khẩu đồng thời để đáp ứng các yêu cầu
ngày càng khó của thị trường trong nước, thì nhất thiết trái bưởi da xanh Bến Tre phải
được trồng và tiêu thụ theo quy trình khép kín của Viet GAP và Global GAP.
*) Tình hình tiêu thụ bưởi da xanh
Ở Bến Tre, Bưởi Da Xanh là một trong những loại trái cây đặc sản của Việt Nam
xếp vào nhóm cây ăn quả chất lượng cao, có tiềm năng và lợi thế cạnh tranh trên thị
trường trong và ngoài nước. Ở trong nước, bưởi Da Xanh được bày bán trong các siêu
thị, các điểm bán sĩ và lẻ trái cây, ở sân bay…tại các thành phố lớn như: Tp.Hồ Chí
Minh, Hà Nội, Đà Nẵng và các tỉnh lỵ khác…Tại Bến Tre, bưởi Da xanh Thị xã Bến Tre
được cung cấp cho thị trường trong tỉnh và các tỉnh ngoài thông qua trung gian là các
bạn hàng, hợp tác xã bưởi Da xanh cũng có nhiều khách hàng đến đặt mua nhưng chưa có
khả năng cung cấp. Hiện nay, ở Tiền Giang cũng đã phát triển diện tích bưởi Da Xanh
khoảng 300 ha với sản lượng khoảng 1.500 tấn mỗi năm, tuy nhiên cũng không đủ cung
cấp cho thị trường trong nước. Ở thị trường nước ngoài, bưởi Da xanh đã được xuất khẩu
đến một vài thị trường trong khu vực và Châu Âu, tuy nhiên chỉ mang ý nghĩa là chào
hàng hay quảng bá sản phẩm. Như vậy, thị trường bưởi Da Xanh còn hạn hẹp trong ba
tỉnh Bến Tre và Tiền Giang và Vĩnh Long, ở các tỉnh thành khác thì nhu cầu rất lớn. Hiện
tại loại bưởi này chưa đủ lượng cung cấp cho nhu cầu ở thị trường trong nước. Chính vì
lý do đó mà giá bán của bưởi Da Xanh cao hơn bưởi Năm Roi gấp 2 lần. Thông thường
bưởi Năm Roi có giá bán tại vườn từ 4.000-6.000 đ/kg trong khi đó giá bưởi Da Xanh từ
10.000 đến 15.000 đ/kg. Ưu điểm lớn của bười da xanh so với các loại bưởi khác là trên
10 năm qua, loại bưởi này luôn ổn định với mức giá từ 10.000 đồng/kg trở lên. Tuy
nhiên, do trình độ canh tác chưa đồng đều, chỉ một số ít nông dân có trình độ thâm canh
cao với những mô hình hiệu quả, còn lại đa số là canh tác theo tập quán cũ cho nên sản
phẩm không đồng nhất về hình thái, trọng lượng và chất lượng, dẫn đến tiêu thụ không
ổn định.

Nguồn: Bản tin thị trường cây ăn quả, Viện NC CAQ miền Mam
Vào các dịp lễ tết thì thị trường bưởi Da Xanh lại sôi động hơn ngày thường, do
trái bưởi được người dân chuộng chưng trên mâm ngũ quả trong dịp Tết Nguyên Đán nên
giá rất cao.
Hộp 1. Giá bưởi Tết Nguyên Đán….
Bình thường giá bưởi da xanh chỉ tầm 10.000đồng đến 15.000 đồng/kg. Nhưng
vào dịp tết trung thu và Tết Nguyên Đán nhiều người cần bưởi da xanh, giá bưởi
tăng cao, nhất là vào dịp Tết Nguyên Đán giá bưởi tăng lên 25.000 đồng/kg đến
35.000kg. Giá cao lại có nhiều người đặt mua hàng trước mà nhà tôi không giám
nhận lời sẽ bán vì sợ sản lượng chưa nhiều.
Ông Ba Rô (Đặng Văn Rô) ở ấp Thanh Sơn 2, xã Thanh Tân,
huyện Mỏ Cày)
2.3 . Kênh phân phối Bưởi Da Xanh tại Bến Tre.


Sơ đồ 1. Kênh phân phối sản phẩm bưởi da xanh tại Bến Tre
Qua sơ đồ trên ta thấy kênh phân phối bưởi xa xanh tại Bến Tre gồm 3 kênh
chính:
Kênh 1: Nông dân Thương lái Người bán sỉ  Người bán lẻ  Người tiêu dùng.
Đây là kênh chính, chiếm phần lớn lượng tiêu thụ bưởi tại Bến tre
Kênh 2: Nông dân Doanh nghiệp  Đại lí, siêu thị hoặc xuất khẩu.
Tự bán lẻ
Nông dân/
Hợp tác xã
Thương
lái nhỏ
Người tiêu dùng
Người
bán lẻ/
siêu thị

Người
bán sỉ
Thương
lái lớn
Xuất khẩu( EU,
Hồng Kong,
Trung Quốc…)
Doanh nghiệp tư
nhân/công ty
Kênh 3: Nông dân Người tiêu dùng
2.4 . Mối quan hệ giữa các tác nhân tham gia vào hệ thống.
2.4.1. Nông dân: Đa số nông dân trồng bưởi da xanh tại Bến Tre hiện vẫn đang trồng
bưởi tự do, manh mún, phân tán theo qui mô kinh tế hộ gia đình. Trung bình 1 hộ sở hữu
từ 0.5-2 ha
- Hiện nay người nông dân bán trái bưởi theo 3 cách:
Cách 1: Nông dân bán theo kg hay bán chục
(14 trái), chủ yếu là hàng dạt (loại 3) Gần
đây, hình thức này khá phổ biến, đặc biệt khi
bưởi được thu hoạch vào mùa nghịch hoặc
mùa Tết.
=> Với cách thức buôn bán này người nông
dân trồng bưởi có thể bán theo giá cạnh tranh
trên thị trường nhưng họ gặp khó khăn trong
việc tiêu thụ những sản phẩm chất lượng
thấp còn tồn đọng lại, chính vì vậy cách hai
vẫn chiếm ưu thế.
Cách 2: Bán mão, bán thiên đây là cách bán mà trước khi trái chín hoặc ngay cả khi cây
còn đang ra hoa, nông dân đã thỏa thuận bán mão toàn bộ sản phẩm trong vườn cho
thương lái. Vào những dịp thị trường đang hút hàng, hình thức này được thương lái đặc
biệt ưa chuộng. Bán thiên (đếm trái trả tiền), đây cũng là một dạng bán sỉ giống bán mão.

Nhìn chung, quan hệ buôn bán giữa nông dân và thương lái tương đối tốt so với các địa
phương khác. Điều này cũng dễ hiểu bởi như đã nói ở trên sản lượng cung ứng bưởi luôn
nhỏ hơn nhu cầu của thị trường, vì vậy thương lái phải mua bán trong một môi trường
cạnh tranh cao. Hầu hết thương lái tự đến vườn của nông dân để đặt mua.
Thương
lái
Tự bán lẻ
Nông
dân/ HTX
Doanh nghiệp
tư nhân
Cách 3: Bán cho doanh nghiệp tư nhân. Có một thực tế hiện nay đối với người trồng
bưởi da xanh tại Bến Tre là phần lớn nông dân không muốn bán bưởi cho các doanh
nghiệp.Bởi doanh nghiệp khắt khe hơn rất nhiều so với thương lái, mặc dù khi bán cho
doanh nghiệp nông dân được trả giá cao hơn một chút. Chính do việc phân loại sản phẩm
gắt gao theo đúng yêu cầu của doanh nghiệp về hình thức bên ngoài & kích cỡ, chất
lượng nên hàng dạt không được chọn khiến nông dân phải vất vả để tiêu thụ. Ngòai ra,
khi bán cho thương lái, người dân không tham gia vào việc thu họach, vận chuyển, trong
khi bán cho doanh nghiệp, nông dân phải chịu khoản chi phí không nhỏ cho việc bốc vác,
vận chuyển đến doanh nghiệp => Khi lợi nhuận và công sức bán cho doanh nghiệp không
hơn hẳn thương lái, người dân vẫn chọn thương lái cho sự an tòan và ít nhọc nhằn. Họ
không thể suy nghĩ sâu sắc cho một ‘kế họach lâu dài’ do hạn chế của nhận thức => đây
chính là khó khăn trong việc phát triển mô hình sản xuất khép kín mà việc tác động lên
nhận thức của ngừơi dân là rất quan trọng.
Có mối quan hệ hợp tác giữa những người nông dân (quan hệ theo chiều
ngang) là chủ yếu. Những hợp tác với nhau trong khuôn khổ HTX , các tổ chức công ở
địa phương hoặc sự hợp tác giữa các hộ quen biết nhau.
• Các hộ tự hợp tác với nhau dưới hình thức chung vốn để mua sắm máy móc, thiết
bị, công cụ lao động phục vụ cho cây trồng
• Các hộ hợp tác trong khâu áp dụng đồng bộ việc phòng trừ sâu bệnh.

• Những hộn nông dân còn cung cấp cho nhau thông tin về giá và cầu của thị
trường. Người trồng bưởi cũng rất nhạy bén trong việc tìm hiểu thông tin về giá cả thị
trường, họ lấy thông tin từ những nông dân khác, lấy thông tin thông qua đài phát thanh,
đài truyền hình.
• Tuy có sự trao đổi về thông tin nhưng những hộ nông dân vẫn có sự độc lập
trong các quyết định của mình.
Nhìn chung, cây bưởi Da Xanh tương đối dễ trồng, cây có thể cho trái sau 2-3 năm
để người trồng bắt đầu có thu nhập. Quy trình trồng bưởi gồm có các bước như sau:
*Thiết kế vườn trồng
- Xây dựng bờ bao.
- Đào mương lên liếp.
- Xây dựng hàng rào chắn gió
- Xác định mật độ và khoảng cách trồng.
- Xây dựng hệ thống tưới tiêu.
- Chuẩn bị mô trồng.
*Kỹ thuật trồng và chăm sóc
- Chọn giống trồng (tiêu chuẩn cây giống, cách chọn cây giống )
- Cách trồng
- Tủ gốc giữ ẩm.
- Tưới và tiêu nước.
- Trồng cỏ trong vườn (chống xói mòn và giữ ẩm)
- Vét bùn bồi liếp.
- Bón phân
- Tỉa cành, tạo tán, khống chế chiều cao.
- Xử lý ra hoa.
- Tỉa trái, bao trái
*) Phòng trừ sâu bệnh hại: bệnh loét Xathomonas cam pestris pv.citri, bệnh vàng lá thối
rể (Fusarium; Phytopthora), tuyến trùng, sâu đục vỏ trái (Spray citri), rệp sáp
(Pseudococcidae), rầy chổng cánh
*) Thu hoạch và bảo quản

- Thời điểm thu hoạch.
- Phương pháp thu hoạch.
- Đóng gói, vận chuyển đi bán
Phần lớn những công việc chăm sóc cây bưởi được nông dân tự làm lấy (72,5%),
có 27,5% thuê thêm công lao động để phun thuốc bón phân, bồi liếp gốc, làm cỏ. Có 85%
nông dân có sử dụng máy móc nông cụ phục vụ sản xuất như, chủ yếu là máy bơm nước
để tưới, có 2,5% dùng máy bơm để phun thuốc trừ sâu bệnh hoặc phân bón lá, 7,5% dùng
máy cắt cỏ…
Phần lớn người trồng bưởi mua phân bón và vật tư nông nghiệp từ các đại lý bán
lẻ (72,5%) tuy giá hơi đắt hơn nhưng họ cho rằng muốn mua lúc nào cũng có với bất kỳ
số lượng, khi gặp khó khăn có thể trả chậm. Số còn lại (27,5%) mua vật tư nông nghiệp
từ các đại lý lớn nhưng họ cho rằng không rẻ hơn so với mua ở đại lý bán lẻ, họ mua vì
chỉ tiện đường lúc đi chợ rồi mua luôn (thường ở Bến Tre đi chợ bằng ghe). Hầu hết nông
dân trả tiền mặt khi mua vật tư, nếu thiếu vốn thì họ mua ít vì cho rằng cây bưởi dễ trồng
hơn những cây khác, có bón thiếu phân cũng không ảnh hưởng nhiều đến năng suất. Tuy
nhiên theo các nhà khoa học thì việc bón phân, chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh rất quan
trọng và có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cũng như năng suất.
Về năng suất thì cây 5 năm tuổi có thể cho 20-25 trái/năm, trung bình mỗi công
đất (1.000 m
2
) trồng khoảng 35-40 cây bưởi thì nông dân thu hoạch khoảng 9-14 tấn/ha
vào năm thứ năm sau khi trồng. Hầu hết nông dân tự thu hoạch bưởi mà không có thuê
mướn vì bưởi được thu hoạch nhiều lần trong 1 đợt, sau đó phân loại rồi bán tại vườn cho
người thu gom nếu số lượng ít, trường hợp số lượng nhiều thì vận chuyển đến bán cho
người bán lẻ, siêu thị, nhà hàng và các khu du lịch . Việc thu hoạch thường được thực
hiện vào buổi sáng (8-11 giờ) hoặc buổi chiều (15-17 giờ). Do chênh lệch giá bán giữa
các loại với nhau lớn nên người trồng thường phân loại khá kỹ trước khi bán, tại vườn
bưởi được phân thàng 3 loại: loại đặc biệt, loại 1 và loại 2, trong đó có tỷ lệ loại đặc biệt
rất thấp (10-15%), bưởi nghịch vụ thường chỉ có loại 1 (40-50%) và loại 2 (30-40%) mà
không có loại đặc biệt. Người trồng dựa vào hình dạng, màu sắc vỏ trái và trọng lượng để

phân loại.
Bảng 2.Tiêu chuẩn phân loại bưởi Da Xanh ở Bến Tre
Loại Hình dạng Màu sắc vỏ Trọng lượng
Đặc
biệt
Tròn, cân đối Xanh nhạt, túi tinh dầu nở
to
1,5 – 2,0 kg
Loại 1 Tròn, khá cân đối Xanh nhạt, túi tinh dầu nở
to
1,3 – dưới 1,5
kg
Loại 2 Hơi tròn, hơi bị méo Xanh nhạt, túi tinh dầu nở
to
dưới 1,3 kg
Hầu hết nông dân đều thực hiện việc xử lý trước khi mang đi bán. Việc xử lý bao
gồm cắt cuống ngắn lại, dùng vải mềm thấm nước để lau sạch những vết bẩn do bụi, dất
bám trên vỏ trái, nếu bị bẩn do côn trùng bám vào (rệp sáp, kiến…) thì rửa bằng nước
hay xà phòng cho sạch trước khi đóng gói. Nông dân thường đóng gói bưởi trong giỏ đan
bằng nylon để chuyển đi bán mỗi giỏ chứa khoảng 10-20 trái, số ít chứa bưởi loại 2 bằng
bao nylon, mỗi bao chứa khoảng 25-35 trái (30-40 kg).Tỷ lệ hao hụt từ lúc thu hoạch cho
đến khi bán là 1-2%, nguyên nhân do thu hái bị rơi rớt, có khi không có hao hụt.
Nhìn chung người trồng bưởi thu được lợi nhuận hàng năm từ 83-149% tính trên
giá thành đối với vườn cho trái ổn định. Đối với vườn chưa cho trái trong 2-3 năm đầu
tiên, mỗi công đất nhà vườn phải chi hết 3.911.600 đồng để đầu tư trồng mới và chăm
sóc
Bảng 3.Chi phí sản xuất và tiền lãi của người nông dân trồng bưởi ở Bến Tre, tính
cho 1.000 m
2
bưởi( năm 2011)

ĐVT: Đồng
Giai đoạn kiến thiết cơ bản (2-3 năm) Giai đoạn sản xuất ổn định (4 năm trở đi)
Chi phí lập vườn 748.214 Phân hữu cơ 563.913
Cây giống 613.333 phân vô cơ 540.455
Phân hữu cơ 591.333 Thuốc trừ sâu 135.652
Phân vô cơ 438.889 Thuốc trừ bệnh 128.421
Thuốc trừ sâu 108.897 Xăng, dầu, điện 255.391
Thuốc trừ bệnh 95.263 Vật tư khác 102.308
Xăng, dầu, điện 337.500 Lao động trong gia đình 1.361.429
Vật tư khác 191.818 Thuê khoán 444.000
Mua máy móc dụng
cụ
643.077 Lãi ngân hang 152.250
Lao động trong gia
đình
1.236.875 Khấu hao thiết kế cơ bản 537.500
Thuê khoán 1.124.545 Cộng chi phí 4.221.318
Cộng chi phí 4.478.267 Năng suất (kg) 1.050
năng suất (kg) 161 Giá thành sản phẩm 4.020
Giá bán bình quân 11.091 Giá bán bình quân 10.000
Thu từ bán trái 566.667 Thu từ bán trái 10.500.000
Chênh lệnh thu-chi -3.911.600 Chênh lệnh thu-chi +6.278.68
2
Phần lớn nhà vườn trồng bưởi thường được thanh toán bằng tiền mặt ngay sau khi
giao hàng và họ rất hài lòng theo kiểu giao dịch này, tuy nhiên họ cũng thường bị ép giá
hoặc bị người thu mua hạ phẩm cấp, dạt hàng từ loại trên xuống loại dưới để mua giá
thấp hơn khi có nhiều hàng. Lý do là vì nhà vườn không có ký hợp đồng với khách hàng
của mình, giá cả không thõa thuận trước mà căn cứ vào giá thị trường, nghĩa là phụ thuộc
vào lượng cung và cầu theo từng thời điểm, có khi thay đổi từng ngày. Những ngày bưởi
ít (thường xảy ra trong vụ nghịch) thì giá rất cao, người trồng được lợi nhưng vào ngày

bưởi nhiều thì giá tụt thấp thì người trồng lại bị thiệt. Ở Thị xã Bến Tre đã có HTX bưởi
Da Xanh Mỹ Thạnh An nhưng có rất ít xã viên bán sản phẩm cho HTX mà họ tự đi bán.
Bảng 4.Giá bán bưởi Da Xanh (đ) của nông dân vào chính vụ và nghịch vụ
Loại Chính vụ nghịch vụ
Đặc biệt 13.000 - 15.000 20.000 - 25.000
Loại 1 8000 – 12000 14.000 - 19.000
Loại 2 6000 – 8000 10.000 -13.000
( Tổng hợp số liệu – 2011)
2.4.2 Thương lái( người thu gom)
Tại Bến Tre cả thương lái nhỏ và thương lái lớn (thương lái đường dài) tập hợp thành
một mạng lưới mua bán rộng khắp trong và ngòai tỉnh. Trong những năm gần đây đội
quân thương lái ngày càng đông, sức cạnh tranh ngày một gay gắt nên ai cũng tranh thủ
sắm ghe lùng sục vào tận các vườn cây ăn trái để mua hàng.
Thương lái thường thu mua bưởi quanh
năm.Thông thường trong một chuyến buôn
bưởi , thương lái phải đầu tư một số vốn khá
lớn, trung bình khoảng từ 12 – 15 triệu/1
chuyến đối với thương lái vừa và nhỏ), 20 –
30 triệu /1 chuyế n đối với thương lái lớn.
Một tháng, thương lái thường đi buôn từ 2 –
3chuyến với sản lượng từ 30 – 50 tấn/1 tháng.
Thương lái ở đây có khi cũng là nông dân trồng bưởi, qua nhiều năm bán bưởi cho
vựa đóng gói, siêu thị, điểm bán lẻ… nên họ quen dần, khi không đủ lượng hàng để giao
cho khách hàng họ đứng ra thu mua bưởi của những hộ ở gần nhà hoặc trong khu vực để
bán lại cho khách hàng của họ. Nhiều trường hợp nông dân có ít sản phẩm có thể bán cho
người thu gom với giá cả rẻ hơn chút ít so với bán cho tác nhân khác nhưng bù lại đỡ mất
công và chi phí vận chuyển ra đến chợ. Có trường hợp người nông dân chỉ thu hoạch
được khoảng 4-5 trái bưởi, có thể bán tại vườn cho người thu gom để lấy tiền ngay,
không cần phải mang ra chợ bán cho người tiêu dùng. Người thu gom cũng đóng vai trò
quan trọng và là cầu nối giữa người nông dân và người bán sỉ, bán lẻ. Người thu gom

cũng là cầu nối thông tin về giá cả, sản lượng và chất lượng quả theo từng thời điểm khác
nhau. Người thu gom hưởng hoa hồng khoảng 5-15% giá mà nông dân bán cho họ (500-
1500 đ/kg, tùy theo thời điểm nghịch vụ hay chính vụ). Những người thu gom thường
không thuê thêm công lao động mà chủ yếu là sử dụng người trong gia đình.
Nhà bán
Nông
Thương lái
Thương
lái
Nhà bán
lẻ/
Do lượng hàng cung cấp còn ít nên có lúc xảy ra hiện tượng sốt giá, những người
thu gom thường đến vườn đặt cọc trước, giá và tỷ lệ đặt cọc tùy theo thõa thuận (chủ yếu
bằng miệng) giữa người thu gom và nông dân, thường nằm trong khoảng 20-50% giá trị
theo ước tính. Điều này cũng dẫn đến sự canh tranh giữa những người thu gom với nhau.
2.4.3 Người bán xỉ: Đa số người bán sỉ bưởi tập trung tại thành phố HCM, HN và các
tỉnh thành lớn trong nước.Cơ sở KD của người bán sỉ lớn được đặt tại các chợ đầu mối,
trong khi người bán sỉ nhỏ hơn kinh doanh tại các chợ lẻ.
Người bán sỉ không chỉ kinh doanh bưởi
đơn thuần, mà còn kinh doanh nhiều loại
trái cây khác như cam sành, thơm, dưa
hấu…cùng lúc. Sản lượng bưởi mà họ
mua mỗi lần khá lớn, hơn 2 tấn/1 lần
(nguồn phỏng vấn sâu người bán sỉ)
Sản lượng kinh doanh của người bán sỉ
nhỏ ít hơn, bình quân Người bán sỉ nhỏ
bán khoảng 200 – 300 kg mỗi ngày
2.4.4. Doanh nghiệp/ công ty tư nhân
Tại Bến Tre công ty Thuận Thiên là một trong số rất ít doanh nghiệp chế biến trái
cây của Đồng Bằng Sông Cửu Long đã làm công tác chế biến bưởi (nước bưởi ép). Năm

2004, công ty Thuận Thiên quyết định đầu tư thêm dây chuyền sản xuất nước ép bưởi
đóng lon có công suất 4,5 triệu sản phẩm/năm. Việc phát triển mô hình chế biến này đã
giúp doanh nghiệp giải quyết được vấn đề tiêu thụ bưởi (lọai nhỏ), xuất khẩu sản phẩm
chế biến đi các nước (Mỹ, Đức, Tây Ban Nha v.v.). Tuy nhiên có một thực tế rằng đầu tư
cho nhà máy chế biến bưởi với dây chuyền công nghệ mới khá tốn kém, mà đầu ra (nhu
cầu cho sản phẩm bưởi chế biến) còn chưa cao, lại tốn điện, tốn nhân công, chi phí. Quy
Người
bán lẻ
Xuất
khẩu
Người
bán sỉ
Người
tiêu dùng
mô của các doanh nghiệp này rất khác nhau, vốn kinh doanh từ vài chục triệu đồng cho
đến hàng trăm triệu đồng. Doanh nghiệp nhỏ nhất cũng phải có vốn chừng 40-50 triệu
đồng. Một số doanh nghiệp lớn có vốn khoảng vài tỷ đồng. Sản lượng mua vào bình quân
1-5 tấn bưởi, các chủ vựa lớn có thể mua vào khoảng 10-20 tấn mỗi ngày lúc chính vụ.
Ở đây các doanh nghiệp có nhiệm vụ đóng gói, phân loại và đưa sản phẩm đi tiêu
thụ ở các tỉnh phía Bắc, phía Nam và xuất khẩu. Doanh nghiệp chịu tất cả chi phí về phân
loại, các loại bao bì, phí vận chuyển đến tận nơi tiêu thụ. Ngoài ra doanh nghiệp phải
chịu một khoản thuế tính trên sản lượng thu mua mỗi ngày. Các doanh nghiệp thường
mua trực tiếp bưởi từ nông dân bằng hoặc cao hơn giá người thu gom. Vì thế ở các doanh
nghiệp hình thành đọi ngũ thu gom riêng cho mình
Khó khăn của các doanh nghiệp là mặt bằng hoạt động, họ phải thuê mặt bằng của
người khác ở gần chợ để hoạt động, rất khó mở rộng quy mô hoạt động. nếu muốn mở
rộng thì phải chọn ở địa điểm khác nhưng điều này sẽ liên quan tới khách hàng, điều kiện
vận chuyển… Khó khăn thứ hai là vốn, họ rất cần vốn để mở rộng việc kinh doanh, việc
huy động vốn gặp rất nhiều khó khăn, thường là vốn vay từ bà con, họ hàng hoặc bạn bè
còn vốn vay từ các ngân hàng thì thủ tục rất khó. Vay vốn với cách này thì tiền lãi cao

hơn nhiều so với lãi suất trong ngân hàng nhưng dễ vay hơn, số lượng không hạn chế.
Một khó khăn không kém quan trọng là cước phí vận chuyển hiện nay rất cao do giá đầu
vào của các công ty vận chuyển cao (xăng, dầu, thuế, phí qua cầu, phà, đường và nhiều
loại phí khác). Họ cho biết chi phí cho 1 tấn bưởi từ Bến Tre lên Tp. HCM từ 600-700
ngàn đồng, đi các tỉnh miền Trung là 1,4-1,8 triệu đồng, các tỉnh phía Bắc 2,0-2,5 triệu
đồng.
2.4.5. Người bán lẻ:
Người bán lẻ tại Bến Tre thường mua sản phẩm thừu thương lái, đôi khi họ cũng
mua từ nông dân. Vì buôn bán ở tỉnh lẻ, lại là nơi có miệt vườn trái cây lớn nên qui mô
kinh doanh của người bán lẻ địa phương khá nhỏ bé, từ 1 triệu – 1.5 triệu, trung bình một
lần mua khoảng 50 – 100 kg.
Người bán lẻ tỉnh khác thường mua lại từ người bán sỉ ở chợ đầu mối hoặc người
bán sỉ nhỏ hơn trực tiếp phân phối sản phẩm đến tận các sạp lẻ. Qui mô bán lẻ tại các tỉnh,
thành phố rất đa dạng, nhất là tại 2 thành phố lớn: Hà Nội & Hồ Chí Minh. Người bán lẻ
có thể là những người đẩy xe đẩy bán trên đường, họ cũng có thể là những chủ sạp lớn,
với vốn kinh doanh có khi tới hàng chục triệu
Ngoài ra trong số những người bán lẻ cố định tại các chợ, có một số người bán lẻ
lưu động bằng xe tải nhỏ 1,5 tấn hoặc xe ba gác. Những người này mua bưởi từ các chợ
đầu mối sau đó dùng xe vận chuyển đi khắp các nẻo đường trong thành phố, những nơi
có đông khu dân cư để bán, mỗi ngày họ dừng xe khoảng trên dưới 5-10 chỗ để bán tùy
theo lượng người mua nhiều hay ít, ngày mai lại đi bán ở chỗ khác.
Bưởi còn được bán thông qua các siêu thị ở TP.HCM, Hà Nội và các đại lý ở các
tỉnh ĐBSCL, Nha Trang, Bà Rịa VũngTàu, Đà Nẵng Trong thời gian gần đây, bưởi cũng
đã có mặt tại sân bay Tân Sơn Nhất tp HCMC. Tuy nhiên, do chưa có được bao bì thích
hợp, nên việc tiêu thụ bưởi qua sân bay Tân Sơn Nhất vẫn còn hạn chế.
Do bưởi là loại trái tương đối dễ bảo quản nên tỷ lệ hao hụt không cao, chủ yếu là
hao hụt trọng lượng (4-5%) do mất nước và sự giảm sút về chất lượng và hình thức bên
ngoài (héo, nhăn da, vỏ trái bị mềm). Nếu bán hết trong vòng 2 ngày thì hầu như không
có ảnh hưởng gì đến chất lượng, tuy nhiên sau đó thì giá bán sẽ được giảm xuống, do đó
để bù lại phần tổn thất này, người bán sĩ sẽ lấy giá cao cho những người đến mua đầu tiên

và chọn những trái tươi ngon, sau đó sẽ giảm dần. Khi bán bưởi cho các siêu thị, một số
siêu thị sẽ trừ đi 10% trong lượng thực tế để bù vào hao hụt trọng lượng do mất nước
trong quá trình phân phối.
2.4.6. Người tiêu dùng:

×