Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

ĐÁNH GIÁ CÔNG tác bán đấu GIÁ tài sản công ty cổ phần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (651.86 KB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
-------  -------

ĐỖ THỊ HỒNG VÂN

ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẤU GIÁ THÀNH AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ


HÀ NỘI, NĂM 2014

2


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
-------  -------

ĐỖ THỊ HỒNG VÂN

ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẤU GIÁ THÀNH AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH


MÃ SỐ: 60.34.01.02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. LÊ HỮU ẢNH


HÀ NỘI, NĂM 2014

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn tốt nghiệp này là cơng trình nghiên cứu của
riêng tơi. Tất cả các nội dung và số liệu trong đề tài này do tơi tự tìm hiểu,
nghiên cứu và xây dựng, các số liệu thu thập là đúng và trung thực, có nguồn
gốc rõ ràng. Những kết quả của luận văn chưa từng được cơng bố trong bất cứ
cơng trình khoa học nào.
Tác giả luận văn

Đỗ Thị Hồng Vân

1


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành luận văn này tơi đã nhận được sự giúp đỡ rất nhiệt tình
của nhiều cá nhân, tập thể trong và ngồi trường.
Trước hết tơi xin chân thành cảm ơn tồn thể các thầy cơ giáo khoa Kế
tốn và Quản trị kinh doanh Học viện Nơng nghiệp Việt Nam đã truyền đạt
cho tôi những kiến thức quý báu trong quá trình học tập tại trường, đặc biệt
tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Lê Hữu Ảnh và các thầy cô

trong Bộ môn Tài chính đã tận tình giúp đỡ tơi trong suốt q trình hồn thiện
luận văn này.
Tơi cũng xin gửi lời cảm ơn tới lãnh đạo Công ty Cổ phần Đấu giá
Thành An đã tận tình cung cấp tài liệu, giúp đỡ tơi trong q trình điều tra số
liệu phục vụ nghiên cứu luận văn.
Cuối cùng, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn tới gia đình, những người thân,
bạn bè, các anh chị cùng khóa CH QTKD K21 đã giúp đỡ và động viên tơi
trong suốt q trình học tập và rèn luyện.
Do thời gian có hạn, nên luận văn khơng tránh khỏi những thiếu sót. Kính
mong nhận được sự đóng góp của các thầy cơ giáo cũng như tồn thể bạn đọc.
Xin chân thành cảm ơn !
Người thực hiện luận văn

Đỗ Thị Hồng vân

2


MỤC LỤC
- Chi phí dịch vụ mua ngồi phục vụ cho bộ phận quản lý doanh nghiệp
như: chi phí điện, nước, điện thoại, fax, chi phí sửa chữa TSCĐ, tiền
thuê nhà làm văn phịng… Chi phí khác bằng tiền đã chi ra để phục vụ
cho hoạt động quản lý doanh nghiệp như: chi phí tiếp khách cho bộ
phận quản lý doanh nghiệp, chi phí tổ chức hội nghị, hội họp, cơng tác
phí, chi phí kiểm tốn…..............................................................................31

3


DANH MỤC BẢNG

Bảng 4.1: Số lượng Hợp đồng bán đấu giá qua các năm của Công ty CP
Đấu giá Thành An............................................................................................57
Bảng 4.2: Đánh giá các hoạt động trước phiên đấu giá của khách hàng
đăng ký tham gia đấu giá................................................................................63
Bảng 4.3: Số lượng Hợp đồng bán đấu giá các loại tài sản.......................70
tại Cơng ty CP Đấu giá Thành An...................................................................70
Bảng 4.4: Tình hình bán đấu giá tài sản nhà nước tại Cơng ty CP Đấu giá
Thành an.............................................................................................................73
Bảng 4.5: Tỷ lệ Hợp đồng bán đấu giá tài sản thi hành án tại Công ty CP
Đấu giá Thành An............................................................................................74
Bảng 4.6: Chi phí quản lý doanh nghiệp của Công ty CP Đấu giá Thành An
qua các năm.......................................................................................................82
Bảng 4.7: Giá trị tài sản bán đấu giá và chênh lệch so với giá khởi điểm
.............................................................................................................................83
Bảng 4.8: Hiệu quả hoạt động kinh doanh qua các năm..............................84

4


DANH MỤC HÌNH
Hình 4.1: Tỷ lệ trình độ chun mơn của nhân viên trong Cơng ty CP Đấu
giá Thành An.....................................................................................................52
Hình 4.2: Tỷ lệ bán đấu giá thành qua các lần bán đấu giá tại Cơng ty CP
Đấu giá Thành An............................................................................................54
Hình 4.3: Đơn vị có tài sản đánh giá các hoạt động trước phiên đấu giá 62
Hình 4.4: Đánh giá phiên bán đấu giá tài sản do Công ty CP Đấu giá
Thành An tổ chức.............................................................................................65
Hình 4.5: Đánh giá chất lượng các hoạt động sau phiên đấu giá của Công
ty CP Đấu giá Thành An..................................................................................68
Hình 4.6: Tỷ lệ BĐG thành cơng và khơng thành cơng...............................77

của tài sản bảo đảm........................................................................................77
Hình 4.7: Các hình thức đơn vị có tài sản biêt đến Cơng ty CP Đấu giá
Thành An...........................................................................................................79
Hình 4.8: Đánh giá mức độ tiếp cận thông tin bán đấu giá tài sản...........81

5


PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Đấu giá tài sản là một dịch vụ có từ lâu đời và tương đối phát triển ở các
nước có nền kinh tế thị trường đầy đủ. Tuy nhiên, ở nước ta, hoạt động đấu
giá tài sản chỉ mới thực sự bắt đầu phát triển khi Đảng và Nhà nước ta áp
dụng chính sách mở cửa, chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, quan
liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với sự
hình thành và phát triển của pháp luật về bán đấu giá tài sản qua các giai đoạn
cụ thể. Hiện nay, hình thức bán đấu giá tài sản đang phát triển mạnh mẽ cùng
với sự phát triển của kinh tế đất nước, và ngày càng có vị trí, vai trò quan
trọng trong đời sống kinh tế - xã hội. Đấu giá tài sản là một trong những hình
thức linh hoạt để chuyển quyền sở hữu tài sản từ chủ thể này sang chủ thể
khác góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế nói chung, hoạt động mua bán trao
đổi hàng hóa nói riêng một cách đa dạng.
Trong những năm qua, hoạt động bán đấu giá tài sản ở nước ta đã có
những đóng góp quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước và đặc
biệt là trong công tác thi hành pháp luật, công tác thi hành án dân sự và xử lý
vi phạm hành chính. Sự phát tiển mạnh mẽ của kinh tế đất nước cùng với sự
hoàn thiện pháp luật về đấu giá tài sản thúc đẩy sự ra đời và phát triển nhanh
chóng của các tổ chức bán đấu giá. Hiện nay ở nước ta có 63 trung tâm dịch
vụ bán đấu giá tài sản được thành lập trên 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương và hàng trăm doanh nghiệp bán đấu giá được thành lập trên cả nước.

Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động của các tổ chức bán đấu giá dù đã có
nhiều chuyển biến tích cực song nhiều tổ chức nói chung và Cơng ty CP Đấu
giá Thành An nói riêng vẫn gặp phải những vấn đề về công tác bán đấu giá
cũng như chưa khai thác được hết các tiềm lực bên trong và bên ngoài để
doanh nghiệp của mình ngày càng phát triển hơn.

1


Xuất phát từ vấn đề nêu trên, nhằm phân tích, đánh giá cơ sở pháp lý, cơ
chế thực hiện, hiệu quả kinh tế, xã hội và công tác bán đấu giá tài sản, đồng
thời góp phần vào việc đẩy mạnh công tác đấu giá tài sản tôi tiến hành nghiên
cứu đề tài: "Đánh giá công tác bán đấu giá tài sản tại Công ty Cổ phần
Đấu giá Thành An" là đề tài bảo vệ luận văn thạc sỹ của mình.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn, đề tài đánh giá thực trạng công tác bán đấu
giá tài sản và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bán đấu giá tài sản tại
Công ty CP Đấu giá Thành An.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
+ Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về bán đấu giá tài sản.
+ Đánh giá thực trạng của bán đấu giá tài sản tại Công ty CP Đấu giá
Thành An.
+ Góp phần đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bán đấu giá tài
sản tại Công ty CP Đấu giá Thành An.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
Các hoạt động liên quan đến công tác bán đấu giá tài sản: quá trình tìm
kiếm nguồn hàng, quy trình bán đấu giá, các dịch vụ chăm sóc khách hàng
sẵn có và khách hàng tiềm năng.
1.4 Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi về nội dung: Luận văn chỉ nghiên cứu về bán đấu giá tài sản.
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu công tác bán đấu giá tài sản tại Công
ty CP Đấu giá Thành An.
- Phạm vi thời gian: Số liệu và các thông tin liên quan được thu thập
trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến 2013, các giải pháp đề xuất dự kiến
giai đoạn 2015 - 2020.

2


PHẦN II: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
2.1 Cơ sở lý luận về bán đấu giá tài sản
2.1.1 Sự ra đời và phát triển của bán đấu giá tài sản
Đấu giá tài sản (sau đây gọi chung là đấu giá) là một trong những
hình thức mua bán đặc biệt (công khai, đề nghị đại chúng, lựa chọn
người mua và tuân theo những trình tự riêng biệt). Từ “đấu giá” có
nguồn gốc từ tiếng Latinh augeō có nghĩa là tăng thêm. Trên thế giới, đấu
giá có lịch sử lâu đời (hình thành từ thời kỳ văn minh Hy Lạp cổ đại – khoảng
500 năm trước cơng ngun). Vào thời điểm đó, phụ nữ được bán đấu giá làm
vợ, việc này bị coi là bất hợp pháp. Một phương pháp "giảm dần" đã được sử
dụng cho các cuộc đấu giá này, bắt đầu với một người phụ nữ đẹp nhất sau
đó đến những người tiếp theo, giá trả để mua những người phụ nữ này là từ
cao và sẽ thấp hơn cho đến khi có người đầu tiên tham gia đấu giá chấp nhận
mua, miễn là giá tối thiểu do người bán đã được đáp ứng. (1)
Ở Rome, Ý, vào thế kỷ thứ I, đấu giá bất động sản đã được phổ
biến. Hoàng đế La Mã Marcus Aurelius buộc phải bán đồ nội thất gia đình tại
các cuộc đấu giá, trong nhiều tháng, để đáp ứng các khoản nợ của mình.
Trong khi đó các chiến binh La Mã bán các vật cướp bóc được từ chiến tranh
tại các phiên đấu giá. Tại thời điểm đó người điều hành cuộc bán đấu giá

được cấp phép và được gọi là "Magister Auctionarium".(1)
Bán đấu giá xuất hiện ở Mỹ từ những năm 1600 và tiếp tục phát triển
cho tới ngày nay. Các mặt hàng phổ biến được đem bán đấu giá trong thời kỳ
đầu thường là các loại cây trồng, các mặt hàng nhập khẩu, gia súc chăn nuôi,
công cụ, thuốc lá, nơ lệ và thậm chí tồn bộ các trang trại. Bán đấu giá là hình
thức đem các tài sản chuyển thành tiền mặt nhanh nhất trong thời gian này.
Đặc biệt là lông thú, những người lái buôn thu thập lông thú từ những người
dân Mỹ bản địa vào mùa thu và mùa đơng, sau đó các tấm da thô này được
3


vận chuyển đến các cảng vận chuyển gần nhất. Vào mùa xuân mỗi năm, họ sẽ
bán đấu giá các tấm da này cho các thương gia Châu Âu. Trong cuộc nội
chiến ở Mỹ vào khoảng những năm 1861 - 1865 hàng hóa bị thu giữ bởi quân
đội đã được bán tại các cuộc đấu giá, do các đại tá đứng đầu. Do đó, cái tên
"Colonel" có nghĩa là “Đại tá” còn để chỉ việc bán đấu giá và cũng vẫn được
sử dụng cho tới ngày hôm nay. (1)
Ở một số nơi của nước Anh trong thế kỷ XVII và XVIII hình thức bán
đấu giá được sử dụng cho việc bán hàng hố và hợp đồng ngồi. Thời kỳ này,
một phiên bán đấu giá được bắt đầu và kết thúc trong thời gian của một ngọn
nến, việc sử dụng nến trong phiên đấu giá để đảm bảo cho các khách hàng
tham gia phiên bán đấu giá khơng biết được chính xác thời gian kết thúc phiên
bán đấu giá làm cho những người tham gia nỗ lực đến phút cuối để trả giá và
mua tài sản đó. Đến cuối thế kỷ XVIII, cuộc đấu giá các tác phẩm nghệ thuật
thường được tổ chức tại các quán rượu và quán cà phê. Các phiên bán đấu giá
được tổ chức hàng ngày, danh mục sản phẩm bán đấu giá được in và thông báo
công khai, ngồi ra cịn có các chi tiết cụ thể về mặt hàng được bán đấu giá
nhằm thu hút lượng khách hàng mua lớn nhất có thể.(1)
Trong giai đoạn đầu của bán đấu giá tài sản, việc tìm kiếm các mặt
hàng bán đấu giá khơng phải là khó, song họ khơng có các thiết bị khuếch đại

âm thanh (như micro ngày nay) khiến cho việc nghe và trả giá trong các phiên
đấu giá gặp nhiều khó khăn do việc bán đấu giá thường tổ chức ngoài trời.
Đồng thời việc đi lại, di chuyển giữa các vùng chủ yếu là bằng ngựa và xe,
nên họ thường thu hút khách hàng tham gia đấu giá bằng cách cung cấp các
bữa ăn cho người đến mua.(1)
Vào những năm 1950, sau chiến tranh thế giới lần thứ II, đấu giá tài sản
thực sự đạt được những bước tiến mới. Sự bùng nổ của bán đấu giá bất động
sản do nhu cầu tăng cao dẫn đến sự ra đời của nhiều doanh nghiệp bán đấu giá
hiện đại. Bên cạnh các khách hàng tham gia đấu giá, các tổ chức đấu giá bắt
4


đầu liên kết với ngân hàng, luật sư, kế toán, hệ thống tịa án và các cơ quan
chính phủ để tạo thuận lợi cho hoạt động bán đấu giá của tổ chức mình, từ đó
đưa đấu giá tài sản lên một tầm cao mới, phát triển mạnh mẽ hơn.(1)
Từ những năm 1990 đến nay, cùng với sự bùng nổ mạnh mẽ của công
nghệ thông tin, bán đấu giá tài sản cũng phát triển nhanh hơn, rộng rãi hơn
thông qua việc sử dụng các cơng nghệ như máy tính, máy fax, điện thoại di
động và công nghệ khác để làm cho doanh nghiệp của họ hoạt động nhanh
hơn và trơn tru hơn. Họ cịn chụp ảnh và đưa lên màn hình lớn các tài sản
được bán trong phiên nhằm đem lại cho khách hàng một cái nhìn tồn diện về
hàng hóa họ đang tham gia trả giá. Ngày nay, việc bán đấu giá trực tiếp và
trực tuyến đáp ứng được nhu cầu của các khách hàng ở xa và không cần họ
phải trực tiếp có mặt tại phiên, giúp cho chi phí tham gia, tổ chức các phiên
đấu giá được giảm đi đáng kể.(1)
Trong những năm qua, đấu giá tài sản ngày càng trở nên phổ biến hơn
trên toàn thế giới. Hầu hết mọi thứ con người nghĩ ra đều có thể đem bán đấu
giá như đồ cổ, đồ gia dụng, đất đai, tài sản vơ hình... Cùng với đó là sự ra đời
của hàng loạt các tổ chức bán đấu giá, hiệp hội bán đấu giá. Các hiệp hội đấu
giá liên kết với nhau để cùng nhau trao đổi kinh nghiệm, ý tưởng nhằm tìm

cách tiếp tục đáp ứng những nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng.(1)
Như vậy, đấu giá tài sản đã xuất hiện từ lâu và là một trong những cơng
cụ kinh doanh có hiệu quả cao, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, đáp ứng được
nhu cầu của thị trường. Hoạt động đấu giá tại các nước trên thế giới được điều
hành bởi những đấu giá viên đã được đào tạo bài bản, họ luôn tạo được không
gian vui vẻ, thoải mái, thư giãn, nhưng cũng kích thích việc trả giá của khách
hàng trong mỗi phiên đấu giá khiến phần lớn những người đã tham dự một
phiên đấu giá đều muốn tham dự lần các lần tiếp theo.

5


2.1.2 Khái niệm , bản chất, phân loại, đặc điểm về bán đấu giá tài sản.
2.1.2.1 Các khái niệm liên quan về bán đấu giá tài sản.
Trước khi tìm hiểu về bán đấu giá tài sản, chúng ta cần hiểu rõ thế nào
là tài sản. Theo cách hiểu thông thường thì tài sản là những vật, của cải nhằm
phục vụ nhu cầu của con người, người ta hình dung của cải, tài sản chính là
các vật hữu hình như nhà cửa, ơtơ, xe máy, laptop, điện thoại, máy tính...
Nhưng theo quy định của pháp luật thì tài sản gắn liền với các quyền đối với
tài sản và được hiểu như sau:
a )Tài sản và quyền sở hữu
Mặc dù không đưa ra định nghĩa về tài sản nhưng Điều 163 Bộ luật
Dân sự xác định: tài sản bao gồm vật, tiền, các giấy tờ có giá và các quyền tài
sản. Như vậy, có thể hiểu tài sản gồm hai nhóm, nhóm một bao gồm vật, tiền,
giấy tờ có giá là những tài sản hữu hình, nhóm hai gồm các quyền tài sản là
những tài sản vơ hình.
Theo điều 164 Bộ luật Dân sự thì quyền sở hữu bao gồm ba quyền năng
là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt, trong đó, quyền năng
sử dụng được hiểu bao gồm cả việc sử dụng và hưởng hoa lợi từ tài sản.
Từ quy định trên ta thấy tài sản là bao gồm các vật và quyền tài sản trên

các vật đó (vật quyền). Về sau, khái niệm tài sản còn được mở rộng đến các
quyền đối với một người khác (trái quyền) như quyền đòi nợ và các quyền
trên một vật vơ hình, làm nảy sinh khái niệm quyền sở hữu trí tuệ.
Có thể nói, tài sản là một khái niệm rộng, được hiểu là bao gồm các vật hữu
hình, các vật quyền, các trái quyền và quyền sở hữu trí tuệ (tài sản vơ hình).
b) Khái niệm bán đấu giá tài sản.
Theo quan niệm truyền thống, đấu giá là việc mua bán tài sản công khai
mà những người mua sẽ trả giá từ thấp cho tới mức giá mà người bán đấu giá
đồng ý bán bằng cách gõ búa. Dưới góc độ pháp lý, định nghĩa về bán đấu
giá tài sản thường được quy định trong những điều luật cụ thể. Chẳng hạn
6


điều 3, Luật bán đấu giá tài sản nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa năm
1996 quy định “Bán đấu giá là hình thức bán và mua tài sản cơng khai, theo
đó các tài sản và quyền tài sản được bán cho người trả giá cao nhất”. Còn
đạo luật của Floriada năm 2003 về đấu giá tài sản đưa ra khái niệm “Bán đấu
giá tuyệt đối” là cuộc bán đấu giá không yêu cầu giá khởi điểm tối thiểu mà
hàng hoá sẽ được bán cho người trả giá cao nhất (Tập bài giảng bán đấu giá
tài sản, Học viện tư pháp, 2012). Cịn tại Việt Nam có một số định nghĩa về
bán đấu giá cụ thể như sau:
- Theo từ điển luật học: Bán đấu giá tài sản là hình thức bán công khai
một tài sản, một khối tài sản; theo đó có nhiều người muốn mua tham gia trả
giá, người trả giá cao nhất nhưng không thấp hơn giá khởi điểm của tài sản là
người mua được tài sản.
- Theo Luật thương mại khoản 1 Điều 185 thì coi đấu giá hàng hóa là
một trong những hoạt động thương mại cụ thể, theo đó người bán hàng tự
mình hoặc thuê người tổ chức bán đấu giá thực hiện việc bán hàng hóa cơng
khai để chọn người mua trả giá cao nhất.
- Theo Nghị định 05/2005/NĐ-CP ngày 18/01/2005: Bán đấu giá tài

sản là hình thức bán tài sản cơng khai, có từ hai người trở lên tham gia đấu giá
và tuân theo các quy định của pháp luật về bán đấu giá.
- Theo Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 và hiện tại hoạt
động đấu giá tài sản đang được thực hiện theo nghị định này thì bán đấu giá
tài sản là hình thức bán tài sản cơng khai theo phương thức trả giá lên, có từ
hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc và trình tự, thủ tục được
quy định tại Nghị định này. Phương thức trả giá lên là phương thức trả giá từ
thấp lên cao cho đến khi có người trả giá cao nhất.
Nhìn chung, các định nghĩa về bán đấu giá tài sản đều nêu bật được bản
chất và các đặc thù của bán đấu giá tài sản, đều bao hàm được mục đích của

7


bán đấu giá là bán tài sản cho người trả giá cao nhất và không thấp hơn giá
khởi điểm.
c) Một số khái niệm liên quan trong bán đấu giá tài sản.
Trong công tác bán đấu giá tài sản cần lưu ý một số khái niệm cơ bản
đã được quy định tại Điều 3 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010
của Chính phủ về bán đấu giá tài sản gồm:
- Đấu giá viên là người được cấp Chứng chỉ hành nghề đấu giá theo
quy định tại Nghị định này.
- Người mua được tài sản bán đấu giá là người trả giá cao nhất so với
giá khởi điểm; trong trường hợp khơng có người trả giá cao hơn giá khởi
điểm thì tài sản được bán bằng giá khởi điểm.
- Tài sản bán đấu giá là động sản, bất động sản, giấy tờ có giá và các
quyền tài sản được phép giao dịch theo quy định của pháp luật.
- Bước giá là mức chênh lệch của lần trả giá sau so với lần trả giá trước
liền kề. Bước giá do tổ chức bán đấu giá tài sản quy định phù hợp với từng
cuộc bán đấu giá.

- Người có tài sản bán đấu giá là chủ sở hữu tài sản, người được chủ sở
hữu ủy quyền bán tài sản, người có trách nhiệm chuyển giao tài sản để bán
đấu giá hoặc cá nhân, tổ chức có quyền bán tài sản của người khác theo quy
định của pháp luật.
- Người tham gia đấu giá tài sản là cá nhân, đại diện tổ chức có đủ điều
kiện tham gia đấu giá để mua tài sản bán đấu giá theo quy định của Nghị định
này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2.1.2.2 Bản chất của bán đấu giá tài sản.
Qua những khái niệm về bán đấu giá tài sản, ta có thể hiểu được bản
chất của đấu giá tài sản là quan hệ dân sự về mua bán tài sản, thơng qua hình
thức đấu giá nhằm bán được tài sản với giá cao nhất. Mọi hoạt động bán đấu
giá tài sản được diễn ra theo ý chí của chủ sở hữu và người được chủ sở hữu
8


ủy quyền yêu cầu tổ chức có chức năng bán đấu giá tài sản thực hiện việc bán
tài sản.
2.1.2.3 Phân loại các hình thức bán đấu giá tài sản
Cùng với lịch sử lâu đời của bán đấu giá tài sản, thơng qua q trình
phát triển thì các hình thức bán đấu giá cũng được đa dạng hóa và phù hợp
hơn với từng loại mặt hàng, đem lại sự cạnh tranh thực sự đẩy giá của tài sản
được bán đấu giá lên mức cao hơn.
a) Theo mơ hình quốc gia
- Đấu giá kiểu Anh(2): Phương thức trả giá của hình thức bán đấu giá
này là trả giá lên. Đây là hình thức bán đấu giá phổ biến nhất cho tới hiện nay
tại Anh. Những người tham gia đấu giá tham gia trực tiếp cùng nhau, giá trả
của người trả giá sau sẽ cao hơn giá trả của người trả giáliền kề trước đó. Các
khách hàng có thể trực tiếp tham gia trả giá, hoặc ủy quyền cho người khác
trả giá, việc trả giá có thể trả giá trực tiếp tại phiên, hoặc thông qua điện thoại,
internet. Mức giá cao nhất sẽ luôn được cập nhập và hiển thị công khai trên

màn hình điện tử. Việc bán đấu giá chỉ kết thúc khi khơng có khách hàng nào
tiếp tục tham gia trả giá. Tuy nhiên, nếu giá đã trả không đạt được giá tối tiểu
mà người bán đấu giá đưa ra thì khách hàng đó cũng khơng mua được tài sản.
Hình thức bán đấu giá này thường được sử dụng cho việc bán hàng hóa, nổi
bật là các lọai đồ cổ, các tác phẩm nghệ thuật.
- Đấu giá Hà Lan(3): có thể được biết đến trên thế giới với các tên Đấu
giá giảm dần, Đấu giá tulip Hà Lan (do đấu giá Hà Lan thường được sử dụng
để bán các loại hoa ở Hà Lan, đặc biệt là hoa tulip), phương thức trả giá của
hình thức bán đấu giá này giá của các mặt hàng được bán sẽ giảm dần.Trong
cuộc đấu giá truyền thống của Hà Lan, phiên đấu giá bắt đầu với mức giá
chào bán cao cho nhiều loại mặt hàng, sau đó giá sẽ được hạ dần xuống cho
đến khi có một người tham gia sẵn sàng chấp nhận giá của người bán, việc
giảm giá sẽ giảm đến khi mức giá khởi điểm của người bán được đáp ứng.
9


Nếu người đầu tiên chấp nhận mua, nhưng không mua tồn bộ số hàng thì
người bán đấu giá tiếp tục hạ giá cho đến khi tất cả các mặt hàng đạt được giá
khởi điểm . Khi đó các mặt hàng được phân bổ dựa trên thứ tự trả giá; người
trả giá cao nhất lựa chọn đầu tiên loại hàng hóa mà họ muốn, sau đó đến
người tiếp theo lựa chọn.... Hình thức bán đấu giá này khơng được sử dụng
rộng rãi và thường được dùng để bán đấu giá cá loại mặt hàng dễ hư hỏng
như: cá, thuốc lá, nông sản...
Nhiều người nghĩ rằng theo quy trình của đấu giá Hà Lan người bán có
thể bị lỗ tiền, nhưng sự thực thì họ thường được nhiều tiền hơn kiểu đấu giá
leo thang truyền thống. Với một cuộc đấu giá tăng dần, những người tham gia
đấu giá dần dần tăng giá nhưng hiếm khi họ đạt đến mức giá trị thực của hàng
hóa. Họ khơng có lý do để phải hành động thật nhanh vì họ biết chính xác khi
nào thì cuộc đấu giá kết thúc và họ thường đợi đến phút cuối và chỉ tăng giá
một chút. Tuy nhiên trong đấu giá Hà Lan, những người tham gia đấu giá sẽ

hành động thật nhanh vì họ khơng biết khi nào thì cuốc đấu giá kết thúc. Vì
vậy dù giá đang giảm thay vì tăng giá, những người tham gia đấu giá sẽ kết
thúc việc trả giá với giá thậm chí cao hơn giá trị món hàng. Tính cạnh tranh
trong đấu giá Hà Lan là cạnh tranh ngầm giữa những người tham gia đấu giá
muốn sở hữu món hàng diễn ra rất mạnh mẽ. Mức giá càng giảm thì những
người tham gia đấu giá càng muốn mua và tính cạnh tranh ngày càng tăng.
Vì tính chất đặc biệt của đấu giá Hà Lan nên các cuộc đấu giá rất khó tổ
chức. Người tổ chức đấu giá phải là những người có kinh nghiệm và chuyên
nghiệp thì mới điều hành được phiên đấu giá và số lượng người tham gia đấu
giá thường bị hạn chế.
- Đấu giá Nhật Bản(4): là một biến thể của đấu giá kiểu Anh. Khi bắt
đầu thì sẽ khơng có khách hàng nào mới được tham gia vào phiên bán đấu giá
để trả giá, và từng người trong phiên phải trả giá theo từng vịng, hoặc bỏ
vịng khơng tham gia nữa.
10


b) Theo hình thức bán đấu giá
- Đấu giá kín theo giá thứ nhất(4): tất cả mọi người cùng đặt giá đồng
thời, không ai biết giá của ai, người ra giá cao nhất là người được mua món hàng.
- Đấu giá kín theo giá thứ hai (đấu giá Vickrey) (4): tương tự như đấu
giá kín theo giá thứ nhất, tuy nhiên người thắng chỉ phải mua món hàng với
mức giá cao thứ hai chứ khơng phải giá cao nhất mình đặt ra.
- Đấu giá câm(4): đây là một biến thể của đấu giá kín, thường dùng
trong các cuộc đấu giá từ thiện, liên quan tới việc mua một tập các món hàng
giống nhau, người tham gia sẽ đặt giá vào một tờ giấy đặt kế món hàng, họ có
thể được biết hoặc khơng được biết có bao nhiêu người tham gia và giá mà họ
đưa ra. Người trả cao nhất sẽ mua món hàng với giá mình đã đặt.
- Đấu giá kiểu thầu (đấu thầu) (4): hình thức này tráo đổi vai trò người
bán và người mua. Người mua đưa ra bản yêu cầu báo giá cho một loại hàng

nào đó và các nhà cung cấp sẽ đưa ra giá thấp dần với mong muốn giành lấy
gói thầu đó. Vào cuối buổi đấu giá, người ra giá thấp nhất sẽ thắng cuộc.
- Đấu giá nhượng quyền(4): đây là hình thức đấu giá dài vô hạn định,
dành cho những sản phẩm có thể được tái bản (bản thu âm, phần mềm, công
thức làm thuốc), người đấu giá đặt công khai giá lớn nhất của họ (có thể điều
chỉnh hoặc rút lại), người bán có thể xem xét kết thúc cuộc đấu giá bất cứ lúc
nào khi chọn được mức giá vừa ý. Những người thắng cuộc là những người đặt
giá bằng hoặc cao hơn giá được chọn, và sẽ nhận được phiên bản của sản phẩm.
- Đấu giá ra giá duy nhất(4): Trong hình thức này, người đấu giá sẽ đưa
ra giá không rõ ràng, và được cung cấp một phạm vi giá mà họ có thể đặt.
Một mức giá duy nhất có thể cao nhất hoặc thấp nhất từ các các mức giá được
ra giá sẽ thắng cuộc. Ví dụ, nếu một cuộc đấu giá quy định mức giá cao nhất
là 8; năm giá cao nhất là 5, 5, 6, 8, 8 thì 6 sẽ là giá thắng cuộc vì là người ra
giá duy nhất đạt giá cao nhất. Hình thức này phổ biến trong các cuộc đấu giá
trực tuyến.
11


- Đấu giá mở(4): đây là hình thức được sử dụng trong thị trường chứng
khoán và trao đổi hàng hoá. Việc mua bán diễn ra trên sàn giao dịch và người
giao dịch đưa ra giá bằng lời ngay tức thì. Những giao dịch có thể đồng thời
diễn ra ở nơi khác trong sàn mua bán. Hình thức này dần được thay thế bởi
hình thức thương mại điện tử.
- Đấu giá giá trần(4): hình thức đấu giá này có giá bán ra định trước,
người tham gia có thể kết thúc cuộc đấu giá bằng cách đơn giản chấp nhận
mức giá này. Mức giá này do người bán định ra. Người đấu giá có thể chọn để
ra giá hoặc sử dụng ln mức giá trần. Nếu khơng có người chọn giá trần thì
cuộc đấu giá sẽ kết thúc với người trả mức cao nhất.
- Đấu giá tổ hợp(4): trong một số trường hợp, sự định giá của người
mua là một tập món hàng với số lượng và chủng loại khác nhau (gọi là tổ

hợp). Hình thức đấu giá này cho phép người mua đăng ký ra giá cho một tổ
hợp các món hàng. Người tham gia đưa ra một giá để trả cho tất cả các món
trong tổ hợp, nếu thắng thì có được tổ hợp, ngược lại sẽ khơng phải mua bất
cứ món gì trong tổ hợp.
- Bán đấu giá trong thời gian của một ngọn nến (5): Là kiểu bán đấu
giá mà những người tham gia trả giá phải trả giá trong thời gian nến cháy,
mọi giá trả ngoài thời gian này là không trúng đấu giá.
- Đấu giá trả phí(5): Hình thức này u cầu mỗi người tham gia phải trả
một khoản phí cố định để được phép trả giá, khi phiên bán đấu giá kết thúc,
người trả giá cao nhất là người chiến thắng. không giống như các hình thức
bán đấu giá khác, giá bán của các tài sản theo hình thức này thường thấp hơn
so với thị trường. Tuy nhiên, những nhà tổ chức không hề bị lỗ, do cịn có
khoản phí tham gia của người tham gia phiên và thường thì họ nhận được
nhiều hơn giá trị thật của mặt hàng đó.
- Đấu giá tuyệt đối(5): là một cuộc đấu giá, trong đó các mặt hàng để
bán sẽ được bán bất kể giá cả. Kiểu bán đấu giá này sẽ không đưa ra giá khởi
12


điểm. Do đó nó thu hút một lượng lớn người tham gia trả giá, khi nhiều người
tham gia, sự cạnh tranh cao hơn, giá cuối cùng được thiết lập có thể cao hơn
mong đợi. Trong thực tế, người bán có thể không bán cho người trả giá cao
nhất trong ngày, nếu họ rút lại hàng hoặc kéo dài thời gian bán đấu giá không
thời hạn.
2.1.2.4 Đặc điểm của bán đấu giá tài sản.
Hình thức bán đấu giá rất đa dạng, tùy theo từng quốc gia, phong tục,
tập quán, tùy theo từng loại hàng hóa mà áp dụng phương thức bán đấu giá
phù hợp. Tuy nhiên, dù ở hình thức nào, bán đấu giá tài sản đều có các đặc
điểm sau đây:
- Bán công khai theo nguyên tắc và thủ tục luật định.

- Chủ thể tham gia bán đấu giá từ hai chủ thể trở lên.
- Người mua được tài sản là người trả giá cao nhất và không thấp hơn
giá khởi điểm.
* Tài sản được bán đấu giá rất đa dạng, nhưng có thể chia thành hai loại
chính:
+ Tài sản của tổ chức, cá nhân được bán theo hình thức tự nguyện: đó
là những tài sản được phép giao dịch theo quy định của pháp luật (như hàng
hóa, đồ cổ, đồ sưu tầm...).
+ Tài sản tư pháp được bán theo hình thức bắt buộc: đó là những tài sản
để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án, tài sản là phương
tiện vi phạm hành chính, tài sản bảo đảm,...
2.2 Nội dung đánh giá công tác bán đấu giá tài sản tại tổ chức bán đấu giá
2.2.1 Quy trình bán đấu giá tài sản
Việc bán đấu giá một tài sản bao gồm hàng loạt các hoạt động mà tổ
chức bán đấu giá tài sản phải thực hiện theo trình tự, thủ tục pháp luật quy
định, từ thời điểm tiếp nhận yêu cầu bán đấu giá đến khi việc bán đấu giá
hoàn tất.
13


a) Các hoạt động trước phiên đấu giá: Việc tiến hành các hoạt động
trước khi mở cuộc bán đấu giá đóng vai trị hết sức quan trọng. Các bước
chuẩn bị này là điều kiện bảo đảm cho việc tổ chức bán đấu giá được công
khai, minh bạch, đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia
và bảo đảm cho việc bán đấu giá có tính khả thi cao. Trình tự các hoạt động
trước phiên đấu giá như sau:
- Tiếp nhận yêu cầu bán đấu giá;
- Nghiên cứu hồ sơ bán đấu giá;
- Tư vấn cho người có yêu cầu bán đấu giá tài sản;
- Soạn thảo, ký kết Hợp đồng bán đấu giá tài sản hoặc lập Biên bản về

việc chuyển giao hồ sơ, tang vật phương tiện vi phạm hành chính;
Khi nhận được yêu cầu bán đấu giá tài sản của khách hàng ủy quyền
bán, đấu giá viên cần thu thập những thông tin ban đầu nhằm xác định tài sản
được yêu cầu bán đấu giá có thể được đưa ra bán đấu giá theo quy định của
pháp luật không. Đấu giá viên xác định rõ các vấn đề chủ yếu để có thể tiến
hành việc bán đấu giá như: xác định loại tài sản bán đấu giá; chủ thể có quyền
ký hợp đồng bán đấu giá hoặc chuyển giao tài sản bán đấu giá cho tổ chức
bán đấu giá; tài sản có được phép đưa ra bán đấu giá; quá trình xử lý tài sản
do người có tài sản bán đấu giá thực hiện trước khi yêu cầu tổ chức bán đấu
giá có tuân theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định (Ví dụ: trình tự tài sản
nhà nước thanh lý được đem bán là quyết định thanh lý tài sản của lãnh đạo
có thẩm quyền, xác định giá khởi điểm ...); Nếu những hồ sơ chưa đủ các giấy
tờ tài liệu có liên quan, những hồ sơ vụ việc mà quá trình xử lý tài sản do
người có tài sản bán đấu giá thực hiện trước khi yêu cầu tổ chức bán đấu giá
chưa theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định, những hồ sơ chưa thể
hiện đủ các điều kiện để có thể đưa tài sản ra bán đấu giá; Đấu giá viên có thể
tổ chức tiếp nhận hồ sơ ban đầu (việc tiếp nhận được lập thành biên bản có
ghi rõ tên người gửi, người nhận hồ sơ; tên, loại hồ sơ, số trang...). Sau khi
14


nghiên cứu hồ sơ, tư vấn cho khách hàng hoàn thiện hồ sơ, tổ chức bán đấu
giá tiến hành soạn thảo hợp đồng bán đấu giá, ấn định ngày ký Hợp đồng bán
đấu giá hoặc ngày chuyển giao hồ sơ, tang vật vi phạm hành chính để bán đấu
giá.
- Soạn thảo Nội quy cuộc bán đấu giá: tùy thuộc vào đặc điểm của tài
sản và tính chất của từng cuộc bán đấu giá, tổ chức bán đấu giá có nghĩa vụ
ban hành Nội quy bán đấu giá trong đó có những quy định cụ thể về trình tự,
thủ tục, quy tắc ứng xử cho từng cuộc bán đấu giá; điều kiện tham gia đấu
giá; quyền và nghĩa vụ cụ thể của người tham gia đấu giá. Những quy định

này không được trái quy định của pháp luật. Các quy định của nội quy cuộc
bán đấu giá càng đầy đủ, chặt chẽ, rõ ràng thì càng hạn chế được những tranh
chấp, khiếu kiện xảy ra trong và sau khi cuộc bán đấu giá được tổ chức.
- Lập hồ sơ bán đấu giá: Việc lập hồ sơ bán đấu giá cung cấp cho người
có nhu cầu tham gia đấu giá nhằm mục đích chuyển tải cho khách hàng những
thơng tin cần thiết có liên quan đến tài sản bán đấu giá, đến trình tự, thủ tục tổ
chức phiên bán đấu giá tài sản cụ thể. Bằng việc tham khảo hồ sơ và xem tài
sản bán đấu giá, người có nhu cầu tham gia đấu giá sẽ có cơ sở để đưa ra
quyết định có đăng ký tham gia đấu giá hay khơng.
- Niêm yết, thông báo việc bán đấu giá tài sản: nhằm đảm bảo tài sản
bán đấu giá được nhiều người biết đến, thu hút được nhiều người có nhu cầu
mua tài sản bán đấu giá thực sự tham gia đấu giá để tài sản có cơ hội được
bán với giá cao nhất, việc tổ chức bán đấu giá được công khai, minh bạch, đạt
hiệu quả cao nhất .
- Tổ chức việc trưng bày, cho xem tài sản bán đấu giá: tạo điều kiện
thuận lợi nhất cho đông đảo người tham gia đấu giá trực tiếp xem được tài
sản, qua đó khách hàng có nhu cầu mua tài sản đánh giá được chất lượng, số
lượng, đặc điểm cảu tài sản để quyết định việc có hay khơng tham gia phiên

15


bán đấu giá, và giá cao nhất họ có thể trả cho tài sản đó là bao nhiêu. Đồng
thời cũng thể hiện được tính cơng khai, minh bạch của cuộc bán đấu giá.
- Tổ chức đăng ký tham gia đấu giá: tổ chức bán đấu giá sẽ tiếp nhận
đơn, hồ sơ đăng ký tham gia đấu giá, thu phí tham gia đấu giá, tiền đặt trước
của người tham gia đấu giá; kiểm tra và lập danh sách những người có đủ
điều kiện tham gia đấu giá; gửi giấy mời tham gia cuộc đấu giá tới những
người có đủ điều kiện tham gia đấu giá.
b) Phiên đấu giá

- Chuẩn bị hồ sơ tài liệu, cơ sở vật chất cho cuộc bán đấu giá: Công tác
chuẩn bị kỹ lưỡng sẽ hạn chế được tối đa các vấn đề có thể phát sinh trong
quá trình tổ chức bán đấu giá.
- Tổ chức cuộc bán đấu giá: Hiện nay, tại Việt Nam thì các tổ chức bán
đấu giá thường tiến hành bán đấu giá theo hai hình thức là đấu giá trực tiếp
bằng lời nói và hình thức bỏ phiếu kín. Đối với mỗi hình thức bán đấu giá,
yêu cầu đấu giá viên phải có kỹ năng, nghiệp vụ cần thiết để đảm bảo phiên
bán đấu giá thành công.
- Lập và ký kết Biên bản cuộc bán đấu giá, Hợp đồng mua bán tài sản
bán đấu giá: Mọi diễn biến trong phiên bán đấu giá cần được phản ánh đầy đủ
trong biên bản bán đấu giá. Đối với hợp đồng bán đấu giá thì cần thỏa thuận
giữa hai bên và tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật.
c) Sau phiên đấu giá
- Thanh toán tiền mua tài sản;
- Bàn giao tài sản;
- Thanh tốn phí bán đấu giá...,
Khi phiên bán đấu giá kết thúc thành công, tài sản được bán cho người
trả giá cao nhất thì trong một khoảng thời gian nhất định được quy định trong
Hợp đồng mua bán, khách hàng trúng đấu giá phải thanh toán số tiền trúng
đấu giá và được nhận tài sản.
16


×