KHÓA LUẬN MÔN CHÍNH SÁCH NÔNG NGHIỆP
Chủ đề: Phân tích bản chất và thực tiễn của chính sách “hộp đỏ”
trong hỗ trợ nông nghiệp.
Nhóm 10 - Lớp KT50A
1. Phạm Thị Nhung
2. Đào Thị Như
3. Đinh Thị Niên
4. Ngô Việt Phương
5. Nguyễn Hoa Phượng
1
MỤC LỤC
2.1.1. Hỗ trợ 4
I. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết
Hội nhập kinh tế quốc tế củaViệt Nam đã được đẩy mạnh ngay từ đầu
thập niên của thế kỷ trước với sự tham gia vào các tổ chức như ASEAN,
AFTA, APEC, ASEM…Đặc biệt khi trở thành thành viên chính thức của
WTO từ 11-1-2007, Việt Nam bắt đầu bước vào sân chơi chung của thị
trường thương mại thế giới theo luật chơi chung dành cho tất cả các thành
viên của tổ chức này và từng bước thực hiện việc hội nhập kinh tế quốc tế
theo lộ trình phù hợp. Việc thực thi các cam kết, tận dụng thành công những
cơ hội và giảm tới mức thấp nhất các thách thức, khó khăn khi gia nhập
WTO bên cạnh nỗ lực của người dân, doanh nghiệp, còn phụ thuộc rất
lớn vào việc điều chỉnh quản lý các chính sách và thực hiện cam kết của
Việt Nam trong Hiệp định Nông nghiệp của WTO.
Nông nghiệp là ngành có nhiều rủi ro, đặc biệt là giá cả nông sản rất bấp
bênh. Do đó để có thể đứng vững và phát triển thì ngành nông nghiệp cần có
2
sự can thiệp và trợ giúp tích cực của Nhà nước. Tuy nhiên sự trợ giúp đó có
thể bóp méo tính cạnh tranh trên thương trường quốc tế. Nếu tất cả các nước
thành viên WTO đều áp dụng chính sách hỗ trợ tài chính cho các nhà sản
xuất để họ xuất khẩu nhiều hơn sẽ dẫn đến một cuộc đua về trợ cấp giữa các
nước, kéo theo sự bất bình đẳng về cạnh tranh. Vì thế, Chính phủ cần biết
mức độ lợi, thiệt của mỗi hình thức hỗ trợ để có sự điều chỉnh hợp lý nhằm
đạt hiệu quả cam kết về chính sách hỗ trợ trong nông nghiệp của WTO. Đặc
biệt là những cam kết thuộc chính sách hộp đỏ. Để hiểu rõ hơn về chính sách
hộp đỏ và thực tiễn áp dụng ở Việt Nam, chúng tôi nghiên cứu đề tài: “Phân
tích bản chất và thực tiễn của chính sách hộp đỏ hỗ trợ nông nghiệp”
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
+ Hệ thống hóa cơ sở lý luận về bản chất, cơ sở khoa học của chính
sách “hộp đỏ” trong hỗ trợ nông nghiệp.
+ Thảo luận thực tiễn chính sách “hộp đỏ” trong hỗ trợ nông nghiệp
trên thế giới và ở nước ta.
+ Đề xuất định hướng chính sách “hộp đỏ” trong hỗ trợ nông nghiệp
cho phù hợp với bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO.
1.3 Phạm vi nghiên cứu
+ Thời gian: từ 31/10/2008 đến 14/11/2008.
+ Chủ đề: Phân tích bản chất và thực tiễn của chính sách “hộp đỏ”
trong hỗ trợ nông nghiệp.
+ Không gian: Nghiên cứu ở Việt Nam
1.4 Phương pháp nghiên cứu
3
+ Phương pháp thu thập thông tin: thu thập các thông tin đã công bố
qua sách, báo, tạp chí, internet, luận văn thạc sỹ,…
+ Phương pháp phân tích: Phân tích thặng dư người tiêu dùng, thặng
dư người sản xuất, an sinh xã hội, dịch chuyển tài nguyên.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1. Các khái niệm
2.1.1. Hỗ trợ
Chi phí cho ngành nông nghiệp được lấy từ nguồn ngân sách Nhà nước và
phần ngân sách đáng lẽ phải thu nhưng được bỏ qua không thu và được giữ
lại để hỗ trợ cho ngành nông nghiệp.
2.1.2. Trợ cấp xuất khẩu
Theo cách hiểu của WTO, trợ cấp xuất khẩu có thể là một khoản thanh
toán trực tiếp từ ngân sách hoặc cũng có thể là việc Nhà nước miễn một
khoản phải thu cho các nhà xuất khẩu khi họ xuất hàng hóa ra nước ngoài.
2.1.3. Hộp đỏ
Loại hỗ trợ mang tính bóp méo thương mại rõ ràng và do vậy sẽ không
được miễn và buộc phải cắt giảm. Mức độ hỗ trợ của chính phủ cho ngành
nông nghiệp trong hộp đỏ được tính bằng “Tổng mức hỗ trợ gộp” (AMS).
AMS được xác định bằng cách tính từ phần chi tiêu ngân sách Nhà nước
cũng phần thu ngân sách được miễn.
4
Hỗ trợ
tính gộp
theo sp
cụ thể
Hỗ trợ
tính gộp
không
theo sp
cụ thể
Mức hỗ
trợ
tương
đương
Tổng hỗ trợ
tính gộp
(Tổng AMS)
=
+
+
(Bùi Xuân Lưu (2004). Bảo hộ hợp lý nông nghiệ Việt Nam trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Thống kê, Hà Nội).
Các chính sách này phải cam kết cắt giảm nếu vượt quá mức tối thiểu.
Mức tối thiểu là:
- 5% giá trị sản lượng của sản phẩm được hỗ trợ đối với các nước
phát triển;
- 10% giá trị sản lượng của sản phẩm được hỗ trợ đối với các nước
đang phát triển;
Tuy nhiên, nhóm chính sách này là đối tượng của các loại thuế đối
kháng (chống trợ cấp), thuế chống bán phá giá nếu ảnh hưởng đến quyền lợi
của các nước thành viên khác.
2.2. Đặc điểm của chính sách hộp đỏ hỗ trợ trong nông nghiệp
2.2.1. Các hình thức hỗ trợ
Trong nông nghiệp, WTO phân chia trợ cấp thành hai nhóm chính là
hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu.
* Hỗ trợ trong nước là những lợi ích được Chính phủ dành cho một
hoặc một số đối tượng mà không trực tiếp gắn với hoạt động hay kết quả
xuất khẩu của đối tượng đó.
* Trợ cấp xuất khẩu có thể hiểu một cách đơn giản là những lợi ích
gắn với hoạt động hoặc kết quả xuất khẩu.
Trợ cấp xuất khẩu có 6 hình thức, bao gồm:
+ Trợ cấp trực tiếp cho người sản xuất hàng xuất khẩu;
+ Bán thanh lý hàng nông sản dự trữ cho xuất khẩu với giá rẻ hơn;
5
+ Tài trợ các khoản chi trả cho xuất khẩu, kể cả phần được tài trợ từ
nguồn thu thuế, các khoản được để lại;
+ Trợ cấp cho nông sản dựa theo tỉ lệ xuất khẩu;
+ Trợ cấp để giảm chi phí tiếp thị, kể cả chi phí xử lý, nâng cấp, tái
chế sản phẩm, chi phí vận tải quốc tế, cước phí vận chuyển;
+ Ưu đãi về cước phí vận tải trong nước và quốc tế đối với hàng xuất
khẩu hơn hàng nội địa.
Trong giai đoạn thực hiện, các nước đang phát triển được phép áp
dụng 2 loại trợ cấp cuối cùng.
2.2.2. Một số công cụ của chính sách hộp đỏ
+ Cố định giá đầu vào nhằm tránh biến động lớn về giá. Nông dân
được mua giá cố định không kể địa phương hay tầng lớp xã hội.
+ Trợ cước và trợ giá các đầu vào quan trọng để nông dân mua được
đầu vào với giá thấp hơn giá thị trường. Chính sách này áp dụng ở các vùng
sâu, xa, đặc biệt khó khăn.
+ Trợ cấp bù chênh lệch giá giữa thị trường và giá thực tế mà người
sản xuất nhận được.
+ Giá cố định định hoặc tối thiểu đối với người sản xuất và giá trần
đối với người bán buôn và bán lẻ gắn với hoạt động của các kho đệm được
mua vào ở mức giá sàn lúc thu hoạch và bán ra với giá trần lúc giáp hạt.
(Ngô Đức Cát, Vũ Đình Thắng, 2001, giáo trình phân tích chính sách nông
nghiệp, nông thôn, NXB Thống kê, Hà Nội, trang 126 – 133).
2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách hỗ trợ trong nông nghiệp
+ Việc thực thi các nguyên tắc thị trường trong chính sách nông
nghiệp khi gia nhập WTO: một số hình thức hỗ trợ nông nghiệp trong chính
sách hộp đỏ làm bóp méo tính cạnh tranh trên thương trường quốc tế. Nếu
tất cả các nước thành viên WTO đều áp dụng chính sách hỗ trợ tài chính cho
6
các nhà sản xuất để họ xuất khẩu nhiều hơn sẽ dẫn đến một cuộc đua về trợ
cấp giữa các nước, kéo theo sự bất bình đẳng về cạnh tranh.
+ Sự công bằng trong một quốc gia: khi Nhà nước hỗ trợ không phải
nông dân nào cũng được hưởng lợi. Có thể nông dân vùng này được nhưng
nông dân vùng kia không được tạo nên sự bất công bằng trong một quốc gia.
+ Uy tín của quốc gia trên thương trường: đây cũng là một nhân tố
ảnh hưởng tới chính sách hộp đỏ. Thật vậy, việc thực hiện đúng các cam kết
của WTO sẽ nâng cao uy tín của quốc gia trên thương trường. Do đó, quốc
gia sẽ chuyển từ các biện pháp hỗ trợ thuộc hộp đỏ sang các biện pháp hỗ trợ
được khuyến khích.
+ Xu hướng đàm phán trong tương lai: bất kỳ một chính sách, hay quy
định nào cũng có thể thay đổi để phù hợp với thực tiễn. Vì thế, xu hướng
đàm phán trong tương lai có thể làm thay đổi các quy định về các biện pháp
hỗ trợ trong hộp đỏ.
2.4 Tác động của chính sách hộp đỏ hỗ trợ trong nông nghiệp
2.4.1 Tác động của việc trợ giá đầu vào tới người sản xuất và tiêu dùng
P1 là giá trước trợ giá
P2 là giá thị trường sau khi có trợ giá
7
S1
S2
P
1
P
2
a
b
c
e
d
Q
1
Q
2
Đường cung sản phẩm dịch chuyển từ S1 đến S2 và lượng sản phẩm
cũng tăng từ Q1 đến Q2.
Thặng dư của người tiêu dùng luôn tăng một lượng là (a+d+e)
Thặng dư của người sản xuất:
Trước khi trợ giá là (a+b) và sau trợ giá là (b+c)
(b+c) – (a+b) = c - a
Nếu c > a thì người sản xuất được lợi
Nếu c < a thì người sản xuất bị thiệt
Tuy nhiên c lớn hay nhỏ còn phụ thuộc vào: độ co giãn của cầu đầu
vào theo giá đầu vào; độ co giãn của năng suất so với lượng đầu vào được sử
dụng.
Kết luận: ngay cả trong trường hợp cầu không co dãn thì kết quả đáng
ngạc nhiên của trợ giá đầu vào theo sản xuất là người tiêu dùng luôn được
lợi trong khi người nông dân có thể bị thiệt.
2.4.2. Tác động của trợ giá đầu vào tới an sinh xã hôi
và dịch chuyển tài nguyên
8
Q1 Q2
S1
S2
e
c
a
b
d
P
0
Ở nhiều nước chính phủ đã trợ giá cho nông dân thông qua hạ giá vật
tư đầu vào của sản xuất. Trợ giá đầu vào sẽ có tác dụng đến cung nông sản.
S1 là cung nông sản trước trợ giá. Do giá đầu vào thấp nên nông dân tăng
sản xuất. sản phẩm tăng từ Q1 đến Q2.
lợi ích người sản xuất tăng từ a lên (a + b + c), trong đó b là phần thặng dư
tăng thêm do tiết kiệm được chi phí ở mức sản lượng cũ (chi của chính phủ);
c là phần thặng dư tăng thên do tăng sản lượng; d là phần chi phí tăng thêm
để sản xuất ra lượng sản phẩm từ Q1 đến Q2.
* Về thay đổi phúc lợi xã hội:
Thặng dư người sản xuất tăng lên b+c
Chính phủ phải chi cho trợ giá là b + c + e
Phúc lợi xã hội bị mất (giảm) một lượng là e
* Về dịch chuyển tài nguyên
Do trợ giá đầu vào trong sản xuất nên nguồn lực sẽ được sử dụng
thêm là c + d + e (giảm).
Tiết kiệm ngoại tệ c + d (tăng).
Kết quả tài nguyên được sử dụng thêm là e.
Kết luân: trợ giá đầu vào cho nông dân trong thời gian dài là không
tốt, người nông dân sẽ sử dụng vật tư không hiệu quả, có thể dẫn đến sự lạm
dụng vật tư quá mức, phẩm cấp của nông sản giảm. Do vậy chỉ nên trợ giá
đầu vào cho nông dân trong từng thời điểm và chỉ trợ giá cho các vật tư cần
thiết.
2.4.3 Tác động của trợ cấp xuất khẩu
9
P0
P1
P
c
b d
a
Q3 Q1 Q2 Q4
D
S
Q
+ Giá cả thế giới là P
o
, lượng cung là Q
2
, tiêu dùng Q
1
và xuất khẩu là
(Q
2
- Q
1
)
+ Chính phủ trợ cấp (P
1
– P
o
)/đơn vị sản phẩm xuất khẩu thì mức giá
tăng lên P
1
, khi đó lượng cung là Q
4
, trong đó lượng cầu là Q
3
. Với mức giá
cao đó, nhà sản xuất có lợi, người tiêu dùng bị thiệt, quốc gia gánh chịu một
khoản chi phí trợ cấp.
Nhà sản xuất thu lợi = a+b+c
Lợi ích người tiêu dùng bị mất đi = a+b
Khoản trợ cấp Chính phủ phải chịu = b+c+d
Phúc lợi xã hội giảm b+d
Trong đó: b là phần thiệt hại do tiêu dùng bóp méo,d là thiệt hại do
sản xuất bị bóp méo.
Tác động về giá:làm cho giá hàng hoá tăng lên.
Tác động tới tiêu dùng: lượng tiêu dùng sẽ giảm
Tác động tới sản xuất: sản xuất gia tăng một lượng.
Tóm lại: với trợ cấp xuất khẩu các nhà sản xuất nội địa thu lợi ít hơn
so với tổng số bị mất đi của người tiêu dùng và khoản trợ cấp Chính phủ
phải chi trả. Đồng thời người tiêu dùng nước ngoài sẽ có lợi.
10
III. CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ TRONG NÔNG NGHIỆP Ở
VIỆT NAM
3.1 Đặc điểm chính sách
3.1.1Chính sách hộp đỏ của một số nước trên thế giới
Các chuyên gia kinh tế của WTO cho rằng một số biện pháp hỗ trợ có
thể mang lại lợi ích cho xã hội và hạn chế tác động của những nhân tố bên
ngoài, song nhiều trợ cấp có thể gây thiệt hại lớn đến sự phát triển chung, hỗ
trợ có thể làm méo mó các hoạt động thương mại. Trên thực tế, chỉ một số ít
các nước thành viên chấp hành thông tin về sử dụng hình thức hỗ trợ và tác
động trợ cấp không đầy đủ và minh bạch. Theo ước tính, trong khi cả thế
giới chi khoảng 300 tỷ USD cho hoạt động trợ cấp thì riêng 21 quốc gia phát
triển đã chi khoảng 250 tỷ USD. Nhìn chung, tỷ lệ trợ cấp trung bình theo
GDP ở các nước đang phát triển thấp hơn so với các nước phát triển.
Chẳng hạn như nước Mỹ: Kể từ năm 2001, ít nhất chính phủ đã trả
cho các chủ trại 1,3 tỷ USD cho dù họ không trồng trọt gì. Đặc biệt sau
Ngày 8/5/2002 Tổng thống Mỹ G.Bush ký quyết định về Đạo luật nông
nghiệp mới – (Farm Bill). Riêng chương trình ban hành năm 2002 nhằm
giúp các chủ trại bị hạn hán nặng nề đã cung cấp 635 triệu USD cho các chủ
trại và người nuôi bò sữa ở những vùng chỉ bị hạn vừa phải, thậm chí không
11
bị hạn hán, áp dụng đối với 16 loại cây trồng. Ngoài ra, Mỹ còn áp dụng
nhiều biện pháp hỗ trợ xuất khẩu thông qua các chương trình của mình.
Hay như Liên minh châu Âu EU được thành lập nhằm thiết lập một
thị trường nông nghiệp thống nhất vào đầu năm 1962. Theo cam kết với
WTO, mỗi năm EU được phép trợ cấp theo ‘’hộp màu đỏ’’ là 62 tỷ đô la.
Tuy nhiên hiện nay EU đang có lượng trợ cấp vượt quá qui định của WTO.
Nông nghiệp Nhật Bản cũng là một trong những khu vực được
bảo hộ cao trong quá trình hội nhập. Tổng số tiền chi cho chính sách
thuộc ‘’hộp màu hổ phách’’ là 27.13 tỷ đô la. Trong đó chi cho chênh lệch
giá giữa trong nước và ngoài nước là 25.4 tỷ đô la, chiếm 93.6%. Còn lại
1.73 tỷ đô la, chiếm 6.4% được dùng trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp.
Trong khi đó Trung Quốc giáng giềng của Việt Nam trợ cấp thuộc chính
sách hộp đỏ có thể chiếm tới 8,5% gía trị sản lượng nông nghiệp. (Bùi Xuân
Lưu (2004), Bảo hộ hợp lý nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, NXB Thống kê, Hà Nội, trang 76-122)
3.1.2 Đặc điểm của Việt Nam
Thứ nhất, nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế, mở ra cơ hội mở rộng thị trường tăng kim ngạch xuất khẩu đối với
tất cả các mặt hàng trong nước đặc biệt là mặt hàng nông sản. Một số nông
sản của Việt Nam đang đứng ở vị trí cao trên thế giới: gạo (thứ 2 sau Thái
Lan), cà phê (thứ 2 sau Braxin), điều (thứ 2 sau Ấn Độ), tiêu (thứ nhất), cao
su (thứ 4 sau Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia), chè (thứ 6), lâm sản v.v Sau
khi gia nhập WTO, thị trường thế giới sẽ rộng mở hơn, những ngành hàng
này tiếp tục được hưởng lợi.
Thứ hai, nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế có vai trò
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, với gần 80% dân cư sống ở nông
12
thôn. Hàng năm nông nghiệp đóng góp không nhỏ vào ngân sách của nhà
nước. Trong thời gian qua nông nghiệp đã có nhiều thành tựu đáng mừng.
. Ngoài việc đáp ứng về cơ bản nhu cầu tiêu dùng trong nước ngày một
tăng với 85 triệu dân, kim ngạch xuất khẩu nông lâm sản năm 2006 đã đạt
trên 7,2 tỷ USD, tăng 22% so với năm 2005.
Thứ ba, Việt Nam chú trọng phát triển nông nghiệp nông thôn theo
hướng bền vững, tăng cường sự hỗ trợ của nhà nước đối với khu vực nông
nghiệp, tăng sức cạnh tranh với mặt hàng nông sản của các quốc gia trên thế
giới thông qua các chính sách cũng như các chương trình phát triển.
3.2 Thực tiễn chính sách hộp đỏ ở Việt Nam
3.2.1 Hỗ trợ trong nước
Trong giai đoạn 1996 – 2001, các biện pháp hỗ trợ thuộc hộp đỏ của
Việt Nam có xu hướng tăng lên cả về số lượng lẫn giá trị tiền ngân sách Nhà
nước cấp cho các chương chình hỗ trợ này. Tuy nhiên, tổng hỗ trợ AMS cho
các sản phẩm cụ thể gạo, thịt lợn, bông… không phải chịu diện cắt giảm vì
tổng AMS này ít hơn 10% giá trị sản xuất của từng mặt hàng cụ thể đó.
Ngoại lệ duy nhất là mặt hàng đường có lượng hỗ trợ vượt quá mức cho
phép.
Hỗ trợ giá thị trường: Theo chương trình phát triển nông thôn tại Việt
Nam: giai đoạn 1996 – 2001 và tới năm 2010, Chính phủ Việt Nam đã duy
trì các chính sách nhằm hỗ trợ sản xuất nông nghiệp “…để thay đổi giá
tương đối của các sản phẩm nông lâm nghiệp thông qua các điều chỉnh về
chính sách thương mại nội địa và chính sách xuất nhập khẩu để duy trì mức
giá thích hợp đối với sản xuất nông sản”. Từ năm 1998, ngành nông nghiệp
Việt Nam đã có những cải cách quan trọng hướng về thị trường và mở cửa
đối với thương mại quốc tế. Giá nông sản ngày càng gần với mức giá thế
giới. Tuy nhiên, Chính phủ vẫn duy trì một chính sách hợp lý nhằm đảm bảo
13
mức giá nông sản phẩm tương đối ổn định cho người tiêu dùng trước những
thay đổi lớn từ bên ngoài. Do đó, Chính phủ vẫn còn áp dụng một số kiểm
soát về giá thông qua hạn ngạch và giới hạn số lượng nhà xuất khẩu tham
gia vào thương mại quốc tế. Việt Nam đã duy trì các biện pháp trợ giá đối
với hai mặt hàng gạo và đường trong giai đoạn 1996 – 2001. Với mặt hàng
gạo, trong giai đoạn 1996 – 2001, Chính phủ đã có những chính sách can
thiệp như hạn ngạch xuất khẩu, kiểm soát số lượng các nhà xuất khẩu. Các
NTM (các biện pháp phi thuế quan) này đã khiến cho giá nội địa và giá xuất
khẩu của mặt hàng gạo thấp hơn so với giá thế giới. Ví dụ năm 1996, giá gạo
5% tấm trong nước là 260 USD/tấn, giá xuất khẩu là 310 USD/tấn trong khi
giá gạo xuất khẩu 5% tấm của Thái Lan là 360 USD/tấn. Năm 1998, khi
Chính phủ cho phép nhiều doanh nghiệp cùng tham gia xuất khẩu gạo và nới
rộng hạn ngạch xuất khẩu gạo, giá gạo năm 1999 ở thị trường nội địa là 226
USD/tấn, giá xuất khẩu là 228 USD/tấn trong khi giá gạo xuất khẩu của Thái
Lan là 239 USD/tấn.
Đối với mặt hàng đường, Chính phủ cũng ban hành nhiều chính sách
can thiệp khiến cho giá quản lý áp dụng của mặt hàng này cao hơn so với giá
tham khảo trên thị trường. Các biện pháp quản lý áp dụng đối với mặt hàng
này là giấy phép nhập khẩu (áp dụng đối với đường thô và đường tinh
luyện), chỉ định nhà nhập khẩu, quy định mức giá sàn mua mía tối thiểu cho
các nhà máy đường để đảm bảo thu nhập cho nông dân trồng mía. Trong
năm 1999, mức giá sàn thu mua mía được ấn định ở mức 240.000 đồng/tấn.
Hỗ trợ về giống: Việt Nam đã xây dựng được một chiến lược phát
triển giống cho một số mặt hàng nông sản chiến lược trong giai đoạn 1996 –
2001. Nhà nước đã ban hành các biện pháp nhằm hỗ trợ các cơ sở chăn nuôi
giống gốc. Thông thường chi phí để nuôi giữ đàn giống gốc rất cao do quy
trình kỹ thuật nghiêm ngặt. Vì vậy giá con giống sản xuất ra cao, trong khi
14
trình độ sản xuất và điều kiện kinh tế của người dân chưa đủ để tiếp nhận
con giống với giá cao như vậy. Do đó, hàng năm, Nhà nước chi hỗ trợ cho
các cơ sở sản xuất giống để họ bán sản phẩm với giá thấp hơn. Nguồn tài trợ
lấy từ ngân sách Nhà nước. Theo thống kê từ biểu DS7 mà Việt Nam đã báo
cáo lên WTO, mỗi năm chúng ta chi khoảng 15 tỷ đồng cho các cơ sở sản
xuất giống này.
Quyết định số 225/1999/QĐ – TTg, ngày 10/12/1999 của Thủ tướng
Chính phủ cũng phê duyệt một loạt các chương trình giống quốc gia nhằm
tăng cường vốn ngân sách nhà nước đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu
khoa học về giống, giữ nguồn gen, sản xuất giống gốc, giống siêu nguyên
chủng, nguyên chủng, cụ kỵ, ông bà, nhập khẩu nguồn gen và giống mới.
Bên cạnh đó, các chương trình này còn dùng ngân sách địa phương để hỗ trợ
sản xuất giống đòi hỏi kỹ thuật cao giúp nông dân nghèo có điều kiện đưa
giống tốt vào sản xuất. Nhà nước cũng cấp các khoản vay ưu đãi dành cho
tất cả các thành phần kinh tế để sản xuất giống thương mại.
Cụ thể, đối với mặt hàng dứa, Chính phủ đã trợ giá nhập khẩu giống
dứa Cayen cho các doanh nghiệp: Tổng công ty rau quả, công ty thực phẩm
xuất khẩu Đồng Giao và các tỉnh Bắc Giang, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh,
…Ngoài mặt hàng dứa, nhận thấy tiềm năng và lợi ích của giống bông lai,
Chính phủ đã tạo điều kiện cho nhập khẩu một số hạt giống bông lai từ
nguồn Quỹ bình ổn giá, nay là Quỹ hỗ trợ xuất khẩu để bán hạt giống với giá
thấp hơn cho nông dân. Với mặt hàng đường, Chính phủ đã hỗ trợ để nhập
khẩu giống mía mới cung cấp cho một loạt tỉnh gồm có Bình Định, Quảng
Nam, Thừa Thiên Huế, …
Các hỗ trợ khác: Bên cạnh nhóm hỗ trợ theo sản phẩm cụ thể là trợ
giá và phát triển giống kể trên, Chính phủ còn áp dụng một số biện pháp
khác nhằm hỗ trợ cho các mặt hàng nông sản như hỗ trợ lãi xuất để thu mua
15
và tạm trữ nông sản trong vụ thu hoạch nhằm giúp bảo đảm thu nhập cho
nông dân, hỗ trợ phát triển vùng nông sản, vùng nguyên liệu thô, cho vay lãi
xuất ưu đãi cho một số doanh nghiệp đầu tư, phát triển sản xuất nông sản, bù
lỗ cho các doanh nghiệp bị thiệt hại do quy định giá thu mua trong nước của
Chính phủ, …Tất cả các tiền hỗ trợ trên đều được thực hiện thông qua Quỹ
bình ổn giá (nay là Quỹ hỗ trợ xuất khẩu). Nhà nước thực hiện phụ thu đối
với hàng xuất nhập khẩu trong trường hợp có sự chênh lệch lớn giữa giá
trong nước và giá xuất nhập khẩu nhằm mục đích ổn định giá cả thị trường
trong nước.
Đối với mặt hàng gạo, Chính phủ đã hỗ trợ lãi suất để mua gạo trong
vụ thu hoạch suốt giai đoạn 1996 – 2001 nhằm giúp các doanh nghiệp
thương mại Nhà nước mua gạo nhằm khắc phục tình trạng giá gạo giảm
mạnh trên thị trường nội địa trong vụ thu hoạch gây ảnh hưởng xấu đến
người nông dân. Chính phủ quyết định tạm trữ một triệu tấn gạo trong năm
2001 và kéo dài thời gian tạm trữ mặt hàng này thêm 6 tháng như quy định
của nghị quyết 05/2001/NQ-CP của Chính phủ ban hành ngày 24/5/2001 về
bổ sung giải pháp điều hành kế hoạch kinh tế 2001.
Mặt hàng nông sản thứ hai rất được quan tâm hỗ trợ là mặt hàng
đường. Thực hiện chương trình mía đường quốc gia năm 1995, nhiều nhà
máy chế biến đường bằng nguồn vốn chủ yếu vay thương mại VNĐ và USD
tại thời điểm ký kết hợp đồng vay vốn mua thiết bị năm 2000 và 2001, các
nhà máy này mới được cấp tiền. Trong hai năm 1999-2000, theo quyết định
số 65/2000/QĐ – TTg ngày 7/6/2000 Thủ tướng Chính phủ đã giảm 50%
thếu VAT phải trả cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh mặt hàng
đường. Từ năm 2000 trở đi, một loạt các chính sách hỗ trợ đã được áp dụng
bao gồm hỗ trợ lãi suất cho vay để đầu tư trồng mía và sản xuất đường, bù
chênh lệch tỷ giá và cấp vốn lưu động theo quyết định 854/2000/QĐ-TTg
16
ngày 7/9/2000 và quyết định 194/1999/QĐ-TTg ngày 23/9/1999, hỗ trợ lãi
xuất thu mua đường trong vụ thu hoạch theo công văn số 562/CP-NN ngày
7/6/2000 của Chính phủ, và hỗ trợ các khu vực trồng mía từ nguồn ngân
sách địa phương. Theo đó, các địa phương chỉ hỗ trợ làm đất, giống, chuyển
đổi đất lúa sang trồng mía cho nông dân. Tỉnh Nghệ An hỗ trợ cho nông dân
khai hoang đất trồng mía 300.000-400.000/ha; phục hóa hỗ trợ 100.000 –
150.000 đ/ha; chuyển đổi cây trồng khác sang trồng mía hỗ trợ 100.000
đ/ha; trợ giá mía giống 250.000 – 300.000 đ/ha; cấp bù chênh lệch giữa lãi
suất thương mại với lãi suất ưu đãi cho người trồng mía;…
Đối với mặt hàng bông, Nhà nước đặt mức giá sàn cho các doanh
nghiệp thu mua bông của nông dân nhằm đảm bảo thu nhập của người trồng
bông. Năm 1996, giá mua bông hạt tối cho dân là 4.500 VND/kg và năm
1998 là 5.000 VND/kg và các nhà máy cán bông bị thua lỗ. Chính phủ đã bù
khoản lỗ này từ quỹ bình ổn giá.
Hỗ trợ tính gộp không theo sản phẩm cụ thể:
Theo quyết định số 199/2001/QĐ-TTCP của thủ tướng Chính phủ
Nhà nước miễn giảm 100% thuế nông nghiệp cho các xã đặc biệt khó khăn
và 50% cho đất trồng lúa và trồng cà phê.
Theo thông tư số 44/1999/TT-BTC ngày 26/4/1999 của Bộ tài chính
hướng dẫn ưu đãi về thuế đối với hợp tác xã, các hợp tác xã cung cấp dịch
vụ sản xuất nông nghiệp ở miền núi được miễn tiền thuê đất, ở các vùng còn
lại được giảm 50% tiền thuê đất.
Nhà nước cũng miễn giảm thuế VAT cho tất cả các sản phẩm trồng
trọt, chăn nuôi chưa qua chế biến của các tổ chức cá nhân tự sản xuất và trực
tiếp bán ra thị trường theo thông tư số 122/2000/TT-BTC ngày 29/12/2000
hướng dẫn thực hiện Luật thuế VAT và điều 4 của Luật thuế VAT. Cũng
theo thông tư trên và theo điều 10 của Luật thuế VAT, thuế đầu vào được
khấu trừ khống theo tỷ lệ 2% và 3% để tính nộp thuế VAT áp dụng đối với
kinh doanh nông sản trong nước và xuất khẩu.
17
Ngoài ra, Chính phủ quyết định giá bán điện cho bơm nước, tưới tiêu lúa,
rau, màu và cây công nghiệp ngắn ngày xen canh với mức bình quân là
572,72đ/kwh thấp hơn giá điện bán cho các lĩnh vực khác (700đ/kwh). Phần
chênh lệch được Nhà nước cấp bù. Năm 2001, nhà nước đã chi khoảng 302
tỷ đồng cho hạng mục hỗ trợ này. (Bùi Xuân Lưu (2004). Bảo hộ hợp lý
nông nghiệ Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Thống
kê, Hà Nội).
3.2.2 Trợ cấp xuất khẩu
Trong giai đoạn 1998 trở về trước, Việt Nam không trợ cấp trực tiếp
xuất khẩu từ ngân sách Nhà nước. Nhưng trong giai đoạn 1999-2001, sau
khủng hoảng tài chính Châu Á, làm đồng tiền các nước này mất giá, kinh tế
thế giới tăng trưởng chậm, giá nông sản trên thị trường thế giới giảm mạnh,
ảnh hưởng đến đời sống và sản xuất của nông dân, Chính phủ đã phải tăng
cường trợ cấp xuất khẩu, thông qua bù lỗ xuất khẩu, thưởng xuất khẩu.
Trong giai đoạn 1999-2001, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo được hỗ
trợ lãi suất trả chậm vay ngân hàng. Nhà nước hỗ trợ bù lỗ dự trữ và thưởng
xuất khẩu 180 đồng cho 1 USD gạo xuất khẩu, 220 đồng cho 1 USD cà phê
xuất khẩu, và 400-500 đồng/1 USD dứa hộp, dưa chuột hộp xuất khảu sang
thị trường Nga và Hoa Kỳ. Đối với sản phẩm thịt lợn, trong giai đoạn 1999-
2000, nhà nước hỗ trợ các doanh nghiệp bù lỗ từ việc xuất khẩu thịt lợn sang
Nga và Hồng Kông.
Trợ cấp xuất khẩu
Đơn vị: tỷ đồng
1999 2000 2001 Trung bình
Gạo 486,0 600,0 822,77 636,26
Thịt lợn 49,7 31,3 31,48 37,49
18
Cà phê 203,0 348,6 536,35 362,65
Rau Quả 12,0 9,9 165,00 62,30
Total 750,7 989,6 1.566,16 1.098,5
Nguồn: WTO document WT/ACC/SPEC/VNM/3/Rev.5, Bénédicte
Hermelin(2005)
3.3 Tác động của chính sách hộp đỏ
Việt Nam là nước đang phát triển nên vẫn được duy trì mức hỗ trợ
10% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp.Do đó chúng tôi nghiên cứu tác động
của việc hỗ trợ của Việt Nam trong các hình thức được áp dụng
3.3.1 Tác động tích cực:
Tới nền kinh tế:
Đẩy mạnh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, thông qua chương trình rút
các nguồn lực khỏi sản xuất nông nghiệp sang dịch vụ và công nghiệp. Trợ cấp
xuất khẩu và hỗ trợ trong nước có vai trò quan trọng đến phát triển sản xuất,
nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng nông sản trên thi trường trong nước
và quốc tế. Trong trường hợp của Việt Nam, trợ cấp và hỗ trợ của chính
quyền là cần thiết và có vai trò quan trọng.
Tới ngành nông nghiệp:
Trong giai đoạn 1996-2005, các biện pháp hỗ trợ đã tạo điều kiện cho
nhiều ngành sản xuất tuy có sức cạnh tranh kém hơn với nước ngoài tiếp tục
duy trì và phát triển. Một số ngành đã nâng dần khả năng cạnh tranh nhờ
nâng cao trình độ quản lý, đổi mới công nghệ. Không những thế, một số sản
phẩm nông sản sản xuất trong nước có chất lượng kém hơn, giá cao hơn
hàng nhập khẩu vẫn có thể tồn tại với hàng nhập khẩu.
Đơn cử như ngành mía đường. Từ khi bắt đầu triển khai chương trình
mía đường năm 1995 cho tới cuối năm 2005 cả nước đã có tổng số 44 nhà
19
máy đường đi vào hoạt động trong đó có 5 nhà máy được mở rộng công suất
và đầu tư chiều sâu. Tổng công suất đạt 78200 tấn/ngày, tăng gấp 8 lần so
với năm 2000.
Đối với người sản xuất:
Do là một nước đang phát triển Việt nam vẫn được trợ cấp 10% giá trị
sản lượng sản phẩm.Các biện pháp hỗ trợ lãi suất xuất khẩu đối với một số
mặt hàng nông sản cũng đem lại kết quả khả quan. Có thê thấy rõ kết quả
này qua hai mặt hàng gạo và cà phê. Các chính sách thu của nhà nước của
nhà nước với hai mặt hàng này đã có tác dụng lớn đến người sản xuất. Giá
thu mua thóc và cà phê đã tăng đáng kể. Bên cạnh đó chính sách hỗ trợ lãi
suất vay vốn ngân hàng đã giúp doanh nghiệp xuất khẩu giảm lỗ kinh doanh
do giá xuất khẩu giảm, giải quyết một phần khó khăn tài chính và do đó tiếp
tục kinh doanh trong điều kiện không thuận lợi. Việc thưởng theo kim ngạch
xuất khẩu đã tạo động lực để các doanh nghiệp tăng cường đẩy mạnh công
tác tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu; Ngoài ra giúp tiêu thụ hết
lượng trong dân giúp cho người dân có vốn sản xuất và có điều kiện để tổ
chức lại sản xuất chuyển dịch cơ cấu sản xuất thích hợp. Từ đó giúp người
sản xuất gia tăng sản xuất nâng cao thu nhập.
Người tiêu dùng:
Khi nhà nước hỗ trợ(mức 10% giá trị sản lượng) sản xuất nông nghiệp thì
người ta sản xuất nhiều hơn, người tiêu dùng trong nước được mua nhiều
hàng hóa và với giá rẻ hơn. Người tiêu dùng được hưởng lợi từ các chương
trình hỗ trợ trong nước từ đó làm tăng thặng dư.
Khi bỏ trợ cấp một số ngành không thể cạnh tranh, không thể tiếp tục sản
xuất, hàng hóa được nhập khẩu và bán với giá rẻ hơn,như vậy sẽ có lợi cho
người tiêu dùng.
Tới an sinh xã hội:
20
Thông qua các biện pháp hỗ trợ và trợ cấp một số ngành, địa bàn,tạo
công ăn việc làm, người nông dân yên tâm sản xuất, đời sống nhân dân được
cải thiện hơn. Điều này đặc biệt quan trọng với Việt Nam vì chúng ta có tới
70% dân số sinh sống bằng nghề nông. Đồng thời, người tiêu dùng có cơ hội
mua các sản phẩm nông sản với giá rẻ hơn, chất lượng cao hơn. Trong thời
gian qua, vấn đề an ninh lương thực quốc gia luôn luôn ổn định.
3.3.2 Tác động tiêu cực.
Tới nền kinh tế:
Chính phủ phải chi một lượng tiền làm hâm hụt ngân sách. Nhiều mục đích
hỗ trợ của chính phủ không đạt mục tiêu đề ra. Cơ cấu đầu tư còn chưa hợp lý, phân
bổ vốn trong các chương trình còn dàn đều, bình quân Tính tích cực và lợi ích
thu được thông qua trợ cấp xuất khẩu không có tính lâu dài, chi phí cơ hội
của trợ cấp xuất khẩu thường lớn, làm méo mó quan hệ cạnh tranh và
thường bị nước ngoài trả đũa.
Trong vài năm qua hàng xuất khẩu của ta bị các nước điều tra chống
bán phá giá ngày càng nhiều. Trong xu hướng nhiều nước trên thế giới tăng
cường sử dụng biện pháp chống bán phá giá như một công cụ bảo hộ thì
hiện tại chúng ta sẽ phải đối phó với biện pháp này nhiều hơn khi kim ngạch
xuất khẩu của nhiều mặt hàng tăng mạnh.
Tới người sản xuất:
Các giải pháp hỗ trợ xuất khẩu như hỗ trợ lãi suất, cho vay ưu đãi,
thưởng xuất khẩu…đã không đạt được mục đích đặt ra là mở rộng thị trường
xuất khẩu, tăng lợi nhuận cho nhà xuất khẩu và gián tiếp tăng thu nhập cho
người sản xuất nông sản.
Trong khi đó, các sản phẩm nông sản của Việt Nam có năng lực cạnh
tranh còn kém do còn tồn tại nhiều vấn đề lớn về chủng loại, chất lượng, chi
21
phí đầu vào, cơ cấu giá thành… Chính vì vậy, khi các biện pháp trợ cấp xuất
khẩu và hỗ trợ trong nông nghiệp bị cắt giảm thì nông dân sẽ gặp nhiều
nhiều khó khăn.
3.4 Phân tích và nhận xét
3.4.1 Cách trợ cấp của Việt Nam hiện nay có nhiều điểm không phù hợp
Theo Bộ NN&PTNT, nhìn chung các chính sách nông nghiệp của
Việt Nam là phù hợp với thông lệ WTO. Tuy nhiên, một số chính sách hỗ
trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu của Việt Nam vẫn chưa hoàn toàn phù
hợp với quy định của WTO:
Các chính sách hỗ trợ của Việt Nam thường mang tính giải quyết tình
thế, không theo một chương trình tổng thể hay một kế hoạch được Chính
phủ phê duyệt trước. Diện mặt hàng và số lượng nông sản được hỗ trợ tuỳ
thuộc vào tình hình phát sinh mà chưa có những tiêu chí cụ thể cho chính
sách hỗ trợ.
Trong khi WTO quy định đối tượng của các chính sách hỗ trợ trong
nước là người sản xuất, thì Việt Nam hiện nay thường hỗ trợ cho doanh
nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, mà chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước,
chưa tạo được sân chơi bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế. Hỗ trợ
trực tiếp cho người sản xuất (nông dân) rất ít, nhất là đối với dân nghèo,
vùng khó khăn.
3.4.2 Hỗ trợ nông nghiệp ở Việt Nam chưa vượt quá mức quy định
của WTO.
22
Cam kết quan trọng của Việt Nam trong lĩnh vực trợ cấp và hỗ trợ nông
nghiệp là xoá bỏ trợ cấp xuất khẩu sau khi gia nhập WTO. Tuy nhiên, Việt
Nam vẫn bảo lưu quyền được hưởng trợ cấp xuất khẩu nông sản dành riêng
cho các nước đang phát triển. Trước đây, một số nước cũng yêu cầu Việt
Nam cam kết “giữ nguyên trạng”, tức là sau khi gia nhập WTO sẽ không
tăng trợ cấp so với mức hiện hành. Đây là một khó khăn trong bối cảnh
chúng ta đang trong quá trình xây dựng chính sách hỗ trợ xuất khẩu. Trước
đây, do điều kiện hạn hẹp của nền kinh tế, chúng ta không thể hỗ trợ tài
chính cho sản xuất và chế biến nông sản, do vậy mức trợ cấp rất thấp. Trong
điều kiện hội nhập, ngành nông nghiệp rất cần sự hỗ trợ hơn nữa để nâng
cao năng suất, chuyển từ sản xuất nhỏ lẻ sang quy mô lớn hơn, nâng cao
chất lượng sản phẩm để phát triển sản xuất, cạnh tranh với sản phẩm của các
nước khác. Chúng ta đã cam kết duy trì hỗ trợ trong nước (AMS) ở mức
10% giá trị sản xuất nông nghiệp, theo quy định của WTO.
Theo bà Phạm Thị Tước, Vụ phó Vụ Kế hoạch Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, hiện tại có một số hình thức trợ cấp nhưng số tiền còn rất
nhỏ và đang được điều chỉnh giảm dần cho phù hợp mà không gây sốc đối
với nông dân. Qua khảo sát của Dự án hỗ trợ kỹ thuật nâng cao năng lực thể
chế giúp Việt Nam gia nhập WTO cho thấy, giá trị trợ cấp cao nhất dành cho
hai nhóm hàng gạo và cà phê; tỷ lệ trợ cấp cao nhất lại thuộc về thịt lợn
(6%) và rau quả (3%). Tuy nhiên, mức trợ cấp này không có giá trị kinh tế
lớn. Thậm chí mức này còn thấp hơn một số nước trong khu vực.
Khảo sát của dự án cũng cho biết: 84,5% tổng số chính sách hỗ trợ của
Việt Nam hướng vào xây dựng hạ tầng nông nghiệp; 10,7% được dùng vào
các chương trình phát triển mà chủ yếu là hỗ trợ đầu tư. Chỉ có 4,9% dùng
23
để hỗ trợ lãi suất mua tạm trữ thuộc nhóm “đèn đỏ”, thấp hơn so với mức tối
thiểu 10% cho phép.
(Phước Hà (2006). ‘Trợ cấp hợp lý trong WTO’,
)
IV. KẾT LUẬN
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã:
Hệ thống hóa được cơ sở lý luận về bản chất, cơ sở khoa học của
chính sách hộp đỏ hỗ trợ trong nông nghiệp. Bản chất của chính sách hộp đỏ
là hỗ trợ giá thị trường bằng cách mua theo giá can thiệp của Nhà nước, làm
méo mó giá thương mại của sản phẩm.
Thảo luận luận về chính sách trên thế giới và ở nước ta. Thực tế, các
trợ cấp đang áp dụng ở Việt Nam như thưởng xuất khẩu, trợ lãi suất thu mua
dự trữ gạo, cà phê, bông, bù lỗ xuất khẩu của Việt Nam cũng mới chỉ đạt
4,9%, tức là còn xa so với ngưỡng giới hạn. Hiện tượng trợ cấp vượt quá
mức cho phép thường diễn ra ở các nước phát triển còn các nước đang phát
triển thì hầu như mức trợ cấp chưa vượt quá quy định.
Qua nghiên cứu chúng tôi đưa ra một số đề xuất định hướng chính
sách như sau:
“ Chúng ta hãy làm những gì không cấm”, điều đó có nghĩa là song
song việc cắt bỏ các biện pháp bị cấm, cần chuyển sang các biện pháp phù
hợp với qui định của WTO. Đồng thời, các hỗ trợ từ phía Chính phủ trong
việc nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng nông sản cần theo hướng:
24
+ Các chính sách phát triển nông nghiệp nên hướng vào sản xuất
những nông sản mà Việt Nam có lợi thế so sánh.
+ Coi trọng nhiều hơn nữa tới hỗ trợ cho việc phát triển công nghiệp
chế biến.
+ Hỗ trợ phát triển thương hiệu cho các sản phẩm nông nghiệp.
+ Thành lập và củng cố các hiệp hội ngành hàng nông nghiệp.
+ Nâng cao hiệu quả các hoạt động xúc tiến thương mại hỗ trợ doanh
nghiệp mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đỗ Kim Chung (2005), Bài giảng chính sách nông nghiệp, Đại học Nông
nghiệp, Hà Nội.
Ngô Đức Cát, Vũ Đình Thắng (2001). giáo trình phân tích chính sách nông
nghiệp, nông thôn, NXB Thống kê, Hà Nội.
Bùi Xuân Lưu (2004). Bảo hộ hợp lý nông nghiệ Việt Nam trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Thống kê, Hà Nội.
Phạm Vân Đình (2005). Giáo trình chính sách nông nghiệp, NXB nông
nghiệp, Hà Nội.
Đỗ Đức Thọ (1999). ‘Áp dụng phương pháp ma trận phân tích chính sách
(PAM) để đánh giá ảnh hưởng của chính sách trợ giá mía đường
vùng
mía đường Lam Sơn, Thanh Hóa’, luận văn thạc sỹ khoa học kinh tế,
Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội.
Phạm Hoàng Ngân (2006). ‘Đổi mới chính sách nông nghiệp Việt Nam - Kỳ
II ‘, />Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (2006). ‘Hiệp định về Nông nghiệp
’ />25