Cây thuốc có một vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống con người. Không
chỉ được sử dụng trực tiếp mà nó còn là nguồn nguyên liệu vô vùng quý giá cung
cấp cho sản xuất và bào chế thuốc nhằm phục vụ chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.
Với lợi thế về vị trí địa lý, đa dạng địa hình đã tạo cho Việt Nam điều kiện
đa dạng về vùng khí hậu và đất đai, do đó chúng ta có nguồn tài nguyên sinh vật rất
phong phú, có nhiều loài động thực vật được sử dụng để làm thuốc.
Hiện nay đời sống con người được nâng cao, nhu cầu chăm sóc sức khỏe
con người cũng ngày càng tăng lên, mặt khác sự xuất hiện và diễn biến phức tạp
của các căn bệnh mới yêu cầu càng ngày càng phải có nhiều loại dược liệu mới, với
số lượng lớn cung cấp cho ngành công nghiệp sản xuất thuốc. Vì vậy, những năm
gần đây các nhà khoa học không ngừng nghiên cứu, đẩy mạnh phát triển cây thuốc
vào sản xuất. Trong số đó, một số loài cây thuốc thuộc chi Phyllanthus đang rất
được quan tâm. Diệp hạ châu đắng (Phyllanthus amarus Schum. Et Thonn.) với tác
dụng ức chế DNA polymerase của virus viêm gan B và virus viêm gan khác, bảo
vệ tế bào gan, gây hạ đường máu, hạ áp ở người [3]. Chó đẻ răng cưa (Phyllanthus
urinaria L.) với tác dụng điều trị nhiều loại tế bào ung thư mà không có tác dụng
phụ độc trên các tế bào bình thường, ức chế sự nhiễm virus Herpes simplex – 2
[12].
Hiện nay đã có nhiều loại thuốc và biệt dược được sản xuất ra từ các loài
trên như Fenlinat, VG – 5, Livlilnic, Diệp hạ châu, trà túi lọc Diệp hạ châu…đặc
biệt chúng có thể được sử dụng làm thuốc mà không cần kết hợp với dược liệu nào
khác. Các sản phẩm đã được cấp phép của Bộ Y tế, được bán rộng rãi trên thị
trường và được người tiêu dùng đón nhận.
Tuy là những loài cây thuốc rất có giá trị nhưng cho đến nay vẫn chưa có
nghiên cứu nào được công bố về quy trình trồng trọt chính thức cho các loài này tại
Việt Nam. Do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật trồng
1
trọt nhằm góp phần xây dựng quy trình trồng trọt cho các loài diệp hạ châu
Xuất phát từ lý do đó, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên
cứu ảnh hưởng của mật độ và thời vụ đến sinh trưởng, phát triển, năng suất và
hàm lượng hoạt chất Phyllanthin của hai loài Diệp hạ châu thuộc chi
Phyllanthus trong điều kiện vụ xuân tại Gia Lâm – Hà Nội”.
1.2.1 Mục đích
Xác định được mật độ trồng, thời vụ thích hợp giúp cây Diệp hạ châu sinh
trưởng, phát triển tốt, đạt năng suất và chất lượng dược liệu tốt.
1.2.2 Yêu cầu của đề tài
- Đánh giá ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng phát triển, mức độ
nhiễm sâu bệnh và năng suất của 2 loài Diệp hạ châu
- Đánh giá ảnh hưởng của thời vụ đến sinh trưởng phát triển, mức độ nhiễm
sâu bệnh và năng suất của 2 loài Diệp hạ châu
- Đánh giá ảnh hưởng của thời vụ đến hàm lượng hoạt chất Phyllanthin của 2
loài diệp hạ châu
2
!"#$%!&'(
)*)+,-./+, 01234 556
57 ) 8
2.1.1 Nguồn gốc, phân bố chi Phyllanthus L.
Chi Phyllanthus L. Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbicaceae), bộ Thầu dầu
(Euphorbiales), lớp Ngọc lan (Magnoliopsida), ngành Ngọc lan
(Magnoliophyta). [1], [2], [7], [18], [4], [5], [33], [7], [34].
Họ Thầu dầu, với khoảng 283 chi và 7300 loài, phân bố rộng rãi khắp thế
giới, tập trung o ở Brazil và Ấn Độ, Mã Lai [33], [8]. Ở Việt Nam, họ Thầu dầu
có 79 chi và 459 loài. Riêng chi Phyllanthus, ở nước ta có tổng số 53 loài đã biết
đến, trong đó có 47 loài được dân gian gọi là Diệp hạ châu như: Diệp hạ châu
Phú Quốc, Diệp hạ châu Trừng, Diệp hạ châu Ấn có 7 loài đã được dân gian sử
dụng làm thuốc từ lâu đời, trong đó có 4 loài được sử dụng làm thuốc chữa bệnh
gan và các bệnh có liên quan tới gan là: P. emblica, P. amarus, P. urinaria L.
var . urinaria, P. urinaria var. nudiscapa Ross.& Haic. [16].
2.1.2 Đặc điểm thực vật học của chi Phyllanthus L
Chi Phyllanthus là một chi có số lượng loài rất đa dạng, đồng thời đặc
điểm thực vật học trong loài cũng rất đa dạng và phong phú.
Đặc điểm chung của của chi là:
Về dạng thân, lá: thân gỗ, bụi nhỏ, bụi vừa hay thân thảo. Lá mọc cách,
đơn, nguyên, có cuống hay không có cuống, có lá kèm
Cụm hoa: cụm hoa mọc ở kẽ lá hay nách lá. Hoa nhỏ, không cánh. Hoa
đơn tính, cùng gốc, hiếm khi khác gốc.
Hoa đực: Đài 4 – 6, kiểu tiền khai hợp. Đĩa mật hình dạng khác nhau,
hiếm khi không có. Nhị 2 – 5, chỉ nhị rời hay nhị dính liền, bao phấn hình trứng
hay hình cầu, bao phấn hai ô song song hay tách ra, mở dọc, mở chéo hay mở
ngang. Trên hoa đực đôi khi còn có vết tích bộ nhụy
3
Hoa cái: Đài 4 – 6 hay nhiều hơn. Đĩa mật được hình thành rất khác nhau
hiếm khi không có. Bộ nhụy: bầu có 3 ô, hiếm khi 4 – 6 ô. Vòi nhụy rời hay
liền, nguyên hoặc chẻ đôi ở hai đầu, mỏng hay dày và mở rộng ở đỉnh. Mỗi ô có
hai noãn xếp chồng hay xếp bên.
Quả: Quả là quả nang, khi chín chia 3 mảnh vỏ, mỗi mảnh 2 van, có hoặc
không có vỏ ngoài, hiếm khi có quả nạc hay quả mọng hay quả hạch một ô.
Hạt: Hình 3 cạnh (góc), không có mồng, lớp vỏ nang cứng, phôi nhũ nạc,
phôi thẳng hay hơi cong, lá mầm dày.
Theo nghiên cứu của tiến sĩ thực vật học Nguyễn Nghĩa Thìn [18], chi
Phyllanthus là chi lớn nhất với 700 loài, phân bố khắp nơi đặc biệt là tập trung ở
vùng Đông Nam Á và ở vùng nhiệt đới của Nam Mỹ. Ở Việt Nam có 46 loài
thuộc 5 phân chi:
- Kiranelia: Thân bụi, lá mọc cách, có lá kèm. Cụm hoa dạng bó ở nách lá.
Lá đài có 5 – 6. Đĩa mật tồn tại. Nhị 5 tự do hoặc dính, bao phấn 2 ô, mở dọc.
Bầu 3 ô, quả nạc. Ở Việt Nam phân chi này chỉ có một loài.
- Cicca: Cây thân gỗ và thân bụi. Lá đơn, mọc cách, có lá kèm. Hoa thành
bó ở nách lá hoặc ở trên những cành không có lá. Lá đài thường 4 ít khi 5 – 6.
Cánh tràng không tồn tại. Nhị 4, tự do hặc dính liền. Bầu 3 ô hoặc 5 ô. Quả nang
hoặc quả nạc. Ở Việt Nam phân chi này tồn tại 6 loài.
- Phyllanthodendron: Lá đài kéo dài ở đỉnh, gần như có gờ ở mặt lưng,
không có đĩa mật thực sự hay nói cách khác chính xác hơn các lưỡi daì, hẹp mọc
xen kẽ với các thùy của đài loài như là những tuyến; vòi nhụy thường dày và
không chia thành rãnh. Phân chi này ở Việt Nam có 8 loài
- Phyllanthus: Hoa đực có 3 nhị, bao phấn không hoặc có trung đới ngắn ở
đỉnh. Lá đài không có gờ ở mặt lưng và không kéo dài ở đỉnh. Hoa cái có vòi
nhụy tự do và dính ở các mức độ khác nhau, vòi nhụy phân chia hoặc phân chia
nhưng không dày, có khía ở mặt trên. Ở Việt Nam phân chi này có 16 loài
4
- Eriococcus: Hoa đực có 4 đài, hai nhị bé và không cuống. Hoa cái có 4 –
6 đài. Ở Việt Nam phân chi này có 13 loài.
2.1.3 Đặc điểm thực vật 2 loài nghiên cứu
2.1.3.1 Phyllanthus amarus Schum. & Thonn.(Chó đẻ thân xanh, diệp hạ châu
đắng)
Cây thảo, cao 10 – 40 cm, ít phân cành, màu lục. Lá mọc so le, xếp
hai dãy đều trên cành trông như một lá kép lông chim, gốc tròn, đầu tù hơi nhọn,
hai mặt nhẵn, mặt trên màu lục sẫm, mặt dưới mốc. Hoa đơn tính mọc ở kẽ lá,
không có cánh hoa, màu lục nhạt, hoa đực có cuống ngắn xếp ở dưới hoa cái,
hoa cái có cuống dài. Quả nang, hình cầu, nhẵn, hơi dẹt, chia thành 3 mảnh vỏ,
mỗi mảnh vỏ có 2 van chứa 2 hạt. Hạt hình tam giác, đường kính 1mm, có cạnh
dọc và vân ngang. Mùa hoa tháng 4 – 6, mùa quả tháng 7 – 9. [9].
Diệp hạ châu đắng có nguồn gốc xa xưa ở vùng nhiệt đới Nam Mỹ và
hiện nay thấy phân bố ở khắp các vùng nhiệt đới cổ. Ở Châu Á, vùng phân bố
của diệp hạ châu đắng gồm các nước Ấn Độ, Malaysia, Philippin, Indonesia,
Thái lam, Campuchia, Lào, Việt Nam, Nam Trung Quốc và cả ở vùng đảo
Salawesi. Ở Việt Nam, diệp hạ châu đắng cũng thấy ở khắp nơi, từ các tỉnh ở
vùng đồng bằng, ven biển, các đảo lớn, đến các tỉnh ở trung du và miền núi có
độ cao dưới 800m, ở các nước Đông Nam Á, độ cao phân bố này có thể lên đến
1000m
Diệp hạ châu đắng là cây ưa sáng và có thể hơi chịu bóng khi còn nhỏ
hoặc mọc xen lẫn với các loài cây cỏ khác. Cây thường mọc ở đất ẩm trong
vườn, ruộng trồng hoa màu, ven đường đi hay trên nương rẫy. Cây con mọc từ
hạt thường xuất hiện vào khoảng cuối xuân, sinh trưởng nhanh trong vòng 2
tháng của mùa hè, sau đó ra hoa quả và tàn lụi. Toàn bộ vòng đời của cây chỉ
kéo dài 3 – 4 tháng, hạt của cây diệp hạ châu tồn tại trên đất 7 – 8 tháng vẫn còn
sức nãy mầm. [3]
5
Toàn bộ cây (trừ rễ) đều được sử dụng để làm thuốc, có thể dùng tươi
hoặc sấy khô. [3]Theo Phạm Hoàng Hộ, Phyllanthus amarus Schum.& Thonn là
cây cỏ nhất niên, cao đến 60cm, thân tròn, láng, nhánh ngắn daì 5 – 6cm, mang
lá nhỏ. Lá có phiến tròn dài, to 5-11 x 3-6, tù hai đầu, gân phụ mảnh, có 4 cặp
gân; lá bẹ hẹp, nhọn. Hoa ở nách lá, lá đài 5, tuyến mật nhiều thùy. Quả nang
tròn to 3mm, hạt có sọc dọc ở lưng, n = 13. [16]
Đặc điểm vi phẫu thân của loài P. amarus so với loài P. urinaria L. Không
khác nhau nhiều, ngoại trừ ở P. urinaria L. có các mấu lồi và vòng gỗ gồm các
mạch gỗ kích thước đều nhau, xếp thành hàng khác nhau [9].
2.1.3.2 Phyllanthus urinaria L. (Chó đẻ răng cưa, cam kiềm, rút đất, chó đẻ)
Theo Đỗ Tất Lợi và cộng sự [11], Phyllanthus urinaria L. hay còn có tên
gọi là diệp hạ châu, diệp hòe thái, Lão nha châu, Prak phle (campuchia) được
mô tả là một loại cỏ, mọc hàng năm, cao khoảng 30cm, mọc thẳng đứng, mang
cành, thường có màu đỏ. Lá mọc so le, lưỡng hệ, trông loài như lá kép, phiến lá
thuôn, dài 5 – 15 mm, rộng 2-5mm, đầu nhọn hay hơi tù, mép lá nguyên nhưng
hơi có răng cưa rất nhỏ, mặt dưới màu xanh lơ, không có cuống hay có cuống rất
ngắn. Hoa mọc ở kẽ lá, nhỏ, màu nâu đỏ, đơn tính, hoa đực hoa cái cùng gốc,
hoa đực ở đầu cành, hoa cái ở gốc cành. Hoa không có cuống hoặc có cuống rất
ngắn. Đường kính quả có thể đạt tới 2mm, treo lủng lẳng dưới lá do đó có tên
diệp hạ châu, hạt 3 cạnh, hình trứng, màu nâu nhạt, có vân ngang.
Về phân bố, Chó đẻ răng cưa mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta cũng
như khắp các nước vùng nhiệt đới.
Người ta dùng toàn cây để làm thuốc. Mùa thu hái quanh năm nhưng tốt
nhất là vào mùa hạ
6
!-94
2.2.1 Phyllanthus amarus Schum. & Thonn.
Trong lá Phyllanthus amarus Schum.& Thonn chứa một chất đắng là
Phyllanthin, không có quinin hoặc alcaloid khác. Lá khô chứa các chất đắng
hypophyllanthin (0,05%) và phyllanthin (0,35%) gây độc đối với cá và ếch.
Ngoài ra, trong cây có chứa niranthin, nitetralin và phyteralin. [6]
Người ta còn phát hiện trong cây có các lignan, flavonoid và các alkaloid
kiểu securinin: niuroidin, isobubbialin, epibubbialin, chất amariinic acid, một
loại ellgitannin, cùng với elaeocarpusin, geraniiic acid B và repandusinnic acid
A I-O-galloyl-2,4-dehydrohexahydroxydyphenoyl – glucopyranose. [31], [32],
35].
Foo-Ly đã tách được, 1,6-digalloylglucopyranosid, amariin geranniin,
corilagin, cũng như rutin, quercetin-3-O-glucopyranosid từ phân đoạn phân cực
của phyllanthus amarus. [32]
Mới đây, khi nghiên cứu thành phần khoáng của cây, Vũ Văn Vụ đã xác
định trong cây có mặt Gd, La, Ce có khả năng tạo phức có hoạt tính chống ung
thư. Các kim loại nặng độc đều có hàm lượng rất thấp, chỉ có Cu và Zn là các vi
lượng trội hơn. Hàm lượng K trung bình cao (1,8%), điều này liên quan đến tác
dụng mát gan lợi tiểu của cây thuốc. [24]
2.2.2 Phyllanthus urinaria L.
Trong loài P. urinaria L. có mặt các acid, triterpen, một vài alkaloid và các
dẫn xuất phenol. Gần đây, từ lá người ta đã phân lập được acid ellagic, acid
gallic, một acid phenolic và một flavonoid, chất thứ nhất không tan trong nước,
các chất sau tan trong nước nóng, còn một chất gọi là coderacin. [6]
Theo Trần Công Khánh, một tác giả người Trung Quốc đã phân lập từ cây
này được một số hợp chất, trong đó có 2 chất được xác định là methylester
dehydrochebulic và carboxylat methyl brevifolin.
7
Gần đây, trong công trình nghiên cứu khoa học về thành phần hóa học của
2 loài Phyllanthus amarus và Phyllanthus urinaria [9], Thạc sĩ Lê Việt Dũng và
cộng sự đã phân lập được 3 chất mới là: HQ, DUNG 1, DUNG 4. Căn cứ vào
những phổ thu được dự kiến chúng có thể là các polyphenol, trong đó DUNG 4
có thể có cấu trúc flavonon. So sánh thành phần hóa học giữa 2 loài, anh khẳng
định: hai loài này đều có tannin, flovonoid, đường khử, acid hữu cơ, carotene,
trong đó tannin và flavonoid là thành phần chính, nhưng ở loài P. amarus còn có
alkaloid, sự khác biệt này cũng có thể giúp cho việc phân biệt hai loài này qua
phản ứng định tính.
Cả hai loài này đều có hàm lượng tanin rất cao (P. amarus: 7,78%; P.
urinaria: 9,11%), điều này đã phần nào lý giải tính sát trùng, giải độc và chống
viêm của chúng và có liên quan đến tác dụng chữa viêm gan do tác dụng ức chế
enzyme polymerase DNA nội sinh của virus viêm gan B. [9]
:!;<)<=>5?6@<)
2.3.1 Phyllanthus amarus Schum & Thonn.
2.3.1.1 Tác dụng dược lý
Cây Diệp hạ châu đắng có vị hơi đắng, tính mát, có tác dụng tiêu độc, sát
trùng, tán ứ, thông huyết, điều kinh, lợi tiểu, thông sữa. [3]
Cao Diệp hạ châu đắng có tác dụng bảo vệ gan trên chuột cống trắng được
gây nhiễm độc gan bằng carbon tetraclorid. Trong mô hình gây xơ gan thực
nghiệm trên chuột cống trắng, thuốc có tác dụng làm giảm hàm lượng colagen
trong máu và làm giảm mức độ xơ gan ở động vật điều trị so với đối chứng.
Thuốc có tác dụng lợi tiểu, chống oxy hóa và tỏ ra có mức độ an toàn cao trong
thử nghiệm về độc tính. Các liguan phyllanthin và hypophyllanthin trong Diệp
hạ châu đắng có tác dụng bảo vệ tế bào gan chuột cống trắng chống lại tác dụng
độc hại tế bào gây bởi carbon tetraclorid và galactosamin.
8
Diệp hạ châu đắng ức chế DNA polymerase virus viêm gan B và virus
viêm gan khác. Trong thời gian nghiên cứu lâm sàng sơ bộ, những người mang
virus viêm gan B được điều trị với liều hàng ngày 200 mg cao toàn cây Diệp hạ
châu đắng (bỏ rễ) trong 30 ngày. Kết quả, 22/37 (59%) bệnh nhân được điều trị
đã mất kháng nguyên bề mặt của viêm gan B trong khi chỉ 1/23 (4%) bệnh nhân
đối chứng có hiện tượng này. Một số đối tượng được theo dõi 9 tháng không có
trường hợp nào kháng nguyên bề mặt xuất hiện trở lại. Không thấy có hoặc chỉ
có ít tác dụng độc.
Toàn cây Diệp hạ châu đắng có tác dụng gây hạ đường máu, hạ áp và lợi
tiểu ở người. Cây cũng có hoạt tính kháng khuẩn và kháng nấm.
Ba hoạt chất từ Diệp hạ châu đắng có tác dụng ức chế aldos reductase là
acid elargic, brefolin carboxylat và ethylbrevifolin; acid elargic có tác dụng
mạnh nhất, ức chế mạnh hơn 6 lần so với quereitrin là chất thiên nhiên ức chế
aldos reductase đã biết.
Nghiên cứu mới nhất của Viện Dược liệu về tác dụng dược lý của bột
phyllanthin cho thấy: Diệp hạ châu đắng có tác dụng bảo vệ gan trên mô hình
gây nhiễm độc bằng CCL
4
khi cho thỏ uống cao khô của cây Diệp hạ châu đắng
với liều 0,65 g/1kg/ngày kéo dài trong 18 ngày. Nghiên cứu cũng khẳng định
cao khô của cây Diệp hạ châu đắng có tác dụng chống viêm cấp tốt khi cho
thuốc bằng đường tiêm và đường uống, tuy nhiên đường tiêm có tác dụng mạnh
hơn đường uống. Thuốc có tác dụng chống xơ gan và antioxydant. Khi sử dụng
bột phyllanthin với liều lượng tương ứng 10g dược liệu/kg/ngày uống liên tục 8
tuần có tác dụng bảo vệ gan tốt trên mô hình gây xơ gan thực nghiệm 12 tuần.
Về tác dụng chống antioxydant, thuốc đã làm giảm peroxy hóa có ý nghĩa < 0,01
và hoạt tính chống oxy hóa của thuốc là 29,76%. Với liều tính theo dược liệu
khô 20 g/kg chuột cho thấy tác dụng lợi tiểu khá rõ rệt. Đồng thời cũng khẳng
định cao Diệp hạ châu đắng có tính độc rất thấp, có độ an toàn cao trong việc sử
dụng làm thuốc điều trị cho người. [10]
9
2.3.1.2 Sử dụng
Diệp hạ châu đắng từ lâu đời đã được sử dụng trong các bài thuốc dân
gian của nhiều dân tộc trên thế giới, nhất là ở các nước vùng Đông Nam Á và
miền Nam Trung Quốc.
Ở Việt Nam, Diệp hạ châu đắng được biết đến từ lâu với tác dụng trị viêm
gan, vàng da, sốt, đau mắt, rắn cắn
Diệp hạ châu đắng làm tăng mãnh liệt sự bài tiết nước tiểu cũng như kinh
nguyệt nhưng không gây hại gì. Ở nhiều nước Viễn đông cũng đã sử dụng tính
chất này của cây. Tác dụng lợi tiểu của cây này là do có tỷ lệ Kali cao [24], [6].
Dân gian thường sử dụng cây này làm thuốc thông tiểu, thông sữa điều kinh và
thông kinh trục ứ.
Ở Ấn Độ, người ta dùng toàn cây làm thuốc lợi tiểu [37] trong bệnh phù,
bệnh lậu và những rối loạn của đường niệu sinh dục. Nước sắc các chồi non
dùng để trị lang; rễ tươi làm thuốc trị vàng da; lá dùng làm thuốc trị tiêu hóa,
dịch lá dùng để đắp vết lở loét. Người ta còn dùng lá và rễ phơi khô nghiền
thành bột, trộn với nước vo gạo dùng làm thuốc chữa các vết sưng phù và loét
[6]. Ở Tây Ấn, Diệp hạ châu đắng còn được dùng để trị giun cho tre em.
Theo cuốn cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, ở Thái Lan, Diệp
hạ châu được sử dụng làm thuốc trị vàng da. Ở Peru, nhân dân uống nước sắc
phần phía trên mặt đất của cây để làm thuốc lợi tiểu, trị sỏi mật và sỏi thận. Ở
một số nước Nam Mỹ, Diệp hạ châu đắng được dùng trị sốt rét, sỏi thận, sỏi
bàng quang, các rối loạn về tiết niệu nói chung và còn có tác dụng gây sẩy thai.
Ở Haiti, nhân dân uống nước sắc Diệp hạ châu đắng và tắm với nước ngâm lá để
trị sốt. Từ đảo Hải Nam đến Indonesia, nhân dân dùng nước sắc hoặc nước hãm
Diệp hạ châu đắng làm thuốc lợi tiểu trị bệnh thận và gan, bệnh hoa liễu, đau
bụng làm thuốc long đờm cho trẻ em, hạ sốt, điều kinh và trị tiêu chảy. Nước sắc
toàn cây là thuốc bổ dạ dày. Lá giã nát làm thuốc trị dung giật và bệnh ngoài da.
Ở Papua – Niu Ghine, nước hãm toàn cây để trị đau đầu, hoặc trị nhức nửa đầu.
10
Các thầy thuốc cổ truyền ở Tanzania dùng cao nước thân lá của cây Diệp hạ
châu đắng trị bệnh đái tháo đường không phụ thuộc insulin. Ở Nigieria cao nước
cây khô dược sử dụng để trị tiêu chảy, lá nhai nuốt nước trị ho kéo dài, và sắc
uống làm đỡ đau dạ dày. Nhân dân bờ biển Nga uống nước sắc lá để làm đẻ dễ
trong trường hợp đẻ khó, trị vàng da, nôn, đau bụng, đau gian sườn, đau mình
mẩy kèm theo sốt và phù, đánh trống ngực, bệnh lậu, bệnh về da. [3]
2.3.2 Phyllanthus urinaria L.
2.3.2.1 Tác dụng dược lý
Theo Văn Chi, cây Chó đẻ răng cưa (Phyllanthus urinaria L.) với vị ngọt,
hơi đắng, tính mát có tác dụng lợi tiểu, tiêu độc, sát trùng, tán ứ, thông huyết,
điều kinh, thanh can, sáng mắt, làm se và hạ nhiệt. Người ta cũng nhận thấy tác
dụng diệt khuẩn và diệt nấm rõ rệt của acid phenolic và flavonoid trong Chó đẻ
răng cưa. Coderacin phân lập được từ cây dùng chế thuốc nhỏ mắt và thuốc mỡ
tra mắt, do khả năng tiêu diệt một số vi khuẩn, nấm gây bệnh ở mắt [6]. Năm
1961, phòng Đông y – Viện vi trùng Việt Nam nghiên cứu tác dụng kháng sinh
của Chó đẻ răng cưa thấy kết quả cho kháng sinh đồ như sau: Tụ cầu trùng (0,5),
Typhi (0,9), Flexneri (1,1), Sonnei (0), Shiga (1), Subtilis (0,4), Coli (0) cm. Kết
quả này cũng hợp với nghiên cứu mới đây (1995) chứng minh dịch chiết n –
hexan của P. urinaria có tác dụng kháng lại tất cả các loại vi khuẩn thử Proteus
vulgaris, Escherichia coli, Staphylococcus aureus và Klebsiella preumonie,
những vi khuẩn thường tìm thấy ở đường tiết niệu. Còn dịch chiết dichlomethal
thì kháng Proteus vulgaris, Escherichia coli, Staphylococcus aureus và Volorio
paranaemoliticus. Điều này cho thấy P. urinaria cũng rất hiệu quả trong điều trị
nhiễm khuẩn đường tiết niệu.
11
Theo Huang ST và cs., sự chết tế bào theo chương trình hiện được biết
đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì ổn định nội mô tế bào và chống gây
ung thư. Tác dụng chống gây ung thư của cao chiết nước được chế từ cây Chó
đẻ (Phyllanthus urinaria) đã được khảo sát bằng việc phân tích khả năng của nó
gây ra sự chết tế bào theo chương trình ở các tế bào ưng thư người. Các tác giả
đã chứng minh được rằng cao chiết nước của cây Chó đẻ có thể gây ra sự chết tế
bào theo chương trình của các tế bào ung thư người có nhiều nguồn gốc khác
nhau được thể hiện qua những thay đổi hình thái học và sự phân đoạn ADN.
Tuy nhiên, cây Chó đẻ đã không thể hiện tác dụng độc tế bào trên các tế bào
người bình thường gồm có các tế bào nội mô mạch và tế bào gan dưới cùng điều
kiện. Điều này gợi ý rằng cao nước cây Chó đẻ có thể có ích trong việc điều trị
nhiều loại tế bào ung thư ở người mà không có tác dụng phụ độc trên các tế bào
bình thường. [22]
Các tác giả Yang CM. và cs. cho biết, các cao chiết với aceton, ethanol và
methanol của Chó đẻ răng cưa có tác dụng ức chế sự nhiễm HSV – 2 (virus
Herpes simplex – 2) thông qua việc làm rối loạn giai đoạn đầu của sự nhiễm
virus và thông qua việc làm giảm tính gây nhiễm virus. [12]
2.3.2.2 Sử dụng
Trong dân gian, Chó đẻ răng cưa thường được sử dụng chữa đau yết hầu,
viêm họng, đinh râu, mụn nhọn, viêm da thần kinh, lở ngứa, sản hậu ứ huyết, trẻ
em tưa lưỡi, chàm má, rắn cắn.
Dân gian Trung Quốc dùng Chó đẻ răng cưa để chữa viêm thận, phù
thũng, viêm niệu đạo và sỏi niệu đạo, viêm ruột, lỵ, viêm kết mạc, viêm gan, trẻ
em cam tích, suy dinh dưỡng
Người Ấn Độ dùng toàn cây làm thuốc lợi tiểu chữa bệnh phù thũng, trị
bệnh lậu và những rối loạn đường niệu sinh dục và làm ruốc cá cho trẻ em mất
ngủ. [22]
12
Ở Campuchia, người ta dùng cây sắc uống, dùng riêng hoặc phối hợp với
những vị thuốc khác trị các bệnh về gan, trị kiết lỵ, sốt rét.
Ở Thái Lan, cây được dùng để trị các bệnh về dạ dày, bệnh hoa liễu, vàng
da, trĩ và lỵ. Cây non dùng làm thuốc chữa ho cho trẻ em.
2.4 Một số bài thuốc có sử dụng diệp hạ châu
2.4.1 Phyllanthus amarus Schum. & Thonn.
Trị vàng da, sốt, đau mắt, rắn cắn: Diệp hạ châu đắng 20 – 40g cây tươi,
giã lấy nước hoặc 6 – 8g, sắc uống
Trị mụn nhọn, lở ngứa: Cả cây Diệp hạ châu giã đắp hoặc lấy nước cốt
bôi
Trị viêm gan do virus B: Diệp hạ châu đắng 10g, nghệ vàng 5g, sắc nước
3 lần, lần đầu với 3 bát nước lấy 1 bát thuốc. Lần thứ hai và ba với 2 bát nước,
mỗi lần lấy nữa bát thuốc. Trộn chung rồi thêm 50g đường, đun sôi cho tan
đường, chia làm 4 lần uống trong ngày – sau 15 ngày dùng thuốc xét nghiệm lại,
khi kết quả xét nghiệm máu đạt HbgAg (-) thì thôi dùng thuốc.
Trị suy gan (do sốt rét, lỵ amib, ứ mặt nhiễm độc): Diệp hạ châu đắng sao
khô( 20g), cam thảo đất sao khô (20g). Hai vị bỏ chung sắc nước uống hàng
ngày
Trị xơ gan cổ trướng thể nặng: Diệp hạ châu đắng 100g sắc nước 3 lần,
cho thêm 150g đường, chia nhiều lần uống trong ngày (thuốc rất đắng, uống một
đợt từ 30 – 40 ngày, nghỉ một tuần, nếu chưa khỏi uống tiếp đợt 2), phải kiên trì
uống mới thấy được tác dụng của thuốc
2.4.2 Phyllanthus urinaria L.
Trị nhọt độc, sưng đau: Trộn chó đẻ răng cưa với một ít muối giã nhỏ, chế
nước sôi vào, vắt lấy nước cốt uống, bã đắp chỗ đau
Trị mắt đau sưng đỏ, viêm gan vàng da, viêm thận đái đỏ, hoặc viêm ruột
đi ngoài ra nước: Chó đẻ răng cưa 40g, Mã đề 20g, Dành dành 12g sắc uống
13
Trị lở loét thối thịt không liền miệng: Dùng lá chó đẻ răng cưa, lá Thồm
thồm, liều bằng nhau, Đinh hương 1 nụ, giã nhỏ đắp
Trị trẻ em tưa lưỡi: giã cây tươi vắt lấy nước cốt bôi
Trị hậu sản ứ huyết: dùng 8 – 16g cây khô sắc uống hằng ngày [6]
ABC3D*)D4.57
Hiện nay chưa có nhiều nghiên cứu về việc nhân loài và trồng trọt các loài
cây thuốc thuộc chi Phyllanthus. Do đây hầu hết là các loài cây mọc dại và chưa
được chú ý khai thác, việc trồng và khai thác tác dụng của cây Diệp hạ châu mới
chỉ dừng ở các mức độ các Trung tâm nghiên cứu, Trung tâm cây thuốc chứ chưa
được phát triển đại trà.
Theo nghiên cứu của Kỹ sư Trần Danh Việt, hạt cây Diệp hạ châu
(Phyllanthus amarus L.) sau khi thu xong gieo ngay (gieo tươi) ở trên nền đất, nền
cát và cả trong đĩa petri đều có tỷ lệ nảy mầm cao hơn hạt thu xong phơi khô, bảo
quản trong 30 ngày ở tất cả các thời điểm theo dõi, sau 25 ngày, tỷ lệ nảy mầm cao
hơn là 12%.
Nghiên cứu cũng khẳng định axit humic có tác dụng làm tăng tỷ lệ nảy mầm
của hạt. Với 3 nồng độ nghiên cứu là 0,004%; 0,008%; 0,012% thì nồng độ
0,012% có tỷ lệ nảy mầm cao nhất.
Ngoài nhân loài hữu tính, loài này cũng có khả năng nhân loài vô tính bằng
các đoạn hom giữa thân hoặc giữa cành với đoạn cắt từ 5 – 7 cm, trên nền cát, tưới
đủ ẩm cho tỷ lệ cây loài đạt 80%.
Tuy nhiên hình thức nhân loài hữu tính bằng hạt phơi khô bảo quản ở kho
đặc dụng rồi đưa dùng dần mặc dù tỷ lệ nảy mầm thấp nhưng thường được áp dụng
trong việc sản xuất dược liệu đại trà. [23]
Cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào đưa ra quy trình trồng trọt chính
thức cho các loài này tại Việt Nam.
14
EF./G/ G-;--H)DI
Theo nghiên cứu phát triển Dược liệu và Đông dược ở Việt Nam – Viện
Dược liệu, trên cây Diệp hạ châu (phyllanthus amarus) có 8 loài sâu hại của 6 họ
thuộc 5 bộ côn trùng khác nhau. Đó là: Cào cào, Rệp muội, Bọ xít xanh, Sâu xanh,
Sâu đo, Sâu cuốn lá thuộc bộ cánh vảy có mức độ gây hại cao nhất trong giai đoạn
sinh trưởng mạnh của cây (tháng 4, tháng 5).
Có tổng số 3 loại bệnh gây hại: Lở cổ rễ, vàng lá sinh lý, phấn trắng, trong
đó bệnh phấn trắng gây hại ở mức độ phổ biến cao. Bệnh xuất hiện từ tháng 9 đến
tháng 12 hàng năm trên diện tích vụ đông muộn.
Phòng trừ sâu cuốn lá bằng biện pháp thủ công cho thấy: Hiệu quả phòng trừ
đạt 81,1% ở 10 ngày sau khi tiến hành bắt sâu 2 lần (thích hợp với diện tích sản
xuất không quá lớn). Khi sử dụng thuốc hóa học Sherpa 50EC trong phòng trừ sâu
cuốn lá ta thấy thuốc có hiệu lực 76,66%, áp dụng khi diện tích sản xuất đủ lớn
Phòng trừ bệnh phấn trắng bằng thuốc Dacolin có hiệu lực 77,66% ngay sau
khi phun 7 ngày, thu hoạch dược liệu sau khi phun 20 ngày.[21]
J!KK6LM
Hiện nay có nhiều loại thuốc và biệt dược đã được sản xuất mà thành phần
của nó có chứa hoạt chất của các cây thuộc chi Phyllanthus. Có thể kể đến một số
sản phẩm như sau:
Thuốc điều trị viêm gan FENLINAT của Trung tâm dược thuộc tổng công
ty Dược phối hợp với công ty CPDP Hà Tây sản xuất. Được biết FENLINAT là
loại thuốc được chiết xuất với công nghệ kỹ thuật cao từ các loại cây cỏ Việt Nam,
đặc biệt trong đó có thành phần rất quan trọng được chiết xuất từ cây Diệp hạ châu
(Phyllanthus urinaria) và Nấm Linh Chi (Ganoderma lucidum) có tác dụng ức chế
nhân đôi ADN của virus viêm gan siêu vi B mạn tính. FENLINAT được Cục quản
lý Dược Việt Nam cấp số đăng ký lưu hành trên toàn quốc từ tháng 09/2005 và
15
được bán với giá 1.850VND/viên [27]
Thuốc VG-5, chứa tinh chất Diệp hạ châu, tinh chất nhân trần, cỏ nhọ nồi
và tinh chất râu ngô. Có tác dụng ức chế virus viêm gan B, làm giảm HbsAg,
HbeAg huyết thanh trong viêm gan; bảo vệ và phục hồi chức năng gan, tăng khả
năng giải độc của gan, hạ men gan; chống viêm gan, tăng tiết mật, lợi tiểu. Thuốc
dùng được cho cả người lớn và trẻ em. [28]
Thuốc Diệp hạ châu do Công ty Cổ phần dược phẩm 2/9 sản xuất. Thành
phần gồm 3g Diệp hạ châu (Phyllanthus urinaria L.)/viên. Chữa viêm gan, đau yết
hầu, đinh râu, mụn nhọt, thần kinh, viêm da, lở ngứa; sản hậu ứ huyết, đau bụng,
trẻ em cam tích; người lớn viêm thận, phù thũng, viêm nhiễm, sỏi đường tiết niệu,
viêm ruột tiêu chảy. Hộp chai 60 viên, hộp vỉ bấm 10 viên. [29]
Thuốc LIVBILNIC – sản phẩm của công ty Cổ phần TRAPHACO – với
thành phần Diệp hạ châu (Phyllsnthus urinaria L.). Có tác dụng bảo vệ gan, chống
viêm gan, viêm gan siêu vi, viêm gan mãn tính do rượu và hóa chất. Đặc biệt trong
bệnh viêm gan siêu vi B, LIVBILNIC có tác dụng cải thiện các chức năng gan,
chuyển HbsAg (+) thành HbsAg (-) với tỷ lệ đáng kể. LIVBILNIC còn tác dụng
lên hệ miễn dịch cơ thể bằng cách sản xuất ra kháng thể chống kháng nguyên
HbsAg. Ngoài ra việc sử dụng LIVBILNIC cũng cải thiện đáng kể các triệu chứng
viêm gan siêu vi như đau bụng, mệt mỏi, trướng bụng, chán ăn, tiêu chảy. Sản
phẩm an toàn cao khi sử dụng, hoàn toàn không gây tác dụng không mong muốn.
Lộ trình điều trị kéo dài từ 3 – 6 tháng. [30]
Hiện nay Viện Dược liệu và Trung tâm nghiên cứu trồng và chế biến cây
thuốc Hà Nội – Viện Dược liệu đang sản xuất và chế biến loại trà túi lọc mang
nhãn hiệu “Trà Diệp hạ châu”. Sản phẩm được chế biến từ thân, lá của cây Diệp hạ
châu đắng (Phyllanthus amarus Schum. Et Thonn.) và cam thảo bắc. Thành phần
Diệp hạ châu 8g, cam thảo 2g. Đóng hộp 20 túi, giá bán 20.000VNĐ/hộp. Tác
dụng bảo vệ gan, chống lại virus viêm gan B, trị đầy bụng, khó tiêu do chức năng
gan kém. Hiện nay sản phẩm này đã được bày bán tại các nhà thuốc trên cả nước
16
và được người tiêu dùng đón nhận.
Tại Trung tâm nghiên cứu trồng và chế biến cây thuốc Hà Nội – Viện Dược
liệu, cây diệp hạ châu (P. amarus) sau khi trồng khoảng 3 tháng có thể thu hoạch.
Cây thường được thu vào buổi sáng, dùng liềm cắt sát gốc. Sau khi thu toàn bộ cây
được chặt thành đoạn dài 5 – 10 cm, đem phơi dưới ánh nắng mặt trời khoảng 3 – 4
nắng cho khô kiệt. Sản phẩm được đóng bao và bán cho các cơ sở sản xuất hoặc
bán trực tiếp cho người tiêu dùng. Giá bán giao động từ 60.000 – 150.000VNĐ/1kg
NO6+) 8M;P13OD*)+ Q .<=>5 G
Theo Hà Thị Thanh Bình và cộng sự (2002), cho rằng mật độ gieo trồng với
mật độ nhất định liên quan tới yếu tố cấu thành năng suất. Ở mật độ thích hợp tạo
điều kiện đồng đều cho các cá thể phát huy hết khả năng sinh trưởng, phát triển
thuận lợi cho năng suất cao. Điều này được quyết định bởi quang hợp của quần thể.
Cường độ quang hợp của quần thể chịu sự chi phối của cường độ ánh sáng. Vì vậy
việc quyết định mật độ gieo trồng có ý nghĩa trong việc sử dụng ánh sáng. Do đó,
trong quá trình trồng trọt con người cần điều khiển hoạt động quang hợp bằng cách
bố trí mật độ cây trồng một cách hợp lý
Viện Dược liệu khi nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ trồng bạch chỉ tại
Trung tâm nghiên cứu trồng và chế biến cây thuốc Hà Nội đã có nhận xét: Với
mật độ 25 vạn cây/ha là thích hợp nhất, năng suất dược liệu cao nhất đạt 3,16
kg/ô thí nghiệm.
Trung tâm nghiên cứu trồng và chế biến cây thuốc Hà Nội thuộc - Viện
Dược liệu tiến hành thí nghiệm đánh giá ảnh hưởng của mật độ trồng đến năng suất
và chất lượng lá thanh cao trong 3 năm từ 1997 đến 1999. Kết quả cho thấy với mật
độ khoảng 16,6 vạn cây/ha không những cho năng suất lá, năng suất Artemisinin
cao nhất mà cả hàm lượng Artemisinin cũng khá nhất.
Khi tiến hành thí nghiệm mật độ trồng tục đoạn tại SaPa (Lào Cai),
Nguyễn Bá Hoạt – Viện Dược liệu cho rằng khối lượng củ Tục đoạn trên 1 cây
có chiều hướng tăng dần từ mật độ trồng dày đến mật độ trồng thưa nhưng năng
17
suất thì có chiều hướng ngược lại. Tuy nhiên, với mật độ 12,5 vạn cây/ha cho
năng suất cao nhất.
Theo nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu trồng và chế biến cây thuốc Hà
Nội và Trường ĐHNN Hà Nội cho biết mật độ trồng đối với cây đương quy là 25
vạn cây/ha, cây bạch chỉ 50 vạn cây/ha, cây ngưu tất 400 vạn cây/ha cây cúc hoa
11,1 vạn cây/ha cho năng suất dược liệu đạt cao nhất.
Theo nghiên cứu của Ngô Quốc Luật – Viện Dược liệu cho hay mật độ trồng
đối với dược liệu ích mẫu là 25 vạn cây/ha cho năng suất cao nhất.
Khi tiến hành nghiên cứu về mật độ cây sâm ngọc linh TS. Nguyễn Văn
Thuận – Viện Dược liệu cho hay mật độ trồng tốt nhất cho năng suất cao nhất là
16,6 vạn cây/ha.
Theo nghiên cứu của Nghiêm Tiến Chung – Viện Dược liệu về cây Bạch
truật thì với mật độ 25 vạn cây/ha cho năng suất thực thu cao nhất
RO6+) 8M;PS + Q .<=>5 G
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Hòa, Nguyễn Bá Hoạt – Viện Dược liệu
về ảnh hưởng của thời vụ đến năng suất dược liệu Nhân trần thì thời vụ gieo trồng
Nhân trần tốt nhất là từ 1/3 đến 15/3.
Khi nghiên cứu về thời vụ giâm ươm của cây Dền tòong tại Tam Đảo, Vĩnh
Phúc Ngô Quốc Luật đã xác định thời vụ từ tháng 2 đến tháng 4 là thích hợp nhất
cho sinh trưởng, phát triển của cây.
Theo nghiên cứu của Nghiêm Tiến Chung, Nguyễn Văn Thuận, Nguyễn
Thượng Dong – Viện Dược liệu về thời vụ cây Ban Nhật Bản cho thấy rằng thời vụ
trồng thích hợp cho cây Ban Nhật Bản tại Tam Đảo, Vĩnh Phúc là tháng 9 (gieo hạt
15/9).
Khi nghiên cứu về thời vụ của cây Râu mèo tại Hà Nội, Lê Khúc Hạo, Phạm
Văn Ý, Phạm Hồng Minh – Viện Dược liệu đã đưa ra kết luận thời vụ trồng cây râu
mèo lấy dược liệu tốt nhất là ngày 01/03 hàng năm.
18
Nghiên cứu ảnh hưởng của thời vụ đến năng suất hạt loài và dược liệu Bồ bồ
Phạm Văn Ý, Phạm Hồng Minh – Viện Dược liệu đã khẳng định thời vụ trồng lấy
hạt loài tốt nhất là từ 15/3 đến 15/4. Thời vụ trồng lấy dược liệu tốt nhất là vào
trung tuần tháng 2 đến thượng tuần tháng 3.
T O6+) 8M;PL=U)S V15=>)
7W<=>5 G
Theo kết quả nghiên cứu của Nghiêm Tiến Chung, Nguyễn Văn Thuận,
Nguyễn Thượng Dong – Viện Dược liệu về ảnh hưởng của thời vụ đến hàm
lượng hoạt chất Hypericum perforatum. L. của cây Ban Nhật Bản tại Tam Đảo,
Vĩnh Phúc thì gieo hạt ở thời vụ 15/9 hàm lượng hypericin (0,25% ở thân lá và
1,52% ở ngọn hoa) đạt cao nhất và thời vụ 15/2 (0,20% ở thân lá và 1,20 % ở
ngọn hoa) thấp nhất.
19
X!YZ#,[%\,]^#
_&Y`#a#bcd
:_35 G,P 01S ) ) 8
3.1.1 Vật liệu
Nguồn vật liệu là 2 loài diệp hạ châu thân xanh (Phyllanthus amarus Schum.
Et Thonn.) và diệp hạ châu thân tím (Phyllanthus urinaria L.) được thu thập từ
Trung tâm nghiên cứu trồng và chế biến cây thuốc Hà Nội – Viện Dược Liệu
Phân bón: Phân chuồng, urê, supe lân, kaliclorua
Thuốc bảo vệ thực vật:
3.1.2 Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Địa điểm: Tại trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội
Thời gian thực hiện: Từ tháng 01 năm 2011 đến tháng 09 năm 2011.
:O <)) 8
Gồm 3 nội dung chính
- Đánh giá ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng phát triển, mức độ
nhiễm sâu bệnh hại và năng suất 2 loài diệp hạ châu
- Đánh giá ảnh hưởng của thời vụ đến sinh trưởng phát triển, mức độ nhiễm
sâu bệnh hại và năng suất 2 loài diệp hạ châu
- Đánh giá ảnh hưởng của thời vụ đến hàm lượng hoạt chất Phyllanthine
của 2 loài diệp hạ châu
::=e)-;-) 8/+D) G1
Thí nghiệm 1: Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng,
phát triển,mức độ nhiễm sâu bệnh hại và năng suất của 2 loài diệp hạ châu
- Nhân tố thí nghiệm: Thí nghiệm gồm 2 nhân tố
+ Nhân tố chính : Mật độ trồng bao gồm có 6 công thức:
M1: Mật độ trồng 20 vạn cây/ha (khoảng cách 20x 25cm)
M2: Mật độ trồng 25 vạn cây/ha (khoảng cách 20x 25cm) (Đối chứng)
M3: Mật độ trồng 30 vạn cây/ha (khoảng cách 20x 16,67cm)
20
M4: Mật độ trồng 35 vạn cây/ha (khoảng cách 20x 14,28cm)
M5: Mật độ trồng 40 vạn cây/ha (khoảng cách 20x 12,50cm)
M6: Mật độ trồng 45 vạn cây/ha (khoảng cách 20x 11,11cm)
+ Nhân tố phụ: 2 loài diệp hạ châu thân xanh (Phyllanthus amarus
Schum. Et Thonn.) (L1) và diệp hạ châu thân tím (Phyllanthus urinaria L.) (L2)
- Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm bố trí theo kiểu Split-plot với 3 lần nhắc lại, ô nhỏ tương ứng
với 6 mật độ trồng, ô lớn tương ứng với 2 loài, diện tích ô nhỏ là 5m
2
,
tổng diện
tích thí nghiệm là 2x6x5x3 = 180m2 (chưa kể dải bảo vệ)
Sơ đồ thí nghiệm: bố trí theo kiểu Split-plot với 3 lần nhắc lại
Dải
bảo vệ
Dải bảo vệ
Dải
bảo vệ
NLI
L1M1 L1M3 L1M5 L1M2 L1M4 L1M6
L2M1 L2M3 L2M5 L2M2 L2M4 L2M6
NLII
L1M3 L1M6 L1M1 L1M5 L1M2 L1M4
L2M3 L2M6 L2M1 L2M5 L2M2 L1M4
NLIII
L1M4 L1M2 L1M6 L1M3 L1M5 L1M1
L2M4 L2M2 L2M6 L2M3 L2M5 L2M1
Dải bảo vệ
Thí nghiệm 2: Nghiên cứu ảnh hưởng của thời vụ đến sinh trưởng, phát
triển,mức độ nhiễm sâu bệnh hại, năng suất và hàm lượng hoạt chất Phyllanthine
của 2 loài diệp hạ châu
- Nhân tố thí nghiệm: Thí nghiệm gồm 2 nhân tố
+ Nhân tố chính: Thời vụ gồm 4 công thức
TV1: Thời vụ 1 gieo ngày : 015/02/2011
TV2: Thời vụ 2 gieo ngày : 01/03/2011
TV3: Thời vụ 3 gieo ngày : 015/03/2011
TV4: Thời vụ 4 gieo ngày : 30/03/2011
- Nhân tố phụ: 2 loài diệp hạ châu thân xanh (Phyllanthus amarus Schum.
Et Thonn.) (L1) và diệp hạ châu thân tím (Phyllanthus urinaria L.) (L2)
21
- Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm bố trí theo kiểu Split-plot với 3 lần nhắc lại, ô nhỏ tương ứng
với 4 thời vụ, ô lớn tương ứng với 2 loài, diện tích ô nhỏ là 10m
2
,
tổng diện tích
thí nghiệm là 2x4x10x3 = 240m2 (chưa kể dải bảo vệ)
Sơ đồ thí nghiệm: bố trí theo kiểu Split-plot với 3 lần nhắc lại
Dải bảo
vệ
Dải bảo vệ
Dải bảo
vệ
NLI
L1TV1 L1TV3 L1TV4 L1TV2
L2TV1 L2TV3 L2TV4 L2TV2
NLII
L1TV3 L1TV2 L1TV1 L1TV4
L2TV3 L2TV2 L2TV1 L2TV4
NLIII
L1TV4 L1TV2 L1TV1 L1TV3
L2TV4 L2TV2 L2TV1 L2TV3
Dải bảo vệ
:fc;g h7<i
3.4.1 Các chỉ tiêu sinh trưởng
- Thời gian từ gieo đến mọc (ngày): Tính thời gian từ khi gieo đến khi 50%
cây mọc.
- Thời gian từ trồng đến hồi xanh (ngày): Tính thời gian từ khi trồng đến khi
50% cây hồi xanh.
- Thời gian từ trồng đến thu hoạch (ngày
- Động thái tăng trưởng chiều cao cây (cm): Đánh dấu cố định 10 cây cần
theo dõi trong 1 ô thí nghiệm, đo chiều cao cây của 10 cây để tính chiều cao cây
trung bình, thời gian theo dõi 15 ngày 1 lần. Chiều cao cây được tính từ gốc đến
đỉnh ngọn.
- Động thái tăng trưởng số lá/thân chính
- Đường kính thân (mm)
- Số cành cấp 1, cành cấp 2/cây
- Chỉ số diện tích lá (m
2
lá/m
2
đất): Được xác định theo phương pháp cân
22
nhanh vào 3 thời kỳ (Đo đếm trên cùng mẫu xác định khả năng tích lũy chất khô).
1 tháng sau trồng
2 tháng sau trồng
Trước khi thu hoach
+ Cách làm: mỗi tháng lấy 5 cây ngẫu nhiên trong ô thí nghiệm theo phương
pháp 5 điểm chéo góc, rồi cắt 1 tấm kính có diện tích 1dm
2
sau đó lấy lá ở các vị trí
trên cây cắt sao cho đúng bằng tấm kính đem cân số lá đó ta được khối lượng 1dm
2
lá và ký hiệu là P
A
, các ô đều làm tương tự như vậy. Sau đó cân toàn bộ số lá của 5
cây và cộng thêm khối lượng của 1dm
2
lá đã cân, được trọng lượng là P
B
. Cuối
cùng tính chỉ số diện tích lá theo công thức sau:
Chỉ số diện tích là
=
P
B
X mật độ cây/m
2
P
A
x 5 x 100
- Khả năng tích lũy chất khô (g/cây). Mẫu xác đinh khả năng tích lũy chất
khô được lấy vào 3 thời kỳ như chỉ số diện tích lá. Mỗi mẫu gồm 5 cây cho một ô
thí nghiệm trên một tháng, nhổ 5 cây/ô của từng tháng cân khối lượng của 5 cây,
sau đó sấy trong tủ sấy đến khối lượng không đổi ở nhiệt độ 70 - 80
0
c.
- Khả năng chống chịu một số loài sâu bệnh hại:
+ Sâu: Được đánh giá theo % cây bị sâu hại = tổng số cây bị sâu hại/tổng số
cây điều tra.
+ Bệnh: Được đánh giá bằng tỷ lệ bệnh % = tổng số cây bị bệnh/tổng số cây
điều tra, hoặc đánh giá theo thang điểm từ 1 – 9 của CIP
Điểm 1: không bị bệnh hại
Điểm 3: nhẹ - dưới 20% cây bị bệnh hại
Điểm 5: trung bình, từ 20 – 50% cây bị bệnh hại.
Điểm 7: nặng, từ 50 – 70% cây bị bệnh hại.
Điểm 9: rất nặng, từ 75 – 100% cây bị bệnh hại.
3.4.2 Các chỉ tiêu năng suất
- Tỷ lệ khô/tươi của dược liệu(%)
23
- Năng suất cá thể (g/cây)
- Năng suất lý thuyết (tạ/ha) = năng suất cá thể x mật độ cây của 1 ha
- Năng suất thực thu (tạ/ha) = khối lượng thu được từ 1 ô TN x 10000/10
3.4.3 Chỉ tiêu chất lượng
Định lượng hoạt chất phyllanthin trong hai loại dược liệu của hai loài diệp hạ
châu ở 4 thời vụ.
=e)-;-P5=>)j
a. Chuẩn bị mẫu:
- Mẫu thử: Cân 1,0 g dược liệu đã xay nhỏ, chiết với 20ml methanol (x 2 lần),
siêu âm 30 phút mỗi lần. Gạn, gộp dịch chiết, thêm dung môi vđ 100ml, lọc, bỏ 1ml
dịch đầu, lấy 2-3ml dung dịch tiếp theo để chấm sắc ký.
- Mẫu đối chiếu: Dung dịch phyllanthin 0,25mg/ml trong methanol.
Lớp mỏng: TLC plate silica gel 60 F254 Merck.
Chấm mẫu: Chấm thang chuẩn: 2µl , 4µl x 2, 8µl x 2 , và 12µl; Mẫu thử : 6- 12µl,
chấm 2-3 lần nhắc lại.
Hệ dung môi sắc ký: n-Hexan : ethylacetat (2 : 1) để bình sắc ký bão hoà dung môi
20 phút.
Phát hiện: Tạo dẫn xuất hoá với dung dịch acid sulphuric 10%, đo mật độ hấp thụ vết
phyllanthin ở bước sóng λ 610nm.
b. Cách tiến hành: Kính sau khi đã triển khai sắc ký đến 85mm được lấy ra, làm khô
30 phút, nhúng thuốc thử acid sulphuric 10% trong ethanol, để khô 30 phút, sấy ở 105
0
C trong 20 phút. Tiến hành đo scanning ở λ 610nm. Thời gian đo trong khoảng 15 –
30 phút sau khi sấy kính.
:A=e)-;-M@5?6+5 G
Kết quả nghiên cứu được chúng tôi xử lý theo phương pháp thống kê trên
phần mềm tin học IRRISTAT 5.0
24
_Bk!$l_&!lm'n
fl=U)13OD*)V6 D=U),-;D 0o)6
.^ G-W.
Đới với cây trồng nói chung và cây dược liệu nói riêng thì việc xác định
được mật độ trồng hợp lý là rất quan trọng, vừa đảm bảo được năng suất trên một
đơn vị diện tích vừa đảm bảo chất lượng dược liệu. Với cơ quan thu hoạch là thân
lá, nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ đến các chỉ tiêu về sinh trưởng, phát triển của
cây Diệp hạ châu chính là tìm ra được mật độ trồng thích hợp để cây có đầy đủ các
điều kiện tối ưu về nhiệt độ, độ ẩm, dinh dưỡng và đặc biệt là ánh sáng để phát
triển tốt nhất đó chính là cơ sở để thu được năng suất cao nhất.
4.1.1 Ảnh hưởng của mật độ trồng đến các giai đoạn sinh trưởng, phát triển
của cây Diệp hạ châu
Nghiên cứu thời gian sinh trưởng của các loài cây trồng là hết sức cần thiết.
Đây là đặc tính nông sinh học quan trọng, không những giúp bố trí cây trồng hợp lý
mà còn là tiền đề cho việc chọn, lai tạo giống cây trồng phù hợp với điều kiện canh
tác, điều kiện ngoại cảnh của từng vùng.
Kết quản nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ trồng đến thời gian sinh trưởng
của cây Diệp hạ châu được trình bày ở bảng 4.1
25