I.ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính
Là một nước với truyền thống lúa nước hàng ngàn năm, cùng với kinh nghiệm
canh tác lâu đời, đã đưa nước ta từ một đất nước thuần nông phát triển thêm các
ngành nghề, dịch vụ khác phục vụ cho nông nghiệp. Từ những năm kháng chiến
chống thực dân Pháp rồi đế quốc Mĩ, có những lúc dân ta đói ăn, nhu cầu ăn uống
được cấp bởi viện trợ của các nước anh em để tiếp tục cuộc kháng chiến.
Và sau hơn 30 năm giải phóng chúng ta đã thay đổi hoàn toàn. Từ một đất
nước phải nhập khẩu gạo hoàn toàn giờ chúng ta đã đủ cho tiêu dùng trong nước,
không những vậy mà còn dư để xuất khẩu đi các nước khác, trong đó có cả Mĩ.
Để có sự thay đổi phi thường đó chính là nhờ vào nội lực của đất nước ta,
cùng với đó là sự chỉ đạo đúng đắn, chính xác của chính phủ để đất nước có sự
“thay da đổi thịt” đó.Trong đó có các chính sách về xuất khẩu gạo của chính phủ.
Vậy liệu chúng ta đã thực hiện nó thế nào? Đã tốt hoàn toàn chưa? Còn phải chỉnh
sửa gì hay không? Nhóm chúng tôi xin đề cập tới “ Nghị định về kinh doanh xuất
khẩu gạo” số: 109/2010/NĐ-CP của chính phủ để chúng ta hiểu rõ hơn về việc
thực hiện chính sách của chính phủ ta thế nào.
1.2Mục tiêu nghiên cứu.
• Mục tiêu chung: Tìm hiểu về tình hình thực hiện nghị định kinh doanh xuất khẩu
gạo qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách.
• Mục tiêu cụ thể:
- Khái quát một số lí luận có liên quan, hệ thống hóa một số chính sách có liên quan
và tác động tới tình hình thực hiện chính sách.
- Tìm hiểu tình hình thực hiện chính sách
- Đánh giá tình hình thực hiện chính sách, hiệu quả và một số hạn chế.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách và nâng cao khả năng thực
hiện thành công chính sách.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nghị định số 109/2010/NĐ-CP về kinh doanh xuất
khẩu gạo, cùng các tác nhân có liên quan tới quá trình xuất khẩu gạo.
- Phạm vi nghiên cứu: + Phạm vi không gian: Lãnh thổ Việt Nam
+ Phạm vi thời gian : từ 2010 tới nay.
1.4 Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp thu thập thông tin
- Phương pháp xử lý thông tin
- Phương pháp thống kê mô tả.
II.NỘI DUNG
2.1 Các khái niệm có liên quan.
2.1.1 Khái niệm về Chính sách, Chính sách nông nghiệp
Khái niệm Chính sách: Chính sách là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi
trong đời sống kinh tế- xã hội.chính sách là những sách lược và kế hoạch cụ thể
nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình
thực tế mà đề ra. Chính sách là các chủ trương và các biện pháp của một đảng phái,
của một chính phủ trong các lĩnh vực chính trị - xã hội .
Khái niệm Chính sách nông nghiệp: Là tổng thể các biện pháp kinh tế hoặc
phi kinh tế thể hiện sự tác động của CP vào lĩnh vực sản xuất NN theo những mục
tiêu xác định, trong một thời hạn nhất định.
2.1.2 Khái niệm về nghị định, nghị định kinh doanh xuất khẩu gạo.
Nghị định: Là văn bản do Chính phủ ban hành, được sử dụng với tư cách là
văn bản quy phạm pháp luật và văn bản pháp luật.
Là văn bản chính sách, Nghị định được ban hành để cụ thể hóa Hiến pháp,
Luật, Pháp lệnh về quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội như: chính trị, kinh tế,
văn hóa quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác thuộc thẩm quyền của
Chính phủ thành lập; quy định các biện pháp cụ thể để thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của Chính phủ.
Là văn bản áp dụng pháp luật, ban hành nhằm áp dụng luật trong việc thành
lập, sáp nhập, phân chia, giải thể các cơ quan thuộc thẩm quyền của Chính phủ.
Nghị đinh xuất khẩu gạo: là văn bản pháp luật được ban hành nhằm quy
định nhiệm vụ, quyền hạn cùng các tổ chức gắn liền với quyền và trách nhiệm ấy
về kinh doanh xuất khẩu thóc, gạo các loại. Cùng với những quy định về một số
các hoạt động trong: nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, chuyển khẩu,
quá cảnh, gia công gạo cho nước ngoài; hoạt động xuất khẩu phi mậu dịch, viện
trợ, biếu, tặng gạo.
2. Quy định của Nghị định về kinh doanh xuất khẩu gạo:
Theo nghị định số 109/2010/NĐ-CP của Chính phủ về kinh doanh xuất khẩu
gạo:
“Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
1. Nghị định này quy định về kinh doanh xuất khẩu thóc, gạo các loại (sau
đây gọi chung là gạo).
2. Hoạt động nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, chuyển khẩu,
quá cảnh, gia công gạo cho nước ngoài; hoạt động xuất khẩu phi mậu dịch, viện
trợ, biếu, tặng gạo không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định này.
Điều 2. Đối tượng áp dụng
Nghị định này áp dụng đối với thương nhân theo quy định của Luật Thương
mại; các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm trong quản lý, điều hành xuất khẩu gạo
và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan.
Điều 3. Quyền kinh doanh xuất khẩu gạo
1. Thương nhân Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế, nếu đáp ứng đủ
điều kiện quy định tại Điều 4 Nghị định này và được cấp Giấy chứng nhận đủ điều
kiện kinh doanh xuất khẩu gạo (sau đây viết tắt là Giấy chứng nhận), có quyền
được kinh doanh xuất khẩu gạo theo quy định tại Nghị định này và các quy định
khác của pháp luật có liên quan.
2. Thương nhân là doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực
hiện hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo theo quy định tại Nghị định này; các quy
định khác có liên quan của pháp luật Việt Nam và cam kết của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam trong các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên.”
Những trích dẫn trên cho chúng ta thấy, Nghị định đã quy định các đối
tượng áp dụng cũng như phạm vi điều chỉnh của Nghị định đến các đối tượng có
liên quan. Ngoài ra, Nghị định còn hướng dẫn các bên có liên quan thực hiện việc
kinh doanh xuất khẩu gạo một cách cụ thể theo các trình tự nhất định để cả bên
thực hiện và bên tham gia có thể hiểu rõ.
2.2 HỆ THỐNG VĂN BẢN CHÍNH SÁCH CÓ LIÊN QUAN:
-Thông tư quy định chi tiết về tín dụng kinh doanh xuất khẩu gạo theo nghị
định 109/2010/NĐ-CP ngày 4/11/2010 của chính phủ; Số: 08/2011/TT-NHNN
Thông tư quy định về phạm vi , đối tượng áp dụng, điều kiện cho vay xuất
khẩu gạo, trách nhiệm của các ngân hàng thương mại và các đơn vị thuộc ngân
hàng nhà nước và tổ chức thực hiện.
-Thông tư quy định chi tiết một số điều của nghị định số 109/2010/NĐ-CP
ngày 04 tháng 11 năm 2010 của chính phủ về kinh doanh xuất khẩu gạo; Số:
44/2010/TT-BCT
Thông tư quy định về việc đăng kí hợp đồng xuất khẩu gạo, thực hiện hợp
đồng tập trung, quy định về việc thuê kho chứa, cơ sở xay, xát thóc, gạo để đáp
ứng điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo và điều khoản thi hành.
-Thông tư hướng dẫn về phương pháp xác định giá sàn gạo xuất khẩu; Số:
89/2011/TT-BTC
Thông tư hướng dẫn cụ thể về việc căn cứ tính giá, phương pháp tính giá,
phương pháp khấu trừ và điều kiện áp dụng các phương pháp xác định giá sàn gạo
xuất khẩu.
2.3. TÌM HIỂU VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHỊ ĐỊNH:
1.CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN CHÍNH SÁCH
Có thể nói, hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước đã được
phổ biến, giáo dục kịp thời, với nhiều hình thức phong phú và đa dạng, phù hợp
từng đối tượng, từng địa bàn như: Tuyên truyền miệng, thông qua câu lạc bộ pháp
luật, qua hệ thống truyền thông…, nhất là hình thức sân khấu hóa là một trong
những hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật, chính sách có hiệu quả.
Thực hiện Nghi định số 109/2010/NĐ-CP ngày 4/11/2010 của Chính phủ về
việc kinh doanh xuất khẩu gạo. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác tuyên
truyền, Bộ Tài chính Việt Nam đã tăng cường phối hợp với các Bộ, ngành, tổ chức
chính trị - xã hội, nhất là với các cơ quan truyền thông tổ chức nhiều hoạt động
(tọa đàm, đối thoại, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ để nâng cao trình độ cho cán bộ
viên chức ), phát sóng các phóng sự, đăng tải những bài viết nhằm tuyên truyền,
phổ biến chế độ chính sách về kinh doanh xuất khẩu gạo tới thương nhân theo quy
định của Luật Thương mại; các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm trong quản lý, điều
hành xuất khẩu gạo và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan.
1.1. Mở lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ
- Nâng cao trình độ quản lý và xử lý các sai phạm xảy ra trong quá trình thực
hiện chính sách cho cán bộ viên chức thông qua việc tập huấn và bồi dưỡng nghiệp
vụ.
-Do có nhiều nội dung thay đổi về chính sách thuế ảnh hưởng trực tiếp đến
doanh nghiệp như Thuế xuất khẩu, gói giải pháp của Quốc hội, Chính phủ về gia
hạn miễn, giảm thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp kinh doanh xuất
khẩu gạo. Việc tuyên truyền phổ biến chính sách thông qua lớp tập huấn giúp các
doanh nghiệp nắm bắt kịp thời các quy định mới thuận lợi cho doanh nghiệp trong
việc thực thi chính sách thuế, hưởng gói giải pháp về thuế được đầy đủ đồng thời
tránh sai sót, rủi ro trong quá trình kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế. Qua đó giải
đáp, trả lời vướng mắc cho doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo.
1.2. Tích cực phối hợp với các bộ, ngành
Công tác tuyên truyền, phổ biến thực hiện là một bộ phận của công tác giáo
dục chính trị, tư tưởng, phải được thường xuyên quan tâm đổi mới phương thức
lãnh đạo, chỉ đạo, phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các
đoàn thể xã hội và các doanh nghiệp trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện.
Để công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đạt hiệu quả cao và
thiết thực, hiện nay, các cấp Ủy đảng đã liên tục củng cố, nâng cao nhận thức và
tăng cường sự lãnh đạo về công tác này, thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo
các cơ quan nhà nước, các đoàn thể, các tổ chức để xác định rõ trách nhiệm và huy
động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia vào công tác tuyên truyền, phổ
biến giáo dục pháp luật; đảm bảo mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước đều được phổ biến kịp thời, đầy đủ đến toàn thể cán bộ, đảng viên
và nhân dân, tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức và ý thức tôn trọng, chấp
hành pháp luật của toàn thể cán bộ và nhân dân, góp phần thực hiện tốt các nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương chú trọng xây dựng
pháp luật theo đúng và thể hiện rõ ràng các chủ trương, chính sách của Đảng; để
đưa các chủ trương, chính sách của Đảng đi vào cuộc sống xã hội, bằng nhiều hình
thức đa dạng và phong phú, đã liên tục tuyên truyền, phổ biến cho mọi tầng lớp
nhân dân; và đã phối kết hợp với các tổ chức, đoàn thể và các cơ quan thông tấn,
báo chí cũng nghiệm của các nước khác để từng bước đẩy mạnh và nâng cao hiệu
quả của công tác này.
1.3. Đẩy mạnh tuyên truyền qua phương tiện truyền thông
Thông qua webside của Chính phủ, Bộ, đơn vị trực thuộc….,internet, báo,
đài, truyền hình các văn bản chính sách đã được tuyên truyền phổ biến rộng rãi. Cụ
thể như: Bộ Công thương và Đài Truyền hình Việt Nam phối hợp tuyên truyền
thông tin nhằm tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến thông tin về những vấn
đề quản lý trong ngành Công thương. Các chủ trương chính sách của Bộ, ngành
cũng sẽ được hai cơ quan hợp tác thúc đẩy tuyên truyền rộng rãi. Bộ Công Thương
và Đài truyền hình Việt Nam nhất trí tăng cường phối hợp tuyên truyền, phổ biến
các thông tin về đẩy mạnh sản xuất công nghiệp, triển khai thực hiện các dự án đầu
tư trong công nghiệp, đặc biệt là các dự án, công trình trọng điểm có ý nghĩa quan
trọng về chính trị, kinh tế, xã hội.Đồng thời, các bên cùng hợp tác phản ánh kịp
thời các thông tin về công tác điều hành bảo đảm cung cầu, ổn định giá cả và phát
triển thị trường trong nước, về công tác biên mậu, tình hình thực hiện cuộc vận
động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, chương trình “Xúc tiến
thương mại thị trường trong nước”, thông tin về kiểm tra, kiểm soát thị trường,
chống buôn lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng, gian lận thương mại…. Mặt khác,
Bộ và Đài THVN sẽ cùng đẩy mạnh tuyên truyền về công tác điều hành các vấn đề
liên quan đến xuất nhập khẩu, tìm kiếm, mở rộng thị trường, xúc tiến thương mại,
ứng dụng thương mại điện tử và các hoạt động xúc tiến đầu tư, hợp tác trong công
nghiệp, thương mại giữa Việt Nam và các quốc gia khác trên thế giới.
2. CÔNG TÁC LẬP KẾ HOẠCH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN
Mục đích của công tác lập kế hoạch triển khai thực hiện là tiếp tục triển khai
thực hiện có hiệu quả, đảm bảo đúng tiến độ các nội dung và hoạt động của Nghị
định số 109/2010/NĐ-CP ngày 4/11/2010 của Chính phủ về để đánh giá về tình
hình thi hành trên địa bàn cả nước. Qua đó đưa công tác này từng bước đi vào nề
nếp và kiến nghị cơ quan có thẩm quyền về những vướng mắc, khó khăn trong việc
thực hiện chính sách.
Yêu cầu:
- Đảm bảo việc thực hiện kế hoạch được triển khai đồng bộ trên địa bàn cả
nước; xác định trách nhiệm và phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng phòng, ban,
ngành của địa phương.
- Tăng cường công tác phối hợp giữa các phòng, ban, ngành của thành phố trong
quá trình thực hiện công tác theo dõi thi hành pháp luật.
- Đảm bảo các điều kiện về nhân lực và kinh phí thực hiện các nội dung của kế
hoạch.
2.1.Bộ Công thương
a) Chủ động tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khẩu gạo theo hợp đồng tập
trung, tiến hành đàm phán với các nước có nhu cầu nhập khẩu, ký kết các biên bản
thỏa thuận về xuất khẩu gạo với nước ngoài hoặc vùng lãnh thổ của nước ngoài.
b) Kiểm tra việc đáp ứng các điều kiện kinh doanh của thương nhân; phối
hợp với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm về
kinh doanh xuất khẩu gạo; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong lĩnh
vực kinh doanh xuất khẩu gạo theo thẩm quyền.
c) Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan, Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương và Hiệp hội Lương thực Việt Nam tổ chức điều
hành xuất khẩu gạo bảo đảm các nguyên tắc quy định tại Nghị định này.
2.2.Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn
a) Thống nhất chỉ đạo các địa phương lập và tổ chức thực hiện quy hoạch
vùng sản xuất lúa hàng hóa; hướng dẫn nông dân sản xuất theo hướng chuyên canh
các giống lúa có chất lượng, năng suất cao; áp dụng các tiến bộ khoa học - công
nghệ trong sản xuất, chế biến thóc, gạo; nâng cao chất lượng, thương hiệu gạo Việt
Nam trên thị trường.
b) Chủ trì, phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, Hiệp hội Lương thực Việt Nam theo dõi tình hình sản xuất, nắm sản lượng
thóc, gạo để cân đối nguồn thóc, gạo hàng hóa xuất khẩu; chủ trì, phối hợp với các
Bộ, ngành, địa phương, Hiệp hội Lương thực Việt Nam, các Tổng Công ty Lương
thực Nhà nước đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, bình ổn thị trường nội địa,
đáp ứng mục tiêu, nguyên tắc điều hành xuất khẩu gạo quy định tại Nghị định này.
c) Phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có
thóc, gạo hàng hóa xuất khẩu trong việc chỉ đạo mua thóc, gạo trực tiếp từ người
sản xuất lúa theo chính sách hiện hành và quy định tại Nghị định này.
d) Xây dựng quy hoạch hệ thống kho chứa, cơ sở xay, xát thóc, gạo; ban
hành quy chuẩn chung về kho chứa, cơ sở xay, xát thóc, gạo và hướng dẫn thực
hiện trên phạm vi cả nước từ ngày 01 tháng 5 năm 2011.
2.3. Bộ Tài chính
a) Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
ban hành chính sách, quy định về tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu đối với
thương nhân xây dựng, mở rộng, hiện đại hóa kho chứa, cơ sở xay, xát thóc, gạo và
thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo.
b) Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương liên quan thực hiện các
biện pháp bình ổn giá gạo theo quy định của pháp luật hiện hành.
c) Chỉ đạo Tổng cục Hải quan tổng hợp, báo cáo định kỳ hàng tháng gửi Bộ
Tài chính, Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Văn phòng
Chính phủ và Hiệp hội Lương thực Việt Nam về lượng, giá, thị trường xuất khẩu
và kết quả xuất khẩu gạo của từng thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo.
2.4.Đối với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có thóc, gạo
hàng hóa xuất khẩu
a) Xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển sản xuất lúa, bảo đảm
cơ cấu giống, chỉ đạo việc cung ứng vật tư, kỹ thuật canh tác, nâng cao chất lượng
gạo đáp ứng nhu cầu của thị trường; kiểm tra hoạt động sản xuất, lưu thông, tiêu
thụ thóc, gạo trên địa bàn; quản lý và tổ chức thực hiện quy hoạch xây dựng hệ
thống kho chứa, cơ sở xay xát thóc, gạo trên địa bàn; chỉ đạo việc mua thóc, gạo
trực tiếp từ người sản xuất và mua thông qua hợp đồng ký với người sản xuất theo
chính sách hiện hành của Nhà nước.
b) Báo cáo định kỳ hoặc đột xuất theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ,
các Bộ, ngành liên quan về sản lượng, chủng loại thóc, gạo hàng hóa tồn đọng và
dự kiến năng suất, sản lượng thu hoạch thóc, gạo trên địa bàn để phục vụ công tác
điều hành xuất khẩu gạo.
c) Chỉ đạo các Sở: Tài chính, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công
thương tổ chức điều tra, khảo sát chi phí sản xuất và tính giá thành sản xuất lúa
từng vụ trên địa bàn theo quy định của Nghị định này và hướng dẫn cụ thể của Bộ
Tài chính; chỉ đạo, kiểm tra, giám sát thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo trên
địa bàn trong việc chấp hành quy định và tuân thủ sự chỉ đạo điều hành của cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định tại Nghị định này.
d) Tuyên truyền, vận động, tổ chức nhân dân địa phương thực hiện sản xuất
lúa theo quy hoạch và định hướng chung của Nhà nước để phát triển sản xuất, nâng
cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu thóc, gạo.
3. PHÂN CẤP TRONG TRIỂN KHAI
3.1. Ở Trung ương:
- Bộ Công thương là cơ quan chủ trì thực hiện Đề án có trách nhiệm thành
lập Ban điều hành Đề án ở Trung ương do đồng chí Thứ trưởng Bộ Tài chính làm
Trưởng ban, phân cấp trực tiếp cho cán bộ, công nhân viên trong Bộ.
- Đối với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan
Trung ương của các đoàn thể: Đề nghị giao tổ chức pháp chế hoặc đơn vị được
giao nhiệm vụ quản lý, tổ chức thực hiện công tác phổ biến, tuyên truyền chính
sách là đơn vị thường trực, tham mưu tổ chức triển khai quy định về mức đánh
thuế này.
3.2. Ở địa phương:
-Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ vào điều kiện thực tế có
thể thành lập hoặc không thành lập Ban điều hành tại địa phương.
-Đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương không thành lập Ban
điều hành Đề án, đề nghị Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao Hội đồng phối hợp công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật cùng cấp chịu trách nhiệm hướng dẫn, chỉ đạo, tổ
chức việc triển khai ở địa phương. Sở Công thương - cơ quan thường trực của Hội
đồng cấp tỉnh có trách nhiệm tham mưu giúp Hội đồng chủ trì, phối hợp với các cơ
quan, tổ chức liên quan xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch ở địa
phương.
4. HUY ĐỘNG NGUỒN LỰC THỰC HIỆN
- Các ngân hàng thương mại chủ động cân đối, bảo đảm nguồn vốn cho
thương nhân vay để mua thóc, gạo hàng hóa theo kế hoạch dự kiến được cân đối
theo quy định tại Nghị định này.
-Nhà nước không thể giúp cho từng hộ nông dân nhỏ lẻ vay vốn, trữ lúa, sấy
lúa, nhưng có thể hỗ trợ thông qua các hiệp hội, các hợp tác, như vậy sẽ giúp nông
dân sản xuất, kinh doanh, tham gia ngày càng cao hơn trên chuỗi giá trị, mang lại
hiệu quả vững bền.
5.NỘI DUNG TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH
Thông tư gồm 06 Điều, quy định cụ thể, chi tiết các nội dung để triển khai
thực hiện Nghị định 109/2010/NĐ-CP ngày 4/11/2010 của Chính phủ, theo đó:
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ đạo các ngân hàng thương mại chủ
động cân đối đảm bảo nguồn vốn để cho vay đối với thương nhân để thực hiện
kinh doanh xuất khẩu thóc, gạo hàng hoá trên cơ sở nguồn thóc, gạo hàng hoá
được cân đối cho xuất khẩu hàng năm.
- Việc cho vay của các ngân hàng thương mại đối với thương nhân để thực
hiện kinh doanh xuất khẩu lúa, gạo hàng hoá được thực hiện theo quy định hiện
hành về cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
- Thương nhân vay vốn để kinh doanh xuất khẩu thóc, gạo, ngoài việc thoả
mãn các điều kiện vay vốn theo quy định hiện hành còn phải được Bộ Công
Thương cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo.
- Trong trường hợp giá thóc, gạo hàng hoá trên thị trường thấp hơn giá thóc,
gạo định hướng, các ngân hàng thương mại cho vay điều tiết bình ổn giá thóc, gạo
trong nước và phục vụ cho điều hành xuất khẩu gạo theo chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ.
Ngoài ra, Thông tư hướng dẫn chi tiết trách nhiệm của các ngân hàng
thương mại, các đơn vị Vụ Cục thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc
theo dõi, kiểm tra, giám sát và xử lý các vấn đề phát sinh liên quan đến việc cho
vay kinh doanh xuất khẩu gạo của các ngân hàng thương mại.
2.4. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH:
Thực hiện Nghị định về kinh doanh xuất khẩu gạo của Chính phủ, Bộ công
thương ban hành Thông tư 44/2010/TT-BCT hướng dẫn Nghị định 109/2010/NĐ-
CP về kinh doanh xuất khẩu gạo.
-Theo Nghị định 109/2010, doanh nghiệp xuất khẩu gạo phải có kho chứa
tối thiểu 5.000 tấn, dây chuyền xay xát lúa 10 tấn/giờ. Từ quy định đó, DN đã đổ
xô xây kho với số tiền đầu tư hàng trăm tỷ đồng, gây lãng phí khi chính Bộ Công
Thương đề nghị dừng việc này. Theo Bộ Công Thương, chỉ hơn 1 năm sau khi
Nghị định 109 ra đời, số kho mà DN đầu tư xây thêm có công suất hơn 1,3 triệu
tấn, nâng tổng số kho hiện có lên hơn 4 triệu tấn.
-Tính đến cuối tháng 9/2012, cả nước có 117 doanh nghiệp hội đủ các điều
kiện để xin cấp giấy phép kinh doanh xuất khẩu gạo. Theo Nghị định 109/2010, kể
từ ngày 1/10/2012 cả nước chỉ có 100 đầu mối được cấp giấy phép kinh doanh xuất
khẩu gạo, như vậy đã có 17 doanh nghiệp bị dôi ra.
- Dự thảo mới về chính sách tạm trữ lúa gạo do Bộ NN&PTNT; chủ trì soạn
thảo được mong đợi sẽ giải quyết những bất cập trong tạm trữ hiện nay và quan
trọng là nông dân được hưởng lợi.Năm 2012, Chính phủ đã hai lần giao cho Hiệp
hội Lương thực Việt Nam (VFA) mua tạm trữ 1 triệu tấn gạo (tháng 3-4) và
500.000 tấn gạo (tháng 7- 8) nhưng tình hình giá lúa, gạo của nông dân vẫn không
được cải thiện.Để xử lý những tồn tại trên, theo nhiều chuyên gia, Dự thảo đưa ra
phương thức mới nhằm giảm áp lực tiêu thụ trong chính vụ sản xuất, nâng giá bán
và thu nhập cho nông dân. Để tham gia tạm trữ, DN phải có hợp đồng mua thóc
gạo trực tiếp với nông dân và có xác nhận của địa phương. Nông dân tạm trữ tại
nhà phải có phiếu xác nhận của chính quyền cấp xã. Nông dân tạm trữ tại kho
doanh nghiệp phải có phiếu xác nhận. Thống kê cho thấy, giá gạo xuất khẩu của
Việt Nam đã giảm từ 582 USD/tấn vào tháng 12-2011 xuống 438 USD/tấn trong
tháng 5 vừa qua. Để cạnh tranh trên trường xuất khẩu, ông Phạm Ngọc Tiến, Phó
tổng giám đốc Tổng công ty Lương thực miền Bắc, cho biết phải thay đổi chiến
lược kinh doanh bằng cách giảm lợi nhuận.
Xuất khẩu gạo trong năm 2011 chỉ có 1,5 tỉ đô la Mỹ, thua xa các mặt hàng
khác như da giày, dệt may hay dầu thô
Trong 8 tháng qua, Việt Nam xuất khẩu được hơn 5,1 triệu tấn gạo, đạt gần
2,3 tỷ USD. Trong đó, Trung Quốc là thị trường nhập nhiều gạo nhất với gần 1,4
triệu tấn, tăng gấp 5,2 lần về lượng và 4,4 lần về giá trị so với cùng kỳ năm trước
và trở thành thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam, hơn cả các thị
trường truyền thống là Philippines, Indonesia…
Theo số liệu thống kê của Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), việc xuất
khẩu gạo sang Trung Quốc đang được các doanh nghiệp thực hiện theo đúng quy
định. Tính đến cuối tháng 8, các hợp đồng xuất khẩu gạo sang Trung Quốc đã được
các doanh nghiệp đăng ký với VFA là 1,6 triệu tấn, trong đó chúng ta đã thực xuất
1,28 triệu tấn.
Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thấp trong thời gian qua được cho là do
khách hàng nước ngoài ép giá khi ký hợp đồng. Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu
không vay được vốn ngân hàng để mua gạo giao cho nhà nhập khẩu, phải chấp
nhận bán giá thấp một chút để bù lại là nhà nhập khẩu ứng trước tiền để mua gạo;
thậm chí nhiều hợp đồng, nhà nhập khẩu ứng tiền mua tới 80% sản lượng gạo của
đơn hàng.
Cùng với hạn ngạch xuất khẩu gạo hạn chế, đã khiến các nhà xuất khẩu gạo
không dám mua vào, nên giá lúa ở ĐBSCL đã xuống còn 4.500 - 4.700 đồng/kg,
thậm chí còn có nhiều khả năng giảm nữa vì chưa thấy nhiều dấu hiệu các doanh
nghiệp sẽ mua vào.
2.5 ĐÁNH GIÁ TỒN TẠI, HẠN CHẾ VÀ BẤT CẬP CỦA CHÍNH
SÁCH:
Chính phủ hạn chế xuất khẩu khiến giá gạo trong nước giảm xuống chẳng
khác nào đã xử ép bà con nông dân sản xuất gạo.
Theo lý thuyết kinh tế, khi nước xuất khẩu muốn hạn chế việc tăng giá gạo
nội địa do tác động của sự gia tăng giá gạo quốc tế thì có thể áp dụng cơ chế thuế
xuất khẩu hoặc hạn ngạch. Cơ chế thuế xuất khẩu sẽ chuyển giao thu nhập từ thuế
xuất khẩu về cho Nhà nước, trong khi cơ chế hạn ngạch sẽ chuyển giao lợi ích đó
về cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Ngoài ra, cơ chế phân bổ chỉ tiêu lại có thể dẫn
đến vấn đề xin – cho, mua bán chỉ tiêu cũng như sự chọn lựa thiếu công bằng giữa
các nhà xuất khẩu. Khi có chênh lệch lớn giữa giá quốc tế và nội địa, nhà xuất
khẩu sẽ là người hưởng lợi chính chứ không phải là Nhà nước (thông qua thu nhập
từ thuế xuất khẩu) và nông dân (nhờ giá tăng). Rõ ràng là cơ chế phân giao chỉ tiêu
xuất khẩu hiện nay không tạo ra cơ hội cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh
nghiệp xuất khẩu và cũng không tạo ra lợi ích tối đa cho Nhà nước và người sản
xuất.
Hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo không bị ràng buộc về điều kiện
năng lực vốn, bảo đảm vùng nguyên liệu, quy mô kho bãi tồn trữ, quy mô trang
thiết bị xay xát chế biến. Vì vậy, có quá nhiều doanh nghiệp thương mại tham gia
xuất khẩu gạo như là các nhà trung gian. Sự lệ thuộc của các doanh nghiệp xuất
khẩu vào hệ thống cung ứng gạo đã tạo ra một cơ chế thu mua, chế biến thông qua
nhiều tầng trung gian nên lợi nhuận của nông dân bị giảm. Về mặt kỹ thuật, quy
trình chế biến gạo xuất khẩu dựa trên dự trữ gạo nguyên liệu, sau đó phối trộn,lau
bóng, sấy và phân cấp theo hợp đồng xuất khẩu của hệ thống thu mua - chế biến -
thương mại hiện nay có bản chất là quy trình ngược, thay vì dự trữ lúa nguyên liệu
và xay xát đến gạo thành phẩm. Quy trình ngược này dẫn đến chất lượng gạo thấp,
tỷ lệ hao hụt và hư hỏng cao, tăng chi phí trong công đoạn chế biến.
Cơ chế bình ổn giá chưa được xác lập rõ ràng và nhất quán. Dường như do
Nhà thiếu vốn bảo đảm thu mua dự trữ quốc gia nên dự trữ lưu thông do các doanh
nghiệp thực hiện là cơ chế chủ yếu được áp dụng để bình ổn giá hiện nay. Tuy
nhiên, cơ chế này tỏ ra không phù hợp với bản chất kinh tế thị trường của các
doanh nghiệp xuất khẩu, vì buộc các doanh nghiệp thu mua tạm trữ nhằm bình ổn
giá bằng nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp, mà đa số phải vay với lãi suất
thỏa thuận. Việc buộc doanh nghiệp dự trữ lớn sẽ tăng thêm chi phí, nhất là khi lãi
suất cho vay của ngân hàng tăng và cuối cùng lại tính vào giá thành làm giảm sức
cạnh tranh của gạo Việt Nam khi xuất khẩu. Đồng thời, một nghịch lý khác là khi
giá gạo xuất khẩu xuống thấp, doanh nghiệp có thể thua lỗ nếu phải bắt buộc mua
lúa từ nông dân với giá sàn bảo đảm lợi nhuận cho nông dân 30% so với giá bán.
Hơn nữa, khi có dư cung trên thị trường thế giới, và giá xuất khẩu xuống thấp thì
việc buộc doanh nghiệp phải bảo đảm lợi nhuận mang tính nguyên tắc cho nông
dân cũng không phù hợp với quy luật thị trường. Rõ ràng là cơ chế bình ổn giá
hiện nay không tách biệt được lợi ích công (dự trữ cho mục tiêu an ninh lương thực
và bình ổn giá) và lợi ích tư nhân (lợi nhuận từ kinh doanh của các doanh nghiệp).
Đáng lẽ ra, cơ chế bình ổn giá phải tách biệt cho được hai chức năng này.
Trong khi đó, năng lực dự trữ chung của vùng rất hạn chế do quá thiếu kho
chứa. Ý định của Chính phủ triển khai đầu tư xây dựng hệ thống kho dự trữ hiện
đại có quy mô 4 triệu tấn vẫn chưa thể thực hiện do thiếu vốn, không xác định
được vai trò ai là chủ đầu tư, cơ chế đầu tư, và cơ chế vận hành, khai thác. Do đó,
việc thu mua dự trữ quốc gia nhằm mục tiêu an ninh lương thực và bình ổn cũng
khó thực hiện được vì thiếu cơ sở hạ tầng lưu trữ.Đồng thời, việc thay đổi các quy
định về hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo theo hướng là một ngành nghề có điều
kiện vẫn còn đang bị bỏ ngỏ do xung đột lợi ích giữa các bên liên quan, mặc dù đã
có những cuộc thảo luận chính thức vào giữa năm 2009 do Bộ Công Thương tổ
chức. Một vấn đề tồn tại khác là sự thiếu vắng một hệ thống cơ quan độc lập có
chức năng giám sát, đánh giá, phân tích về chi phí, giá thành và hiệu quả kinh tế
của từng hoạt động và toàn bộ ngành hàng lúa gạo ở Đồng Bằng Sông Cửu Long
để cung cấp thông tin tin cậy cho các bên liên quan. Nhà hoạch định chính sách
không biết được chi phí sản xuất, lợi nhuận, giá trị gia tăng ở từng tác nhân tham
gia trong ngành hàng là bao nhiêu, và phân phối lợi ích kinh tế giữa các tác nhân
như thế nào để điều chỉnh chính sách cho phù hợp. Các tranh cãi dai dẵng về cách
tính giá thành và phân phối lợi nhuận giữa các tác nhân trong ngành hàng cũng là
hệ quả của vấn đề này.Không tạo ra lợi ích tối đa cho Nhà nước và người sản xuất.
2.6 ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH:
Từ các vấn đề hết sức đa diện như trên, có thể thấy rằng việc hoàn chỉnh cơ
chế, chính sách sản xuất, xuất khẩu lúa gạo khó có thể được thực hiện trong thời
gian ngắn. Tuy nhiên, dựa trên các phân tích, có thể thấy được một số gợi ý cho
điều chỉnh chính sách lúa gạo để khắc phục những khiếm khuyết hiện nay.
Thứ nhất, Nhà nước nên cân nhắc lại việc duy trì cơ chế điều hành xuất khẩu
gạo theo cách ấn định khối lượng gạo xuất khẩu, và cách thức phân bổ chỉ tiêu cho
hợp đồng xuất khẩu tập trung. Để cân bằng các lợi ích quốc gia về khai thác lợi thế
sản xuất và xuất khẩu gạo để tăng kim ngạch xuất khẩu, bảo đảm lại lợi ích kinh tế
cho nông dân và đồng thời bảo đảm giá lương thực phù hợp cho khu vực đô thị và
người tiêu dùng lương thực, việc áp dụng công cụ thuế linh hoạt thay cho công cụ
hạn ngạch vừa có tính khả thi, vừa có hiệu quả tốt hơn. Khi áp dụng cơ chế thuế
xuất khẩu, Hiệp hội lương thực sẽ quay trở về vai trò đúng đắn của một hiệp hội
ngành nghề là đại diện cho lợi ích hợp pháp của các thành viên, nghiên cứu và
cung cấp thông tin thị trường, điều phối việc xuất khẩu của các thành viên thông
qua cơ chế đấu thầu lại các hợp đồng xuất khẩu lương thực cấp Chính phủ với mức
thuế xuất khẩu xác định.
Thứ hai, cần phải tôn trọng các quy luật thị trường và hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp xuất khẩu song song với việc bảo đảm an ninh lương thực và
bình ổn giá. Vì vậy, phải tách riêng vai trò dự trữ lương thực quốc gia ra khỏi hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Điều kiện tiên quyết phải là đầu tư vốn xây
dựng hệ thống kho chứa quốc gia phục vụ mục tiêu dự trữ quốc gia, bảo đảm an
ninh lương thực và bình ổn giá và xây dựng quỹ bình ổn giá lương thực. Đẩy mạnh
hoạt động thu mua dự trữ khi giá lúa nội địa xuống thấp dựa trên quỹ bình ổn giá
vừa giúp bảo bảo an ninh lương thực vừa giúp tạo ra mặt bằng giá an toàn cho
người sản xuất. Khi có nhu cầu xuất khẩu gạo, Nhà nước có thể bán ra một phần
lượng lúa dự trữ này cho các công ty. Các doanh nghiệp cũng có thể thuê hệ
thống kho chứa này để dự trữ lúa trong khi chờ hợp đồng xuất khẩu.
Thứ ba, để cải thiện cơ chế thu mua gạo xuất khẩu, cũng như thay đổi cơ chế
vận hành của ngành hàng lúa gạo, cần áp dụng chính sách quy định kinh doanh
xuất khẩu gạo là hoạt động kinh doanh có điều kiện. Các doanh nghiệp xuất khẩu
phải đạt một quy mô vốn nhất định, phải có hệ thống kho chứa, nhà máy xay xát
chế biến ở một ngưỡng tối thiểu, có đầu tư phát triển vùng lúa nguyên liệu riêng
trong quan hệ liên kết dọc với người sản xuất mới được phép kinh doanh xuất khẩu
gạo. Cũng cần quy định bắt buộc các doanh nghiệp này phải xuất khẩu gạo với
thương hiệu riêng của mình để nâng cao trách nhiệm với chất lượng hạt gạo quốc
gia.Cải thiện hoạt động cung cấp đầu vào cho sản xuất lúa nhằm giảm chi phí và
giá thành là gợi ý thứ tư. Cần thiết coi phân bón là một mặt hàng chiến lược cho
nông nghiệp và có những biện pháp tiết giảm chi phí phân bón và tăng hiệu quả sử
dụng. Mở rộng cung cấp tín dụng cho chế tạo, lắp ráp và mua sắm thiết bị thu
hoạch lúa để tăng cơ giới hóa thu hoạch và giải quyết thiếu hụt lao động nông
nghiệp ở các vùng trồng lúa quy mô lớn.Để hỗ trợ công tác điều hành vĩ mô về
chính sách lương thực, cần thiết phải có một cơ quan độc lập có chức năng giám
sát, đánh giá, phân tích về chi phí, giá thành và hiệu quả kinh tế của từng hoạt động
và toàn bộ ngành hàng lúa gạo ở Đồng Bằng Sông Cửu Long để cung cấp thông tin
tin cậy. Cơ quan này có thể là một viện nghiên cứu hoặc trường đại học ngành kinh
tế làm đầu mối để phối hợp với các cơ quan, tổ chức khác trong thu thập thông tin.
Ở cấp địa phương, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có thể là cơ quan chịu
trách nhiệm tổ chức điều tra định kỳ theo vụ để thu thập thông tin về giá vật tư đầu
vào, chi phí sản xuất, năng suất, giá thành. Ở cấp trung ương, Hiệp hội lương thực
phải là nơi cung cấp thông tin về giá xuất khẩu, và chi phí chế biến - xuất khẩu của
một số doanh nghiệp Nhà nước.
III. Kết luận
Vấn đề ổn định an ninh lương thực của chúng ta không đáng lo ngại như một
số nước khác, tuy nhiên việc ban hành các chính sách, nhất là chính sách nông
nghiệp nhằm mục tiêu thúc đẩy sản xuất, nâng cao thu nhập cho người dân, góp
phần phát triển kinh tế xã hội luôn cần thiêt. Để ban hành một chính sách đúng đắn
và phù hợp đòi hỏi một quá trình lâu dài, và đòi hỏi một đội ngũ các chuyên gia
hoạch định chính sách có năng lực. Đi liền với sự thành công của chính sách ấy là
sự góp sức của toàn Đảng và Nhà nước cùng toàn thể nhân dân.
Với lợi thế là một nước có nền nông nghiệp lúa nước lâu đời, Việt Nam đã
vươn lên với cương vị nước xuất khẩu gạo lớn nhất trong khu vực, giá trị GDP
ngành xuất khẩu gạo góp một phần không nhỏ trong tổng GDP của cả nước. Một
trong các chính sách có tác động lớn tới thị trường lúa gạo nói chung và hệ thống
Marketing trong ngành hành gạo nói riêng đó là chính sách xuất khẩu gạo. Qua
nghiên cứu trên ta thấy rằng chính sách đã đem lại không ít thành công cho ngành
xuất khẩu lúa gạo nói riêng và cho toàn bộ nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên bên
cạnh đó còn nhiều bất cập cần cải thiện vào giai đoạn hoạch định chính sách, và
hơn hết cả sự thành công của việc thực hiện chính sách phụ thuộc rất lớn vào vai
trò của các đơn vị cấp quyền và toàn dân.