Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

môn học sử dụng hợp lý tài nguyên biển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.15 MB, 127 trang )

1
MÔN HỌC
SỬ DỤNG HỢP LÝ TÀI NGUYÊN BIỂN

GIỚI THIỆU CHUNG










thành sa mạc khô cằn.

Biển và đại dương cung cấp cho con người một kho tàng khổng lồ
về thực phẩm, khí đốt, hóa chất, vật liệu, điều hòa môi trường, phát
triển du lịch và giải trí là nền tảng để phát triển kinh tế - xã hội và tạo
dựng nền văn minh cho loài người. Người ta dự đoán vào những thế kỷ
tới biển và đại dương sẽ là nơi dự trữ cuối cùng của loài người về thực
phẩm, năng lượng và nguyên nhiên liệu.
Biển có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp phát triển và an ninh
của các nước nói riêng và thế giới nói chung. Một số nước và vùng lãnh
thổ đã tận dụng thế mạnh về biển để đạt được trình độ phát triển rất
cao. Các nước có biển đều vươn ra biển, xây dựng chiến lược biển, tăng
cường tiềm lực mọi mặt để khai thác và khống chế biển.
2
Giống như các dạng tài nguyên thiên nhiên nói chung, tài nguyên biển nói
riêng được hình thành trong những điều kiện môi trường cụ thể của biển và đại


dương. Sự hình thành chúng liên quan mật thiết đến cấu trúc và địa động lực đáy
biển và đại dương, đến cấu trúc và động lực khối nước phủ trên. Ngoài ra, chúng
còn bị chi phối bởi hàng loạt quá trình như: quá trình địa chất, sinh học, hóa học;
thủy động lực; các tương tác nội-ngoại sinh, sông-biển, khí quyển-đại dương.
Theo tính toán sơ bộ, dân số thế giới và các đô thị lớn phát triển tập trung ở
vùng ven đại dương, vùng ven biển cách đường bờ biển chừng 100 km về phía lục
địa và trên các đảo. Xu hướng này sẽ tiếp tục gia tăng trong thời gian tới do nhịp
độ công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh chóng và mạnh mẽ. Điều này cũng kéo
theo sự tăng cao nhu cầu tiêu thụ và sử dụng tài nguyên biển. Hậu quả là tài
nguyên biển có nguy cơ bị suy giảm, suy thoái do bị khai thác quá mức; một số
dạng tài nguyên quí hiếm dễ có nguy cơ mất hẳn. Môi trường biển bị ô nhiễm và
suy thoái đang tác động trực tiếp vào các hệ thống tài nguyên biển, vào khả năng
tái tạo và phục hồi các dạng tài nguyên cụ thể. Vì vậy, việc nghiên cứu sử dụng
hợp lý và quản lý hiệu quả tài nguyên biển trở nên hết sức cấp bách không chỉ đối
với các quốc gia có biển mà còn cả đối với cả cộng đồng quốc tế. Điều đó quyết
định sự tồn tại và chất lượng cuộc sống của loài người trong tương lai. Đặc biệt
khi nguồn tài nguyên trên lục địa bị cạn kiệt và bầu khí quyển bị ô nhiễm.
Vùng biển Việt Nam chiếm phần lớn diện tích biển Đông, bao gồm hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với diện tích khoảng 1 triệu km
2
. Đảng và Nhà
nước ta nhận định: Biển có ý nghĩa to lớn để nước ta phát triển, mở cửa giao lưu
với quốc tế và ngày càng có vai trò lớn trong định hướng phát triển tương lai. Qua
thăm dò, khảo sát cho thấy, tiềm năng tài nguyên biển Việt Nam tuy không thuộc
hàng giàu có của thế giới, nhưng rất đáng kể và có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối
với sự nghiệp phát triển đất nước. Dọc bờ biển nước ta đã hình thành những trung
tâm đô thị lớn, trên 100 địa điểm có thể xây dựng những cảng biển lớn, nhỏ;
nhiều đảo, hòn đủ điều kiện và lợi thế phát triển du lịch, bảo vệ an ninh quốc
phòng; vùng biển có nhiều tiềm năng thủy sản, dầu khí…
3

Biển Việt Nam được phân chia thành 5 vùng chính: Vùng biển Vịnh Bắc
Bộ, vùng biển Trung Bộ, vùng biển Đông Nam Bộ, vùng biển Tây Nam Bộ và
vùng biển Giữa Biển Đông. Tại các vùng biển này hình thành nhiều ngư trường
với sản lượng thủy sản lớn, phục vụ các nghề khai thác: nghề lưới rê, nghề câu
vàng, nghề lưới kéo đáy đơn Từ năm 2000-2005, tổng trữ lượng khai thác thủy
sản biển đạt khoảng 4 triệu tấn, trong đó trữ lượng cá nổi khoảng 2,8 triệu tấn,
chiếm khoảng 70% tổng trữ lượng. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là hiện nay tại
những vùng ven bờ đã và đang bị tận dụng khai thác quá mức, làm cho nguồn lợi
thủy sản có nguy cơ bị cạn kiệt. Với 84% số lượng tàu thuyền lắp máy có công
suất dưới 90CV và thuyền thủ công hoạt động chủ yếu ở vùng nước ven bờ đã
gây sức ép quá lớn cho nguồn lợi thủy sản ven bờ, làm tăng nguy cơ cạn kiệt. Vì
nhiều lý do mà đã qua, lượng tàu phát triển một cách tự phát, không theo định
hướng quy hoạch phát triển biển và số lượng tàu cá có công suất nhỏ vẫn tăng
bình quân 2.300 chiếc/năm, số lượng ngư dân trực tiếp khai thác hải sản tăng bình
quân 23.155 người/năm. Điều này đồng nghĩa với việc cạnh tranh trong khai thác
ven bờ với cường độ cao, ráo riết hơn. Vì cuộc sống trước mắt, nhóm ngư dân này
dùng mọi biện pháp để đánh bắt: Giảm kích thước mắt lưới, tăng cường độ khai
thác hoặc dùng những biện pháp khai thác mang tính hủy diệt, như: Sử dụng chất
nổ, chất độc, xung điện… Sự suy giảm nguồn lợi cá đã ảnh hưởng nghiêm trọng
và trực tiếp đến hiệu quả đánh bắt của các loại nghề khai thác hải sản. Tỷ lệ cá
tạp, cá con trong các mẻ lưới ngày càng cao, chiếm 40-95% sản lượng đánh bắt,
tùy theo loại ngành nghề khai thác, kéo theo doanh thu các hoạt động khai thác có
xu hướng thấp dần.
Quan điểm chỉ đạo của Đảng tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa X về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, nêu
rõ: “Phấn đấu để nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển,
bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển… Có chính sách hấp dẫn nhằm
thu hút mọi nguồn lực phát triển kinh tế biển… giải quyết tốt các vấn đề xã hội,
cải thiện một bước đáng kể đời sống của nhân dân vùng biển và ven biển”. Hiện
nay, ngành Thủy sản đang xây dựng các giải pháp về quản lý; điều chỉnh năng lực

4
tàu thuyền, cơ cấu nghề nghiệp; cơ sở hậu cần nghề cá; khoa học - công nghệ; bảo
vệ phục hồi và phát triển nguồn lợi thủy sản; đào tạo nguồn nhân lực và hợp tác
quốc tế trong khai thác thủy sản. Theo đó, dự kiến đến năm 2020, kinh tế biển
đóng góp khoảng 53 - 55% GDP và 55-60% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Để đạt
được kết quả trên, Nhà nước, ngư dân và hậu cần nghề khai thác hải sản phải cùng
chung tay, liên kết chặt chẽ hơn nhằm khép kín lộ trình thành một dây chuyền sản
xuất, đưa nghề khai thác hải sản trở thành một trong những ngành kinh tế đầu tàu,
góp phần quan trọng vào tốc độ phát triển chung của đất nước. Đối với Cà Mau,
ngành Thủy sản và chính quyền các cấp đang cố gắng quản lý, khống chế lượng
tàu thuyền khai thác ven bờ, phương tiện có công suất nhỏ, nhằm hướng đến
chuyển đổi ngành nghề cho đối tượng ngư dân này một cách hợp lý, trong điều
kiện khai thác hợp lý.
Việt Nam với hơn 3.200 km bờ biển, khoảng 3.000 hòn đảo, và hơn 11.000
loài sinh vật biển, là cơ sở để nước ta phát triển nghề khai thác biển vững mạnh.
Tuy nhiên, nếu không có một chiến lược khai thác hợp lý, thì tiềm năng biển sẽ
không còn. Do vậy, để phát triển bền vững nghề khai thác hải sản, cần đảm bảo
tính bền vững về môi trường sinh thái, nguồn lợi và ổn định xã hội.
Việt Nam là một quốc gia với tiềm năng tài nguyên biển to lớn. Biển đã
được Nhà nước đặt vào vị trí chiến lược quan trọng về cả kinh tế lẫn an ninh
quốc phòng. Khai thác biển ở nước ta cũng là một trong những nghề truyền thống
tuy còn lạc hậu; khả năng quản lý biển còn yếu. Vì thế, giống như các nước trong
khu vực, nước ta đang phải đối mặt với nhiều vấn đề môi trường và tài nguyên
biển, đang diễn ra theo chiều hướng tiêu cực. Một trong những nguyên nhân chính
là hiểu biết về bản chất môi trường biển và nhận thức về tài nguyên biển còn rất
yếu. Trong bối cảnh kinh tế thời mở cửa, nhu cầu khai thác và sử dụng tài nguyên
biển phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa tăng rõ rệt. Vì thế, việc nghiên cứu sử
dụng hợp lý và bảo vệ tài nguyên môi trường biển cần được ưu tiên cao trong thời
gian tới.
5

Do vậy, môn học sử dụng hợp lý tài nguyên biển có ý nghĩa và thực tiễn
cao giúp cho sinh viên nắm được các khái niệm cơ bản về tầm quan trọng của
biển đối với con người, giá trị và tiềm năng to lớn của tài nguyên biển đối với
phát triển kinh tế - xã hội trong những thế kỷ tới để từ đó xây dựng các định
hướng nghiên cứu cũng như kế hoạch khai thác và bảo vệ tài nguyên biển và môi
trường biển một cách hợp lý.

CHƯƠNG I
MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ BIỂN
1.1 Những khái niệm chung về biển và các vấn đề liên quan
Như đã biết, biển và đại dương chứa đựng nhiều hệ thống tự nhiên ở
những cấp độ và qui mô khác nhau, bao gồm các loại hình thủy vực, các hệ sinh
thái biển và ven bờ khác nhau. Vì vậy, hiểu biết chính xác khái niệm về chúng
giúp các nhà nghiên cứu và quản lý nhận biết đúng đối tượng nghiên cứu và quản
lý của mình ngay từ khi bắt đầu công việc.
1.1.1 Thủy vực (water-body)
Là một vùng trũng bất kỳ trên bề mặt Trái đất có chứa nước thường xuyên,
bất kể nước ngọt, nước lợ hoặc nước mặn, với các hình thái và qui mô khác nhau.
Mỗi loại hình thủy vực được đặc trưng bởi các quá trình và có bản chất tự nhiên
riêng. Ví dụ: ao, hồ, đầm, phá, vịnh…
1.1.2 Đại dương thế giới (world ocean)
Là toàn bộ các thủy vực có chứa nước mặn của Trái đất và không phân biệt
ranh giới. Như vậy, trên hành tinh chúng ta chỉ tồn tại một đại dương thế giới.
1.1.3 Đại dương (ocean)

Là những thủy vực nước mặn có qui mô lớn trong đại dương thế giới. Nó
cũng là những bộ phận quan trọng của đại dương thế giới và được phân định
tương đối bởi ranh giới “nhân tạo”. Thông thường, ranh giới về phía lục địa của
6
đại dương được phân định với các vùng biển phía trong bởi các hệ thống đảo,

tương ứng với các đới phá hủy cấu trúc địa chất của rìa lục địa ở phía dưới.
Trước kia, dựa vào truyền thuyết, người ta đã chia ra thành 7 đại dương là:
Bắc Băng Dương, Ấn Độ Dương, Bắc Đại Tây Dương, Nam Đại Tây Dương, Bắc
Thái Bình Dương, Nam Thái Bình Dương và Đại Dương Nam Cực. Đến năm
1845, tên của 3 đại dương: Đại Tây Dương, Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương
mới được thừa nhận chính thức. Đến nay, người ta chia ra và thừa nhận 4 đại
dương chính: Đại Tây Dương, Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và Bắc Băng
Dương, Hình 1.1.









Hình 1.1: Đại dương, biển và các vịnh lớn trên trái đất
Diện tích và độ sâu trung bình của 4 đại dương được cho trong bảng 1.1.
1.1.4 Biển (sea)
Là một loại hình thủy vực nước mặn của đại dương thế giới, nằm sát các
đại lục và ngăn cách với đại dương ở phía ngoài bởi hệ thống đảo vào bán đảo, và
ở phía trong bởi bờ đại lục (còn gọi là bờ biển – shoreline). Do nằm sát lục địa và
chịu ảnh hưởng của các quá trình lục địa (chủ yếu thông qua hệ thống sông ngòi),
7
nước biển thường có thành phần và tính chất khác với nước đại dương. Cho nên
trong các văn liệu, người ta còn gọi chúng là các biển rìa (marginal sea).
Vào thế kỷ 15, theo quan niệm của người Hồi giáo, trên thế giới có 7 biển
là: Địa Trung Hải, Biển Đỏ, Biển Đông Phi, Biển Tây Phi, Biển Đông, Ấn Độ
Dương và vịnh Persian. Đến nay, phòng Thủy đạc Quốc tế đã thống kê và lập

danh sách khoảng 68 biển trên thế giới, trong đó một số biển lại nằm trong biển
khác lớn hơn. Ví dụ, Địa Trung Hải lại bao gồm 7 biển nhỏ khác.
Bảng 1.1: Diện tích và độ sâu trung bình của lòng/lưu vực 4 đại dương
TT
Tên đại dương
Diện tích
(10
6
km
2
)
Độ sâu TB (m)
1 Thái Bình dương
(Pacific Ocean)
166,2

4.188
2 Đại tây dương
(Atlantic Ocean)
86,5

3.736
3 Ấn Độ dương (Indian Ocean) 73,4 3.872
4 Đại Tây dương
(Arctic Ocean)
9,5 1.330
1.1.5 Vịnh (gulf)
Công ước Luật Biển qui định: Vịnh là một bộ phận của biển lõm sâu rõ rệt
vào đất liền, được bờ biển bao quanh và có diện tích ít nhất cũng bằng diện tích
của một nửa hình tròn có bán kính là đường thẳng kẻ ngang qua cửa vào của vùng

lõm.
Cụ thể hơn, diện tích vùng lõm được tính trong phạm vi đường mực triều
thấp nhất ven bờ vịnh (vùng lõm) và đường thẳng nối liền hai điểm gần nhau nhất
ở 2 phía cửa vào tự nhiên của vịnh, không tính các cửa nhân tạo. Ví dụ: vịnh Bắc
8
Bộ, vịnh Thái Lan. Ví dụ minh họa các Vịnh trên biển của Việt Nam được cho
trong Bảng 1.2.
1.1.6 Vũng (bay)
Là một loại hình thủy vực nằm sát bờ, đây là một bộ phận của vịnh hoặc
biển, có kích thước khác nhau. Ranh giới các vũng thường là bờ của các cung bờ
hoặc các đảo ở phía ngoài, nhiều khi phải phân biệt nhờ địa hình đáy có dạng lòng
chảo. Trong thực tế Việt Nam đôi khi cũng gọi lẫn vũng là vịnh. Ví dụ: vũng Rô,
vũng Tàu, vịnh Hạ Long, vịnh Chân Mây,…
Ví dụ minh họa các Vịnh trên biển của Việt Nam được cho trong Bảng 1.2.
1.1.7 Vụng (embayment)
Là một bộ phận lõm vào lục địa của vũng, vịnh hoặc biển, có kích thước
nhỏ và thông với vùng biển bên ngoài bởi một hoặc vài cửa (inlet). Đôi khi cũng
được gọi lẫn với tên là vịnh. Ví dụ: vịnh (vụng) Bãi Cháy.
Ví dụ minh họa các Vịnh trên biển của Việt Nam được cho trong Bảng 1.2.
1.1.8 Phá (coastal lagoon)
Là một loại hình thủy vực ven bờ, phía ngoài ngăn cách với biển bởi một
hệ thống các doi cát chắn (sand barrier) dọc bờ và thông với biển bởi một hoặc
vài cửa.
Các phá điển hình thường phát triển ở rìa các đồng bằng cát ven biển, nơi
giàu bồi tích cát, trong điều kiện động lực của vùng bờ có xu thế san bằng và với
vai trò thống trị của dòng sóng dọc bời. Ví dụ: phá Tam Giang.
Một số phá được địa phương gọi là đầm như: đầm Lăng Cô, Ô Loan,
Trường Giang, Cù Mông, Nước Mặn, Nước Ngọt, Trà Ổ, Thủy Triều, Thị Nại,
Đầm Nại. Tuy nhiên, người Việt Nam thường gọi phá là đầm phá.



9






















Bảng 1.1
:

Bảng 1.2:

10











1.1.9 Cửa sông (estuary/river mouth)
Là phần cuối cùng của các sông trước khi đổ vào biển. Đây là một khu vực
bờ biển thường bị sụt chìm (đôi khi cũng ở trạng thái ổn định), nơi xảy ra các
tương tác trực tiếp và mạnh mẽ giữa sông và biển. Tùy thuộc vào bản chất động
lực, hình thái, cấu trúc của cửa sông, người ta phân loại thành các kiểu cửa sông
chính như: cửa sông hình phễu (cửa sông Bạch Đằng, sông Thị Vải), cửa sông
châu thổ (cửa Định An, cửa Ba Lạt), cửa sông kiểu “cúc áo” (cửa sông Đà Rằng),
hoặc dạng đầm phá,….
Mô phỏng cửa sông tiếp giáp với đới bờ được thể hiện trong Hình 1.2.
1.1.10 Đường bờ biển (coastline)
Đường bờ biển gọi tắt là đường bờ - là đường tiếp tuyến giữa bề mặt nước
biển ở vị trí mực thủy triều trung bình và bề mặt sườn bờ lục địa.

1.1.11 Đới bờ biển (coastal zone)
11
Đới bờ biển gọi tắt là đới bờ - nằm chuyển tiếp giữa biển và lục địa, luôn
chịu tác động tương tác của các quá trình biển và lục địa, cũng như nội – ngoại
sinh và có hình dạng kéo dài dọc đường bờ. Ranh giới phía lục địa được tính đến
rìa các đồng bằng châu thổ hiện đại (Holoxen muộn), hoặc giới hạn thâm nhập
mặn dọc sông, hoặc cách đường bờ 10 km ở khu bờ núi ven biển (đôi khi lấy ranh

giới các huyện ven biển). Còn ranh giới phía biển được tính đến rìa thềm lục địa
hiện đại tương ứng độ sâu 200 m. Đới bờ gồm hai phần: dải ven biển và dải ven
bờ.
Mô phỏng phần đới bờ tiếp giáp với cửa sông và đường bờ được thể hiện
trong Hình 1.2.










Hình 1.2: Vị trí vùng cửa sông, đới bờ và vùng bờ
Nguồn: Iman and Nordstrom, 1971
Ví dụ đặc trưng về các cửa sông Mekong và phân bố lưu lượng cho các
nhánh sông (cửa sông) được thể hiện trong Hình 1.3.


12
1.1.12 Dải ven biển (coastal land)
Là dải lục địa ven biển, bất kể đồng bằng hay vùng núi, tính từ đường bờ
trở vào lục địa đến nơi chấm dứt ảnh hưởng của biển, tương ứng ranh giới phía
lục địa của đới bờ.









Hình 1.3: Các cửa sông Mekong và phân bố lưu lượng cho các nhánh sông
1.1.13 Dải ven bờ (coastal waters)
Là dải biển ven bờ, tính từ đường bờ ra khơi đến nơi chấm dứt ảnh hưởng
trực tiếp của các quá trình lục địa, tương ứng ranh giới phía biển của đới bờ.
Tham khảo như trong Hình 1.2.
1.1.14 Vùng bờ (coastal area)
Vùng bờ là một phần của đới bờ, có hình dạng bất kỳ với qui mô khác nhau
tùy thuộc vào mục đích và năng lực quản lý. Giống như đới bờ, vùng bờ cũng
gồm hai phần: ven biển và ven bờ.



13
1.2 Vai trò của biển trong đời sống con người
1.2.1 Những đóng góp của biển

Toàn bộ các biển và đại dương chiếm tới 361 triệu km
2
, nghĩa là khoảng
71% diện tích bề mặt Trái Đất. Thực sự, nhân loại đang sống trên những hòn đảo
khổng lồ giữa các đại dương mênh mông của một quả cầu nước.
Được sinh ra và tiến hóa trên bề mặt các hòn đảo đó, từ lâu, con người vẫn
sống nhờ vào đất. Khoảng 5 tỷ người hiện nay đang dựa vào một diện tích canh
tác nhỏ hẹp, chừng 3% bề mặt hành tinh để sinh sống, đồng thời chỉ mới nhận
nguồn thức ăn rất nhỏ bé từ biển, đại dương.
Giờ đây nguồn của cải ở trên cạn không còn là vô tận nữa, đặc biệt trong

thời kỳ mà nhân loại đang tạo nên những kỳ tích trong các lĩnh vực khoa học và
kỹ thuật, con người đòi hỏi không chỉ nguồn thực phẩm dồi dào mà cả các nguyên
vật liệu, nguồn năng lượng, thậm chí cả nguồn nước ngọt…, từ đại dương. Nhân
loại đang trong tư thế tiến chiếm các vùng nước mênh mông và giàu có mà trước
đây chỉ mới khai thác một phần.
Biển và đại dương chứa đựng nguồn vật chất tiềm tàng. Sản lượng các loài
thực vật trong toàn bộ khối nước đạt tới 550,2 tỷ tấn, còn động vật 56,2 tỷ tấn.
Những năm gần đây, nghề khai thác các đối tượng sinh vật biển thường đạt trên
dưới 80 triệu tấn/năm, trong đó cá chiếm 90% tổng sản lượng. Người ta tính rằng,
năng suất sinh học hiện tại là 5,4 – 15,0 kg/km
2
đối với vùng đáy thềm và dốc lục
địa. Do đó, sản lượng hải sản có thể đạt 100 triệu tấn năm trong những năm sắp
tới.
Từ năm 1970 trở lại đây, nguồn tài nguyên sinh vật biển của Thế Giới được
coi là hữu hạn, đặc biệt là những loài có ý nghĩa kinh tế. Nhiều loài bị khai thác
quá mức, vượt quá khả năng tái tạo của chúng, một số loài có nguy cơ tuyệt
chủng.


14
So sánh với sản lượng khai thác hàng năm ở nước ngọt thì ở biển và đại
dương luôn vượt hơn khoảng 50 lần. Nhịp độ khai thác (triệu tấn) tăng dần theo
thời gian, Bảng 1.3.
Bảng 1.3: Sản lượng thủy hải sản khai thác trên đại dương và nước ngọt
Năm Nước mặn Nước ngọt
1950 17,6 tr tấn 3,2 tr tấn
1989 75 13,5
1990 90 25,5
2002 112 32,4


Thông thường ở những quốc gia phát triển, nguồn thu nhập từ khai thác
sinh vật biển chiếm khoảng trên 1% tổng thu nhập quốc dân. Nhưng ở các nước
phát triển, con số này là 5 – 7%. Hiện nay sản lượng đánh bắt cá tập trung ở sáu
nước: Nhật, Nga, Trung Quốc, Na Uy, Pêru và Mỹ, chiếm khoảng 80% sản lượng
Thế Giới. Ngoài lợi thế về biển, sáu nước này còn tham gia dánh cá trong khu vực
biển (hải phận) quốc tế.
Theo đánh giá của FAO, đến nay có hơn 50 loài tôm biển tự nhiên được
khai thác, nhưng chỉ có 10 loài có sản lượng lớn. Sản lượng tôm khai thác tự
nhiên vẫn chiếm tỉ lệ cao (72%) trong tổng số lượng tôm Thế Giới và có giá trị
khoảng 10,7 tỉ USD. Hiện nay có bảy ngư trường khai thác tôm quan trọng nhất
Bảng 1.4.
Bên cạnh nguồn lợi sinh vật, biển còn là mỏ khoáng khổng lồ, trong thềm
lục địa là những túi dầu với trữ lượng rất lớn. Hầu hết các nguyên tố hóa học đều
có mặt trong nước biển. Song, muối ăn có hàm lượng cao nhất. Nếu như toàn bộ
muối ăn trong đại dương được kết tinh lại sẽ cho một khối lượng lớn đến mức mà
nó có thể trải trên toàn lục địa một lớp dày 150m. Người ta cũng biết rằng, khai
thác được toàn bộ lượng vàng hòa tan trong nước đại dương, khi chia đều cho
nhân loại thì mỗi chúng ta sẽ nhận chừng 2 kg.
Bảng 1.4: Bảy ngư trường quan trọng nhất khai thác tôm trên đại dương
15
Ngư trường Sản lượng năm (1000 tấn)
Tây – Bắc Thái Bình Dương 1.150
Giữa – Tây Thái Bình Dương 382
Tây Ấn Độ Dương 243
Tây – Bắc Đại Tây Dương 243
Đông Ấn Độ Dương 237
Đông – Bắc Đại Tây Dương 174
Giữa – Tây Đại Tây Dương 164


Biển và đại dương còn có nguồn năng lượng tiềm tàng sinh ra từ các dòng
chảy, hoạt động của thủy triều, gió biển…, cùng với nhiều các tài nguyên khác
chưa được khai thác hay chưa phát hiện hết… Mai đây, con người coi biển là môi
trường hoạt động chính của mình, chẳng kém gì những vùng đất mới khai phá.
Từ lâu con người đã hướng đến việc khai thác các đối tượng thủy sản nhằm
bổ sung cho sự thiếu hụt ngày một tăng của nguồn đạm động vật trên cạn (động
vật nuôi, chim thú, rừng…) nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi dân số đang
trong trạng thái “bùng nổi” và khi nhu cầu dinh dưỡng của con người ngày một
cao.
Các chuyên gia dinh dưỡng đã tính rằng, trong một ngày đêm cong người
đòi hỏi 80 – 100g đạm (Pokrovskii 1964) để duy trì mọi hoạt động bình thường
của mình. Trừ các nước có nền kinh tế phát triển, còn phần lớn cư dân trên thế
giới phải khai thác nguồn đạm chủ yếu từ thực vật (67%). Đạm động vật trong
khẩu phần thức ăn thường thấp, trung bình gồm 24% từ thịt và sữa, 4% từ trứng
và 5% từ cá (Schaefer, 1965). Nhiều dân tộc còn sống nghèo khổ, dưới mức năng
lượng tối thiểu của thế giới (2000 – 3000 kcal/ngày đêm) và luôn luôn đói về
nguồn thức ăn đạm động vật.
Theo Moixev (1969) nếu như coi tỷ lệ đạm động vật trong khẩu phần dinh
dưỡng là 35 – 40% (khoảng 20 – 25g đạm tối thiểu) thì hàng năm chúng ta phải
cung cấp 525 – 660 nghìn tấn đạm động vật để thỏa mãn nhu cầu bình thường cho
72 triệu dân, trong đó nghề cá biển chỉ mới đáp ứng được chừng 30% tổng số.
16
Cá là một trong những đối tượng thủy sản có giá trị về mặt dinh dưỡng.
Ngoài hàm lượng đạm cao, trong cá còn chứa nhiều chất vô cơ, các nguyên tố vi
lượng, axít amin và giầu các loại vitamin A, B
1
, B
2
, B
12

, C, D
3
, D
6
, E…so với các
thực phẩm có nguồn gốc động vật khác thì cá thuộc loại thực phẩm toàn diện,
hàm lượng mỡ thấp, dễ tiêu hóa. Bởi lẽ đó, việc nâng tỷ lệ cá trong khẩu phần
thức ăn của nhiều nước hiện nay không phải chỉ bù đắp sự giảm sút nguồn đạm
động vật mà còn là việc làm định hướng.
Ngoài cá là đối tượng chủ yếu, nghề biển còn tiến hành khai thác hàng loạt
các loài động, thực vật khác, vừa có giá trị làm thực phẩm, làm thức ăn gia súc,
vừa cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp hóa chất, dược liệu…Nhìn
chung, những đối tượng này cũng có hàm lượng đạm cao cùng với nhiều axít
amin không thay thế… có lợi cho đời sống của con người. Chẳng hạn, tỷ lệ đạm
tính theo trọng lượng khô của sò huyết là 59,4%, bào như 49,9, ngao 62,0, sá sùng
65,0% trong khi đó thịt bò chỉ đạt 44,9; thịt cừu 40,5; thịt lợn 34,5%. Bởi vậy,
trong những năm gần đây, thế giới đã khai thác một lượng lớn hải sản (không kể
cá) thuộc các loài động vật không xương sống như: Thân mềm, Giáp xác (khoảng
6% tổng sản lượng đánh bắt), thú biển và rong tảo (4%). Trong nhóm Thân mềm
(Mollusca) thân mềm Hai Vỏ (Bivalvia) chiếm gần 60% (sò, vẹm…), sau đó là
Chân đầu (Cephalopoda) với trên ¾ là mực gần 1/3 là bạch tuộc. Đối với Giáp
xác, tôm chiếm tỷ lệ cao nhất (66%) sau là cua (22%), các đối tượng Giáp xác
khác chỉ chiếm 12%. Như vậy, chia theo dân số trên thế giới, bình quân mỗi
người hàng năm nhận được khoảng dưới 18kg thủy sản các loại.
Ngày nay, trong giai đoạn công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, biển
càng giữ vai trò cực kỳ quan trọng. Biển với tài nguyên đa dạng và phong phú của
mình trở thành tư liệu sản xuất với những ưu thế riêng so với đất liền. Con người
và những hoạt động của nó trên biển đã tạo ra ở đây một hình thái kinh tế mới –
kinh tế biển.


17
Kinh tế biển cùng với kinh tế đồng bằng, kinh tế miền núi tổ hợp nên nền
kinh tế quốc gia thống nhất, đặc trưng cho những nước có biển. Ở nước ta 25 tỉnh,
gần 100 huyện và nhiều thành phố lớn như Hải Phòng, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Quy
Nhơn, Nha Trang, thành phố Hồ Chí Minh… nằm dọc bờ biển là những địa bàn
quan trọng tham gia và sự phát triển của nền kinh tế biển hiện tại cũng như trong
tương lai, đặc biệt là những tam giác kinh tế mới ra đời như Hà Nội – Quảng Ninh
– Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh – Biên Hòa – Bà Rịa Vũng Tàu là tiền đề
nhằm huy động tài nguyên của lục địa và biển cũng như nguồn nhân lực, tài lực
cho sự phát triển kinh tế chung của đất nước.
Kinh tế biển bao gồm trước hết là khai thác và nuôi trồng thủy sản, phát
triển hàng hải, khai thác dầu mỏ và khí đốt, khai thác khoáng sản và hóa chất, mở
mang du lịch và phát triển nông – lâm – nghiệp…sau nữa là phát triển các ngành
dịch vụ, đảm bảo cho những lĩnh vực trên hoạt động một cách đồng bộ như xây
dựng các cơ sở hạ tầng, mở mang công nghiệp đóng và sửa chữa tầu thuyền, chế
biến hải sản, tinh chế dầu mỏ, khoáng hóa chất, xây dựng bến bãi kho tàng cũng
như phát triển các loại dịch vụ khác. Tất cả việc làm trên tựu trung, nhằm tập hợp
khai thác một cách hợp lý thế mạnh tổng hợp của biển, tạo nên những giá trị cao
của nền kinh tế hàng hóa. Trên cơ sở như vậy, kinh tế biển không chỉ tham gia
vào sự phát triển chung của nền kinh tế quốc dân một cách tích cực mà còn tạo
điều kiện trực tiếp để đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế chung của
các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế.
Nghề khai thác thủy sản của nước ta gần nửa thế kỷ qua, mặc dầu có những
thăng trầm nhưng cũng đã đạt được những thành tích đáng kể. Ở giai đoạn từ
1985 đến 1990, nhịp điệu khai thác hàng năm tăng trên 9,0%, đạt sản lượng chung
khoảng 1,1 triệu tấn vào đầu những năm của thập kỷ 90 này. Riêng đối với nghề
cá biển sản lượng khai thác được thống kê ở bảng sau (Bảng 1.5).


Bảng 1.5: Phương tiện và sản lượng hải sản khai thác năm 1992 (theo

Biodiversity Action plan, 1994)
18
Vùng khai thác Số lượng tầu
(chiếc)
Tổng số
mã lực
Mã lực
trung bình
Sản lượng
(tấn)
%
Miền Bắc
Bắc Trung Bộ
Nam Trung Bộ
Nam Bộ (gồm đông
và tây)
6.681
11.708
21.826
14.247
69.449
160.678
348.201
369.877
10
14
16
26
29.220
80.770

226.242
397.712
4
11
31
54
Tổng số 54.462 948.255 17 727.944 100
1.2.2 Những trở ngại và rủi ro do biển gây ra
Ngoài những giá trị lớn lao của mình, biển cũng đem đến cho con người
bao trở ngại, đôi khi cả những tai họa khủng khiếp.
Sóng, gió, dòng biển, nước dâng về mặt nào đó là những phương tiện của
biển luôn luôn công phá đất liền, hủy hoại bờ biển, các vùng dân cư và các thành
phố ven biển.
Sóng xuất hiện trên biển do nhiều nguyên nhân, song sóng gây ra gió thổi
trên mặt biển có tổng năng lượng tới 2,5 tỷ KW. Hàng ngày, những con sóng bình
thường ồ ạt đổ bộ vào các vùng bờ không được bảo vệ đã rửa trôi đất đá và gặm
ngày một sâu vào lục địa. Sóng vỗ vào bờ dựng đứng thường có sức hủy hoại lớn,
áp lực lên đến 20 tấn/m
2
. Khi sóng bật lên cao đã có trường hợp làm vỡ cửa ra vào
của một đèn biển cao 60m. Những sóng lớn có bước sóng dài 250 – 300m lan
truyền với tốc độ lớn, khoảng 75km/giờ, rất nguy hiểm cho thuyền bè ra khơi,
nhất là những ngày biển động và giông bão. Sóng lừng xuất hiện trên mặt biển cả
khi gió giảm với sự dao động có quy tắc của nước biển. Sóng lừng có sức tàn phá
rất mạnh đối với vùng bờ. Từ trung tâm của một cơn bão biển nào đó, sóng lừng
truyền đi khá xa đến hủy hoại một vùng bờ cách đó hàng ngàn cây số. Ở Pêru
người ta đặt tên cho vùng biển của họ hay gặp loại sóng này là Mar-brava, tức là
“Biển Điên”.
Những sóng gây ra do động đất hay sự phun trào của núi lửa dưới đáy biển
gọi là sóng thần (tsunamis), gây ấn tượng mạnh nhất. Chúng có bước sóng rất dài,

19
có thể đạt độ cao 30m so với mực nước biển và lan truyền nhanh, đôi khi với tốc
độ 1700km/giờ. Ở đại dương sóng này chỉ làm cho tầu lắc nhẹ, khó thấy nhưng
càng vào gần bờ, sóng càng cao và càng hung dữ. Trong thời gian phun trào của
núi lửa Cracatau (1883), trên biển hình thành sóng thần. Một ngọn sóng đã hất
một pháo thuyền đậu ở bờ nam đảo Sumatra (Inđônêxia) vào sâu trong đất liền
23km lên độ cao 9m. Một ngọn sóng khác đổ bộ vào vùng bờ thấp ở Meraca trên
đảo Java (Inđônêxia) đạt độ cao thần thoại – 38m, tương đương với ngôi nhà 12
tầng.
Cuộc tranh chấp giữa biển và lục địa diễn ra lúc thì gay gắt, lúc thì thầm
lặng nhưng rất quyết liệt, trong đó còn có sự can thiệp của con người chống lại lục
địa, nơi con người được sinh ra và được nuôi dưỡng. Trong cuộc tranh chấp này,
biển đem mây mưa trút xuống lục địa. Những cơn mưa rả rích kéo dài hay những
trận mưa như trút nước trong các cơn giông bão là những cái chổi thần kỳ, quét
khỏi mặt đất mọi lớp mầu mỡ để ùn ùn đưa ra biển. Những trận thủy chiến như
thế diễn ra triền miên, tới hàng tỷ năm rồi. Các đỉnh núi, cao nguyên, vùng đất
trồng, đồi trọc… bị bóc mòn từng lớp, từng lớp trong khi đó đáy biển được lấp
dần bằng những “chiếm lợi phẩm” do biển công phá lục địa, dày tới hàng ngàn
mét. Tất nhiên, để chống lại, đất phải dựng lên các chiến lũy. Đó là những thảm
rừng biếc xanh. Rừng ngăn cản sự tàn phá của mưa lũ, chống sói mòn và bảo vệ
độ mầu mỡ của đất. Từ đó cuộc tranh chấp giữa biển và lục địa trở nên cân bằng.
Song, khi nhân loại trở nên đông đúc, những đòi hỏi nguồn tài nguyên thiên nhiên
cho cuộc sống của mình ngày một cao, con người đã đốn hạ rừng, san bằng các
“chiến lũy” mà đất dựng lên, tạo ra hàng triệu ha đất trồng đồi trọc… để cho biển
lại hủy hoại đất ngày một mãnh liệt. Trên lãnh thổ nước ta, rừng trên cạn bị thu
hẹp tới con số báo động (dưới 30% độ che phủ), rừng ngập mặn ven biển chỉ còn
lại rừng thứ sinh và mới trồng với diện tích khoảng 50% so với nửa thế kỷ trước
là những bằng chứng về tội lỗi của con người đối với đất.
Cùng với sóng cả và mưa thường xuyên công phá đất liền, những cơn lốc
chợt đến, chợt đi và những trận bão nhiệt đới gần như xuất hiện có chu kỳ hàng

20
năm thường gây nên những tai họa lớn cho các tỉnh duyên hải và những vùng lân
cận.
Theo thống kê nhiều năm (Phạm Ngọc Toàn và Phan Tất Đắc, 1993),
khoảng 40% số cơn bão được hình thành ở Biển Đông và Thái Bình Dương đổ bộ
vào bờ biển nước ta trong khoảng thời gian từ tháng VI đến tháng XII. Bão đi vào
các tỉnh duyên hải miền Bắc thường sớm hơn. Càng dịch xuống phía nam, bão
muộn dần và đến đều giảm Tây Nam Bộ hầu như không có bão. Nhiều cơn bão
gây ra gió rất lớn, tới 40 – 50m/giây, nghĩa là khoảng 144 – 180km/giờ ứng với
gió trên cấp 12, kèm theo mưa to (200 – 400mm) có khi rất to (500 – 600mm
hoặc hơn nữa). Sự kết hợp gió mạnh với mưa lớn trên một vùng rộng thường gây
ra những thiệt hại đáng kể cho sản xuất và đời sống.
Gió bão còn cuốn theo một khối nước khổng lồ, làm mực nước biển dâng
cao 1,5 – 2,0m so với mực nước bình thường, nhất là ở tâm bão. Khi vào đất liền,
những “cây nước” được bão mang theo phá phách rất mãnh liệt. Trong trận bão
lịch sử ngày 21 – 9 – 1955 đổ bộ vào địa phận Hải Phòng – Kiến An đã dìm sâu
một vùng rộng lớn nằm sâu trong đất liền 10 – 12km xuống dưới lớp nước mặn
dầy 2 – 4m. Bão gây ra gió giật và đổi chiều, kéo dài từ 6 đến 15 – 16 ngày với
các cấp gió khác nhau. Do vậy, nhiều công trình xây dựng, đê kè, cột điện, cây
cối… bị đổ gãy, đồng ruộng, làng mạc bị ngập chìm. Những thiệt hại tính được
rất to lớn, phải nhiều năm mới bù đắp nổi.
Bên cạnh những tác hại do các điều kiện cơ học của biển gây ra, nước biển
và sinh vật biển còn hủy hoại các công trình trên biển bằng các cách riêng của
mình. Quá trình ăn mòn của nước biển hay sự đục phá của các sinh vật biển diễn
ra một cách chậm chạp và âm thầm song không kém gay gắt. Nước biển và sinh
vật biển hợp tác với nhau làm mục ruỗng các công trình bằng gỗ như tầu, thuyền,
cọc đê kè, cầu cảng. Khi bám vào vỏ tầu, rong tảo, giun, hầu, hà… không chỉ làm
hoen gỉ vỏ sắt, tạo điều kiện cho nước mặn “gặm, nhấm” kim loại mà còn làm
tăng trọng tải của tầu, làm giảm tốc độ tầu tới 50%, đồng thời làm tốn thêm đến
30% nhiên liệu, nhất là ở các vùng biển nhiệt đới. Sinh vật biển còn gây hiện

21
tượng nước phát sáng khi tầu thuyền di chuyển ban đêm. Đây cũng là một trong
những trở ngại đối với các hoạt động quân sự trên biển.
Nói chung, những tác hại do biển gây ra cũng rất đa dạng và nghiêm trọng.
Song, trong cuộc sống của mình, con người cũng dần nhận thức được và dần biết
chế ngự để từng bước chinh phục biển một cách có hiệu quả hơn, mặc dầu, đến
nay trước chúng ta, biển và dại dương còn chứa đựng bao điều bí mật

CHƯƠNG II
TÀI NGUYÊN BIỂN
2.1
Dòng năng lượng và chu trình khoáng chất
Biển Đông là một hệ sinh thái khổng lồ. Trong quá trình phát sinh và phát triển,
Biển Đông đã trải qua bao biến đổi cực kì lớn lao. Sinh vật tồn tại trong biển cũng qua
một quá trình tiến hóa lâu dài, dưới sự kiểm soát của quy luật chọn lọc tự nhiên, đã thích
nghi với điều kiện sống muôn hình muôn vẻ tại đây. Những quần xã sinh vật, tức là
những sinh vật thuộc các loài khác nhau cùng sống trong một vùng nhất định (biotop),
có quan hệ với nhau trên cơ sở vật dữ và mồi, trong hoạt động sống của mình, khi tương
tác với các điều kiện đặc trưng của biển đã tạo nên chu trình vật chất và sự chuyển hóa
năng lượng với quy mô hành tinh, lôi cuốn mọi nguyên tố hóa học, mọi vật chất vào
vòng luân chuyển để tạo ra khối lượng lớn các chất hữu cơ dưới dạng thực vật và động
vật.
Biển Đông nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa điển hình, có thềm lục địa rộng
lớn, đồng thời đặc trưng bởi khu hệ sinh vật giàu có thuộc vùng An Độ – Tây Thái Bình
Dương. Đó là ưu thế để tạo nên tính đa dạng sinh học (Biodiversity) và sự hình thành
năng suất sinh học ccao của Biển Đông so với các vùng biển khác trên thế giới.
Theo các số liệu quan trắc, hàng năm, Biển Đông có số lượng ngày nắng gắt,
chẳng hạn, ở ven biển Bắc Bộ thường là từ 1400 đến 1600 giờ, ven biển Phan Thiết
2414 giờ và thành phố Hồ Chí Minh – 1983 giờ, đồng thời trên một xentimet vuông bề
mặt biển, trung bình hằng năm nhận khoảng gần 200Kcal năng lượng bức xạ Mặt trời.

Trong khi đó ở các biển thuộc các vĩ độ cao, năng lượng đó giảm đi nhiều: 80Kcal/cm
2

22
đối với vùng cực và 120-160Kcal/cm
2
đối với các vùng biển ôn đới. Đối với Biển Đông
cũng như mọi nơi khác của miền nhiệt đới và xích đạo, nguồn năng lượng này quả là
giàu có mà chúng ta chưa có những thấu kính khổng lồ để thâu tóm, biến nó thành các
dạng năng lượng khác phục vụ cho đời sống, cho nên chúng ta đành để lãng phí! Hoàn
toàn không phải do ta chưa có ngành quang học hiện đại để chế tạo thấu kính mà chính
chúng ta chưa có ý thức sử dụng nguồn năng lượng này một cách hữu hiệu. Một mét
vuông đồi trọc được phủ xanh, một mặt nước được nuôi cấy các thực vật thích hợp thì
trên một diện tích lớn của lục địa, đầm hồ, thềm biển… chắc chắn sẽ thu được nguồn
năng lượng khổng lồ dưới dạng các hợp chất hữu cơ chứa năng lượng.
Ngoài năng lượng chủ yếu của mặt trời, Biển Đông còn nhận được những nguồn
năng lượng khác dưới các dạng nhiệt của bản thân Trái Đất, của các quá trình hóa sinh
và sự phân hủy các chất phóng xạ.
Tất nhiên, toàn bộ năng lượng mà biển tiếp thu được từ bức xạ Mặt Trời và từ
những nguồn khác, đã làm cho khối nước ấm lên, làm cho các chất hữu cơ được thành
tạo bởi các quần xã sinh vật. Bức xạ Mặt Trời, khi xâm nhập vào biển, thường bị hấp
phụ một cách mau chóng ngay trên lớp nước bề mặt. Ở những vùng biển khơi, độ trong
lớn, lớp màng (khoảng 1cm) đã nhận khoảng 27% tổng lượng bức xạ. Ở lớp dày 1m
năng lượng bị hấp thụ tới 62%, chỉ còn khoảng 0,45% có thể xâm nhập xuống lớp sâu
100m.
Tại vùng gần bờ, do ảnh hưởng của nước lục địa, độ trong giảm, năng lượng bức
xạ bị hấp phụ hầu như hoàn toàn ngay trên các lớp nước tầng mặt. Ở những độ sâu 15-
30m chỉ còn nhận chừng 1% tổng lượng của nó. Chính vì thế, tầng nước giàu có của
biển và đại dương không nằm ở dưới những lớp nước sâu, mà thường tập trung trên tầng
nước từ 0 đến 50-60m hoặc sâu hơn một chút đối với vùng nước trong. Ở những độ sâu

này, nhiệt độ không quá thấp, lại có đầy đủ ánh sáng nên thực vật thủy sinh có điều kiện
phát triển, tạo ra cái gọi là tầng sinh dưỡng. Tất nhiên, với độ sâu nước thuộc thềm lục
địa và tầng mặt (epipelagic) của các biển và đại dương.
Bức xạ Mặt Trời, khi xâm nhập vào biển, đã mau chóng hâm nóng lớp nước bề
mặt. Nước truyền nhiệt rất kém, bởi vậy, nếu như không có các quá trình khác hỗ trợ thì
sự chênh lệch nhiệt độ giữa những lớp nước bề mặt và sâu dưới đáy đại dương quả là rất
lớn. Tuy nhiên, trong biển cũng có quá trình điều hòa nhiệt độ mà chính nhờ quá trình
đó, dưới đáy sâu các biển và đại dương không có cảnh băng giá và hoang vắng như
những sa mạc chết. Đối với sự điều hòa nhiệt giữa các lớp nước, các dòng giữ vai trò rất
23
quan trọng. Có thể coi chúng là nhân tố chủ yếu phân bố lại nhiệt trong các biển và đại
dương theo chiều ngang cũng như chiều thẳng đứng.
Theo các số liệu điều tra ở Biển Đông, vào thời kỳ mùa khô, tại khơi đảo Hải
Nam sự chênh lệch về nhiệt độ nước giữa các lớp nước mặt và sát đáy là 4,8
0
C; vào mùa
mưa, trị số đó cao hơn gần gấp hai lần. Tại các nơi khác như khởi Cửu Long, vịnh Thái
Lan, khơi Boocnêo và Sumatra, tương ứng với các mùa, sự chênh lệch nhiệt độ giữa
tầng mặt và tầng đáy thấp hơn nhiều, thường là: 3,3-3,7
o
C; 1,2-1,9
o
C; 6,2 và 1,6
o
C trong
khi nhiệt độ nươc sở tầng đáy của các vùng kể trên không quá lạnh, trung bình dao động
từ 19,6 (khơi Hải Nam) đến 27,2
o
C (khơi Sumatra) (Kyoshi Maru, 1968 – 1974).
Sự trao đổi nhiệt giữa các lớp nước ở gần bờ xảy ra mạnh mẽ hơn còn do sóng và

thủy triều. Đối với vùng nước ngoài khơi, trừ những nơi xuất hiện dòng nước trồi hoặc
nước lặn, thường trong tầng nước hình thành sự phân tầng của nhiệt độ. Lớp nước trên
mặt có nhiệt độ cao hơn một lớp nước đệm, mà ở đó có sự thay đổi đột ngột của nhiệt
độ. Lớp nước đệm này đối với các vực nước miền ôn đới thường xuất hiện vào thời kỳ
xuân – hè. Đến đầu mùa thu, lớp nước bề mặt lạnh dần và chìm xuống, nước đáy lại trồi
lên, xóa hẳn sự chênh lệch nhiệt độ giữa các lớp. Còn trong các vùng biển ở vĩ độ thấp,
lớp nước đệm tồn tại quanh năm. Lớp này, nói chung thường nằm cách mặt nước 50-
60m hoặc sâu hơn nữa, được coi là một ngăn cách sinh học đối với các nhóm sinh vật
thích ứng với các chế độ nhiệt khác nhau đồng thời cản trở sự xáo trộn thẳng đứng của
khối nước. Do vậy, năng lượng sinh học của các lớp nước tầng mặt thấp vì thiếu nguồn
muối bổ sung từ đáy lên.
Bên cạnh kho năng lượng quý báu có nguồn gốc vũ trụ ấy, Biển Đông còn nhận
nguồn vật chất dồi dào từ lục địa. Đó là muối khoáng, những nguyên liệu cần thiết để
xây dựng nên cơ thể của mọi sinh vật.
Từ quá khứ xa xăm hàng tỷ năm về trước, những trận mưa lớn kéo dài thế kỷ, rồi
sau này những trận mưa trung bình, rả rích cùng với những cơn giông, bão…, nước đã
bào mòn mặt đất và lôi cuốn vào biển tất cả những màu mỡ, rất giàu muối khoáng. Do
vậy, biển có đủ mặt những gì mà mặt đất có, ngoài những sản phẩm riêng của mình.
Hơn nữa, theo nguyên tắc nước chảy chỗ trũng, lượng muối được tích tụ trong biển còn
cao hơn nhiều so với một số vùng trên mặt đất. Muối khoáng trong biển rất đa dạng, bao
gồm hầu hết các nguyên tố hóa học có trong bảng tuần hoàn Menđêlêev. Muối chính của
nước biển là muối ăn (NaCl). Muối ăn cùng với các muối của nhóm halogen làm cho
nước biển có vị mặn, chát nồng. Song, quan trọng hàng đầu với đời sống của thủy sinh
24
vật là các muối nitơ, phospho, silic, kali, canxi, mangan, manhê, đồng, sắt, brôm, I
ốt,… hòa tan trong nước.
Thông qua sự trao đổi chất, sinh vật lấy nguyên tố hóa học dưới dạng muối từ
môi trường để xây dựng cơ thể. Ngoài cacbon, hydro, oxy chứa trong cacbonic và nước,
những thành viên tham gia vào quá trình quang hợp, tạo nên đường thì nitơ, lưu huỳnh
hình thành nên các protit. Phospho có mặt trong axit quan trọng, axit nuclêic, đảm bảo

nhiệm vụ truyền đạt các thông tin di truyền. Phospho còn có trong ATP (andenozin
triphosphat), chất tích tụ năng lượng cho chất sống. Silic tham gia vào thành phần vỏ
của tảo silic v.v…
Nhiều các nguyên tố khác, tuy không chứa khối lượng lớn trong cơ thể, nhưng sự
có mặt của chúng lại có vai trò cực kỳ quan trọng đối với hoạt động sống của sinh vật:
sắt trong phân tử của hemoglobin, manhê trong phân tử của clorophin, những chất khác
trong thành phần của các men, các hocmôn v.v…
Muối có vị trí lớn như vậy đối với đời sống của sinh vật nên những nơi nào
nghèo muối, nơi đó có sự sống nghèo nàn, nơi nào giàu muối, nơi đó sự sống trở nên sôi
động và phong phú hơn.
Biển nhận muối khoáng từ nhiều nguồn. Một số muối được hình thành bởi những
phản ứng hóa học, dưới tác dụng của một dòng điện mạnh trong những tia chớp xanh lè
của những cơn giông. Một số xuất hiện do những thiên thể bay vào tầng khí quyển dày
đặc, bị bốc cháy rồi lả tả rơi xuống mặt biển và đại dương. Những loại loại muối được
hình thành như vậy đều gộp vào một nhóm muối có nguồn gốc vũ trụ. Có một số muối
lại xuất hiện sau những trận phun trào của núi lửa, số khác có nguồn gốc sinh học, nghĩa
là được tạo ra do hoạt động sống của sinh vật hoặc do sự hủy hoại của những cơ thể đã
chết.
Song, nguồn muối của biển và đại dương như trên đã nói tới, chủ yếu có nguồn
gốc từ lục địa. Lượng muối này có khối lượng rất lớn, tạo nên sự giàu có của biển và đại
dương.
Trên dọc bờ phía tây của Biển Đông, hai hệ thống sông lớn: sông Hồng và sông
Cửu Long cùng với bao con sông khác, hằng năm cung cấp cho biển hàng trăm tỷ mét
khối nước ngọt cùng hàng trăm triệu tấn cát, phù sa giàu có các loại muối dinh dưỡng.
Người ta tính rằng, trong một mét khối nước của sông Hồng chứa tới 14,0g đạm
và 2,8-3,5g mùn, còn nước của sông Cửu Long trung bình chứa 2,4g đạm và 0,6g lân và
các muối hòa tan khác như canxi, manhê v.v. (Nguyễn Viết Phổ, 1983). Và như vậy, các
25
hệ thống sông Hồng, sông Cửu Long với tổng lượng nước tương ứng hàng năm 140-500
tỉ mét khối đã chuyên chở vào Biển Đông và những vùng châu thổ của nó khoảng

1,96.10
6
– 1,2.10
6
tấn đạm nguyên chất.
Rõ ràng, các dòng sông, không chỉ làm nên những cánh đồng màu mỡ ở hai đầu
đất nước, như hình ảnh một gánh lúa đầu mùa mà còn như dòng sữa mát nuôi sống cả
thế giới sinh vật Biển Đông, tạo nên nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và tiềm
tàng trong tầng nước cũng như trong lòng đất và trên bề mặt của thềm lục địa.
Do nhận được lượng muối khổng lồ từ các nguồn khác nhau, tầng nước Biển
Đông bao quanh lục địa nước ta rất phì nhiêu, không kém những vùng đất màu mỡ của
các châu thổ. Ở nhiều nơi, người ta thấy, hàm lượng các muối chứa nitơ vượt quá mức
bình thường, trên 20 mgN/m
3
(muối nitrit). Muối silic dao động trong khoảng từ 10 đến
100mg Si/m
3
nước. Muối phospho có số lượng thấp hơn nhưng cũng không dưới vài ba
chục miligam (tính theo P
2
O
5
) trong một mét khối nước.
Những sinh vật của Biển Đông do đó, đã tắm mình trong dung dịch thức ăn, chứa
chan ánh sáng, chẳng như những cây xanh trên mặt đất phải cố vươn cành, xòa tán để
đón ánh nắng mặt trời và buộc phải kéo dài bộ rễ, cắm sâu vào lòng đất để chắt chiu
nguồn vật chất nghèo nàn vẫn đang mất dần do bị rửa trôi và kết vón.
2.2 Thực vật và sản lượng sinh vật sơ cấp

Dọc bờ biển nước ta, từ vùng trên triều đến vùng dưới triều đều có những thuận

lợi cho đời sống của nhiều tảo bám. Đến nay, theo các tài liệu tổng kết (Nguyễn Văn
Tiến, 1994) trong vùng nước ven bờ đã phát hiện được 653 loài rong biển, 24 biến loài,
20 dạng, trong đó ở miền Bắc có trên 300 loài, còn ở miền Nam – trên 500. Ngành rong
Đỏ thường đa dạng nhất, chiếm ưu thế về số lượng loài (310 loài), sau là rong Lục (151
loài), rong nâu (124 loài), rong Lam có số lượng loài ít nhất. Trong chúng, 90 loài (gần
14% tổng số) là những đối tượng kinh tế quan trọng cho các ngành công nghiệp hóa
chất, dược liệu, thực phẩm, thức ăn cho chăn nuôi và dùng làm phân bón. Các loài thuộc
rong Câu (Graccilaria) và rong Nữ (Sargassum) thường có giá trị bậc nhất như rong câu
chỉ vàng (G.asiatica), rong câu thắt (G.blodgettii), rong đông (Hypnea japonica,
H.boergesenii), rong mơ sừng (S.siliquosum), rong mơ lá tiêm (S.meclurei), rong mơ
phao cánh (S.kjellmanianum), rong mơi nhánh bó (S.polycystum). v.v…

×