TỔNG CỤC THỐNG KÊ
VỤ TK NÔNG, LÂM NGHIỆP VÀ THỦY SẢN
CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC
THỰC TRẠNG CÂN ĐỐI LUƠNG THỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Thuộc đề tài:
“NGHIÊN CỨU NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP LẬP
BẢNG CÂN ĐỐI LƢƠNG THỰC Ở VIỆT NAM”
Mã số: 2.2.5-CS10
Đơn vị chủ trì: Viện Khoa học Thống kê
Đơn vị thực hiện: Vụ TK Nông, Lâm nghiệp và Thủy sản
Chủ nhiệm đề tài: Lê Trung Hiếu
Ngƣời thực hiện: Nguyễn Sinh Cúc
Hà Nội, tháng 9 năm 2009
2
MỤC LỤC
1. Sự cần thiết khách quan 3
2. Thực trạng cân đối lƣơng thực Việt Nam những năm qua 4
3. Hạn chế và nhƣợc điểm 8
4. Định hƣớng và giải pháp 11
6. Đổi mới nội dung Thống kê cân đối lƣơng thực: 13
3
1. Sự cần thiết khách quan
Việt Nam là nƣớc đang phát triển, nền kinh tế đang chuyển dần từ nông
nghiệp truyền thống sang nông nghiệp hiện đại gắn với công nghiệp và dịch vụ
đa ngành. Nông nghiệp (nghĩa rộng) mới chiếm 20% GDP (2009) nhƣng thu hút
gần 60% lực lƣợng lao động. Dân số đông, đến thời điểm 1/10/2009 là 85,6 triệu
ngƣời, tốc độ tăng dân số trên 1,2%/năm, tƣơng đƣơng 1,2 triệu ngƣời. Đất nông
nghiệp, nhất là đất trồng cây lƣơng thực bình quân nhân khẩu vốn đã thấp lại
giảm nhanh trong quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá. Do đó lƣơng thực
bình quân nhân khẩu những năm gần đây đã có xu hƣớng tăng rất chậm thậm chi
có năm giảm dù năng suất cây lƣơng thực (lúa, ngô) đã đạt mức cao của thế giới.
Bảng 1: Tình hình lƣơng thực Việt Nam thời kỳ 2000-2009.
2000
2004
2005
2006
2007
2008
2009
DTGT cây LT (triệu ha)
8,399
8,44
8,38
8,59
8,30
8,54
8,526
SLLT có hạt (triệu tấn)
34,53
39,58
39,62
39,70
40,24
43,25
43,33
LTBQ nhân khẩu (kg)
444,9
482,5
476,8
471,2
472,5
501,8
503,5
NS lúa b/q 1 vụ (tạ/ha)
42,4
48,6
48,8
48,9
48,9
52,2
52,3
NS ngô b/q 1vụ (tạ/ha)
27,5
34,6
36,0
37,3
39,3
40,2
40,8
Nguồn NGTK năm 2008 trang 234-260. Báo cáo tình hình KT-XH 2009, TCTK.
Nguồn cung không tăng nhƣng cầu lại tăng đều qua các năm nên cân đối
lƣơng thực trong nƣớc cho nhu cầu tiêu dùng cho con ngƣời đã xuất hiện những
vấn đề mới nổi cộm, chƣa tính đến các nhu cầu khác nhƣ chăn nuôi, dự trữ, để
giống, xuất khẩu… An ninh lƣơng thực quốc gia đã và đang đƣợc Đảng, Nhà
nƣớc quan tâm đặc biệt. Nhiều bộ Luật, Pháp lệnh và chính sách liên quan đến
An ninh lƣơng thực quốc gia nhƣ Luật Đât đai, Luật lao động, Pháp lệnh Dân số,
chính sách của Nhà nƣớc đã đƣợc ban hành nhằm mục tiêu khuyến khích phát
triển lƣơng thực theo hƣớng bền vững đi đôi với ổn định dân số và kế hoạch hoá
gia đình.
Dân số và lƣơng thực là 2 mặt của vấn đề an ninh lƣơng thực quốc gia và
quốc tế. Nhƣ vậy, về lý luận, an ninh lƣơng thực dù đƣợc xem xét dƣới góc độ
nào, khái niệm rộng, hẹp ra sao cũng đều phải có hai yếu tố không thể thiếu đó
là dân số và sản lƣợng lƣơng thực. Còn trong thực tế, bất kỳ kế hoạch ngắn hạn
hay dài hạn của quốc gia hay quốc tế về an toàn lƣơng thực đều phải xuất phát
từ quy mô và tốc độ gia tăng dân số với quy mô và tốc độ tăng sản lƣợng lƣơng
thực. Và con số lƣơng thực bình quân nhân khẩu đƣợc đánh giá nhƣ là chỉ tiêu
cơ bản phản ánh mức độ an ninh lƣơng thực của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ
4
nhất định. Khi lƣơng thực bình quân đầu ngƣời đạt đến trình độ nhất định và ở
trình độ đó đảm bảo cho mọi ngƣời dân có khả năng tiếp cận nguồn lƣơng thực
cần thiết trong mọi hoàn cảnh và mọi lúc để có đƣợc cuộc sống khoẻ mạnh thì
tốc độ tăng sản lƣợng lƣơng thực phải bằng hoặc cao hơn tốc độ tăng tự nhiên
của dân số.
2. Thực trạng cân đối lương thực Việt Nam những năm qua
Trong 10 năm qua (1999- 2009), về cơ bản an ninh lƣơng thực quốc gia của
Việt Nam đƣợc đảm bảo do tác động tích cực của cả hai yếu tố: dân số tăng
chậm lại trong khi đó sản lƣợng lƣơng thực sản xuất tăng nhanh hơn tốc độ tăng
dân số.
Tốc độ tăng tự nhiên của dân số đã giảm dần: từ 1,54% năm 1999 xuống 1,4%
năm 2004; 1,23% năm 2007 và 1,21% năm 2009. Tốc độ tăng tự nhiên dân số
bình quân 5 năm 2004-2008 là 1,23% nên quy mô tăng dân số hàng năm đã
giảm dần. Theo kết quả Tổng điều tra dân số năm 1999, dân số cả nƣớc tại 0 giờ
ngày 1 tháng 4 năm 1999 là 76,3 triệu ngƣời. Theo số liệu Tổng điều tra dân số
và nhà ở 1/4/2009, dân số cả nƣớc là 85,7 triệu ngƣời, tăng 12,8% (gần 10 triệu
ngƣời) so với năm 1999. Do đó, tốc độ tăng tự nhiên của dân số hàng năm luôn
thấp hơn tốc độ tăng của sản lƣợng lƣơng thực có hạt trong giai đoạn tƣơng ứng.
Bảng 2: Tốc độ tăng tự nhiên của dân số và sản lƣợng lƣơng thực từ
2004- 2009 của cả nƣớc năm sau so năm trƣớc (%)
2004
2005
2006
2007
2008
2009
Sản lƣợng lƣơng thực
105,0
100,1
100,2
100,7
107,5
103,0
Dân số trung bình
101,40
101,31
101,24
101,21
101,20
101,23
Nguồn: Niên giám thống kê các năm, Bao cáo kinh tế-xã hội nămv 2009. TCTK.
Không những tăng chậm lại mà dân số Việt Nam đã có những chuyển biến
cả về chất lƣợng, quy mô, cơ cấu ngành nghề, nơi cƣ trú, trình độ văn hoá, đặc
điểm tiêu dùng lƣơng thực, thực phẩm. Về cơ cấu dân số giữa thành thị và nông
thôn đã có sự chuyển dịch theo hƣớng tăng tỷ trọng dân số thành thị và nông
thôn đã có sự chuyển dịch theo hƣớng tăng tỷ trọng dân số thành thị, giảm tỷ
trọng dân số khu vực nông thôn do quá trình đô thị hoá. Hai tỷ lệ dân số thành
thị/nông thôn năm 1999 là 23,61%/26,39% năm 2009 là 27,90%/72,10%. Trình
độ văn hoá, chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức kinh tế thị trƣờng cũng đã có
những chuyển biến theo hƣớng tiến bộ. Tỷ lệ lao động nông thôn có chuyên môn
kỹ thuật tăng từ 7,4% năm 1999 lên 16,9% năm 2008. Đặc điểm tiêu dùng lƣơng
thực, thực phẩm và cơ cấu bữa ăn của hộ gia đình cũng có nhiều thay đổi, tỷ
trọng lƣơng thực giảm dần cả về giá trị và lƣợng. Năm 1999 lƣợng gạo tiêu dùng
5
bình quân nhân khẩu 1 tháng là 13 kg, thì năm 2006 chỉ còn 11,4 kg và năm
2008 chỉ còn 11,2 kg, riêng khu vực thành thị chỉ còn 8,8 kg. Tỷ trọng chi cho
lƣơng thực trong cơ cấu chi cho ăn uống giảm dần từ 27% xuống còn 20,7% và
20%, riêng khu vực thành thị là 12,0% trong 3 năm tƣơng ứng…
Sự thay đổi nhƣ trên đã và đang tác động trực tiếp đến yếu tố cầu lƣơng
thực tiêu dùng cho bữa ăn của dân cƣ trong nƣớc và gián tiếp tác động đến thực
trạng an ninh lƣơng thực Việt Nam từ quan hệ cung- cầu trong nƣớc đến thế giới
và khu vực. Các khâu sản xuất, phân phối, tiếp cận và tiêu dùng lƣơng thực của
dân cƣ những năm gần đây đều gắn với thị trƣờng và giá cả lƣơng thực thế giới
với xu hƣớng tăng dần. Đối với quan hệ cung cầu trong nƣớc từ năm 1999 đến
năm 2009 về cơ bản ổn định theo chiều hƣớng tích cực. Do an ninh lƣơng thực
quốc gia đƣợc đảm bảo trên phạm vi cả nƣớc, các cơn sốt về cung- cầu lƣơng
thực không xẩy ra cả tại các vùng bị thiên tai nặng trong 3 năm 2007- 2009. Cơn
sốt về giá lƣơng thực giữa năm 2008 chỉ có tính nhất thời do khâu quản lý nhà
nƣớc, nhất là hệ thống phân phối lƣơng thực có nhiều bất cập, hiện tƣợng đầu cơ
tích trữ của tƣ thƣơng ở một số ít địa phƣơng phía nam. Tuy nhiên cơn sốt giá
giả tạo đó đã đƣợc Chính phủ chỉ đạo, khắc phục nhanh, do lƣơng thực dự trữ
dồi dào.
Sản lượng lương thực tăng nhanh: sản lƣợng lƣơng thực có hạt sản xuất
năm 2009 đạt 44,1 triệu tấn tăng hơn 10 triệu tấn (+30%) so với năm 1999, tốc
độ tăng bình quân mỗi năm gần 3%. Sản lƣợng lƣơng thực tăng do tác động của
của cả hai yếu tố: diện tích gieo trồng tăng từ 8348,6 nghìn ha năm 1999 lên
8539 nghìn ha năm 2009 (diện tích gieo cấy lúa giảm 252 nghìn ha, diện tích
gieo trồng ngô tăng 448 nghìn ha). Nét mới trong sản xuất lƣơng thực trong 10
năm qua là sản lƣợng tăng nhanh và tƣơng đối ổn định, dù thiên tai năm nào
cũng xẩy ra trên diện rộng. Thí dụ năm 2007, sản lƣợng lƣơng thực có hạt vẫn
đạt 40 triệu tấn, tăng 294 nghìn tấn so với năm 2006 dù thiên tai, bão lũ lớn lịch
sử xẩy ra ở miền Trung và năm 2008 dù thế giới khủng hoảng lƣơng thực, ở
trong nƣớc 10 cơn bão tràn qua gây thiệt hại mùa màng rất lớn trên phạm vi
57/63 tỉnh, nhƣng Việt Nam vẫn đƣợc mùa lúa cả 3 vụ trong năm, sản lƣợng
lƣơng thực tăng hơn 3 triệu tấn so năm 2007.
Trong lƣơng thực sản xuất lúa tăng nhanh và ổn định cả về năng suất và sản
lƣợng dù diện tích gieo trồng giảm dần. Sản lƣợng lúa năm 2009 đạt 38,9 triệu
tấn, tăng gần 7,3 triệu tấn so với năm 1999 (31,3 triệu tấn). Trong khi đó, diện
tích gieo cấy lúa năm 2009 còn 7440 nghìn ha, giảm 252 nghìn ha trong mƣời
năm tƣơng ứng. Từ năm 2001, thực hiện chủ chƣơng chuyển đổi cơ cấu sản xuất
theo hƣớng tăng hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích, nên một bộ phận
6
diện tích gieo cấy lúa không ổn định, năng suất thấp, đƣợc nhiều địa phƣơng
chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản hoặc trồng cây công nghiệp, cây ăn quả có lợi
hơn… Cùng với xu hƣớng giảm diện tích gieo trồng, cơ cấu mùa vụ và cây
trồng đã có sự chuyển biến tích cực theo hƣớng tăng diện tích lúa đông xuân, hè
thu (diện tích lúa đông xuân từ 2888 nghìn ha năm 1999 lên 3012 nghìn ha năm
2008, diện tích lúa hè thu từ 2341 nghìn ha lên 2368 nghìn ha, diện tích lúa mùa
giảm từ 2423 nghìn ha năm 1999 xuống còn 2018 nghìn ha trong 10 năm tƣơng
ứng). Sự chuyển dịch này đã tạo điều kiện để thâm canh tăng năng suất và đa
dạng hoá sản phẩm lúa gạo, tăng chất lƣợng lúa gạo từng vụ và cả năm do năng
suất và chất lƣợng lúa đông xuân, hè thu cao hơn lúa vụ mùa.
Năng suất lúa cả năm từ 41 tạ/ha năm 1999 lên 48,9 tạ/ha năm 2005 và 52,2
tạ/ha năm 2009. Sau 10 năm qua năng suất lúa tăng hơn 11 tạ/ha, bình quân 1,1
tạ/ha/năm. Vì vậy, tăng năng suất lúa là yếu tố quan trọng làm tăng sản lƣợng
lúa của Việt Nam, năm sau cao hơn năm trƣớc là xu thế hiếm thấy trong lịch sử
sản xuất lúa nƣớc ta và thế giới.
Cùng với lúa, sản xuất ngô phát triển khá ổn định, tăng trƣởng nhanh. Năm
1999, diện tích ngô cả nƣớc mới đạt 691 nghìn ha, năng suất 27 tạ/ha và sản
lƣợng 569 ngàn tấn; năm 2000 đạt 707 nghìn ha, năng suất 26,6 tạ/ha, sản lƣợng
1,8 triệu tấn; năm 2005 đạt 1052 nghìn ha, năng suất 36 tạ/ha và sản lƣợng 3,78
triệu tấn và năm 2007 đạt 1096 nghìn ha, năng suất 39,3 tạ/ha và sản lƣợng đạt
4,3 triệu tấn và năm 2009 đạt 1086,8 nghìn ha, năng suất 40,8 tạ/ha, sản lƣợng
đạt 4,4 triệu tấn. Ngô là cây mầu lƣơng thực chủ yếu hiện nay và trong tƣơng lai
nhằm bổ sung nguồn lƣơng thực cho dân sƣ miền núi và nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi, hạn chế nhập khẩu (năm 2009 cả nƣớc phải
nhập khẩu trên 1 tỷ USD thức ăn chăn nuôi). Chất lƣợng lúa gạo và ngô cũng
có nhiều tiến bộ nên đáp ứng tốt hơn nhu cầu lƣơng thực tiêu dung trong nƣớc
và gạo xuất khẩu.
Quá trình hội nhập kinh tế thế giới, an ninh lƣơng thực Việt Nam cũng có
sự thay đổi theo hƣớng mở: Sản lƣợng gạo xuất khẩu và sản lƣợng bột mỳ nhập
khẩu đều tăng nhanh do cơ cấu tiêu dùng của dân cƣ trong nƣớc thay đổi theo
hƣớng đa dạng và chủng loại và tăng chất lƣợng, giảm số lƣợng. Xu hƣớng khép
kín về an ninh lƣơng thực trên phạm vi quốc gia và từng địa phƣơng không còn
bó hẹp nhƣ trƣớc, ngƣợc lại đã mở rộng theo xu hƣớng hội nhập. Cùng với xu
hƣớng tăng lƣợng gạo xuất khẩu của Việt Nam từ 4,5 đến 5 triệu tấn/năm, lƣợng
gạo Thái Lan, Cămpuchia, Trung Quốc… nhập vào Việt Nam qua chính ngạch
và tiểu ngạch, lƣợng bột mỳ nhập khẩu cũng tăng lên đáng kể. Trong 10 năm
qua kim ngạch nhập khẩu lúa mỳ của Việt Nam tăng từ 77 triệu USD năm 1999
7
lên tới 343,2 triệu USD năm 2008, tăng gấp 4,4, trong khi đó kim ngạch xuất
khẩu gạo năm 2008 đạt 2,9 tỷ USD tăng trên 5 lần năm 1999.
Thành tựu tăng sản lƣợng lƣơng thực và giảm nhịp độ tăng dân số 10 năm
qua đảm bảo tính bền vững của an ninh lƣơng thực quốc gia, góp phần quan
trọng thúc đẩy phát triển kinh tế, ổn định xã hội, củng cố an ninh quốc phòng và
cải thiện đời sống nhân dân cả nƣớc. Đó là điều đã đƣợc thực tế cuộc sống
chứng minh, đƣợc quốc tế công nhận. Từ năm 1999- 2009 Việt Nam cơ bản đã
đảm bảo an ninh lƣơng thực trong mọi tình huống của thời tiết và sự biến động
bất lợi của thị trƣờng lúa gạo thế giới. Không chỉ vậy, Việt Nam đã cung cấp
cho thị trƣờng thế giới 40,8 triệu tấn gạo, bình quân hơn 4 triệu tấn/năm, góp
phần cân đối cung cầu thị trƣờng lƣơng thực thế giới. Đáng chú ý là trong 10
năm gần đây, tốc độ tăng sản lƣợng lƣơng thực và tốc độ tăng dân số đều có xu
hƣớng chậm lại nên sản lƣợng lƣơng thực bình quân nhân khẩu khá ổn định.
Nguyên nhân của những tiến bộ đó có nhiều. Trƣớc hết là sự quan tâm chỉ
đạo của Đảng và Nhà nƣớc đối với yêu cầu đảm bảo an ninh lƣơng thực quốc
gia trên cả hai mặt: Tăng sản lƣợng lƣơng thực sản xuất để tăng cung và thực
hiện chính sách giảm tỷ lệ tăng tự nhiên dân số và kế hoạch hoá gia đình để ổn
định cầu lƣơng thực. Về sản xuất lƣơng thực, trong những năm qua Nhà nƣớc
đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích sản xuất và chuyển dịch cơ cấu cây
trồng lƣơng thực, mở rộng diện tích ngô, đầu tƣ vốn, khoa học công nghệ phục
vụ thâm canh tăng năng suất lúa, ngô, từ đó sản lƣọng lƣơng thực tăng nhanh dù
diện tích lúa không tăng, thậm chí giảm.
Đi đôi với tăng sản lƣợng lƣơng thực sản xuất, đẻ đảm bảo an ninh lƣơng
thực quốc giá, cân đối quan hệ cung cầu lƣơng thực cả nƣớc, Đảng và Nhà nƣớc
rất quan tâm đến các chính sách giảm tỷ lệ sinh của phụ nữ trong độ tuổi thông
quan nhiều biện pháp phù hợp. Công tác dân số Kế hoạch hoá gia đƣợc các
ngành các cấp quan tâm chỉ đạo và đạt đƣợc những kết quả đáng khích lệ. Ngày
22 tháng 3 năm 2005, Bộ chính trị ra Nghị quyết số 47 NQ/TW về tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình. Thực hiện nghị
quyết của Đảng, Thủ tƣớng Chính phủ đã triển khai chƣơng trình dân số và giao
trách nhiệm cho các ngành các địa phƣơng chỉ đạo bằng nhiều biện pháp tích
cực, cụ thể: sự trợ giúp của các tổ chức quốc tế nhất là Quỹ Dân số của Liên hợp
quốc (UNFA), sự tham gia tích cực của các ngành các cấp trong hệ thống chính
trị và sự nỗ lực của các hộ gia đình.
8
3. Hạn chế và nhược điểm
Bên cạnh những thành tự cơ bản và to lớn đó, vấn đề cân đối lƣơng thực
hiên nay cũng còn nhiều hạn chế và nhƣợc, tính bền vững chƣa cao và đang
đứng trƣớc khó khăn và thách thức không nhỏ.
Thứ nhất: Mục tiêu ổn định dân số theo hƣớng sinh thay thế vẫn chƣa đạt
đƣợc trong những năm qua và hiện nay. Tuy tốc độ tăng dân số những năm gần
đây có giảm dần nhƣng vẫn còn cao so với yêu cầu và chƣa có khả năng giảm.
Năm 2000 tốc dộ tăng tự nhiên của dân số chỉ còn 1,36% giảm 0.15% so năm
1999, năm 2001 giảm 0,01% so năm 2000, năm 2002 giảm 0,03% so năm 2001
nhƣng năm 2003 lại bắt đầu tăng 0,15 so năm 2002 sau khi có Pháp lệnh dân số
2003. Từ năm 2004, tỷ lệ sinh, tỷ lệ phát triển dân số tăng mạnh trở lại ở nhiều
địa phƣơng trong cả nƣớc; tỷ lệ sinh tăng từ 17,5‰ năm 2003 lên 19,2‰ năm
2004 kéo theo tỷ lệ tăng tự nhiên của dân số. Dân số tiếp tục tăng mạnh trong
thời gian gần đây và đã đến mức báo động đỏ. Năm 2007, cả nƣớc không hoàn
thành chỉ tiêu giảm sinh do Quốc hội giao (chỉ đạt 0,25‰ so với chỉ tiêu đề ra là
0,3‰). Năm 2008, số trẻ sinh ra là 863.984 cháu, tăng 40.604 cháu (khoảng 5%)
so với cùng kỳ năm 2007, số trẻ sinh ra là con thứ 3 trở lên là 93.053 cháu, tăng
8.202 cháu (10%) so với cùng kỳ. Đáng chú ý là số tỉnh có số sinh con thứ 3 trở
lên tăng từ 16 tỉnh năm 2007 lên 45 tỉnh năm 2008. Chỉ tiêu giảm sinh cũng
không đạt kế hoạch. Tốc độ tăng tự nhiên của dân số cả nƣớc bình quân 5 năm
2003- 2009 vẫn xoay quanh 1,23%. Với số dân gần 86 triệu ngƣời (2009) thì
mỗi năm sẽ tăng thêm 1,15 triệu ngƣời và năm 2010 dân số nƣớc ta sẽ gần 87
triệu ngƣời. Dân số tăng nhanh, lao động thừa nhiều và việc làm thiếu nên thu
nhập của dân cƣ ở cả hai khu vực thành thị và nông thôn sẽ tăng chậm. Sự bùng
nỗ dân số vẫn là nguy cơ tiềm ẩn ở nhiều vùng, nhất là vùng miền núi phía Bắc,
Tây Nguyên và vùng nông thôn ven biển. Nguy cơ này đã bộc lộ rõ những vùng
có tốc độ tăng tự nhiên của dân số nhanh, dân cƣ có thu nhập thấp, tỷ lệ suy dinh
dƣỡng trẻ em cao và an ninh lƣơng thực không đảm bảo. Lấy ví dụ: huyện Lạc
Dƣơng, tỉnh Lâm Đồng có 100% số xã đồng bào dân tộc ít ngƣời sinh sống,
cũng là huyện có tỷ lệ tăng tự nhiên của dân số khá cao, kéo theo là tình trạng
đói nghèo tăng. Do sinh đẻ không có kế hoạch, dân số tăng nhanh nên nhiều xã
tỷ lệ đói nghèo lên tới 40%, có xã trên 50%. Điển hình là xã Đạ Cháy, mỗi cặp
vợ chồng có 6,3 con, 48% phụ nữ đã có 3 con trở lên nêm 37,5% số hộ thiếu ăn
và 60% số trẻ em suy dinh dƣỡng. Xã Tà Năng, huyện Đức Trọng số phụ nữ đẻ
8-9 con cũng không ít.
Hiện tƣợng sinh con thứ 3 vẫn còn diễn ra ở nhiều địa phƣơng, kể cả khu
vực thành thị và cán bộ công chức nhà nƣớc. Theo báo cáo của Bộ Y tế, năm
9
2008, cả nƣớc đã có trên 5000 trƣờng hợp sinh con thứ 3, tăng 7,2% so cùng
kỳ 2007. Tại Thành phố Hà Nội, năm 2008, toàn thành phố đã có 23997 trẻ
mới sinh, tăng 3438 trẻ so cùng kỳ năm trƣớc, trong đó có 912 trẻ là con thứ
3, tăng 85 trẻ, tập trung ở 5 huyện ngoại thành (chƣa tính Hà Tây). Số trẻ em
sinh ra trong 2008 tăng 18 nghìn cháu so cùng kỳ năm trƣớc, trong đó có
39/64 tỉnh, thành có mức sinh tăng lên so cùng kỳ năm 2007. Tuy nhiên con
số thực tế chắc chắn cao hơn số báo cáo của các địa phƣơng. Mức sinh tuy có
giảm dần nhƣng chƣa có khả năng tiệm cận mức sinh thay thế. Chất lƣợng
dân số vẫn là vấn đề tồn tại, mức giảm sinh chƣa vững chắc và nguy cơ tiềm
ẩn tăng dân số vẫn còn nhiều.
Nguyên nhân, về khách quan, tập quán đẻ nhiều ở các vùng nông thôn,
miền núi, ven biển vẫn còn phổ biến; tâm lý muốn sinh con trai, cơ cấu dân số
trẻ… Nguyên nhân chủ quan là còn có sự chủ quan, buông lỏng công tác dân số
của các cấp chính quyền, hệ thống tổ chức, đội ngũ cán bộ, cộng tác viên dân số
có nhiều biến động. Pháp lệnh dân số năm 2003 và một số chính sách dân số Kế
hoạch hoá gia đình trong những năm gần đây đã bộc lộ một số bất cập nhƣng
chậm bổ sung, sửa đổi. Theo điều 10, Pháp lệnh dân số năm 2003, mỗi cặp vợ
chồng và cá nhân có quyền quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng
cách giữa các lần sinh. Năm 2003 sau Pháp lệnh dân số ban hành, Chính phủ
ban hành Nghị định số 104/2003/NĐ – CP quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi
hành một số điều của PLDS. Dƣ luận cho rằng hiệu lực pháp lý của Nghị định
104 thấp hơn PLDS 2003, thậm chí có ý kiến còn cho rằng những quy định trên
của Nghị định là trái với Pháp lệnh Khi làm công tác tuyên truyền giảm tỷ lệ
sinh con thứ 3, các cán bộ dân số gặp vƣớng mắc khi bị nhiều ngƣời dân vặc lại:
“Rõ ràng Quốc hội quy định là đƣợc tự quyết số con, sao anh lại bảo không nên?
Đây là kẽ hở về pháp lý để một số ngƣời lựa chọn số con sinh ra tuỳ ý và dẫn
đến tình trạng sinh con thứ 3 tăng lên trong những năm gần đây.
Sự thay đổi về tổ chức bộ máy và cán bộ làm công tác dân số Kế hoạch hoá
gia đình sau khi chuyển Tổng cục Dân số về Bộ Y tế cũng phần nào ảnh hƣởng
đến hoạt động dân số Kế hoạch hoá gia đình ở các địa phƣơng, nhất là đội ngũ
cộng tác viên dân số ở cơ sở xã, phƣờng.
Việc chỉ đạo thực hiện chƣơng trình dân số còn chậm và chƣa đều giữa các
vùng, các địa phƣơng. Công tác tuyên truyền vận động thực hiện các biện pháp
tránh thai có xu hƣớng giảm sút so với trƣớc. Theo Tổng cục dân số, trong năm
2008, số ca đặt vòng giảm 10%, số ca triệt sản giảm 28% so với cùng kỳ năm
2007. Do đó theo đánh giá của cơ quan này, tỷ lệ sinh, sinh con thứ 3 trở lên sẽ
10
tăng mạnh trong năm 2008 và cả 2009 nếu không có các giải pháp tích cực, hiệu
quả và đồng bộ…
Thứ hai: Sản lƣợng lƣơng thực tăng chƣa vững chắc. Sản lƣợng lƣơng thực
có hạt 5 năm gần đay xuất hiện xu hƣớng tăng chậm và không đều. Năm 2005
chỉ bằng 100,1% so năm 2004; năm 2006 chỉ bằng 100,2% năm 2005 và năm
2007 chỉ bằng 100,7% so năm 2006. Năm 2008 sản lƣợng lƣơng thực tăng đột
biến nhƣng các yếu tố làm tăng sản lƣợng chƣa vững chắc: tăng lúa vụ 3 ở đồng
bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), tăng diện tích gieo trồng lúa do chuyển đổi một
bộ phận đất nuôi thuỷ sản, trồng cây khác sang trồng lúa do giá lúa tăng cao;
tăng năng suất do thời tiết thuận lợi ở ĐBSCL. Nguyên nhân sản lƣợng lƣơng
thực tăng chƣa ổn định và không vững có nhiều: đất lúa giảm sút nhanh, các
công trình thuỷ lợi xuống cấp, một số giống lúa, ngô thoái hoá, khoa học kỹ
thuật áp dụng vào sản xuất, bảo quản, chế biến lƣơng thực chƣa theo kịp yêu
cầu, khâu phân phối, bảo quản, dự trữ, xuất khẩu gạo còn nhiều bất cập.
Đất trồng lúa giảm và khả năng tăng thêm rất khó vì nguồn đất có thể khai
hoang đƣa vào trồng lúa ở ĐBSCL đã cạn. Khả năng tăng vụ cũng rất hạn chế vì
đến năm 2008, nhiều tỉnh ĐBSCL và Duyên hải niền Trung (DHMT) đã gieo
cấy 3 vụ lúa trong năm, đồng bằng Sông Hồng (ĐBSH) tăng vụ đông nhƣng rất
khó khăn vì đầu tƣ lớn, hiệu quả thấp, đất giảm độ phì nhiêu. Quỹ đất lúa bị mất
đi do đô thị hoá, công nghiệp hoá, xây dựng cơ sở hạ tầng và san tách hộ do dân
số tăng ngày càng nhiều. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, bình
quân mỗi năm đất nông nghiệp giảm 500 nghìn ha, chủ yếu là đất 2 vụ lúa.
Trong khi đó khả năng tăng năng suất cây trồng, nhất là lúa, ngô cũng có xu
hƣớng chững lại do nhiều vùng năng suất cây trồng cả nƣớc ta đã tiếp cận với
năng suất tiên tiến của thế giới (nhƣ lúa, ngô). Do vậy khả năng tăng năng suất,
sản lƣợng lƣơng thực 3%/năm nhƣ 10 năm qua là khó có thể đạt đƣợc.
Tuy lƣơng thực bình quân nhân khẩu có tăng nhƣng tốc độ tăng không đều
và không vững. Lƣơng thực bình quân đầu ngƣời năm 2004 là 482,5 kg nhƣng
năm 2005 giảm xuống chỉ còn 476,8 kg, năm 2006 chỉ còn 471,2 kg, năm 2007
chỉ còn 469,5 kg và năm 2009 cũng chỉ còn tròn 500kg. Sản lƣợng lƣơng thực
tăng chậm hơn tốc độ tăng dân số nên lƣợng lƣơng thực bình quân nhân khẩu
giảm là điều tất yếu. Con số lƣơng thực bình quân đầu ngƣời đạt 500 kg của năm
2008, 2009 cũng chỉ có tính chất cá biệt, nhất thời chƣa bền vững.
Nhƣ vậy, nếu xu hƣớng này vẫn tiếp diễn trong những năm tới, lƣơng thực
bình quân đầu ngƣời không tăng hoặc tăng không đáng kể. Về lâu dài, tốc độ
tăng lƣơng thực và tốc độ tăng dân số cũng chậm lại và nếu không có chiến lƣợc
11
an ninh lƣơng thực đúng đắn với các giải pháp tích cực và đồng bộ thì khả năng
đảm bảo tính bền vững, lâu dài theo mục tiêu đề ra là khó thành hiện thực.
Thứ 3. vần đề lƣơng thực cho chăn nuôi,hao hụt sau thu hoạch, dự trử quốc
gia, xuất khẩu gạo, nhập khẩu bột mỳ, chƣa đƣợc đƣa vào cân đối lƣơng thực
cả nƣớc cũng nhƣ từng địa phƣơng nên tính ổn định không cao.
Cân đối lƣơng thực Việt Nam không chỉ phụ thuộc vào tốc độ tăng dân số
mà còn phải tính đến nhiều yếu tố khác nhƣ lƣơng thực để giống, hao hụt tại
nhà, chế biến thức ăn chăn nuôi, sdự phòng, xuất khẩu gạo, nhập khẩu bột mỳ,
tập quá tiêu dùng lƣơng thực. Trong những năm qua, các chỉ tiêu cân đối lƣơng
thực Việt Nam chƣa tính đến các yếu tố này, là hạn chế lớn. Các thống tin vè
cầu lƣơng thực mơí thu hẹp trong phạm vi tiêu dùng cho bữa ăn của dân cƣ
thông qua điều tra mức sống là chƣa đầy đủ. Chỉ tiêu lƣơng thực bình quân nhân
khẩu tuy quan trọng và cần thiết nhƣng còn quá chung, chƣa phản ánh hết các
yếu tố cầu lƣơng thực cả nƣớc trong từng giai đoạn ngắn hạn cũng nhƣ dài hạn.
Theo FAO, con đƣờng tốt nhất để bảo đảm an ninh lƣơng thực quốc gia và
thế giới trong thế kỷ 21 giảm thiểu tốc độ tăng tự nhiên của dân số, tiến tới ổn
định quy mô dân số toàn cầu. Lƣợng thực cho chế biến thức ăn chăn nuôi, dự
trử, xuất nhập khẩu… đều phải tính đến, trong đó quan trọng nhất là tốc độ tăng
dân số. Những quốc gia nào không ổn định đƣợc quy mô dân số thì khó có thể
đảm bảo an ninh lƣơng thực vững chắc. Đó là kết luận rút ra từ thực tiễn của thế
giới, từ so sánh an ninh lƣơng thực giữa hai nhóm nƣớc: phát triển và đang phát
triển; giữa hai khu vực thành thị và nông thôn trong mỗi quốc gia.
Bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tế phát triển kinh tế nƣớc ta trong hơn
25 năm đổi mới, nhất là 10 năm gần đây càng làm rõ hơn vai trò và vị trí của ổn
định dân số và tăng sản xuất lƣơng thực, đổi mới cách thức tiêu dùng lƣơng thực
trong vấn đề giải quyết an toàn lƣơng thực quốc gia ở một nƣớc kinh tế chủ yếu
là nông nghiệp nhƣ ở Việt Nam. Thực tế đó đòi hỏi Nhà nƣớc phải có những
giải pháp đồng bộ để phát triển sản xuất lƣơng thực theo hƣớng bền vững và
chính sách vĩ mô ổn định dân số lâu dài, phù hợp với giai đoạn hội nhập.
4. Định hướng và giải pháp
Mọi giải pháp cho vấn đề cân đối lƣơng thực Việt Nam đều phải chú
trọng cả hai mặt là tăng cung và ổn định cầu trong đó, tăng năng suất và chất
lƣợng lƣơng thực để tăng sản lƣợng bền vững. Ổn định cầu chú ý trên tất cả các
mặt quy mô dân số, tốc độ tăng dân số, xác định đùng nhu cầu lƣơng thực cho
ngƣời, cho chăn nuôi, cho để giống, dự trử, xuất khẩu gạo… Xác định nhu cầu
12
lƣơng thực cho ngƣời, biện pháp hàng đầu là ổn định dân số theo hƣớng đảm
bảo mức sinh thay thế, gắn với thị trƣờng trong nƣớc và ngoài nƣớc.
Để ổn định quy mô dân số cần hoàn thiện chính sách dân số và kế hoạch
hoá gia đình bằng nhiều giải pháp kinh tế, hành chính, tổ chức, chỉ đạo và năng
lực thực hiện của các ngành các cấp trong hệ thống chính trị. Khôi phục hệ
thống cộng tác viên dân số và kế hoạch hoá gia đình ở các cấp xã, phƣờng và
tăng cƣờng vai trò của nhà nƣớc vào các chƣơng trình ổn định dân số, lao động
việc làm tại khu vực nông thôn là giải pháp quan trọng và cần thiết trong những
năm tới. Cùng với các chính sách, chƣơng trình dân số, kế hoạch hoá gia đình
cần có các giải pháp cụ thể về đầu tƣ vốn từ ngân sách, đào tạo bồi dƣỡng cán
bộ, cộng tác viên dân số, cung cấp các dịch vụ kế hoạch hoá gia đình, làm tốt
công tác tuyên truyền, vận động sinh đẻ có kế hoạch tại tất cả các vùng, các địa
phƣơng, các dân tộc trong cả nƣớc, nhất là vùng nông thôn, vùng đồng bào các
dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa.
Về phía các Bộ, ngành trung ƣơng và UBND các cấp cần quán triệt sâu sắc
tinh thần Nghị quyết số 47-NQ/TW cảu Bộ Chính trị (khoá X) về Dân số và
KHH gia đình, từ đó triển khai đồng bộ các biện pháp kinh tế, hành chính, tuyên
truyền vận động nhằm thực hiện bằng đƣợc các mục tiêu kế hoạch hoá hàng
năm về mức sinh thay thế, giảm tỷ suất sinh của phụ nữ trong độ tuổi, tiến tới ổn
định dân số một cách bền vững. Công tác tuyên truyền về Dân số và KHH gia
đình cần tập trung và các yêu cầu quán triệt Pháp lệnh dân số sửa đổi năm 2008
có hiệu lực tự 01/01/2009 trên cơ sở bổ sung, sửa đổi điều 10 của Pháp lệnh dân
số năm 2003. Sau gần 6 năm ban hành, điều 10 Pháp lệnh Dân số (PLDS) đƣợc
sửa đổi. Theo đó, mỗi cặp vợ chồng và cá nhân có quyền quyết định thời gian
sinh con, khoảng cách giữa các lần sinh, sinh 1 hoặc 2 con.
Tăng sản lƣợng lƣơng thực sản xuất, đổi mới cách thức tiêu dùng thực:
giải pháp về sản lƣợng lƣơng thực là tăng cƣờng đầu tƣ chiều sâu, ứng dụng
rộng rãi các tiến bộ khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ sinh học vào sản
xuất trồng trọt, chăn nuôi, để tăng năng suất đi dôi với tăng chất lƣợng sản
phẩm, giảm chi phí trung gian, tăng sức cạnh tranh trên thị trƣờng trong nƣớc và
thế giới. Phát triển và nâng cấp các công trình thuỷ lợi để nâng cao khả năng
chống đỡ với bão, lũ, hạn hán có hiệu quả, tiến tới thực hiện tƣới tiêu chủ động
cho toàn bộ 4 triêu ha đất lúa, tạo tiền đề cho thâm canh cao 2 vụ lúa, các vùng
ngô tập trung với năng suất cao và ổn định. Tập trung nguồn nhân lực của nhà
nƣớc, doanh nghiệp và nông dân để tăng cƣờng đầu tƣ thâm canh cây lúa, ngô
nhằm đạt năng suất và sản lƣợng cao nhất có thể. Trong bối cảnh giá phân bón,
thuốc từ sâu đứng ở mức cao và tăng liên tục nhƣ hiện nay, nhà nƣớc và các
13
Tổng công ty lƣơng thực cần có cơ chế, chính sách, giải pháp hỗ trợ nông dân
sản xuất lƣơng thực theo các phƣơng thức phù hợp với cam kết WTO để khuyến
khích ngƣời sản xuất lúa, ngô yên tâm đầu tƣ vốn, lao động, khoa học công
nghệ, nhằm tăng vụ, tận dụng đất, thâm canh tăng năng suất, sản lƣợng, tăng sản
lƣợng lúa hàng hoá.
Đổi mới phƣơng thức tiêu dùng lƣơng thực theo hƣớng đa dạng hoá sản
phẩm, đổi mới cơ cấu bữa ăn của các hộ gia đình, nhất là khu vực thành thị bằng
các giải pháp phù hợp với điều kiện và tập quán từng vùng, từng dân tộc…
6. Đổi mới nội dung Thống kê cân đối lương thực:
Cân đối lƣơng thực rất cần các thông tin về cầu lƣơng thực trong nƣớc
cũng nhƣ ngoài nƣớc. Ở trong nƣớc, thống kê hiện nay mới đáp ứng đƣợc yêu
cầu thống kê về sản xuất lƣơng thực hàng năm. Mặt yếu hiện nay là thống kê
chƣa có các thông tin đầy đủ về nhu cầu thông tin tiêu dùng lƣơng thực. Cụ thể
các số liệu thống kê về: để giống, dự trử quốc gia, tiêu dùng cho ngƣời, chăn
nuôi gia súc còn rất thiếu và chƣa cập nhật hàng năm…Hiện nay nhu cầu về để
giống và dự trữ quốc gia có thể xác định đƣợc dễ dàng thông qua báo cáo hành
chính của các ngành chức năng nhƣng chƣa có chế độ báo cáo thống kê chính
thức. Các yếu tố khác nhƣ tiêu dùng cho ngƣời, cho chăn nuôi gia súc vẫn dựa
vào thông tin điều tra mức sống gia đình chu kỳ 2 năm 1 lần với số lƣợng mẫu
hạn chế. Chu kỳ 2 năm 1 lần không đáp ứng đƣợc nhu cầu thông tin cân đối
lƣơng thực từng năm. Vì vậy các thông tin về nhu cầu tiêu dùng cho ngƣời và
cho chăn nuôi gia súc chƣa có độ tin cậy cao, nhất là cấp địa phƣơng.
Thông tin thông kê về xuất khẩu gạo cũng là nguồn thông tin quan trọng
cho cân đối lƣơng thực cấp quốc gia. Tuy nhiên nguồn thông tin này hiện nay
chƣa đƣợc thống kê đầy đủ cả cấp quốc gia và cấp vùng, địa phƣơng. Kế hoạch
xuất khẩu gạo tuy có đặt ra hàng năm nhƣng kết quả thực hiện lại phụ thuộc
nhiều vào thị trƣờng ngoài nƣớc, giá cả và nguồn cung trong nƣớc. Nhu cầu xuất
khẩu gạo chƣa ổn định cả về số lƣợng, cơ cấu, chất lƣợng cũng đã và đang gây
khó khăn cho việc thống kê cân đối lƣợng thực trên phạm vi quốc gia, nhất là
trong thời gian dài. Vì vậy trong tƣơng lai, đề nghị Nhà nƣớc từng bƣớc ổn định
nhu cầu số lƣợng, chủng loại, chất lƣợng mặt hàng này, từ đó làm cơ sở cho việc
lập bảng thống kê cân đối lƣơng thực cả nƣớc trong từng thời kỳ nhất định, kể
cả kế hoạch 5 năm, chiến lƣợc 10 năm tới.
Đối với ngành Thống kê, vấn đề đặt ra hiện nay là xây dựng hệ thống chỉ
tiêu thống kê phục vụ cân đối lƣơng thực cả cung và cầu trên phạm vi quốc gia.
Vấn đề quan trọng là phân công, phân cấp rõ ràng trong việc xây dựng, tổ chức
chỉ đạo thực hiện nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu thống kê và phƣơng
14
pháp tính, phƣơng pháp lập bảng cân đối lƣơng thực cả nƣớc phù hợp, có tính
khả thi. Sự phối hợp giữa các Vụ nghiệp vụ của TCTK trong xây dựng hệ thống
chỉ tiêu và tổ chức thực hiện các chỉ tiêu cân đối lƣơng thực là cần thiết và có ý
nghĩa quyết định. Trƣớc mắt, đề nghị TCTK cần sớm bổ sung vào chế độ báo
cáo và các phƣơng án điều tra thống kê hàng năm về các chỉ tiêu cân đối lƣơng
thực cấp quốc gia.
Đề nghị các Bộ ngành liên quan nhắt là Bộ NN&PTNT, Bộ Công thƣơng,
Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng, Bộ Lao động thƣơng binh và xã hội, Tổng cục
Dân số (Bôi Y tế) và các Bộ ngành liên quan phối hợp chặt chẽ với Tổng cục
Thống kê (Bộ KH&ĐT) nghiên cứu hoàn thiện các vấn đê liên quan đến cân đối
lƣơng thực nhƣ: khái niệm, nội dung, phạm vi, phƣơng pháp và hệ thống chỉ tiêu
thống kê cân đối lƣơng thực cấp quốc gia cũng nhƣ cấp địa phƣơng trong từng
gia đoạn phát triển. Vấn đề chiến lƣợc cân đối lƣơng thực, xuất khẩu gạo, nhập
khẩu lƣơng thực (kể cả chính ngạch và tiểu ngạch) cũng cần đƣợc nghiên cứu,
hoàn thiện phù hợp với xu hƣớng hội nhập kinh tế thế giói và khu vực…Nguồn
thông tin vè cân đối lƣơng thực cũng cần đƣợc hoàn thiện cả về nội dung chỉ
tiêu và phƣơng pháp thu thập, tính toán theo hƣớng phù hợp với chức năng
nhiệm vụ của từng Bộ ngành, trong đó Tổng cục Thống kê chịu trách nhiệm
tổng hợp và báo cáo.
Vai trò của Chính phủ và UBND các cấp đối với vấn đề cân đối lƣơng
thực trên địa bàn cũng cần đƣợc nghiên cứu và ban hành cụ thể bằng các quy
định có tính pháp quy của Nhà nƣớc. Đó là cơ sỏ pháp lý để các ngành các địa
phƣơng đổi mới nhận thức về yêu cầu cân đối lƣợng thực hiện nay và những
năm tới phù hợp với yêu cầu đảm bảo an ninh lƣơng thực quốc gia trong bối
cảnh hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới với thị trƣờng lƣơng thực mở của
Việt Nam./.