Tải bản đầy đủ (.doc) (127 trang)

nâng cao năng lực cạnh tranh của siêu thị co.opmart nha trang trên thị trường tp.nha trang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (982.28 KB, 127 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để có được kết quả nghiên cứu và hoàn thành luận văn này, em nhận được sự
giúp đỡ tận tình của các thầy, cô giáo; ban lãnh đạo và các nhân viên tại siêu thị
Co.opmart Nha Trang.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô khoa Kinh tế, trường Đại học Nha
Trang đã tận tình truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu làm nền tảng cho em
thực hiện luận văn này. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Th.S Phạm Thị Thanh
Bình, người đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành
luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo và các nhân viên tại siêu thị
Co.opmart Nha Trang đã nhiệt tình giúp đỡ, tư vấn và cung cấp tài liệu thông tin
hữu ích để tôi hoàn thành luận văn.
Em xin kính chúc quý thầy cô dồi dồi sức khỏe và thành đạt trong cuộc sống.
Kính chúc Ban lãnh đạo, các cô, chú, anh, chị làm việc tại siêu thị Co.opmart Nha
Trang những lời chúc tốt đẹp nhất.
MỤC LỤC
i
DANH MỤC HÌNH
ii
DANH MỤC BẢNG
iii
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế kỷ XX chứng liến sự ra đời của siêu thị - một phương thức bán hàng văn
minh, hiện đại. Đó là một sản phẩm của quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa
trên thế giới. Tại Việt Nam, kinh doanh siêu thị đã xuất hiện và phát triển từ hơn hai
mươi năm nay và đang dần làm thay đổi diện mạo ngành kinh doanh bán lẻ trong
nước theo hướng tiến bộ và góp phần giúp xã hội văn minh, hiện đại hơn khi hội
nhập vào nền kinh tế thế giới.
Ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức gia nhập vào tổ chức Thương mại thế


giới WTO, đi kèm theo đó là có rất nhiều doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam
kinh doanh. Cơ hội kèm theo những thách thức đối với doanh nghiệp nói chung và
các doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ nói riêng sẽ ngày một nhiều thêm. Trong thời
gian tới khi thị trường bán lẻ hoàn toàn mở cửa và các đại gia bán lẻ sẽ vào Việt
Nam thì sẽ tạo nên một làn sóng cạnh tranh mới trên thị trường. Ngoài ra, hiện tại
khả năng cạnh tranh của nước ta vẫn còn rất thấp. Vì vậy, nhiệm vụ cấp thiết bây
giờ là phải tăng khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước có thể cạnh
tranh thắng lợi trước các doanh nghiệp lớn sắp vào Việt Nam. Để có thể nâng cao khả
năng cạnh tranh trong lĩnh vực kinh donh bán lẻ khi Việt Nam thực hiện hội nhập kinh
tế quốc tế ngày càng sâu rộng, xây dựng và phát triển theo mô hình siêu thị là một
trong những phương cách doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ hướng đến. Ngày
01/01/2009, Việt Nam đã chính thức mở cửa thị trường bán lẻ cho các nhà đầu tư nước
ngoài theo lộ trình WTO. Lúc này, sự cạnh tranh trong lĩnh vực bán lẻ là rất lớn và
khốc liệt đối với các doanh nghiệp bán lẻ trong nước nói chung và siêu thị Co.opmart
Nha Trang nói riêng. Các doanh nghiệp bán lẻ, siêu thị trong nước sẽ phải ý thức được
điều đó để xây dựng cho mình những chiến lược kinh doanh cụ thể có tính khả thi cao
sao cho có thể cạnh tranh được với các đối thủ trong nước và nước ngoài.
Chính vì điều này mà ta cần phải phân tích và tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến
năng lực cạnh tranh của siêu thị để từ đó đề ra giải pháp nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh cho siêu thị. Tại thành phố Nha Trang, siêu thị Co.opmart Nha Trang
đang từng bước nâng cao chất lượng phục vụ và có những biện pháp nâng cao năng
lực cạnh tranh để có thể đứng vững và phát triển hơn. Trong một thời gian hoạt
động, siêu thị Co.opmart Nha Trang cũng đã có những hiệu quả nhất định và còn có
cả những hạn chế vì đây là một hướng đi mới cả về lý luận và thực tiễn nên siêu thị
vẫn còn có những lúng túng. Chính vì vậy, em đã lựa chọn đề tài “Nâng cao năng
lực cạnh tranh của siêu thị Co.opmart Nha Trang trên thị trường TP.Nha
Trang” để làm khóa luận tốt nghiệp cho mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Luận văn tập trung vào nghiên cứu và phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh

của siêu thị, từ đó đề ra các giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của siêu thị
Co.opmart Nha Trang.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận và phương pháp đánh giá năng lực cạnh
tranh của siêu thị.
- Đánh giá năng lực cạnh tranh của siêu thị Co.opmart Nha Trang trong tương
quan với các đối thủ cạnh tranh chủ yếu tại thị trường Tp.Nha Trang.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho siêu thị
Co.opmart Nha Trang.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu các nguồn lực và năng lực cạnh tranh của siêu thị Co.opmart Nha
Trang.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động kinh doanh của Saigon Co.op từ năm 2011
đến 2013.
2
- Nghiên cứu nhận diện những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của
siêu thị Co.opmart Nha Trang.
- Nghiên cứu nhận diện những yếu tố tạo nên năng lực cạnh tranh của siêu thị
Co.opmart Nha Trang.
- Đánh giá năng lực cạnh tranh của siêu thị Co.opmart Nha Trang so với đối
thủ cạnh tranh trên thị trường TP.Nha Trang.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp thu thập số liệu, thông tin
- Đối với thông tin thứ cấp: các thông tin về tình hình tài chính hoạt động sản
xuất kinh doanh của siêu thị Co.opmart được thu thập từ các báo cáo, tài liệu của
Saigon Co.op. các thông tin về đối thủ cạnh tranh được thu thập từ Internet và bài
nghiên cứu về các đối thủ cạnh tranh gần đây.
- Đối với thông tin sơ cấp: dùng phương pháp điều tra khách hàng và lấy ý

kiến của các chuyên gia.
4.2. Phương pháp xử lý thông tin
- Đối với thông tin thứ cấp: sử dụng phương pháp thống kê, mô tả, so sánh,
tổng hợp và tính toán số liệu
- Đối với thông tin sơ cấp: thông tin thu thập từ điều tra khách hàng: sau khi
thu thập số liệu điều tra, loại bỏ các phiếu điều tra không hợp lệ, dùng phương pháp
tổng hợp số liệu bằng Excel và rút ra kết luận.
- Thông tin thu thập từ ý kiến của các chuyên gia: tổng hợp số liệu thu thập
được, sau đó tính điểm số trung bình tổng hợp của các chuyên gia.
4.3. Phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh
4.3.1. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh và mức độ
quan trọng của các chỉ tiêu
Để xây dựng được nhóm chỉ tiêu và đánh giá mức độ quan trọng của các chỉ
tiêu hình thành nên năng lực cạnh tranh của siêu thị, tác giả đã (i) nghiên cứu khung
lý thuyết về năng lực cạnh tranh cũng như các nghiên cứu trước cùng chủ đề; (ii)
thảo luận định tính với 07 chuyên gia nội bộ. Từ đó, hệ thống 14 chỉ tiêu đánh giá
3
năng lực cạnh tranh đã được lựa chọn và mức độ quan trọng cho từng chỉ tiêu cũng
được tính toán.
4.3.2. Lấy ý kiến của chuyên gia và khách hàng
Nghiên cứu đã lựa chọn đối thủ cạnh tranh chủ yếu là siêu thị Maximark Nha
Trang.
Nghiên cứu đã xây dựng 2 bảng câu hỏi để đánh giá năng lực cạnh tranh của
siêu thị trong mối quan hệ so sánh với đối thủ cạnh tranh chủ yếu đã xác định trên.
Bảng câu hỏi thứ nhất là giành cho các chuyên gia nội bộ và Bảng câu hỏi thứ 2
giành cho các chuyên gia bên ngoài.
4.3.3. Công cụ phục vụ cho việc đánh giá năng lực cạnh tranh
Nghiên cứu đã sử dụng ma trận hình ảnh cạnh tranh nhằm đánh giá và so sánh
năng lực cạnh tranh của siêu thị Co.opmart Nha Trang so với đối thủ cạnh tranh là
Maximark Nha Trang; trên cơ sở đó các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh

tranh của siêu thị Co.opmart Nha Trang được đề xuất.
5. Những đóng góp của luận văn
5.1. Những đóng góp về mặt khoa học
Đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh của siêu thị Co.opmart Nha Trang
tại thị trường TP.Nha Trang” góp phần hoàn thiện và hệ thống hóa các cơ sở lý
thuyết về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp; vận dụng cơ sở lý thuyết vào thực
tế để đề ra các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của siêu thị Co.opmart
Nha Trang.
5.2. Những đóng góp về mặt thực tiễn
Đề ra được một số giải pháp cụ thể giúp siêu thị Co.opmart có thể áp dụng vào
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình để có thể đứng vững hơn trên thị trường
trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
4
Chương 2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của siêu thị Co.opmart Nha Trang
tại thị trường TP.Nha Trang
Chương 3. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
của siêu thị Co.opmart Nha Trang tại thị trường TP.Nha Trang
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
DOANH NGHIỆP
1.1. Tổng quan về siêu thị
1.1.1. Khái niệm
Siêu thị là từ được dịch ra từ thuật ngữ nước ngoài: “Supermarket” (tiếng
Anh) hay “Supermarché” (tiếng Pháp). Hiện nay, trên các quốc gia khác nhau khái
niệm siêu thị được hiểu theo nhiều cách khác nhau:

- Ở Mỹ: Siêu thị là cửa hàng bán lẻ kinh doanh theo phương thức tự phục vụ,
có quy mô tương đối lớn, mức chi phí thấp, tỷ suất lợi nhuận thấp và khối lượng
hàng hóa bán ra lớn, nhằm phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng về hàng hóa thực
phẩm và các loại hàng tiêu dùng thông thường.
- Ở Pháp: Siêu thị là cửa hàng bán lẻ kinh doanh theo phương thức tự phục vụ,
có diện tích từ 400 đến 2.500 m
2
và chủ yếu bán hàng thực phẩm.
- Ở Anh: Siêu thị là cửa hàng bách hóa bán đồ thực phẩm, đồ uống và các loại
hàng hóa khác. Siêu thị thường đặt tại thành phố và dọc đường cao tốc hoặc trong
khu vực buôn bán có diện tích từ 4.000 đến 25.000 bộ vuông.
- Ở Việt Nam, trong quy chế “siêu thị, trung tâm thương mại” của Bộ Thương
mại đã định nghĩa: “Siêu thị là cửa hàng hiện đại; kinh doanh tổng hợp hoặc chuyên
doanh; có cơ cấu chủng loại hàng hóa phong phú, đa dạng, đảm bảo chất lượng; đáp
ứng các tiêu chuẩn về diện tích kinh doanh, trang bị kỹ thuật và trình độ quản lý, tổ
chức kinh doanh; có phương thức phục vụ văn minh thuận tiện nhằm thỏa mãn nhu
cầu mua sắm hàng hóa của khách hàng”.
Tuy các khái niệm trên có khác nhau nhưng không mâu thuẫn với nhau. Các
khái niệm trên đều thống nhất ở chỗ siêu thị là một loại hình bán lẻ văn minh, tiến
bộ, hiện đại, người mua hàng tự phục vụ chính mình từ đó tạo khả năng thỏa mãn
6
tốt nhu cầu mua sắm các hàng hóa tiêu dùng thông thường của mọi tầng lớp dân cư
trong xã hội.
1.1.2. Đặc điểm của siêu thị
Siêu thị là một dạng của cửa hàng bán lẻ hàng hóa, hoạt động kinh doanh của
siêu thị được tổ chức dưới hình thức cửa hàng có trang thiết bị và cơ sở vật chất kỹ
thuật hiện đại. Siêu thị thực hiện chức năng bán lẻ trực tiếp hàng hóa cho người tiêu
dùng cuối cùng để họ sử dụng chứ không phải bán lại.
Phương thức bán hàng: tự phục vụ là phương thức bán hàng mà siêu thị áp
dụng. Khách hàng có quyền tự do đi lại trong cửa hàng, tự do tiếp xúc, xem xét,

ngắm nghía, so sánh, chọn lựa sau đó tự đưa hàng đã chọn đến quầy thu ngân để
thanh toán. Đó chính là tính tự phục vụ hoàn toàn. Điều này tạo ra tính kinh tế cho
hoạt động siêu thị vì nó có mức giá thấp hơn và hấp dẫn, kích thích nhu cầu mua
sắm của khách hàng.
Hàng hóa: Siêu thị thường có danh mục hàng bày bán rất đa dạng, phong phú
bao gồm cả hàng thực phẩm và phi thực phẩm. Hàng hóa ở siêu thị thường là các
đơn vị sản phẩm bán lẻ, hoàn chỉnh, phục vụ trực tiếp cho tiêu dùng cá nhân được
bày bán tên kệ theo từng loại và niêm yết giá công khai, dễ dàng để khách hàng dễ
quan sát, lựa chọn và toàn quyền quyết định mua sản phẩm họ ưng ý nhất.
Nghệ thuật trưng bày hàng hóa: Siêu thị thể hiện sự sáng tạo trong nghệ thuật
trưng bày hàng hóa nhằm tối đa hiệu quả không gian bán hàng. Điều này cũng có
nghĩa hàng hóa trong siêu thị có khả năng tự quảng cáo và lôi cuốn người mua.
Cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ bán hàng: Cơ sở vật chất, hạ tầng, trang thiết
bị kỹ thuật cấu thành một siêu thị như nhà cửa, kho hàng, thiết bị vật dùng cần
thiết, tương đối hiện đại nhằm đảm bảo sự tiện nghi phục vụ tốt, tạo thỏa mái cho
khách hàng khi đi mua sắm. Điều này giúp tăng khả năng cạnh tranh với các siêu thị
khác và với loại hình bán lẻ khác.
Doanh số bán hàng: Do phải đầu tư nhiều vào các thiết bị và chi phí khấu hao
tài sản cố định cao nên siêu thị đòi hỏi mức doanh số cao hơn rất nhiều so với các
7
cửa hàng thông thường, mặt khác giá bán cũng phải khống chế ở mức có khả năng
hấp dẫn khách hàng, vì vậy siêu thị phải hoạch định ở tầm hoạt động rộng lớn.
Quy mô: Siêu thị có quy mô tương đối lớn vì hình thức kinh doanh này lấy quan
điểm khách hàng tự phục vụ và chi phí thấp, lợi nhuận thấp làm cơ sở hoạt động. Do
đó, để đảm bảm tính kinh tế đòi hỏi siêu thị phải có quy mô hợp lý mới có thể tiêu thụ
được khối lượng hàng hóa lớn đủ để bù đắp chi phí kinh doanh và có lãi.
1.1.3. Vai trò của siêu thị
Các siêu thị tổng hợp và chuyên doanh giải quyết được rất nhiều mâu thuẫn
giữa sản xuất và tiêu dùng hàng hóa: Trong khi người tiêu dùng có nhu cầu về nhiều
loại hàng hóa với khối lượng nhỏ nhưng người sản xuất để đảm bảo lợi nhuận phải

sản xuất một hoặc một số hàng hóa với khối lượng lớn, để đạt hiệu quả sản xuất.
Tuy nhiên, sản xuất khối lượng lớn không thể cung ứng trực tiếp cho nhiều người
tiêu dùng, do đó hệ thống siêu thị giải quyết tốt sự khác biệt giữa sản xuất quy mô
lớn và tiêu dùng đa dạng khối lượng nhỏ. Bằng cách mua từ nhiều nhà sản xuất
khác nhau cung cấp cho nhiều người tiêu dùng tại một địa điểm.
Trong nền kinh tế có sự khác biệt về không gian giữa sản xuất và tiêu dùng.
Do nhiều người sản xuất tại nhiều địa điểm khác nhau nhiều người tiêu dùng ở
nhiều nơi khác nhau. Siêu thị giúp giải quyết vấn đề này trong quá trình phân phối
hàng hóa. Siêu thị mua hàng hóa của người sản xuất về một địa điểm để bán lại cho
người tiêu dùng với giá thấp nhất trong hệ thống phân phối.
Siêu thị còn giúp giải quyết sự khác biệt về không gian giữa sản xuất và thời
gian tiêu dùng không trùng khớp, có thể sản xuất có tính thời vụ còn tiêu dùng
quanh năm hoặc ngược lại. Vì sản xuất thường không xảy ra cùng thời gian với nhu
cầu tiêu dùng sản phẩm nên phải dự trữ hàng hóa. Sự ăn khớp về thời gian giữa sản
xuất và tiêu dùng được các siêu thị giải quyết một phần sự khác biệt này.
Mặt khác, quá trình phân phối hàng hóa các siêu thị nắm bắt được nhu cầu
thực tế của thị trường về sản phẩm, thời gian và không gian nên có thể chuyển tải
những thông tin cần thiết về nhu cầu thị trường cho những người sản xuất và cung
ứng hàng hóa, vì thế tạo lập cầu nối để dẫn dắt người sản xuất định hướng vào nhu
8
cầu thị trường, giảm thiểu các tầng, nấc trung gian trong hệ thống phân phối, do đó
sẽ có mức bán lẻ thấp nhất trong mạng lưới bán lẻ hàng hóa thông thường.
Cách thức tổ chức các quá trình phân phối sản phẩm của siêu thị sẽ giải quyết
các mâu thuẫn cố hữu của nền kinh tế. Các chức năng chính của siêu thị là mua và
bán, vận chuyển, lưu kho, tiêu chuẩn hóa và phân loại, tài chính, chịu rủi ro. Thông
tin thị trường.
Siêu thị còn đóng vai trò chức năng tài chính cung cấp tiền mặt và tín dụng cần thiết
cho hoạt động sản xuất hàng hóa.
Siêu thị còn đóng vai trò như là người chia sẻ rủi ro với các nhà sản xuất. Nếu
như trước kia các nhà sản xuất tự phân phối hàng hóa và tự gánh chịu rủi ro đối với

hàng hóa của mình thì hiện nay một số siêu thị đã bắt đầu tự kinh doanh rủi ro. Họ
thường mua đứt hàng hóa của các doanh nghiệp với giá thấp, sau đó tự chịu trách
nhiệm về bảo hành, vận chuyển hàng hóa đối với khách hàng nhằm thu được lợi
nhuận cao.
Siêu thị còn có vai trò cung cấp thông tin thị trường, do bán hàng trực tiếp cho
khách hàng nên các siêu thị là người hiểu rõ nhất nhu cầu của khách hàng, những
thay đổi về thị hiếu của khách hàng để từ đó cung cấp thông tin phản hồi đối với các
nhà sản xuất, tác động tới sản xuất để các nhà sản xuất có thể tạo ra các sản phẩm
đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
Ngoài ra, siêu thị còn giữ một số vai trò khác như: Hoàn thiện thêm sản phẩm,
có thể là bao gói, nhãn mác hoặc đóng hộp. Một số siêu thị còn thực hiện một số
công đoạn chế biến một phần, đặc biệt là đối với hàng thực phẩm. Ngoài ra, siêu thị
còn giữ vai trò tạo dựng và duy trì mối liên hệ với những người mua tiềm năng.
1.2. Lý thuyết về năng lực cạnh tranh
1.2.1. Cạnh tranh
Trên thực tế có rất nhiều quan điểm khác nhau diễn đạt khái niệm cạnh tranh.
Lý do là thuật ngữ cạnh tranh được sử dụng và đánh giá cho tất cả doanh nghiệp,
các ngành, các quốc gia. Trong khi đó, những mục tiêu cơ bản lại được đặt ra khác
nhau phụ thuộc vào góc độ xem xét của doanh nghiệp hay của quốc gia. Nhưng đối
9
với doanh nghiệp, mục tiêu chủ yếu là tồn tại và tiềm kiếm lợi nhuận trên cơ sở
cạnh tranh quốc gia hay quốc tế.
Khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản, C. Mac đã đề cập tới sự cạnh tranh kinh
tế giữa các nhà tư bản như sau: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt
giữa các nhà sản xuất, kinh doanh nhằm dành giật những điều kiện thuận lợi trong
sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu lợi nhuận siêu ngạch”.
Theo cuốn kinh tế học của P. Samuelson định nghĩa “cạnh tranh là sự giành thị
trường để tiêu thụ sản phẩm giữa các doanh nghiệp”. Theo từ điển kinh doanh (xuất
bản năm 1992 ở Anh) thì cạnh tranh trong cơ chế thị trường được định nghĩa là sự
ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm giành tài nguyên sản xuất

cùng một loại hàng hóa về phía mình.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: “Cạnh tranh là hoạt động tranh đua giữa
những người sản xuất hàng hóa, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong
nền kinh tế thị trường, chi phối quan hệ cung cầu, nhằm giành các điều kiện sản
xuất, tiêu thụ thị trường có lợi nhất.”
Giáo sư Michael Porter, người được xem là “cha đẻ” của chiến lược cạnh
tranh, một tring những giáo sư nổi tiếng của trường kinh doanh Harvard đưa ra định
nghĩa về cạnh tranh như sau: “Cạnh tranh, hiểu theo cấp độ doanh nghiệp là việc
đấu tranh hoặc giành giật từ một số đối thủ về khách hàng, thị phần hay nguồn lực
của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, bản chất của cạnh tranh ngày nay không phải tiêu
diệt đối thủ mà chính là doanh nghiệp phải tạo ra và mang lại cho khách hàng
những giá trị tăng cao hơn hoặc mới lạ hơn đối thủ để họ có thể lựa chọn mình mà
không đến với các đối thủ cạnh tranh”.
Với các cách hiểu và định nghĩa trên, trong khuôn khổ luận văn này tác giả sử
dụng định nghĩa của Giáo sư Michael Porter để hiểu và nghiên cứu về cạnh tranh.
1.2.2. Năng lực cạnh tranh
Có nhiều cách tiếp cận năng lực cạnh tranh, theo lý thuyết tổ chức các doanh
nghiệp: “Một doanh nghiệp được coi là có năng lực cạnh tranh và được đánh giá có
thể đứng vững cùng các nhà sản xuất khác, khi các sản phẩm thay thế cùng loại,
10
hoặc cung cấp các sản phẩm tương tự với các đặc tính về chất lượng và dịch vụ ở
mức giá ngang bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến mà không phải trợ cấp.”
Theo từ điển thuật ngữ chính sách thương mại thì: “Năng lực cạnh tranh là
năng lực của một doanh nghiệp hoặc một ngành, một quốc gia không bị doanh
nghiệp khác, ngành khác hay quốc gia khác đánh bại về năng lực kinh tế.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực lực và lợi thế của
doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thỏa mãn tốt nhất các đòi hỏi của
khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn. Như vậy, năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp trước hết phải tạo ra được từ thực lực của doanh nghiệp. Đây là các yếu tố
nội hàm của mỗi doanh nghiệp, không chỉ được tính bằng các tiêu chí về công nghệ,

tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp, một cách riêng biệt mà cần
đánh giá, so sánh với các đối thủ cạnh tranh trong hoạt động trên cùng một lĩnh vực,
cùng một thị trường. Sẽ là vô nghĩa nếu những điểm mạnh và điểm yếu bên trong
doanh nghiệp được đánh giá không thông qua việc so sánh một cách tương ứng với
các đối thủ cạnh tranh. Trên cơ sở các so sánh đó, muốn tạo nên năng lực cạnh
tranh, đòi hỏi doanh nghiệp phải tạo ra và có được các lợi thế cạnh tranh cho mình.
Nhờ lợi thế này doanh nghiệp có thể thỏa mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng
mục tiêu như lôi kéo được khách hàng của đối thủ cạnh tranh.
Thực tế cho thấy, không một doanh nghiệp nào có khả năng thỏa mãn đầy đủ
tất cả những yêu cầu của khách hàng. Thường thì doanh nghiệp có lợi thế về mặt này
và có hạn chế về mặt khác. Vấn đề cơ bản là, doanh nghiệp phải nhận biết được điều
này và cố gắng phát huy tốt nhất những điểm mạnh mà mình đang có để đáp ứng tốt
nhất những đòi hỏi của khách hàng. Những điểm mạnh và điểm yếu bên trong một
doanh nghiệp được biểu hiện thông qua các lĩnh vực chủ yếu của doanh nghiệp như
marketing, tài chính, sản xuất, nhân sự, công nghệ, hệ thống thông tin,…
Như vậy, khái niệm năng lực cạnh tranh là một khái niệm động, được cấu
thành bởi nhiều yếu tố và chịu sự tác động của cả môi trường vi mô và vĩ mô.
1.2.3. Lợi thế cạnh tranh
Lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp đó có thể cung
cấp cho thị trường một giá trị đặc biệt mà không có một đối thủ nào có thể cung cấp
11
được. Một doanh nghiệp được xem là có lợi thế cạnh tranh khi tỷ lệ lợi nhuận
của nó cao hơn tỷ lệ bình quân trong ngành. Và doanh nghiệp có một lợi thế cạnh
tanh bền vững khi nó có thể duy trì tỷ lệ lợi nhuận cao trong một thời gian dài.
Về cơ bản, lợi thế cạnh tranh phát sinh từ các giá trị mà doanh nghiệp có thể
tạo ra cho người mua, giá trị này phải lớn hơn các chi phí của doanh nghiệp đã phải
bỏ ra. Giá trị là mức mà người mua sẵn sàng thanh toán, và một giá trị cao hơn
(super value) xuất hiện khi doanh nghiệp chào bán các tiện ích tương đương nhưng
với mức giá thấp hơn các đối thủ cạnh tranh; hoặc cung cấp các tiện ích tương
đương nhưng với mức giá thấp hơn các đối thủ cạnh tranh; hoặc cung cấp các tiện

ích độc đáo và người mua vẫn hài lòng với mức mức giá cao hơn bình thường. Có 2
loại lợi thế cạnh tranh cơ bản: (1) chi phí tối ưu (cost leadership); và (2) khác biệt
hóa (differentiation).
Khi một doanh nghiệp có được lợi thế cạnh tranh, doanh nghiệp đó sẽ có cái
mà các đối thủ khác không có, nghĩa là doanh nghiệp hoạt động tốt hơn đối thủ
cạnh tranh, hoặc làm được những việc mà các đối thủ khác không thể làm được. Lợi
thế cạnh tranh là nhân tố cần thiết cho sự thành công và tồn tại lâu dài của doanh
nghiệp. Do vậy mà các doanh nghiệp đều muốn cố gắng phát triển lợi thế cạnh
tranh, tuy nhiên điều này thường rất dễ bị xóa mòn bởi những hành động bắt chước
của đối thủ.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của siêu thị
1.3.1. Môi trường vĩ mô
1.3.1.1. Môi trường tự nhiên
Các điều kiện tự nhiên luôn luôn ảnh hưởng đến cuộc sống của con người,
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Điều kiện tự nhiên bao gồm
các nguồn lực tài nguyên thiên nhiên có thể khai thác, các điều kiện về địa lý như
địa hình, đất đai, khí hậu, thời tiết, Trong nhiều trường hợp, các điều kiện tự nhiên
trở thành một yếu tố rất quan trọng để hình thành lợi thế cạnh tranh của từng loại
doanh nghiệp khác nhau: tài nguyên thiên nhiên có ảnh hưởng mang tính chất quyết
định đến doanh nghiệp khai thác; điều kiện đất đai, khí hậu, thời tiết tác động trực
12
tiếp đến doanh nghiệp sản xuất nông, lâm, thủy hải sản và từ đó tác động đến doanh
nghiệp chế biến; địa hình và sự phát triển hạ tầng tác động đến việc lựa chọn địa
điểm của mọi doanh nghiệp; khí hậu, độ ẩm, không khí tác động mạnh đến nhiều
ngành sản xuất, từ khâu thiết kế sản phẩm đến công tác lưu kho,…
1.3.1.2. Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế có vai trò hàng đầu và có ảnh hưởng quyết định đến hoạt
động kinh doanh của mọi doanh nghiệp. Nếu nền kinh tế trong nước và kinh tế quốc
tế tăng trưởng cao sẽ làm tăng thu nhập của hộ gia đình và doanh nghiệp, dẫn đến
tăng khả năng thanh toán cho nhu cầu tiêu dùng và nhu cầu đầu tư. Thị trường của

doanh nghiệp sẽ được mở rộng, áp lực cạnh tranh giảm, doanh nghiệp sẽ có điều
kiện mở rộng sản xuất, thu được nhiều lợi nhuận hơn. Khi nền kinh tế rơi vào suy
thoái, nó sẽ tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp theo hướng ngược
lại, làm cho thị trường bị thu hẹp và áp lực cạnh tranh lớn hơn, doanh nghiệp có
nguy cơ bị giảm lợi nhuận, thua lỗ thậm chí phá sản.
1.3.1.3. Môi trường chính trị, pháp luật
Môi trường chính trị trong nước và quốc tế ảnh hưởng rất lớn đến năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp. môi trường chính trị trong nước ổn định sẽ tạo điều
kiện cho doanh nghiệp yên tâm tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư
nâng cao năng lực sản xuất, mở rộng thị trường. Các nhân tố chủ yếu phản ánh thay
đổi chính trị của thế giới là các quan hệ chính trị hình thành trên toàn cầu hoặc ở
khu vực như vấn đề toàn cầu hóa, hình thành, mở rộng hoặc phá bỏ các liên minh
song phương hoặc đa phương, giải quyết các mâu thuẫn cơ bản của thế giới và khu
vực. Các nhân tố này tác động tiêu cực hoặc tích cực đến hoạt động của doanh
nghiệp của mỗi quốc gia nói chung và của các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng.
Nhìn chung, nếu những bất đồng về chính trị giữa các quốc gia được xóa bỏ, quan
hệ giữa các nước được bình thường hóa thì thị trường của doanh nghiệp sẽ được mở
rộng, doanh nghiệp cũng có điều kiện giao lưu, học hỏi, tiếp thu công nghệ mới.
Trong khi đó, nếu một quốc gia vì xung đột chính trị mà đóng cửa, bế quan tỏa cảng
thì một mặt, một số doanh nghiệp trong nước có khả năng mở rộng thị phần trong
13
nước vì không phải gặp phải áp lực cạnh tranh từ bên ngoài, nhưng mặt khác các
doanh nghiệp trong nước sẽ bị tụt hậu về năng lực sản xuất, trình độ công nghệ,
năng lực quản lý,
Luật pháp của mỗi quốc gia là nền tảng tạo ra môi trường cạnh tranh cho quốc
gia đó. Việc ban hành hệ thống pháp luật có chất lượng, quy định rõ quyền và nghĩa
vụ của doanh nghiệp và đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng, không có sự
phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, doanh
nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, tạo điều kiện cho mọi doanh
nghiệp cạnh tranh lành mạnh. Đồng thời, hệ thống pháp luật là cơ sở để ngăn chặn

những hành vi cạnh tranh bất hợp pháp và điều tiết hoạt động cạnh tranh của doanh
nghiệp, ngăn ngừa tác động xấu của cạnh tranh như độc quyền, ngoại ứng tiêu cực,
1.3.1.4. Môi trường văn hóa – xã hội
Các vấn đề văn hóa – xã hội như phong tục tập quán, lối sống, trình độ dân trí
có ảnh hưởng rất lớn đến cơ cấu của nhu cầu thụ trường. Doanh nghiệp phải nắm
bắt được văn hóa xã hội địa phương mới có thể sản xuất được sản phẩm thỏa mãn
thị hiếu của người tiêu dùng. Văn hóa – xã hội còn tác động trực tiếp đến việc hình
thành môi trường văn hóa doanh nghiệp, thái độ cư xử, ứng xử của doanh nghiệp
đối với các nhà cung cấp, khách hàng và cả đối thủ cạnh tranh.
1.3.1.5. Môi trường khoa học công nghệ
Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế hiện nay, sự phát triển nhanh chóng
trong mọi lĩnh vực khoa học kỹ thuật đều ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh
tranh của những doanh nghiệp có liên quan. Chuyển giao công nghệ đã, đang và sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của mọi doanh nghiệp. Áp dụng những kỹ thuật
công nghệ tiên tiến nhất sẽ giúp tăng năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, tạo
ra những sản phẩm mới, cải tiến mẫu mã, giúp doanh nghiệp thu hút được khách
hàng nhiều hơn. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam muốn nhanh chóng vươn lên, tạo
ra khả năng cạnh tranh để đứng vững ngay trên sân nhà và vươn ra thị trường thế
giới thì không thể không chú ý nâng cao khả năng nghiên cứu và phát triển công
14
nghệ; không chỉ là chuyển giao, làm chủ công nghệ nhập ngoại mà phải có khả
năng sáng tạo được kỹ thuật công nghệ tiên tiến.
1.3.2. Môi trường vi mô
Micheal Porter (1985), điểm cốt yếu của việc nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp là mối liên hệ giữa doanh nghiệp và môi trường của nó. Trong
các bộ phận cấu thành môi trường doanh nghiệp thì môi trường cạnh tranh là mảng
quan trọng nhất, môi trường cạnh tranh gắn trực tiếp với từng doanh nghiệp, là nơi
phần lớn các hoạt động cạnh tranh của doanh nghiệp đang diễn ra. Michael Porter
đưa ra mô hình 5 áp lực cạnh tranh dưới đây:
Hình 1.1. Mô hình 5 áp lực cạnh tranh

(Micheal Porter, 1985)
5 áp lực cạnh tranh hình thành môi trường cạnh tranh và quyết định vị thế
cạnh tranh của doanh nghiệp trong một ngành kinh doanh cụ thể. Sức mạnh của các
áp lực cạnh tranh trong ngành sẽ quyết định mức độ đầu tư, cường độ cạnh tranh và
mức lợi nhuận của ngành. Khi các áp lực cạnh tranh càng mạnh thì khả năng sinh
Các đối thủ cạnh
tranh tiềm năng
Nhà cung ứng
Khách hàng
Sản phẩm thay thế
Các đối thủ cạnh tranh
trong ngành
Cuộc đấu tranh giữa các
đối thủ hiện tại
15
lời và tăng giá hàng của các công ty cùng ngành càng bị hạn chế. Ngược lại, khi áp lực
cạnh tranh yếu thì đó là cơ hội cho các công ty trong ngành thu được lợi nhuận cao.
1.3.2.1. Khách hàng
Khách hàng là người có nhu cầu với sản phẩm của doanh nghiệp. Nhu cầu của
người tiêu dùng là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng có tính quyết định đến mọi hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lượng cầu tác động đến mức độ và cường
độ cạnh tranh trong ngành. Nếu quy mô thị trường lớn mà lại không có nhiều doanh
nghiệp tham giam thì sức ép cạnh tranh với doanh nghiệp giảm; còn nếu thị trường
đã bão hòa mà số lượng doanh nghiệp gia nhập ngày càng nhiều thì cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp sẽ khiến lợi nhuận giảm sút. Khách hàng là người tạo ra lợi nhuận
cho doanh nghiệp. Thị hiếu và những yêu cầu của khách hàng về chất lượng, mẫu
mã sản phẩm, tính nhạy cảm của khách hàng với giá cả, đều tác động đến việc
thiết kế sản phẩm của doanh nghiệp. Doanh nghiệp đáp ứng được yêu cầu của
khách hàng sẽ giành thắng lợi trong cạnh tranh, ngược lại, doanh nghiệp nào không
chú ý đến nhu cầu của khách hàng chắc chắn sẽ gặp thất bại. Do nhu cầu của khách

hàng là một phạm trù không có giới hạn nên doanh nghiệp còn phải biết khai thác
và biến nhu cầu của khách hàng thành cầu thực sự. Áp lực từ khách hàng xuất phát
từ các điều kiện sau: (1) Khi số lượng người mua là nhỏ; (2) Khi người mua mua
một lượng lớn sản phẩm và tập trung; (3) Khi người mua chiếm một tỷ trọng lớn
trong sản lượng của người bán; (4) Các sản phẩm không có tính khác biệt và là các
sản phẩm cơ bản; (5) Khách hàng đe dọa hội nhập về phía sau; (6) Sản phẩm ngành
là không quan trọng đối với chất lượng sản phẩm của người mua; (7) Khách hàng
có đầy đủ thông tin.
1.3.2.2. Nhà cung cấp
Các nhà cung cấp hình thành các thị trường cung cấp các yếu tố đầu vào khác
nhau bao gồm người bán thiết bị, nguyên vật liệu, người cấp vốn và những người
cung cấp lao động cho doanh nghiệp. Quan hệ với nhà cung ứng ảnh hưởng rất lớn
đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp tìm được nhà cung
cấp thiết bị, nguyên vật liệu đầu vào lâu dài với giá rẻ; được các tổ chức tín dụng
cho vay vốn với lãi suất thấp; hoặc tìm được nguồn cung lao động dồi dào được đào
16
tạo bài bản thì doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được chi phí đầu vào, qua đó có thể giảm
giá thành, đồng thời nâng cao được chất lượng sản phẩm. Còn nếu các nhà cung cấp
lại gây sức ép tăng giá đầu vào thì doanh nghiệp sẽ phải tăng giá bán, khiến cho tính
cạnh tranh của sản phẩm giảm sút, hoặc phải chấp nhận giảm lợi nhuận để giữ được
khách hàng. Áp lực từ nhà cung ứng sẽ tăng lên nếu: (1) Chỉ có một số ít nhà cung
ứng; (2) Khi sản phẩm thay thế không có sẵn; (3) Khi sản phẩm của nhà cung ứng
là các yếu tố đầu vào quan trọng đối với hoạt động của khách hàng; (4) Khi sản
phẩm của nhà cung ứng có tính khác biệt và được đánh giá cao bởi các đối thủ của
người mua; (5) Khi người mua phải gánh chịu một chi phí cao do thay đổi nhà cung
ứng; (6) Khi các nhà cung ứng đe dọa hội nhập về phía trước.
1.3.2.4. Đối thủ tiềm ẩn
Các doanh nghiệp sẽ tham gia vào thị trường là đối thủ mới xuất hiện hoặc sẽ
xuất hiện trên khu vực thị trường mà doanh nghiệp đang và sẽ hoạt động. Tác động
của các doanh nghiệp này đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

đến đâu hoàn toàn phụ thuộc vào sức mạnh cạnh tranh của những doanh nghiệp đó
(quy mô, công nghệ, đội ngũ quản lý,…). Sự xuất hiện của các đối thủ cạnh tranh
làm tăng mức độ cạnh tranh trong ngành.
Theo M.Porter, những nhân tố sau tác động đến quá trình tham gia thị trường
của các đối thủ mới: các rào cản thâm nhập thị trường, hiệu quả kinh tế của quy mô,
bất lợi về chi phí do các nguyên nhân khác, sự khác biệt hóa sản phẩm, yêu cầu về
vốn cho sự thâm nhập, chi phí chuyển đổi, sự tiếp cận đường dây phân phối, các
chính sách thuộc quản lý kinh tế mới. Theo Micheal Poeter, có 6 nguồn rào cản xâm
nhập chủ yếu đó là: (1) Lợi nhuận kinh tế theo quy mô; (2) Sự khác biệt của sản
phẩm; (3) Các đòi hỏi về vốn; (4) Chi phí chuyển đổi; (5) Khả năng tiếp cận với
kênh phân phối; (6) Những bất lợi về chi phí không liên quan đến quy mô.
1.3.2.4. Sản phẩm thay thế
Sản phẩm thay thế là một trong những nhân tố quan trọng tác động đến quá
trình tiêu thị sản phẩm của doanh nghiệp. Càng nhiều loại sản phẩm thay thế xuất
hiện bao nhiêu thì sức ép cạnh tranh lên doanh nghiệp càng lớn bấy nhiêu.
17
Để có thể cạnh tranh được với các sản phẩm thay thế, doanh nghiệp càng chú
ý đến các vấn đề: đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm để cạnh
tranh với các sản phẩm thay thế, các giải pháp khác biệt hóa sản phẩm cũng như
trong từng giai đoạn phải biết tìm và rút về phân đoạn thị trường hay thị trường
ngách phù hợp. Các sản phẩm thay thế đáng được quan tâm nhất có thể là: (1) Các
sản phẩm thuộc xu thế đaánh đổi giá cả rẻ của chúng lấy sản phẩm của ngành; (2)
Do các ngành có lợi nhuận cao: Trong trường hợp này các sản phẩm thay thế sẽ ồ ạt
nhảy vào xâm nhập làm tăng cường độ cạnh tranh buộc các sản phẩm của ngành
phải giảm giá hay nâng cao chất lượng.
1.3.2.5. Các doanh nghiệp trong ngành
Các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ các doanh nghiệp
đang kinh doanh cùng ngành nghề, cùng khu vực thị trường. Số lượng, quy mô, sức
mạnh của từng đối thủ cạnh tranh đều ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp. Theo M.Porter, tám vấn đề sau sẽ ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh

của doanh nghiệp so với các đối thủ: số lượng đối thủ cạnh tranh nhiều hay ít? Mức
độ tăng trưởng của ngành nhanh hay chậm? Chi phí cố định là cao hay thấp? Các
đối tranh cạnh tranh có đủ ngân sách có đủ khả năng khác biệt hóa sản phẩm hay
chuyển hướng kinh doanh hay không? Năng lực sản xuất của các đối thủ có tăng
hay không và nếu tăng thì tăng ở tốc độ nào? Tính chất đa dạng sản xuất kinh doanh
của các đối thủ cạnh tranh ở mức độ nào? Mức độ kỳ vọng của các đối thủ cạnh
tranh vào chiến lược kinh doanh của họ và sự tồn tại của rào cản rời bỏ ngành. Tính
chất và cường độ cạnh trnh giữa các công ty hiện tại trong ngành phụ thuộc vào các
yếu tố sau: (1) Số lượng các đối thủ cạnh tranh đông đúc; (2) Tốc độ tăng trưởng
của ngành; (3) Chi phí cố định và chi phí lưu kho cao; (4) Sự nghèo nàn về tính
khác biệt của sản phẩm và chi phí chuyển đổi; (5) Ngành có năng lực dư thừa; (6)
Tính đa dạng của ngành; (7) Sự tham gia vào ngành cao; (8) Các rào cản rút lui.
1.4. Các yếu tố nên năng lực cạnh tranh của siêu thị
Như đã trình bỳ ở phần khái niệm, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được
cấu thành từ các yếu tố bên trong của doanh nghiệp bao gồm: năng lực quản trị,
18
nguồn nhân lực, năng lực tài chính, năng lực marketing, năng lực sản xuất, năng lực
nghiên cứu và phát triển, hệ thống thông tin.
1.4.1. Năng lực quản trị
Năng lực quản trị được coi là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp nói chung cũng như năng lực cạnh tranh doanh nghiệp nói riêng.
Năng lực quản trị được thể hiện ở các mặt sau:
Trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý: trình độ đội ngũ này không chỉ đơn
thuần là trình độ học vấn mà còn thể hiện những kiến thức rộng lớn và đa dạng
thuộc rất nhiều lĩnh vực liên quan tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, từ
pháp luật trong nước và quốc tế, thị trường, ngành hàng, đến kiến thức về xã hội,
nhân văn.
Trình độ tổ chức, quản lý siêu thị: thể hiện ở việc sắp xếp, bố trí cơ cấu tổ
chức bộ máy quản lý và phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận.
Việc hình thành tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp theo hướng tinh – gọn – nhẹ

và hiệu quả cao có ý nghĩa quan trong không chỉ bảo đảm hiệu quả quản lý cao, ra
quyết định nhanh chóng, chính xác, mà còn làm giảm tương đới chi phí quản lý
doanh nghiệp; qua đó, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Trình độ, năng lực quản lý của doanh nghiệp còn thể hiện trong việc hoạch
định chiến lược kinh doanh, lập kế hoạch, điều hành tác nghiệp, Điều này có ý
nghĩa lớn trong việc nâng cai hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong ngắn hạn
và dài hạn và do đó có tác động mạnh tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.
1.4.2. Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp là yếu tố then chốt cấu thành nên năng
lực cạnh tranh. Để phát huy tốt sức mạnh nguồn nhân lực thì cần phải có hoạt động
quản trị nguồn nhân lực tốt. Hoạt động quản trị nguồn nhân lực của doanh nghiệp
mà tốt sẽ giúp doanh nghiệp giảm được chi phí sản xuất, tối đa hóa nguồn lực và
đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
19
Hoạt động quản trị nguồn nhân lực là yếu tố ngầm, tạo nên năng lực cạnh
tranh cho doanh nghiệp trong dài hạn và các đối thủ cạnh trnh rất khó bắt chước,
khó học hỏi. Quản trị nguồn nhân lực thể hiện qua các chính sách khích lệ nhân
viên, v8n hóa tổ chức, chính sách đãi ngộ, đào tạo,…
1.4.3. Năng lực tài chính
Tình hình tài chính là yếu tố đánh giá khả năng của doanh nghiệp có thể mở
rộng sản xuất, đạt tăng trường, thực hiện các chiến lước cạnh tranh như chi phí thấp
nhờ lợi thế dựa vào quy mô, xây dựng cơ sở hạ tầng, tiến hành nghiên cứu và phát
triển nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh. Hoạt động tài chính có ảnh hưởng sâu
rộng đối với các hoạt động của toàn doanh nghiệp. Bộ phận tài chính có trách nhiệm
trong việc đảm bảo các nguồn lực cho doanh nghiệp mà trước hết là nguồn tiền.
Năng lực tài chính của doanh nghiệp được thể hiện ở quy mô vốn, khả năng
huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả, năng lực quản lý tài chính trong doanh
nghiệp,… trước hết, năng lực tài chính gắn với vốn, là một yếu tố sản xuất cơ bản
và là một đầu vào của doanh nghiệp. Do đó, sử dụng vốn có hiệu quả, quay vòng

vốn nhanh có ý nghĩa rất lớn trong việc làm giảm chi phí vốn, giảm giá thành sản
phẩm. Đồng thời, vốn còn là tiền đề đối với các yếu tố sản xuất khác.
Việc huy động vốn kịp thời nhằm đáp ứng vật tư, nguyên liệu, thuê nhân công,
mua sắm thiết bị, công nghệ, tổ chúc hệ thống bán lẻ,… Như vậy, năng lực tì chính
phản ánh sức mạnh kinh tế của doanh nghiệp, là yêu cầu đầu tiên, bắt buộc phải có
nếu muốn doanh nghiệp thành công trong kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh
tranh.
Để nâng cao năng lực tài chính, doanh nghiệp phải củng cố và phát triển
nguồn vốn, tăng vốn tự có, mở rộng vốn vay dưới nhiều hình thức. Đồng thời,
doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, hoạt động kinh doanh có
hiệu quả để tạo uy tín đối với khách hàng, với ngân hàng và những người cho vay
vốn.
1.4.4. Năng lực sản xuất
20
Quản trị sản xuất bao gồm tất cả các hoạt động quản trị các yếu tố đầu vào, tổ
chức phối hợp các yếu tố đó nhằm chuyển hóa chúng thành các sản phẩm vật chất
hoặc dịch vụ với hiệu quả cao nhất. đó là quá trình thiết kế, hoạch định, tổ chức
điều hành và kiểm tra theo dõi hệ thống sản xuất – dịch vụ nhằm thực hiện những
mục tiêu sản xuất đã đề ra.
Quản trị sản xuất đồng thời với tư cách là tổ chức quản lý sử dụng các yếu tố
đầu vào và cung cấp đầu ra phục vụ nhu cầu của thị trường, vì vậy mục tiêu tổng
quát đặt ra là đảm bảo thỏa mãn tối đa nhu cầu của khách hàng trên cơ sở sử dụng
hiệu quả nhất các yếu tố sản xuất. Nhằm thực hiện mục tiêu này, quản trị sản xuất
có các mục tiêu cụ thể sau: Bảo đảm chất lượng sản phẩm và dịch vụ theo đúng yêu
cầu của khách hàng; Giảm chí phí sản xuất tới mức thấp nhất để tạo ra một đơn vị
đầu ra; Rút ngắn thời gian sản xuất sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ; Xây dựng hệ
thống sản xuất của doanh nghiệp có độ linh hoạt cao. Các mục tiêu cụ thể này gắn
bó chặt chẽ với nhau tạo ra sức mạnh tổng hợp, nâng cao khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp trên thị trường.
1.4.5. Năng lực Marketing

Năng lực Marketing của doanh nghiệp là khả năng nắm bắt nhu cầu thị trường,
khả năng thực hiện chiến lược 4P (Products, Place, Price, Promotion) trong hoạt
động Marketing. Khả năng Marketing tác động trực tiếp tới sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm đáp ứng nhu cầu khách hàng, góp phần làm tăng doanh thu, tăng thị phần tiêu
thụ sản phẩm, nâng cao vị thế của doanh nghiệp. đây là nhóm nhân tố rất quan trọng
tác động tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Vì vậy, điều tra cầu thị trường và dựa trên khả năng sẵn có của doanh nghiệp
để lựa chọn lĩnh vực kinh doanh phù hợp, tạo ra sản phẩm có thương hiệu được
người sử dụng chấp nhận. Trong điều kiện kinh tế hàng hóa phát triển, văn hóa tiêu
dùng ngày càng cao, thì người tiêu dùng càng hướng tới tiêu dùng những hàng hóa
có thương hiệu, uy tín. Vì vậy, xây dựng thương hiệu cho sản phẩm là một tất yếu
đối với những doanh nghiệp muốn tồn tại trên thị trường.
21

×